Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Trung Đại ( Thế kỷ X - XIX )
Lịch sử Việt Nam từ 1919-1945 (Giáo trình)
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 28956" data-attributes="member: 699"><p><strong><span style="color: Indigo">III. Phong trào dân tộc ở Việt Nam 1925 - 1930</span></strong></p><p><strong><span style="color: Indigo"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Indigo">1. Sự xuất hiện và hoạt động của hội Việt Nam thanh niên cách mạng và Tân Việt cách mạng</span></strong></p><p><strong><span style="color: Indigo"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Indigo">1.1 Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên</span></strong></p><p><strong><span style="color: Indigo"></span></strong></p><p>Tháng 12 – 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) đã lựa chọn một số thanh niên ưu tú trong tổ chức Tâm Tâm xã, giác ngộ họ và lập ra nhóm Cộng sản đoàn vào tháng 2 – 1925, gồm Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lưu Quốc Long, Trương Văn Lĩnh, Lê Quảng Đạt, Lâm Đức Thụ, trong đó có 5 người là đảng viên dự bị của Đảng Cộng sản [18;141].</p><p></p><p>Tháng 6 – 1925, trên cơ sở nhóm Cộng sản đoàn, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập một tổ chức cách mạng có tinh chất quần chúng rộng rãi có tên là Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên.</p><p></p><p>Tháng 7 – 1925, cùng một số nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Inđônêxia..., Người sáng lập tổ chức Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, có quan hệ mật thiết với Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên.</p><p></p><p>Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên đã công bố chương trình và điều lệ bao gồm đường lối chính trị và nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Hội.</p><p></p><p>Mục đích của Hội “làm cuộc cách mạng dân tộc (đánh đổ thực dân Pháp và giành độc lập cho xứ sở ) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và giành độc lập cho xứ sở ) rồi sau làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản)”. Chương trình của Hội: Tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, lập các đoàn thể quần chúng; huy động lực lượng quần chúng đập tan bọn thực dân Pháp, giành lấy chính quyền khi có cơ hội tốt; lập chính phủ công, nông, binh; thực hiện chính sách kinh tế mới; bãi bỏ tư bản tư nhân; đoàn kết vô sản quốc tế và lập xã hội công sản.</p><p>Về tổ chức, Hội có năm cấp: Tổng bộ, Kì bộ (Xứ bộ), Tỉnh bộ, Huyện bộ và Chi bộ. Tổng bộ là cơ quan cao nhất Hội [ 1;82-83].</p><p></p><p>Như vậy, mặc dù Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên chưa phải là một Đảng cộng sản, nhưng đã là một đoàn thể cách mạng có xu hướng mácxít. Đường lối chính trị, chương trình hành động, điều lệ của Hội đã thể hiện rõ lập trương, quan điểm cách mạng của giai cấp công nhân. Hội là tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam.</p><p></p><p>Sau khi thành lập, Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên đã cử người về nước lựa chọn và đưa những thanh niên yêu nước sang Quảng Châu, tổ chức các lớp huấn luyện là những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác – Lê Nin, về đường lối cách mạng và phương pháp vận động, tổ chức quần chúng cách mạng. Mỗi lớp đào tạo, huấn luyện được thực hiện trong thời gian từ 2 – 3 tháng. Nguyễn Ái Quốc là giảng viên chính. Giáo viên phụ giảng có Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn. Từ năm 1925 đến 1927, Hội đã đào tạo được trên 200 cán bộ nòng cốt. Phần lớn trong số cán bộ này được cử về nước hoạt động cách mạng, một số ít được cử sang Liên Xô để tiếp tục thực hiện các chương trình chính trị, quân sự cao cấp (trong đó có Trần Phú, Lê Hồng Phong...).</p><p>Cùng với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cách mạng, Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên đã ra tờ báo "Thanh niên" và tờ "Công nông" theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc. Từ tháng 6 – 1925 đến tháng 2 – 1930, báo Thanh niên ra được 208 số. Báo tập trung giáo dục lòng yêu nước, động viên tinh thần đấu tranh chống đế quốc và phong kiến của nhân dân; tuyên truyền, giác ngộ quần chúng về chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối phương pháp cách mạng.</p><p></p><p>Đầu năm 1927, cuốn Đường Kách mệnh gồm các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên ở Quảng Châu, được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản rồi chuyền về nước.</p><p></p><p>Trong Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc chủ yếu tập trung tố cáo, lên án tội ác dã man và bản chất phản động của chủ nghĩa đế quốc. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, kinh nghiệm của cách mạng quốc tế và thực tiễn cách mạng Việt Nam, giải quyết những vấn đề cấp thiết, cơ bản của cách mạng đang đặt ra, vấn đề xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân để lãnh đạo cách mạng.</p><p></p><p>Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình, mâu thuẩn của xã hội Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ cách mạng Việt Nam trước hết phải là cách mạng giải phóng dân tộc, “dân tộc cách mệnh”, đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, tự do, đồng thời tiến lên làm cách mạng giai cấp, “giai cấp cách mệnh”, đánh đổ tư bản, giải phóng quần chúng lao động.</p><p></p><p>Cách mạng muốn thắng lợi phải làm cách mạng triệt để, phải dựa vào sức mạnh của quần chúng cách mạng, công nông là gốc của cách mạng, còn học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ đều là bầu bạn của cách mạng.</p><p></p><p>Nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng là sự lãnh đạo của Đảng mác-xít. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, nên phải đoàn kết, ủng hộ cách mạng thế giới và phải tranh thủ sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản và sự giúp đỡ của cách mạng thế giới [18;266,268].</p><p></p><p>Đường Kách Mệnh, báo thanh niên chứa đựng những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng, đường lối cứu nước đúng đắn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc được bí mật tuyên truyền, giác ngộ quần chúng yêu nước, cách mạng, góp phần đưa phong trào cách mạng Việt Nam dphát triển lên trình độ mới, tạo tiền đề cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.</p><p></p><p>Từ đầu năm 1926, cơ sở, tổ chức Chi bộ của Hội Việt Nam Cách Mang Thanh Niên được xây dựng, phát triển ở trong nước và một số nơi trong Việt kiều ở Thái Lan.</p><p></p><p>Năm 1927, nhiều Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên lần lượt thành lập. Trên cơ sở đó, các Kì bộ Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì được thành lập.</p><p>Năm 1928 – 1929, Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên thực hiện chủ trương “vô sản hoá”, đưa cán bộ, hội viên vào hầm mỏ, đồn điền, nhà máy... sống, lao động, đấu tranh cùng với công nhân để rèn luyện, học tập nâng cao lập trường giai cấp công nhân, đồng thời tuyên truyền, giác ngộ cho công nhân và lao động về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng, đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Phong trào “vô sản hoá” đã góp phần tích cực thúc đẩy phong trào cách miệng Việt Nam chuyểng theo xu hướng cách mạng vô sản, thúc đẩy quá trình kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, nhanh chóng hình thành một chính đảng cách mạng của giai cấp vô sản ở Việt Nam.</p><p></p><p>Năm 1929, số hội viên chính thức của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên tăng lên 1750 người (Trong đó Bắc Kì có 750, Trung Kì 300, Nam Kì : 500). Nếu kể cả hội viên dự bị thì hội viên của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên có gần 3000 người [12;57].</p><p></p><p>Tháng 5 – 1929, tại Đại hội lần thứ nhất, đoàn đại biểu Bắc Kì đã rút khỏi Đại hội, về nước, rồi kêu gọi thành lập Đảng Cộng sản. Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình và tổ chức tiền thân của Đảng Công sản Việt Nam.</p><p></p><p><strong><span style="color: Indigo">1.2 Tân Việt Cách mạng Đảng </span></strong></p><p></p><p>Trong cùng thời gian, khi Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên ra đời ở nước ngoài, thì trong nước, Tân Việt Cách Mạng Đảng cũng được thành lập.</p><p></p><p>Tiền thân của Tân Việt Cách mạng Đảng là hội Phục việt, được thành lập tháng 7 – 1925 tại Vinh (Nghệ An), gồm một số sinh viên sư phạm Hà Nội, như Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai...và một số chính trị phạm ở Trung Kì , tiêu biểu như Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên...</p><p></p><p>Sau ngày ra đời, hội Phục Việt hăng hái tham gia phong trào đấu tranh đòi trả tự do cho cụ Phan Bội Châu. Do bị lộ, để tránh sự khủng bố của thực dân Pháp, phục Việt đổi tên Hưng Nam (1926). Năm 1927, Hội lại đổi tên thành Việt Nam Cách mạng Đảng, rồi Việt Nam cách mạng đồng chí hội. Cuối cùng, tại Đại hội lần thứ nhất ở Huế tháng 7 – 1928, Hội lại đổi tên Tân Việt Cách mạng Đảng (gọi tắt là Đảng Tân Việt).</p><p></p><p>Khi mới thành lập, Tân Việt còn là một tổ chức yêu nước, lập trường giai cấp không rõ rệt, chưa dứt khoát theo một chủ nghĩa nào. Sức hấp dẫn của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên đối với Tân Việt rất lớn. Có nhiều thành viên ưu tú rời bỏ Tân Việt sang gia nhập hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tân Việt đã đổi tên, điều chỉnh chương trình hành động, tổ chức của mình. Tân Việt và Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã nhiều lần cử đại biểu họp bàn hợp nhất nhưng không thành.</p><p></p><p>Tuy vậy, do nhận thức của bộ phận tiến tiến trong Tân Việt, và nhờ có ảnh hưởng mạnh mẽ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt chuyển dần sang khuynh hướng cách mạng vô sản. Từ sau Đại hội lần thứ nhất (tháng 7 – 1928), Tân Việt thực sự trở thành tổ chức cách mạng mang tính chất xã hội chủ nghĩa.</p><p></p><p>Thành phần xã hội của Tân Việt chủ yếu là tiểu tư sản, gồm thanh niên trí thức, học sinh, giáo viên, tiểu thương, công chức. Về sau, Tân Việt đã chú ý kết nạp các thành phần công, nông, nhưng thành viên là trí thức tiểu tư sản vẫn chhiếm đa số. Năm 1928, noi theo Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt cũng thực hiện “vô sản hoá”, đưa các đảng viên về nhà máy, hầm mỏ, bến cảng... để vừa tự cải tạo mình, vừa xây dựng cơ sở Đảng. Nắm quyền lãng đạo Tổng bộ Tân Việt chủ yếu là giáo giới, sinh viên trí thức (Trần Mộng Bạch, Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, Phan Kiêm Huy, Ngô Đức Diễn).</p><p>Hệ thống tổ chức của Tân Việt có 6 cấp: Tổng bộ, Kì bộ, Liên tỉnh bộ, Tỉnh bộ, đại tổ và Tiểu tổ (3 người là một Tiểu tổ, 3 tiểu tổ hợp thành một Đại tổ). Tân Việt có 3 Kì bộ, 10 Liên tỉnh bộ, và có cơ sở hầu hết ở 3 Kì, nhưng địa bàn chính hoạt động của Tân Việt là ở Trung Kì, chủ yếu ở Ngệ An và Hà Tĩnh [12;59].</p><p></p><p>Giữa năm 1929, Tân Việt phân hoá sâu sắc thành hai khuynh hướng: Khuynh hướng quốc gia tư sản (Chủ yếu trong những người lãnh đạo Tổng bộ), và khuynh hướng cộng sản gồm đông đảo đảng viên nhất là đảng viên trẻ giàu tinh thần yêu nước, cách mạng. Trước tình hình mới, các đảng viên Tân Việt có khuynh hướng cộng sản tuyên bố li khai khởi Tổng bộ Tân Việt, chuẩn bị tiến tới thành lập một tổ chức cộng sản: Đông Dương cộng sản Liên đoàn.</p><p>Sự chuyển biến của số đông đảng viên Tân Việt theo chủ nghĩa cộng sản phản ánh xu thế phát tiển tất yếu của phong trào cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ; đồng thời làm sáng rõ tính ưu việt và sự thắng thế của xu hướng cách mạng dân chủ vô sản trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta sau chiến tranh thế giới lần thứ I.</p><p></p><p><strong><span style="color: Indigo">2. Việt Nam quốc dân đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái</span></strong></p><p><strong><span style="color: Indigo"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Indigo">2.1 Tổ chức Việt Nam Quốc Dân đảng </span></strong></p><p></p><p>Không bao lâu sau khi Hội Việt nam cách mạng Thanh niên và Tân Việt Cách mạng Đảng ra đời và đang chuyển dần sang lập trường cách mạng vô sản, thì Việt Nam Quốc dân đảng, một tổ chức chính trị tiêu biểu cho xu hướng cách mạng dân chủ tư sản ở Việt Nam trong những năm sau chiến tranh, được thành lập vào cuối năm 1927, tại Hà Nội.</p><p></p><p>Hạt nhân đầu tiên của Việt Nam Quốc dân Đảng là nhóm Nam đồng thư xã, một nhà xuất bản Tiến Bộ, do Phạm Tuấn Tài làm chủ nhiệm, lập ra khoảng đầu năm 1927 ở Hà Nội. Những sách báo do Nam đồng thư xã xuất bản đã cổ vũ tinh thần yêu nước, nêu gương đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, bàn về phong trào cách mạng thế giới, về chủ nghĩa quốc gia.</p><p></p><p>Mặc dù bị thực dân ngăn cấm, Nam đồng thư xã vẫn là nơi lui tới, tụ họp của những tri thức, thanh niên, sinh viên có tinh thần yêu nước, dân tộc hồi đó. Họ đều tán thành học thuyết Tôn Văn, nhưng có những người chủ trương “cách mạng hòa bình”, như Nhượng Tống, Trúc Khê…, một số khác đông đảo hơn gồm Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Hồ Văn Mịch… chủ trương dùng bạo lực để dành độc lập. Qua nhiều lần trao đổi bàn bạc, nhóm tán thành bạo lực chiếm đa số trong Nam đồng thư xã đã quyết định thành lập một đảng bí mật lấy tên là Việt Nam Quốc dân Đảng, vào ngày 25 - 12 – 1927, tại Hà Nội.</p><p></p><p>Do có nhiều hạn chế bởi các điều kiện giai cấp và kinh tế - xã hội, Việt Nam Quốc dân Đảng không đề ra được một đường lối chính trị độc lập, rõ ràng. Chính cương, Điều lệ của Đảng thay đổi nhiều lần. Trong bản Điều lệ thông qua ngày thành lập Đảng ghi một cách chung chung là: “Trước làm dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng”. Bản điều lệ tháng 7 – 1928, mới nêu: “Chủ nghĩa của Đảng là xã hội dân chủ”. Chương trình hành động của Đảng vạch ra tháng 2 – 1929, thì “chủ nghĩa xã hội dân chủ” bị rút đi và thay bằng ba nguyên tắc “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” của nền Cộng hòa tư sản Pháp.</p><p></p><p>Mục đích cách mạng được nêu rõ hơn với những phong trào của cách mạng dân chủ tư sản là: Tiến hành “cách mạng dân tộc, cách mạng chính trị, cách mạng xã hội” nhằm đánh đuổi giặc Pháp, đánh đổ ngôi vua, thiết lập dân quyền, thi hành tự do, dân chủ"[12;61]. Song nội dung cơ bản của cách mạng dân chủ tư sản là đem lại ruộng đất cho nông dân lại không được đè cập đến. Cho tới khi gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang đầu năm 1930, thì cương lĩnh của Việt Nam Quốc dân Đảng lại mô phỏng theo chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, Quốc dân Đảng Trung Quốc, nhưng những nguyên tắc, chính sách có tính cách mạng, như “bình quân địa quyền”… “Liên Nga, liên cộng, ủng hộ công nông” thì không được nhắc tới.</p><p></p><p>Về tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng chia làm bốn cấp: Tổng bộ, Kì bộ, Tỉnh bộ, Chi bộ. Nhưng thực tế chưa bao giờ thành một hệ thống trong cả nước. Ở Trung Kì, hầu như Việt Nam Quốc dân Đảng không phát triển được cơ sở. Tại Nam Kì, có một số ít chi bộ ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Mĩ Tho. Cơ sở của Việt Nam Quốc dân Đảng tập trung ở Bắc Kì, nhất là ở các tỉnh: Phú Thọ, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Kiến An, Bắc Ninh, Bắc Giang…</p><p></p><p>Phần lớn Đảng viên là học sinh, sinh viên, trí thức, công chức, người làm nghề tự do, tư sản, thân hào, địa chủ, phú nông và binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Việt Nam Quốc dân Đảng không có cơ sở sâu rộng trong quần chúng nhân dân lao động.</p><p></p><p>Tổ chức lỏng lẻo, thành phần phức tạp, Việt Nam Quốc dân Đảng kết nạp cả bọn chỉ điểm, mật thám. Nội bộ Đảng chia rẽ nghiêm trọng. Công tác tuyên truyền yếu kém vì thiếu một lí luận cách mạng tiên tiến, thiên về manh động, khủng bố cá nhân. Tình trạng trên làm cho Đảng này dễ bị tan vỡ.</p><p></p><p>Mặc dù có nhiều thiếu xót, nhược điểm nhưng Việt Nam Quốc dân đảng vẫn là một chính Đảng cách mạng, chủ trương tiến hành bạo động nhằm “đánh đuổi giặc Pháp, lật đổ ngôi vua, sau cùng là thiết lập dân quyền” [12;62].</p><p>Việt Nam Quốc dân Đảng là một đảng cách mạng của tiểu tư sản, đại diện cho quyền lợi của giai cấp tư sản dân tộc và tiểu tư sản lớp trên. Nhưng trong nước, giai cấp tư sản Việt Nam mới hình thành, non yếu cả về thế lực kinh tế lẫn chính trị, phụ thuộc vào thực dân Pháp; còn ở nước ngoài, trào lưu chung của cách mạng thế giới đã vượt qua thời kì cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ và chuyển sang giai đoạn thắng lợi của cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới – cách mạng vô sản, cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến giành độc lập dân tộc, dân chủ theo lập trường, quyền lợi của giai cấp tư sản do Việt Nam Quốc dân Đảng khởi xướng không thể tránh khỏi thất bại.</p><p></p><p></p><p><strong><span style="color: Indigo">2.2 Khởi nghĩa Yên Bái</span></strong></p><p></p><p>Đầu tháng 2 – 1929, nhân vụ ám sát tên trùm mộ phu Ba-danh (Bazin) ở Hà Nội, đế quốc Pháp điên cuồng khủng bố phong trào cách mạng Việt Nam. Việt Nam Quốc dân Đảng bị tổn thất rất nặng nề. Hàng loạt cơ sở, tổ chức Đảng vả hàng nghìn Đảng viên bị bắt, cầm tù, hoặc bị sát hại.</p><p></p><p>Bị động trước tình thế, mặc dù hệ thống tổ chức của Đảng chưa được củng cố, xây dựng lại, các lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng cho rằng “phải đứng lên sống mái với quân thù”.Ngày 17 – 9 – 1929, tại một địa điểm gần ga Lạc Đạo (nơi giáp ranh địa phận của hai tỉnh Bắc Ninh – Hưng Yên), Việt Nam Quốc dân Đảng đã tổ chức Hội nghị đại biểu đảng toàn quốc để thống nhất kế hoạch khởi nghĩa. Trong Hội nghị này, nội bộ Việt Nam Quốc dân Đảng chia làm hai phái : Phái cải tổ và phái khởi nghĩa. Phái khởi nghĩa do Nguyễn Thái Học đứng đầu chiếm ưu thế trong Hội nghị. Tiếp theo đó, Việt Nam Quốc dân Đảng còn triệu tập một cuộc hội nghị nữa ở Bắc Ninh để định ra kế hoạch, thời gian phương thức tiến hành khởi nghĩa. Theo kế hoạch, khởi nghĩa sẽ được tiến hành ở các nơi trong cùng một lúc, nhằm đánh vào các đô thị lớn, trung tâm quân sự của địch. Lực lượng chủ yếu của cuộc khởi nghĩa gồm binh lính là người của Đảng vào trong quân đội của Pháp và phối hợp với lực lượng của Đảng ở bên ngoài. Vũ khí của nghĩa quân gồm vũ khí tự tạo hoặc cướp từ tay giặc. Thời gian khởi nghĩa là ngày 9 – 2 – 1930. Theo phân công thì Nguyễn Thái Học phụ trách khởi nghĩa ở Hải Dương, Hải Phòng và Kiến An, Nguyễn Khắc Nhu phụ trách khởi nghĩa ở Sơn Tây, Phú Thọ, Yên Bái.</p><p>Trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, Việt Nam Quốc dân Đảng bộc lộ nhiều sơ hở. Kế hoạch khởi nghĩa bị lộ và có kẻ phản bội. Thực dân Pháp chuẩn bị đối phó khởi nghĩa, mặt khác thẳng tay khủng bố, càng quét để tiêu diệt Việt Nam Quốc dân Đảng. Ngày 26 – 1 – 1930, trước tình hình khẩn cấp, Nguyễn Thái Học triệu tập cuộc họp tại làng Mỹ Xá (Nam Sách, Hải Dương). Sau khi phân tích tình hình, biết rằng khởi nghĩa có thể thất bại, nhưng Nguyễn Thái Học cho rằng : “Không thành công cũng thành nhân” nên vẫn quyết định khởi nghĩa.</p><p></p><p>Theo kế hoạch đã định, đến ngày 9 rạng 10 – 2 – 1930, một cuộc khởi nghĩa nổ ra Yên Bái, sáng ngày 10 – 2 – 1930, địch phản công, nghĩa quân nhanh chóng ta rã.</p><p></p><p>Cuộc tiến công đồn Hưng Hóa do Nguyễn Khắc Nhu chỉ huy cũng không thành. Nguyễn Khắc Nhu bị thương nặng, bị bắt và tự sát. </p><p></p><p>Cuộc tấn công đồn chùa Thông ở Sơn Tây bị lộ, không giành được thắng lợi, Phó Đức Chánh bị bắt.</p><p></p><p>Ở một số nơi, như Kiến An, Hải Dương, Thái Bình, Phả Lại, ...nghĩa quân hành động thiếu kế hoạch và thiếu sự phối hợp nên các cuộc khởi nghĩa bị dập tắt nhanh chóng.</p><p></p><p>Đêm ngày 14 rạng sáng ngày 15 – 2 – 1930, Việt Nam quốc dân Đảng đã nổi dậy khởi nghĩa ở huyện Vĩnh Bảo, Kiến An và huyện Phụ Dực (Thái Bình). Tuy nghĩa quân ở huyện Vĩnh Bảo có đánh chiếm được huyện lị, giết được tên tri huyện Hoàng Gia Mô, nhưng cuộc khởi nghĩa nhanh chóng thất bại. Trong lúc cuộc khởi nghĩa nổ ra, thì tại Hà Nội, Việt Nam Quốc dân Đảng tổ chức đánh bom ở một số nơi trong thành phố, có tiếng vang, nhưng không gây được tổn hại lớn cho địch. Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng nhanh chóng thất bại vì nhiều nguyên nhân: Lực lượng đế quốc còn mạnh; khởi nghĩa còn non trong tình thế bị động; tổ chức lãnh đạo không chặt chẽ, thống nhất...nhưng chủ yếu là do đường lối cách mạng tư sản của Việt Nam Quốc dân đảng không đáp ứng được quyền lợi thiết tha của quần chúng nhân dân lao động và không thu hút được đông đảo mọi tầng lớp xã hội, giai cấp nhất là công, nông tham gia khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa đâu tháng 2 - 1930, thất bại và bị thực dân đàn áp dã man kéo theo sự tan rã của Việt Nam Quốc dân Đảng .Cộc khởi nghĩa thất bại, hàng nghìn chiến sĩ và lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng bị thực dân Pháp bắt cầm tù, sát hại. Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí lên máy chém vẫn hiên ngang hô to :”Việt Nam vạn tuế”. Tinh thần chiến đấu hy sinh, dũng cảm của các lãnh tụ, nghĩa quân Việt Nam Quốc dân Đảng đã thể hiện truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc, góp phần tạo nên một cao trào cách mạng mới ở nước ta vào những năm 1930 – 1931. </p><p></p><p></p><p><strong><span style="color: Indigo">3. Phong trào công nhân 1925 – 1929 </span></strong></p><p></p><p>Trong hai năm 1925 – 1927 đã có 17 cuộc đấu tranh của công nhân. Tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân bưu điện Sài Gòn, sợi Nam Định, đồn điền Cam Tiêm (1926), công nhân đồn điền Thái Nguyên, đồn điền cao su Phú Riềng (1927).</p><p></p><p>Từ năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Tân Việt đã thực hiện chủ trương “vô sản hoá”. Phong trào “vô sản hoá” góp phần thúc đẩy phong trào công nhân chuyển nhanh lên trình độ “tự giác”. Phong trào công nhân nổ ra sôi nổi, mạnh mẽ, đều khắp ở cả nước. Số lượng ở các cuộc đấu tranh của công nhân tăng nhanh. Trong năm 1928 – 1929, đã có trên 40 cuộc đấu tranh của công nhân, tăng gấp 2,5 lần so với năm 1926 – 1927. Tiêu biểu là các bãi công ở mỏ than Mạo Khê (Quảng Ninh), xi măng Hải Phòng, sợi tơ Nam Định, cưa Bến Thủy (Vinh) (1928), đấu tranh của công nhân hãng xe tay Hải Phòng, dệt Nam Định, xe lửa Tràng Thi (Vinh), nhà máy, Avia (Hà Nội), đồn điền cao su Phú Riềng, Cam Tiên...(1929).</p><p></p><p>Tháng 7 – 1929 Tổng Công hội đỏ Bắc Kì được thành lập, đề ra chương trình, điều lệ xuất bản báo Lao động làm cơ quan ngôn luận. Sự kiện này thể hiện bước trưởng thành mới của phong trào công nhân Việt Nam.</p><p></p><p>Đặc điểm nổi bật của phong trào công nhân trong giai đoạn này là không chỉ giới hạn trong phạm vi một xí nghiệp, một địa phương, một ngành, mà đã liên kết nhiều xí nghiệp, nhiều ngành, nhiều địa phương.</p><p></p><p>Tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỉ luật, ý thức chính trị của công nhân được nâng lên. Phong trào đấu tranh đã có tổ chức, lãnh đạo chặt chẽ. Giai cấp công nhân ngày càng nhận thức được rõ sức mạnh, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình.</p><p></p><p>Sự phát triển của phong trào công nhân đã góp phần lôi cuốn, thúc đẩy phong trào đấu tranh của mọi tầng lớp nhân dân, nhất là nông dân.</p><p></p><p>Sự phát triển của phong trào yêu nước của nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, nhất là phong trào công nhân vào đầu 1929, đòi hỏi phải có sự xuất hiện của Đảng Cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam thắng lợi.</p><p></p><p></p><p><strong><span style="color: Indigo">4. Ba tổ chức cộng sản ra đời và việc Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam</span></strong></p><p><strong><span style="color: Indigo"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Indigo">3.1. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản (nửa sau năm 1929)</span></strong></p><p><strong><span style="color: Indigo"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Indigo">3.1.1 Đông Dương Cộng sản Đảng (6 – 1929)</span></strong></p><p></p><p>Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng, đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng dân tộc, dân chủ ở nước ta. Tình hình đó đòi hỏi phải có một chính đảng thật sự của giai cấp công nhân lãnh đạo. Những người tiên tiến trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nhận thức được Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chỉ là một tổ chức yêu nước, cách mạng có khuynh hướng cộng sản, chưa là một Đảng Cộng sản nên không thể đáp ứng được yêu cầu của cách mạng nước ta trong tình hình mới. Họ cho rằng, mục đích và khẩu hiệu của Thanh niên không còn phù hợp với tình hình mới, không đủ sức lãnh đạo cách mạng và “việc thành lập một Đảng Cộng sản là cần thiết”.</p><p></p><p>Để chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản, tháng 3 – 1929, một số hội viên tiên tiến nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kì đã nhóm họp ở nhà số 5D phố Hàm Long (Hà Nội ) để lập ra Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, gồm có 7 người (Ngô Gia Tự, Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Cung…) tích cực chuẩn bị tiến tời thành lập một Đảng Cộng sản.</p><p></p><p>Cuối tháng 3 – 1929, Kì bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kì triệu tập Đại Hội. Các đại biểu dự Đại hội đã thảo luận và thống nhất chủ trương thành lập Đảng Cộng sản của những người lãnh đạo Kì bộ nêu ra; đồng thời cử một đoàn đại biểu 4 người, do Trần Văn Cung, Bí thư Kì Bộ dẫn đầu, đi dự Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạnh Thanh niên sẽ họp tại Hương Cảng.</p><p></p><p>Tại Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (5 – 1929), do kiến nghị giải tán Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và thành lập ngay một Đảng cộng sản ở Việt Nam không được chấp nhận, nên đoàn Đại biểu Kì bộ Bắc Kì đã bỏ Đại hội về nước. Sau đó ra Tuyên ngôn kêu gọi công, nông và các tầng lớp nhân dân cách mạng ủng hộ chủ trương thành lập Đảng Cộng sản (1 - 6 - 1929). Sau khi nêu rõ lí do vì sao họ bỏ Đại hội ra về, phân tích các điều kiện thành lập một chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam đã chín muồi, Tuyên ngôn nhấn mạnh: “Phải tổ chức ngay Đảng Cộng sản thì mới dẫn đạo cho vô sản giai cấp làm cách mệnh được”.</p><p></p><p>Ngày 17 - 6 – 1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở Bắc Kì đã họp Đại hội tại nhà số 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội), quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Đại hội thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ của Đảng và quyết định ra cho báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận của Đảng.</p><p></p><p> Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản Đảng giới thiệu khái quát chủ nghĩa cộng sản và chuyên chính vô sản, phân tích tình hình quốc tế, trong nước, trên cơ sở đó đề ra đường lối cách mạng của Đảng ở Đông Dương.</p><p></p><p>Tuyên ngôn nêu rõ: “Thời kì đầu tiên của cách mạng ở Đông Dương là tư sản dân chủ cách mệnh”. Trong thời kì này, giai cấp vô sản phải “thực hành công nông liên hiệp” để đánh đổ đế quốc, phong kiến; “Thực hành thổ địa cách mệnh”; sau đó mới tiến lên làm “cách mệnh xã hội”.</p><p></p><p>Ngay sau ngày thành lập, Đông Dương Cộng sản Đảng ra sức xây dựng và phát triển tổ chức, cơ sở Đảng. Do đó đến tháng 8 – 1929, các cơ sở Đảng đã được thành lập ở cả ba miền, nhiều nhất là ở Bắc Kì và Bắc Trung Kì.</p><p>Đông Dương Cộng sản Đảng đã lập ra Công hội đỏ, Nông hội để vận động, tổ chức công, nông đấu tranh.</p><p></p><p>Ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng đến phong trào cách mạng của quần chúng và ảnh hưởng tích cực đến bộ phận còn lại của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và những đại biểu tiên tiến của Tân Việt.</p><p></p><p></p><p><strong><span style="color: Indigo">3.1.2. An Nam Cộng sản Đảng (7 – 1929)</span></strong></p><p></p><p>Tháng 7 – 1929, những đại biểu tiên tiến của Tổng bộ và Kì bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam Kì đã quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. An Nam Cộng sản Đảng có cơ sở, tổ chức Đảng và quần chúng ở Nam Kì. Sau khi thành lập, An Nam Cộng sản Đảng đẩy mạnh việc xây dựng, phát triển tổ chức Đảng và quần chúng. Vì vậy phong trào đấu tranh chống đế quốc, chống áp bức bóc lột ở Nam Kì dâng cao.</p><p><strong><span style="color: Indigo"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Indigo">3.1.3. Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9 – 1929)</span></strong></p><p></p><p>Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng (6 – 1929) và An Nam Cộng sản Đảng (7 – 1929) càng đẩy nhanh quá trình phân hóa trong nội bộ Tân Việt Cách mạng Đảng. Tháng 9 – 1929, các Đảng viên Tân Việt từ lâu chịu ảnh hưởng xu hướng cộng sản của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã tách khỏi Tân Việt và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Đông Dương Cộng sản Liên đoàn lấy chủ nghĩa cộng sản làm nền móng, liên hiệp công nông binh, thực hành cách mạng vô sản làm cho xứ sở “hoàn toàn độc lập, xóa bỏ nạn người bóc lột, áp bức người, xây dựng chế độ công nông chuyên chính, tiến lên cộng sản chủ nghĩa trong toàn xứ Đông Dương”.</p><p></p><p>Như vậy, chỉ trong vòng gần 4 tháng (từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1929), ba tổ chức cộng sản đã ra đời ở nước ta, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân và những hoạt động của nó đã đẩy phong trào công nhân, phong trào yêu nước nửa sau năm 1929 lên cao, chuẩn bị tiến tới thành lập một Đảng Cộng duy nhất.</p><p></p><p><strong><span style="color: Indigo">3.2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính cương vắn tắt, Sách lượt vắn tắt của Đảng (3 - 2 – 1930)</span></strong></p><p></p><p>Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn vào nửa sau năm 1929 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới; đáp ứng nguyện vọng của giai cấp công nhân, của các tầng lớp nhân dân lao động và của cả dân tộc.</p><p></p><p>Các tổ chức cộng sản trên tích cực xây dựng, phát triển cơ sở đảng và quần chúng cách mạng, trực tiếp tổ chức, lãnh đạo công nông và các tần lớp lao động khác đấu tranh. Lúc bấy giờ, phong trào bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống cúp phạt… của công nhân cùng với phong trào nông dân đấu tranh chống sưu cao, thuế nặng, chống cướp đoạt ruộng đất; phong trào bãi khóa của học sinh, sinh viên, bãi thị của tiểu thương v.v.. tạo thành một làn sóng đấu trang cách mạng dân tộc, dâng chủ dân lên khắp cả nước.</p><p></p><p>Để đối phó lại sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, bọn đế quốc và phong kiến tay sai đã điên cuồng đàn áp, khủng bố các tổ chức và những người yêu nước, cộng sản. Trong khi đó, ba tổ chức cộng sản lại hoạt động riêng rẽ, công kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng quần chúng. Tình trạng này nếu để kéo dài sẽ dẫn đến những tổn thất và nguy cơ không lường trước được cho các tổ chức cộng sản và phong trào cách mạng. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này đặt ra là phải nhanh chóng có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước để tiếp tục đưa phong trào cách mạng đi lên.</p><p></p><p>Trước tình hình đó, Quốc tế Cộng sản đã gửi thư cho các tổ chức cộng sản ở Việt Nam (27 – 10 – 1929), chỉ rõ: Nhiệm vụ quan trọng nhẩt và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là phải thành lập ngay một Đảng Cộng sản duy nhất.</p><p></p><p>Theo Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản và trước yêu cầu cấp bách của phong trào cộng sản trong nước, vào đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm đến Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập đại biểu các đảng tới dự Hội nghị hợp nhất. </p><p></p><p>Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, Hội nghị hợp nhất các đảng đã hợp tại Cửu Long (Hương Cảng), hội nghị diễn ra dưới hình thức chơi cờ bạt chượt, do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Tham dự Hội nghị có hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu), hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu) và hai đại biểu hoạt động ở nước ngoài (Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu).</p><p></p><p>Hội nghị đã tiến hành thảo luận và đi đến thống nhất xóa bỏ mọi thành kiến, xung đột cũ, tán thành chủ trương hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua điều lệ vắn tắt của Đảng, chương trình tóm tắt và lời kêu gọi nhân việc thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo; đồng thời vạch kế hoạch để tiến hành thống nhất các cơ sở và tổ chức Đảng ở trong nước và chuẩn bị tiến tới Hội nghị Trung ương lần thứ nhất của Đảng để bầu ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức.</p><p></p><p>Hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản ở Việt Nam để hợp nhất Đảng (2 – 1930) có ý nghĩa như một Đại hội thành lập Đảng. Chính cương vắn tắt, sách lượt vắn tắt được Hội nghị thông qua là cương lĩnh đầu tiên của Đảng.</p><p></p><p>Những văn kiện cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã vạch ra đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam. Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: Trước làm cách mạng tư sản dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân) và sau làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách mạng này kế tiếp nhau, có quan hệ khăng khít với nhau. Cương lĩnh nêu rõ: “Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.</p><p></p><p>Như vậy là ngay từ đầu mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ con đường phát triển tất yếu của cách mạng nước ta, đó là con đường kết hợp và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.</p><p></p><p>Trong giai đoạn cách mạng tư sản dân quyền, cách mạng phải thực hiện nhiệm vụ đánh đổ ách thống trị, bóc lột của đế quốc Pháp, vua quan phong kiến, tư sản phản cách mạng, làm cho nước ta hoàn toàn độc lập, dựng lên chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông, tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn phản cách mạng đem chia cho dân cày nghèo; tiến hành cách mạng ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “dân cày có ruộng”. Các nhiệm vụ trên bao hàm cả nội dung tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, nhưng nổi bật là nhiệm vụ chống đế quốc và bọn tay sai phản động, giành độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc.</p><p></p><p>Lực lượng để đánh đổ đế quốc và phong kiến là công nông; đồng thời “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam chưa lộ rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ trung lập”.</p><p></p><p>Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải do Đảng Cộng sản Việt Nam - đảng của giai cấp vô sản và là đội tiền phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, lãnh đạo mới đảm bảo chắc chắn thắng lợi. Muốn làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng của mình, Đảng phải giác ngộ được dân chúng, tập hợp, giác ngộ được đại đa số nông dân, và phải dựa vững vào nông dân nghèo; đồng thời phải liên minh với các giai cấp, tầng lớp yêu nước, cách mạng khác, đoàn kết và tố chức họ đấu tranh chống đế quốc và bọn tay sai phản cách mạng.</p><p></p><p>Cương chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo trong việc vận dụng lí luận chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản và về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa trong thời đại mới. Cương lĩnh đó nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc, nêu cao tư tưởng độc lập, tự do và dân chủ.</p><p></p><p>Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 24 - 2 – 1930, yêu cầu gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được chấp nhận. Như vậy, chỉ trong thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có một Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng: Đảng Cộng sản Việt Nam.</p><p></p><p></p><p><strong><span style="color: Indigo">3.3. Hội nghị Trung ương lần thứ nhất. Luận cương chính trị của Đảng (10 – 1930)</span></strong></p><p></p><p>Tháng 10 – 1930, giữa lúc phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đang diễn ra sôi nổi, quyết liệt và phát triển thành cao trào thì Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng họp tại Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức do Trần Phú làm Tổng Bí thư. Hội nghị thông qua Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú soạn thảo.</p><p></p><p>Căn cứ vào đặc điểm chung của ba nước trên bán đảo Đông Dương (Lào, Việt Nam, Campuchia) là những nước thuộc địa, nửa phong kiến, có một kẻ thù chung là đế quốc Pháp, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc ngày càng gay gắt thêm, Luận cương chính trị của Đảng khẳng định tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền. Cuộc cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi thì sẽ tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kì tư bản chủ nghĩa mà tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa.</p><p></p><p>Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải đánh đổ thế lực cùng các tàn tích phong kiến, đánh đổ cách bóc lột theo lối tiền tư bản, thực hành cách mạng thổ địa triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau, vì “có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá tan được giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”.</p><p></p><p>Về lực lượng cách mạng và vai trò lãnh đạo cách mạng đánh đổ đế quốc và phong kiến, Luận cương chính trị khẳng định: “Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chính, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”. Đồng thời Luận cương chính trị nhấn mạnh: “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạnh ở Đông Dương là cần phải có một đường lối chính trị đúng đắn, có kỉ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chính và lâu dài cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương và lãnh đạo vô sản giai cấp ở Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản”.</p><p></p><p>Muốn thực hiện được nhiệm vụ trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, Đảng phải coi trọng vận động, tập hợp và lãnh đạo lực lượng đại đa số quần chúng đấu tranh đòi các quyền lợi trước mắt, đưa dần quần chúng lên trận tuyến cách mạng và đến khi tình thế cách mạng xuất hiện thì phát động quần chúng vũ trang bạo động đánh đổ chính quyền của giai cấp thống trị và giành lấy chính quyền cho công nông. Vì “Chỉ có chính quyền Xô viết công nông mới là cái khí cụ rất mạnh mà đánh đổ đế quốc chủ nghĩa, phong kiến, địa chủ, làm cho dân cày có đất để cày, làm cho vô sản có pháp luật bảo hộ quyền lợi cho mình”.</p><p></p><p>Luận cương của Đảng cũng nêu rõ: Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, phải liên lạc mật thiết với vô sản và các dân tộc thuộc địa, nhất là với vô sản và lao động Pháp.</p><p></p><p>Tuy nhiên, Luận cương chính trị còn có một số hạn chế nhất định, như chưa xác định rõ mâu thuẫn chủ yếu của một xã hội thuộc địa nên không nêu lên được vấn đề dân tộc là vấn đề hàng đầu của cách mạng Đông Dương, mà nặng về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, về cách mạng ruộng đất; đánh giá chưa thỏa đáng khả năng cách mạng của giai cấp tư sản cũng như khả năng liên minh có điều kiện với giai cấp tư sản dân tộc; không thấy được sự phân hóa của giai cấp địa chủ, cũng như khả năng lôi kéo một bộ phận tiến bộ của giai cấp đó trong cách mạng giải phóng dân tộc. Những nhược điểm, hạn chế đó sẽ được Đảng khắc phục dần trong thực tiễn lãnh đạo và đấu tranh cách mạng.</p><p></p><p>(Còn nữa)</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 28956, member: 699"] [B][COLOR="Indigo"]III. Phong trào dân tộc ở Việt Nam 1925 - 1930 1. Sự xuất hiện và hoạt động của hội Việt Nam thanh niên cách mạng và Tân Việt cách mạng 1.1 Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên [/COLOR][/B] Tháng 12 – 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) đã lựa chọn một số thanh niên ưu tú trong tổ chức Tâm Tâm xã, giác ngộ họ và lập ra nhóm Cộng sản đoàn vào tháng 2 – 1925, gồm Lê Hồng Phong, Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lưu Quốc Long, Trương Văn Lĩnh, Lê Quảng Đạt, Lâm Đức Thụ, trong đó có 5 người là đảng viên dự bị của Đảng Cộng sản [18;141]. Tháng 6 – 1925, trên cơ sở nhóm Cộng sản đoàn, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập một tổ chức cách mạng có tinh chất quần chúng rộng rãi có tên là Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên. Tháng 7 – 1925, cùng một số nhà cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Inđônêxia..., Người sáng lập tổ chức Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, có quan hệ mật thiết với Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên. Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên đã công bố chương trình và điều lệ bao gồm đường lối chính trị và nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Hội. Mục đích của Hội “làm cuộc cách mạng dân tộc (đánh đổ thực dân Pháp và giành độc lập cho xứ sở ) rồi sau đó làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và giành độc lập cho xứ sở ) rồi sau làm cách mạng thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực hiện chủ nghĩa cộng sản)”. Chương trình của Hội: Tuyên truyền, giác ngộ quần chúng, lập các đoàn thể quần chúng; huy động lực lượng quần chúng đập tan bọn thực dân Pháp, giành lấy chính quyền khi có cơ hội tốt; lập chính phủ công, nông, binh; thực hiện chính sách kinh tế mới; bãi bỏ tư bản tư nhân; đoàn kết vô sản quốc tế và lập xã hội công sản. Về tổ chức, Hội có năm cấp: Tổng bộ, Kì bộ (Xứ bộ), Tỉnh bộ, Huyện bộ và Chi bộ. Tổng bộ là cơ quan cao nhất Hội [ 1;82-83]. Như vậy, mặc dù Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên chưa phải là một Đảng cộng sản, nhưng đã là một đoàn thể cách mạng có xu hướng mácxít. Đường lối chính trị, chương trình hành động, điều lệ của Hội đã thể hiện rõ lập trương, quan điểm cách mạng của giai cấp công nhân. Hội là tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam. Sau khi thành lập, Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên đã cử người về nước lựa chọn và đưa những thanh niên yêu nước sang Quảng Châu, tổ chức các lớp huấn luyện là những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác – Lê Nin, về đường lối cách mạng và phương pháp vận động, tổ chức quần chúng cách mạng. Mỗi lớp đào tạo, huấn luyện được thực hiện trong thời gian từ 2 – 3 tháng. Nguyễn Ái Quốc là giảng viên chính. Giáo viên phụ giảng có Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn. Từ năm 1925 đến 1927, Hội đã đào tạo được trên 200 cán bộ nòng cốt. Phần lớn trong số cán bộ này được cử về nước hoạt động cách mạng, một số ít được cử sang Liên Xô để tiếp tục thực hiện các chương trình chính trị, quân sự cao cấp (trong đó có Trần Phú, Lê Hồng Phong...). Cùng với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cách mạng, Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên đã ra tờ báo "Thanh niên" và tờ "Công nông" theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc. Từ tháng 6 – 1925 đến tháng 2 – 1930, báo Thanh niên ra được 208 số. Báo tập trung giáo dục lòng yêu nước, động viên tinh thần đấu tranh chống đế quốc và phong kiến của nhân dân; tuyên truyền, giác ngộ quần chúng về chủ nghĩa Mác – Lênin, đường lối phương pháp cách mạng. Đầu năm 1927, cuốn Đường Kách mệnh gồm các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc trong các lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên ở Quảng Châu, được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản rồi chuyền về nước. Trong Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc chủ yếu tập trung tố cáo, lên án tội ác dã man và bản chất phản động của chủ nghĩa đế quốc. Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, kinh nghiệm của cách mạng quốc tế và thực tiễn cách mạng Việt Nam, giải quyết những vấn đề cấp thiết, cơ bản của cách mạng đang đặt ra, vấn đề xây dựng chính đảng của giai cấp công nhân để lãnh đạo cách mạng. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình, mâu thuẩn của xã hội Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ cách mạng Việt Nam trước hết phải là cách mạng giải phóng dân tộc, “dân tộc cách mệnh”, đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập, tự do, đồng thời tiến lên làm cách mạng giai cấp, “giai cấp cách mệnh”, đánh đổ tư bản, giải phóng quần chúng lao động. Cách mạng muốn thắng lợi phải làm cách mạng triệt để, phải dựa vào sức mạnh của quần chúng cách mạng, công nông là gốc của cách mạng, còn học trò, nhà buôn, điền chủ nhỏ đều là bầu bạn của cách mạng. Nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng là sự lãnh đạo của Đảng mác-xít. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, nên phải đoàn kết, ủng hộ cách mạng thế giới và phải tranh thủ sự lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản và sự giúp đỡ của cách mạng thế giới [18;266,268]. Đường Kách Mệnh, báo thanh niên chứa đựng những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng, đường lối cứu nước đúng đắn của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc được bí mật tuyên truyền, giác ngộ quần chúng yêu nước, cách mạng, góp phần đưa phong trào cách mạng Việt Nam dphát triển lên trình độ mới, tạo tiền đề cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Từ đầu năm 1926, cơ sở, tổ chức Chi bộ của Hội Việt Nam Cách Mang Thanh Niên được xây dựng, phát triển ở trong nước và một số nơi trong Việt kiều ở Thái Lan. Năm 1927, nhiều Tỉnh bộ Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên lần lượt thành lập. Trên cơ sở đó, các Kì bộ Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì được thành lập. Năm 1928 – 1929, Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên thực hiện chủ trương “vô sản hoá”, đưa cán bộ, hội viên vào hầm mỏ, đồn điền, nhà máy... sống, lao động, đấu tranh cùng với công nhân để rèn luyện, học tập nâng cao lập trường giai cấp công nhân, đồng thời tuyên truyền, giác ngộ cho công nhân và lao động về chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng, đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Phong trào “vô sản hoá” đã góp phần tích cực thúc đẩy phong trào cách miệng Việt Nam chuyểng theo xu hướng cách mạng vô sản, thúc đẩy quá trình kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, nhanh chóng hình thành một chính đảng cách mạng của giai cấp vô sản ở Việt Nam. Năm 1929, số hội viên chính thức của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên tăng lên 1750 người (Trong đó Bắc Kì có 750, Trung Kì 300, Nam Kì : 500). Nếu kể cả hội viên dự bị thì hội viên của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên có gần 3000 người [12;57]. Tháng 5 – 1929, tại Đại hội lần thứ nhất, đoàn đại biểu Bắc Kì đã rút khỏi Đại hội, về nước, rồi kêu gọi thành lập Đảng Cộng sản. Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình và tổ chức tiền thân của Đảng Công sản Việt Nam. [B][COLOR="Indigo"]1.2 Tân Việt Cách mạng Đảng [/COLOR][/B] Trong cùng thời gian, khi Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên ra đời ở nước ngoài, thì trong nước, Tân Việt Cách Mạng Đảng cũng được thành lập. Tiền thân của Tân Việt Cách mạng Đảng là hội Phục việt, được thành lập tháng 7 – 1925 tại Vinh (Nghệ An), gồm một số sinh viên sư phạm Hà Nội, như Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai...và một số chính trị phạm ở Trung Kì , tiêu biểu như Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên... Sau ngày ra đời, hội Phục Việt hăng hái tham gia phong trào đấu tranh đòi trả tự do cho cụ Phan Bội Châu. Do bị lộ, để tránh sự khủng bố của thực dân Pháp, phục Việt đổi tên Hưng Nam (1926). Năm 1927, Hội lại đổi tên thành Việt Nam Cách mạng Đảng, rồi Việt Nam cách mạng đồng chí hội. Cuối cùng, tại Đại hội lần thứ nhất ở Huế tháng 7 – 1928, Hội lại đổi tên Tân Việt Cách mạng Đảng (gọi tắt là Đảng Tân Việt). Khi mới thành lập, Tân Việt còn là một tổ chức yêu nước, lập trường giai cấp không rõ rệt, chưa dứt khoát theo một chủ nghĩa nào. Sức hấp dẫn của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên đối với Tân Việt rất lớn. Có nhiều thành viên ưu tú rời bỏ Tân Việt sang gia nhập hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Tân Việt đã đổi tên, điều chỉnh chương trình hành động, tổ chức của mình. Tân Việt và Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã nhiều lần cử đại biểu họp bàn hợp nhất nhưng không thành. Tuy vậy, do nhận thức của bộ phận tiến tiến trong Tân Việt, và nhờ có ảnh hưởng mạnh mẽ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt chuyển dần sang khuynh hướng cách mạng vô sản. Từ sau Đại hội lần thứ nhất (tháng 7 – 1928), Tân Việt thực sự trở thành tổ chức cách mạng mang tính chất xã hội chủ nghĩa. Thành phần xã hội của Tân Việt chủ yếu là tiểu tư sản, gồm thanh niên trí thức, học sinh, giáo viên, tiểu thương, công chức. Về sau, Tân Việt đã chú ý kết nạp các thành phần công, nông, nhưng thành viên là trí thức tiểu tư sản vẫn chhiếm đa số. Năm 1928, noi theo Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Tân Việt cũng thực hiện “vô sản hoá”, đưa các đảng viên về nhà máy, hầm mỏ, bến cảng... để vừa tự cải tạo mình, vừa xây dựng cơ sở Đảng. Nắm quyền lãng đạo Tổng bộ Tân Việt chủ yếu là giáo giới, sinh viên trí thức (Trần Mộng Bạch, Đào Duy Anh, Tôn Quang Phiệt, Phan Kiêm Huy, Ngô Đức Diễn). Hệ thống tổ chức của Tân Việt có 6 cấp: Tổng bộ, Kì bộ, Liên tỉnh bộ, Tỉnh bộ, đại tổ và Tiểu tổ (3 người là một Tiểu tổ, 3 tiểu tổ hợp thành một Đại tổ). Tân Việt có 3 Kì bộ, 10 Liên tỉnh bộ, và có cơ sở hầu hết ở 3 Kì, nhưng địa bàn chính hoạt động của Tân Việt là ở Trung Kì, chủ yếu ở Ngệ An và Hà Tĩnh [12;59]. Giữa năm 1929, Tân Việt phân hoá sâu sắc thành hai khuynh hướng: Khuynh hướng quốc gia tư sản (Chủ yếu trong những người lãnh đạo Tổng bộ), và khuynh hướng cộng sản gồm đông đảo đảng viên nhất là đảng viên trẻ giàu tinh thần yêu nước, cách mạng. Trước tình hình mới, các đảng viên Tân Việt có khuynh hướng cộng sản tuyên bố li khai khởi Tổng bộ Tân Việt, chuẩn bị tiến tới thành lập một tổ chức cộng sản: Đông Dương cộng sản Liên đoàn. Sự chuyển biến của số đông đảng viên Tân Việt theo chủ nghĩa cộng sản phản ánh xu thế phát tiển tất yếu của phong trào cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ; đồng thời làm sáng rõ tính ưu việt và sự thắng thế của xu hướng cách mạng dân chủ vô sản trong phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta sau chiến tranh thế giới lần thứ I. [B][COLOR="Indigo"]2. Việt Nam quốc dân đảng và cuộc khởi nghĩa Yên Bái 2.1 Tổ chức Việt Nam Quốc Dân đảng [/COLOR][/B] Không bao lâu sau khi Hội Việt nam cách mạng Thanh niên và Tân Việt Cách mạng Đảng ra đời và đang chuyển dần sang lập trường cách mạng vô sản, thì Việt Nam Quốc dân đảng, một tổ chức chính trị tiêu biểu cho xu hướng cách mạng dân chủ tư sản ở Việt Nam trong những năm sau chiến tranh, được thành lập vào cuối năm 1927, tại Hà Nội. Hạt nhân đầu tiên của Việt Nam Quốc dân Đảng là nhóm Nam đồng thư xã, một nhà xuất bản Tiến Bộ, do Phạm Tuấn Tài làm chủ nhiệm, lập ra khoảng đầu năm 1927 ở Hà Nội. Những sách báo do Nam đồng thư xã xuất bản đã cổ vũ tinh thần yêu nước, nêu gương đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, bàn về phong trào cách mạng thế giới, về chủ nghĩa quốc gia. Mặc dù bị thực dân ngăn cấm, Nam đồng thư xã vẫn là nơi lui tới, tụ họp của những tri thức, thanh niên, sinh viên có tinh thần yêu nước, dân tộc hồi đó. Họ đều tán thành học thuyết Tôn Văn, nhưng có những người chủ trương “cách mạng hòa bình”, như Nhượng Tống, Trúc Khê…, một số khác đông đảo hơn gồm Nguyễn Thái Học, Phạm Tuấn Tài, Hồ Văn Mịch… chủ trương dùng bạo lực để dành độc lập. Qua nhiều lần trao đổi bàn bạc, nhóm tán thành bạo lực chiếm đa số trong Nam đồng thư xã đã quyết định thành lập một đảng bí mật lấy tên là Việt Nam Quốc dân Đảng, vào ngày 25 - 12 – 1927, tại Hà Nội. Do có nhiều hạn chế bởi các điều kiện giai cấp và kinh tế - xã hội, Việt Nam Quốc dân Đảng không đề ra được một đường lối chính trị độc lập, rõ ràng. Chính cương, Điều lệ của Đảng thay đổi nhiều lần. Trong bản Điều lệ thông qua ngày thành lập Đảng ghi một cách chung chung là: “Trước làm dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng”. Bản điều lệ tháng 7 – 1928, mới nêu: “Chủ nghĩa của Đảng là xã hội dân chủ”. Chương trình hành động của Đảng vạch ra tháng 2 – 1929, thì “chủ nghĩa xã hội dân chủ” bị rút đi và thay bằng ba nguyên tắc “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” của nền Cộng hòa tư sản Pháp. Mục đích cách mạng được nêu rõ hơn với những phong trào của cách mạng dân chủ tư sản là: Tiến hành “cách mạng dân tộc, cách mạng chính trị, cách mạng xã hội” nhằm đánh đuổi giặc Pháp, đánh đổ ngôi vua, thiết lập dân quyền, thi hành tự do, dân chủ"[12;61]. Song nội dung cơ bản của cách mạng dân chủ tư sản là đem lại ruộng đất cho nông dân lại không được đè cập đến. Cho tới khi gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang đầu năm 1930, thì cương lĩnh của Việt Nam Quốc dân Đảng lại mô phỏng theo chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, Quốc dân Đảng Trung Quốc, nhưng những nguyên tắc, chính sách có tính cách mạng, như “bình quân địa quyền”… “Liên Nga, liên cộng, ủng hộ công nông” thì không được nhắc tới. Về tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng chia làm bốn cấp: Tổng bộ, Kì bộ, Tỉnh bộ, Chi bộ. Nhưng thực tế chưa bao giờ thành một hệ thống trong cả nước. Ở Trung Kì, hầu như Việt Nam Quốc dân Đảng không phát triển được cơ sở. Tại Nam Kì, có một số ít chi bộ ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Mĩ Tho. Cơ sở của Việt Nam Quốc dân Đảng tập trung ở Bắc Kì, nhất là ở các tỉnh: Phú Thọ, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Kiến An, Bắc Ninh, Bắc Giang… Phần lớn Đảng viên là học sinh, sinh viên, trí thức, công chức, người làm nghề tự do, tư sản, thân hào, địa chủ, phú nông và binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Việt Nam Quốc dân Đảng không có cơ sở sâu rộng trong quần chúng nhân dân lao động. Tổ chức lỏng lẻo, thành phần phức tạp, Việt Nam Quốc dân Đảng kết nạp cả bọn chỉ điểm, mật thám. Nội bộ Đảng chia rẽ nghiêm trọng. Công tác tuyên truyền yếu kém vì thiếu một lí luận cách mạng tiên tiến, thiên về manh động, khủng bố cá nhân. Tình trạng trên làm cho Đảng này dễ bị tan vỡ. Mặc dù có nhiều thiếu xót, nhược điểm nhưng Việt Nam Quốc dân đảng vẫn là một chính Đảng cách mạng, chủ trương tiến hành bạo động nhằm “đánh đuổi giặc Pháp, lật đổ ngôi vua, sau cùng là thiết lập dân quyền” [12;62]. Việt Nam Quốc dân Đảng là một đảng cách mạng của tiểu tư sản, đại diện cho quyền lợi của giai cấp tư sản dân tộc và tiểu tư sản lớp trên. Nhưng trong nước, giai cấp tư sản Việt Nam mới hình thành, non yếu cả về thế lực kinh tế lẫn chính trị, phụ thuộc vào thực dân Pháp; còn ở nước ngoài, trào lưu chung của cách mạng thế giới đã vượt qua thời kì cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ và chuyển sang giai đoạn thắng lợi của cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới – cách mạng vô sản, cuộc đấu tranh chống đế quốc, phong kiến giành độc lập dân tộc, dân chủ theo lập trường, quyền lợi của giai cấp tư sản do Việt Nam Quốc dân Đảng khởi xướng không thể tránh khỏi thất bại. [B][COLOR="Indigo"]2.2 Khởi nghĩa Yên Bái[/COLOR][/B] Đầu tháng 2 – 1929, nhân vụ ám sát tên trùm mộ phu Ba-danh (Bazin) ở Hà Nội, đế quốc Pháp điên cuồng khủng bố phong trào cách mạng Việt Nam. Việt Nam Quốc dân Đảng bị tổn thất rất nặng nề. Hàng loạt cơ sở, tổ chức Đảng vả hàng nghìn Đảng viên bị bắt, cầm tù, hoặc bị sát hại. Bị động trước tình thế, mặc dù hệ thống tổ chức của Đảng chưa được củng cố, xây dựng lại, các lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng cho rằng “phải đứng lên sống mái với quân thù”.Ngày 17 – 9 – 1929, tại một địa điểm gần ga Lạc Đạo (nơi giáp ranh địa phận của hai tỉnh Bắc Ninh – Hưng Yên), Việt Nam Quốc dân Đảng đã tổ chức Hội nghị đại biểu đảng toàn quốc để thống nhất kế hoạch khởi nghĩa. Trong Hội nghị này, nội bộ Việt Nam Quốc dân Đảng chia làm hai phái : Phái cải tổ và phái khởi nghĩa. Phái khởi nghĩa do Nguyễn Thái Học đứng đầu chiếm ưu thế trong Hội nghị. Tiếp theo đó, Việt Nam Quốc dân Đảng còn triệu tập một cuộc hội nghị nữa ở Bắc Ninh để định ra kế hoạch, thời gian phương thức tiến hành khởi nghĩa. Theo kế hoạch, khởi nghĩa sẽ được tiến hành ở các nơi trong cùng một lúc, nhằm đánh vào các đô thị lớn, trung tâm quân sự của địch. Lực lượng chủ yếu của cuộc khởi nghĩa gồm binh lính là người của Đảng vào trong quân đội của Pháp và phối hợp với lực lượng của Đảng ở bên ngoài. Vũ khí của nghĩa quân gồm vũ khí tự tạo hoặc cướp từ tay giặc. Thời gian khởi nghĩa là ngày 9 – 2 – 1930. Theo phân công thì Nguyễn Thái Học phụ trách khởi nghĩa ở Hải Dương, Hải Phòng và Kiến An, Nguyễn Khắc Nhu phụ trách khởi nghĩa ở Sơn Tây, Phú Thọ, Yên Bái. Trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, Việt Nam Quốc dân Đảng bộc lộ nhiều sơ hở. Kế hoạch khởi nghĩa bị lộ và có kẻ phản bội. Thực dân Pháp chuẩn bị đối phó khởi nghĩa, mặt khác thẳng tay khủng bố, càng quét để tiêu diệt Việt Nam Quốc dân Đảng. Ngày 26 – 1 – 1930, trước tình hình khẩn cấp, Nguyễn Thái Học triệu tập cuộc họp tại làng Mỹ Xá (Nam Sách, Hải Dương). Sau khi phân tích tình hình, biết rằng khởi nghĩa có thể thất bại, nhưng Nguyễn Thái Học cho rằng : “Không thành công cũng thành nhân” nên vẫn quyết định khởi nghĩa. Theo kế hoạch đã định, đến ngày 9 rạng 10 – 2 – 1930, một cuộc khởi nghĩa nổ ra Yên Bái, sáng ngày 10 – 2 – 1930, địch phản công, nghĩa quân nhanh chóng ta rã. Cuộc tiến công đồn Hưng Hóa do Nguyễn Khắc Nhu chỉ huy cũng không thành. Nguyễn Khắc Nhu bị thương nặng, bị bắt và tự sát. Cuộc tấn công đồn chùa Thông ở Sơn Tây bị lộ, không giành được thắng lợi, Phó Đức Chánh bị bắt. Ở một số nơi, như Kiến An, Hải Dương, Thái Bình, Phả Lại, ...nghĩa quân hành động thiếu kế hoạch và thiếu sự phối hợp nên các cuộc khởi nghĩa bị dập tắt nhanh chóng. Đêm ngày 14 rạng sáng ngày 15 – 2 – 1930, Việt Nam quốc dân Đảng đã nổi dậy khởi nghĩa ở huyện Vĩnh Bảo, Kiến An và huyện Phụ Dực (Thái Bình). Tuy nghĩa quân ở huyện Vĩnh Bảo có đánh chiếm được huyện lị, giết được tên tri huyện Hoàng Gia Mô, nhưng cuộc khởi nghĩa nhanh chóng thất bại. Trong lúc cuộc khởi nghĩa nổ ra, thì tại Hà Nội, Việt Nam Quốc dân Đảng tổ chức đánh bom ở một số nơi trong thành phố, có tiếng vang, nhưng không gây được tổn hại lớn cho địch. Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng nhanh chóng thất bại vì nhiều nguyên nhân: Lực lượng đế quốc còn mạnh; khởi nghĩa còn non trong tình thế bị động; tổ chức lãnh đạo không chặt chẽ, thống nhất...nhưng chủ yếu là do đường lối cách mạng tư sản của Việt Nam Quốc dân đảng không đáp ứng được quyền lợi thiết tha của quần chúng nhân dân lao động và không thu hút được đông đảo mọi tầng lớp xã hội, giai cấp nhất là công, nông tham gia khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa đâu tháng 2 - 1930, thất bại và bị thực dân đàn áp dã man kéo theo sự tan rã của Việt Nam Quốc dân Đảng .Cộc khởi nghĩa thất bại, hàng nghìn chiến sĩ và lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng bị thực dân Pháp bắt cầm tù, sát hại. Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí lên máy chém vẫn hiên ngang hô to :”Việt Nam vạn tuế”. Tinh thần chiến đấu hy sinh, dũng cảm của các lãnh tụ, nghĩa quân Việt Nam Quốc dân Đảng đã thể hiện truyền thống yêu nước, bất khuất của dân tộc, góp phần tạo nên một cao trào cách mạng mới ở nước ta vào những năm 1930 – 1931. [B][COLOR="Indigo"]3. Phong trào công nhân 1925 – 1929 [/COLOR][/B] Trong hai năm 1925 – 1927 đã có 17 cuộc đấu tranh của công nhân. Tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân bưu điện Sài Gòn, sợi Nam Định, đồn điền Cam Tiêm (1926), công nhân đồn điền Thái Nguyên, đồn điền cao su Phú Riềng (1927). Từ năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và Tân Việt đã thực hiện chủ trương “vô sản hoá”. Phong trào “vô sản hoá” góp phần thúc đẩy phong trào công nhân chuyển nhanh lên trình độ “tự giác”. Phong trào công nhân nổ ra sôi nổi, mạnh mẽ, đều khắp ở cả nước. Số lượng ở các cuộc đấu tranh của công nhân tăng nhanh. Trong năm 1928 – 1929, đã có trên 40 cuộc đấu tranh của công nhân, tăng gấp 2,5 lần so với năm 1926 – 1927. Tiêu biểu là các bãi công ở mỏ than Mạo Khê (Quảng Ninh), xi măng Hải Phòng, sợi tơ Nam Định, cưa Bến Thủy (Vinh) (1928), đấu tranh của công nhân hãng xe tay Hải Phòng, dệt Nam Định, xe lửa Tràng Thi (Vinh), nhà máy, Avia (Hà Nội), đồn điền cao su Phú Riềng, Cam Tiên...(1929). Tháng 7 – 1929 Tổng Công hội đỏ Bắc Kì được thành lập, đề ra chương trình, điều lệ xuất bản báo Lao động làm cơ quan ngôn luận. Sự kiện này thể hiện bước trưởng thành mới của phong trào công nhân Việt Nam. Đặc điểm nổi bật của phong trào công nhân trong giai đoạn này là không chỉ giới hạn trong phạm vi một xí nghiệp, một địa phương, một ngành, mà đã liên kết nhiều xí nghiệp, nhiều ngành, nhiều địa phương. Tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỉ luật, ý thức chính trị của công nhân được nâng lên. Phong trào đấu tranh đã có tổ chức, lãnh đạo chặt chẽ. Giai cấp công nhân ngày càng nhận thức được rõ sức mạnh, vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình. Sự phát triển của phong trào công nhân đã góp phần lôi cuốn, thúc đẩy phong trào đấu tranh của mọi tầng lớp nhân dân, nhất là nông dân. Sự phát triển của phong trào yêu nước của nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, nhất là phong trào công nhân vào đầu 1929, đòi hỏi phải có sự xuất hiện của Đảng Cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân có đủ khả năng lãnh đạo cách mạng Việt Nam thắng lợi. [B][COLOR="Indigo"]4. Ba tổ chức cộng sản ra đời và việc Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam 3.1. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản (nửa sau năm 1929) 3.1.1 Đông Dương Cộng sản Đảng (6 – 1929)[/COLOR][/B] Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng, đường lối cứu nước của Nguyễn Ái Quốc kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng dân tộc, dân chủ ở nước ta. Tình hình đó đòi hỏi phải có một chính đảng thật sự của giai cấp công nhân lãnh đạo. Những người tiên tiến trong Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nhận thức được Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên chỉ là một tổ chức yêu nước, cách mạng có khuynh hướng cộng sản, chưa là một Đảng Cộng sản nên không thể đáp ứng được yêu cầu của cách mạng nước ta trong tình hình mới. Họ cho rằng, mục đích và khẩu hiệu của Thanh niên không còn phù hợp với tình hình mới, không đủ sức lãnh đạo cách mạng và “việc thành lập một Đảng Cộng sản là cần thiết”. Để chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản, tháng 3 – 1929, một số hội viên tiên tiến nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kì đã nhóm họp ở nhà số 5D phố Hàm Long (Hà Nội ) để lập ra Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam, gồm có 7 người (Ngô Gia Tự, Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Cung…) tích cực chuẩn bị tiến tời thành lập một Đảng Cộng sản. Cuối tháng 3 – 1929, Kì bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Bắc Kì triệu tập Đại Hội. Các đại biểu dự Đại hội đã thảo luận và thống nhất chủ trương thành lập Đảng Cộng sản của những người lãnh đạo Kì bộ nêu ra; đồng thời cử một đoàn đại biểu 4 người, do Trần Văn Cung, Bí thư Kì Bộ dẫn đầu, đi dự Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạnh Thanh niên sẽ họp tại Hương Cảng. Tại Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (5 – 1929), do kiến nghị giải tán Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và thành lập ngay một Đảng cộng sản ở Việt Nam không được chấp nhận, nên đoàn Đại biểu Kì bộ Bắc Kì đã bỏ Đại hội về nước. Sau đó ra Tuyên ngôn kêu gọi công, nông và các tầng lớp nhân dân cách mạng ủng hộ chủ trương thành lập Đảng Cộng sản (1 - 6 - 1929). Sau khi nêu rõ lí do vì sao họ bỏ Đại hội ra về, phân tích các điều kiện thành lập một chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam đã chín muồi, Tuyên ngôn nhấn mạnh: “Phải tổ chức ngay Đảng Cộng sản thì mới dẫn đạo cho vô sản giai cấp làm cách mệnh được”. Ngày 17 - 6 – 1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở Bắc Kì đã họp Đại hội tại nhà số 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội), quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Đại hội thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ của Đảng và quyết định ra cho báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận của Đảng. Tuyên ngôn của Đông Dương Cộng sản Đảng giới thiệu khái quát chủ nghĩa cộng sản và chuyên chính vô sản, phân tích tình hình quốc tế, trong nước, trên cơ sở đó đề ra đường lối cách mạng của Đảng ở Đông Dương. Tuyên ngôn nêu rõ: “Thời kì đầu tiên của cách mạng ở Đông Dương là tư sản dân chủ cách mệnh”. Trong thời kì này, giai cấp vô sản phải “thực hành công nông liên hiệp” để đánh đổ đế quốc, phong kiến; “Thực hành thổ địa cách mệnh”; sau đó mới tiến lên làm “cách mệnh xã hội”. Ngay sau ngày thành lập, Đông Dương Cộng sản Đảng ra sức xây dựng và phát triển tổ chức, cơ sở Đảng. Do đó đến tháng 8 – 1929, các cơ sở Đảng đã được thành lập ở cả ba miền, nhiều nhất là ở Bắc Kì và Bắc Trung Kì. Đông Dương Cộng sản Đảng đã lập ra Công hội đỏ, Nông hội để vận động, tổ chức công, nông đấu tranh. Ảnh hưởng của Đông Dương Cộng sản Đảng ngày càng mạnh mẽ, sâu rộng đến phong trào cách mạng của quần chúng và ảnh hưởng tích cực đến bộ phận còn lại của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và những đại biểu tiên tiến của Tân Việt. [B][COLOR="Indigo"]3.1.2. An Nam Cộng sản Đảng (7 – 1929)[/COLOR][/B] Tháng 7 – 1929, những đại biểu tiên tiến của Tổng bộ và Kì bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên Nam Kì đã quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. An Nam Cộng sản Đảng có cơ sở, tổ chức Đảng và quần chúng ở Nam Kì. Sau khi thành lập, An Nam Cộng sản Đảng đẩy mạnh việc xây dựng, phát triển tổ chức Đảng và quần chúng. Vì vậy phong trào đấu tranh chống đế quốc, chống áp bức bóc lột ở Nam Kì dâng cao. [B][COLOR="Indigo"] 3.1.3. Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9 – 1929)[/COLOR][/B] Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng (6 – 1929) và An Nam Cộng sản Đảng (7 – 1929) càng đẩy nhanh quá trình phân hóa trong nội bộ Tân Việt Cách mạng Đảng. Tháng 9 – 1929, các Đảng viên Tân Việt từ lâu chịu ảnh hưởng xu hướng cộng sản của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã tách khỏi Tân Việt và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Đông Dương Cộng sản Liên đoàn lấy chủ nghĩa cộng sản làm nền móng, liên hiệp công nông binh, thực hành cách mạng vô sản làm cho xứ sở “hoàn toàn độc lập, xóa bỏ nạn người bóc lột, áp bức người, xây dựng chế độ công nông chuyên chính, tiến lên cộng sản chủ nghĩa trong toàn xứ Đông Dương”. Như vậy, chỉ trong vòng gần 4 tháng (từ tháng 6 đến tháng 9 năm 1929), ba tổ chức cộng sản đã ra đời ở nước ta, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của giai cấp công nhân và những hoạt động của nó đã đẩy phong trào công nhân, phong trào yêu nước nửa sau năm 1929 lên cao, chuẩn bị tiến tới thành lập một Đảng Cộng duy nhất. [B][COLOR="Indigo"]3.2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính cương vắn tắt, Sách lượt vắn tắt của Đảng (3 - 2 – 1930)[/COLOR][/B] Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn vào nửa sau năm 1929 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới; đáp ứng nguyện vọng của giai cấp công nhân, của các tầng lớp nhân dân lao động và của cả dân tộc. Các tổ chức cộng sản trên tích cực xây dựng, phát triển cơ sở đảng và quần chúng cách mạng, trực tiếp tổ chức, lãnh đạo công nông và các tần lớp lao động khác đấu tranh. Lúc bấy giờ, phong trào bãi công đòi tăng lương, giảm giờ làm, chống cúp phạt… của công nhân cùng với phong trào nông dân đấu tranh chống sưu cao, thuế nặng, chống cướp đoạt ruộng đất; phong trào bãi khóa của học sinh, sinh viên, bãi thị của tiểu thương v.v.. tạo thành một làn sóng đấu trang cách mạng dân tộc, dâng chủ dân lên khắp cả nước. Để đối phó lại sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, bọn đế quốc và phong kiến tay sai đã điên cuồng đàn áp, khủng bố các tổ chức và những người yêu nước, cộng sản. Trong khi đó, ba tổ chức cộng sản lại hoạt động riêng rẽ, công kích lẫn nhau, tranh giành ảnh hưởng quần chúng. Tình trạng này nếu để kéo dài sẽ dẫn đến những tổn thất và nguy cơ không lường trước được cho các tổ chức cộng sản và phong trào cách mạng. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam lúc này đặt ra là phải nhanh chóng có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước để tiếp tục đưa phong trào cách mạng đi lên. Trước tình hình đó, Quốc tế Cộng sản đã gửi thư cho các tổ chức cộng sản ở Việt Nam (27 – 10 – 1929), chỉ rõ: Nhiệm vụ quan trọng nhẩt và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là phải thành lập ngay một Đảng Cộng sản duy nhất. Theo Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản và trước yêu cầu cấp bách của phong trào cộng sản trong nước, vào đầu năm 1930, Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm đến Hương Cảng (Trung Quốc) triệu tập đại biểu các đảng tới dự Hội nghị hợp nhất. Từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930, Hội nghị hợp nhất các đảng đã hợp tại Cửu Long (Hương Cảng), hội nghị diễn ra dưới hình thức chơi cờ bạt chượt, do Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Tham dự Hội nghị có hai đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng (Nguyễn Đức Cảnh, Trịnh Đình Cửu), hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu) và hai đại biểu hoạt động ở nước ngoài (Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu). Hội nghị đã tiến hành thảo luận và đi đến thống nhất xóa bỏ mọi thành kiến, xung đột cũ, tán thành chủ trương hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thông qua điều lệ vắn tắt của Đảng, chương trình tóm tắt và lời kêu gọi nhân việc thành lập Đảng do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo; đồng thời vạch kế hoạch để tiến hành thống nhất các cơ sở và tổ chức Đảng ở trong nước và chuẩn bị tiến tới Hội nghị Trung ương lần thứ nhất của Đảng để bầu ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức. Hội nghị đại biểu các tổ chức cộng sản ở Việt Nam để hợp nhất Đảng (2 – 1930) có ý nghĩa như một Đại hội thành lập Đảng. Chính cương vắn tắt, sách lượt vắn tắt được Hội nghị thông qua là cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Những văn kiện cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã vạch ra đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam. Cách mạng Việt Nam trải qua hai giai đoạn: Trước làm cách mạng tư sản dân quyền (sau này gọi là cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân) và sau làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn cách mạng này kế tiếp nhau, có quan hệ khăng khít với nhau. Cương lĩnh nêu rõ: “Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Như vậy là ngay từ đầu mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ con đường phát triển tất yếu của cách mạng nước ta, đó là con đường kết hợp và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn cách mạng tư sản dân quyền, cách mạng phải thực hiện nhiệm vụ đánh đổ ách thống trị, bóc lột của đế quốc Pháp, vua quan phong kiến, tư sản phản cách mạng, làm cho nước ta hoàn toàn độc lập, dựng lên chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội công nông, tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn phản cách mạng đem chia cho dân cày nghèo; tiến hành cách mạng ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “dân cày có ruộng”. Các nhiệm vụ trên bao hàm cả nội dung tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, nhưng nổi bật là nhiệm vụ chống đế quốc và bọn tay sai phản động, giành độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc. Lực lượng để đánh đổ đế quốc và phong kiến là công nông; đồng thời “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp. Còn đối với phú nông, trung nông, tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam chưa lộ rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm cho họ trung lập”. Cương lĩnh khẳng định cách mạng Việt Nam phải do Đảng Cộng sản Việt Nam - đảng của giai cấp vô sản và là đội tiền phong của giai cấp vô sản, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, lãnh đạo mới đảm bảo chắc chắn thắng lợi. Muốn làm tròn sứ mệnh lãnh đạo cách mạng của mình, Đảng phải giác ngộ được dân chúng, tập hợp, giác ngộ được đại đa số nông dân, và phải dựa vững vào nông dân nghèo; đồng thời phải liên minh với các giai cấp, tầng lớp yêu nước, cách mạng khác, đoàn kết và tố chức họ đấu tranh chống đế quốc và bọn tay sai phản cách mạng. Cương chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo trong việc vận dụng lí luận chủ nghĩa Mác – Lênin về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản và về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa trong thời đại mới. Cương lĩnh đó nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tính dân tộc và tính nhân văn sâu sắc, nêu cao tư tưởng độc lập, tự do và dân chủ. Sau Hội nghị hợp nhất, ngày 24 - 2 – 1930, yêu cầu gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam của Đông Dương Cộng sản Liên đoàn được chấp nhận. Như vậy, chỉ trong thời gian ngắn, ở Việt Nam đã có một Đảng duy nhất lãnh đạo cách mạng: Đảng Cộng sản Việt Nam. [B][COLOR="Indigo"]3.3. Hội nghị Trung ương lần thứ nhất. Luận cương chính trị của Đảng (10 – 1930)[/COLOR][/B] Tháng 10 – 1930, giữa lúc phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đang diễn ra sôi nổi, quyết liệt và phát triển thành cao trào thì Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng họp tại Hương Cảng (Trung Quốc). Hội nghị quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức do Trần Phú làm Tổng Bí thư. Hội nghị thông qua Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú soạn thảo. Căn cứ vào đặc điểm chung của ba nước trên bán đảo Đông Dương (Lào, Việt Nam, Campuchia) là những nước thuộc địa, nửa phong kiến, có một kẻ thù chung là đế quốc Pháp, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc ngày càng gay gắt thêm, Luận cương chính trị của Đảng khẳng định tính chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền. Cuộc cách mạng tư sản dân quyền thắng lợi thì sẽ tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kì tư bản chủ nghĩa mà tiến thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải đánh đổ thế lực cùng các tàn tích phong kiến, đánh đổ cách bóc lột theo lối tiền tư bản, thực hành cách mạng thổ địa triệt để và đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ khăng khít với nhau, vì “có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá tan được giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”. Về lực lượng cách mạng và vai trò lãnh đạo cách mạng đánh đổ đế quốc và phong kiến, Luận cương chính trị khẳng định: “Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chính, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”. Đồng thời Luận cương chính trị nhấn mạnh: “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cách mạnh ở Đông Dương là cần phải có một đường lối chính trị đúng đắn, có kỉ luật tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chính và lâu dài cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương và lãnh đạo vô sản giai cấp ở Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản”. Muốn thực hiện được nhiệm vụ trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, Đảng phải coi trọng vận động, tập hợp và lãnh đạo lực lượng đại đa số quần chúng đấu tranh đòi các quyền lợi trước mắt, đưa dần quần chúng lên trận tuyến cách mạng và đến khi tình thế cách mạng xuất hiện thì phát động quần chúng vũ trang bạo động đánh đổ chính quyền của giai cấp thống trị và giành lấy chính quyền cho công nông. Vì “Chỉ có chính quyền Xô viết công nông mới là cái khí cụ rất mạnh mà đánh đổ đế quốc chủ nghĩa, phong kiến, địa chủ, làm cho dân cày có đất để cày, làm cho vô sản có pháp luật bảo hộ quyền lợi cho mình”. Luận cương của Đảng cũng nêu rõ: Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, phải liên lạc mật thiết với vô sản và các dân tộc thuộc địa, nhất là với vô sản và lao động Pháp. Tuy nhiên, Luận cương chính trị còn có một số hạn chế nhất định, như chưa xác định rõ mâu thuẫn chủ yếu của một xã hội thuộc địa nên không nêu lên được vấn đề dân tộc là vấn đề hàng đầu của cách mạng Đông Dương, mà nặng về vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp, về cách mạng ruộng đất; đánh giá chưa thỏa đáng khả năng cách mạng của giai cấp tư sản cũng như khả năng liên minh có điều kiện với giai cấp tư sản dân tộc; không thấy được sự phân hóa của giai cấp địa chủ, cũng như khả năng lôi kéo một bộ phận tiến bộ của giai cấp đó trong cách mạng giải phóng dân tộc. Những nhược điểm, hạn chế đó sẽ được Đảng khắc phục dần trong thực tiễn lãnh đạo và đấu tranh cách mạng. (Còn nữa) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Việt Nam Trung Đại ( Thế kỷ X - XIX )
Lịch sử Việt Nam từ 1919-1945 (Giáo trình)
Top