Lịch sử văn minh thế giới.

banvatoi

New member
Xu
0
Loài người ra đời cách đây hàng triệu năm, và từ đó loài người đã sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần.Nhưng mãi đến cuối thế kỷ IV TCN, xã hội nguyên thuỷ bắt đầu tan rã ở Ai Cập, nhà nước bắt đầu ra đời,từ đó loài người mới bắt đầu bước vào thời kỳ văn minh.

Trong thời cổ đại (cuối thiên niên kỷ IV, đầu thiên kiên kỷ III TCN,đến những thế kỷ SCN), ở phương Đông (châu Á và Đông Bắc châu Phi), có bốn trung tâm văn minh lớn: Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Có một tình hình chung nổi bật là cả bốn trung tâm văn minh này đều nằm trên những vùng chảy qua của những con sông lớn. Muộn hơn một tí, ở phương Tây đã xuất hiện nền văn minh Hy Lạp cổ đại.Nền văn minh Hy Lạp có cơ sở đầu tiên từ thiên niên kỷ III TCN,nhưng tiêu biểu cho nền văn minh Hy Lạp là những thành tựu từ khoảng thế kỷ VII TCN trở về sau. Đến thế kỷ VI TCN, nhà nước La Mã bắt đầu thành lập, trở thành trung tâm văn minh thứ hai ở phương Tây.Văn minh La Mã vốn chịu ảnh hưởng của văn minh Hy Lạp, vốn có cùng một phong cách, giờ đây lại hoà làm một, nên hai nền văn minh này được gọi chung là văn minh Hy-La.

Như vậy, trên thế giới có hai khu vực văn minh lớn: phương Đông và phương Tây. Thời cổ đại, phương Đông có bốn trung tâm văn minh là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Thời trung đại, cả Tây Á và Ai Cập đều nằm trong bản đồ đế quốc Ả Rập nên phương Đông chỉ còn lại ba trung tâm văn mình: Ả Rập, Ấn Độ và Trung Quốc. Trong các nền văn minh ấy, văn minh Ấn Độ và Trung Quốc được phát triển liên tục trong tiến trình lịch sử.

Ở phương Tây, thời cổ đại chỉ có nền văn minh Hy-La, đến thời trung đại cũng chỉ có một trung tâm văn minh mà chủ yếu là ở Tây Âu. Ngoài những nền văn minh ở lục địa Á, Âu, Phi, ở châu Mỹ trước khi bị người da trắng chinh phục, tại Mexico và Peru đã từng tồn tại nền văn minh của người Maya, Azteque và Inca.

Đến thời cận đại, do sự phát triển nhanh chóng về khoa học kỹ thuật, nhiều nước phương Tây đã trở thành những quốc gia phát triển về mặt kinh tế và hùng mạnh về quân sự. Cùng với việc biến hầu hết các nước ở Á, Phi, Mỹ La Tinh thành thuộc địa của các cường quốc châu Âu, văn minh phương Tây đã truyền bá khắp thế giới.
 
VĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI

I. Tổng quan:

1. Địa lý và cư dân:

Ai Cập nằm ở Đông Bắc châu Phi, dọc vùng hạ lưu của lưu vực sông Nil, sông Nil bắt nguồn từ vùng xích đạo của châu Phi, dài 6700 km, nhưng phần chảy qua Ai Cập chỉ dài 700 km. Miền đất đai do sống Nil bồi đắp chỉ rộng 15-25 km, phía Bắc có nơi rộng 50 km vì ở dây sông Nil chia thành nhiều nhánh trước khi đổ ra biển. Hằng năm từ tháng 6-11, nước sông Nil dâng cao đem theo một lượng phù sa phong phú bồi đắp cho vùng đồng bằng hai bên bờ ngày càng thêm màu mỡ. Do đó, nền kinh tế nơi đây phát triển sớm tạo điều kiện cho Ai Cập có thể bước vào xã hội văn minh sớm nhất thế giới. Nhà sử học Hêrôđôp đã nói rằng: "Ai Cập là tặng phẩm của sông Nil".

Ai Cập chịu ảnh hưởng của khí hậu Ai Cập, ngoại trừ khu vực phía Bắc chịu ảnh của Địa Trung Hải, vì vậy ở Ai Cập số ngày mưa rất ít, quang năm trời nắng, bầu trời luôn trong xanh, độ ẩm không khí thấp. Tuy nhiên, cũng nhờ điều này mà người Ai Cập lại thuận lợi trong việc quan sát thiên văn và giữ gìn khá lâu những di sản của nền văn mình Ai Cập, cụ thể là bảo quản được loại giấy Papyrus.

Tuy nhiên, về địa hình, Ai Cập là một nước tương đối bị đóng kín, phía Bắc là Địa Trung Hải, phía Đông giáp Biển Đỏ, phía Tây giáp sa mạc Xahara, phía Nam giáp Nubi, nới giáp ấy là một vùng núi hiểm trở khó qua lại. Chỉ có ở Đông Bắc, vùng kênh đào Xuyê sau này, người Ai Cập cổ đại mới có thể qua lại với vùng Tây Á.

Ai Cập chia làm hai miền rõ rệt theo dòng chảy của sông Nil từ Nam lên Bắc: miền Thượng Ai Cập (miền Nam) là một dải lưu vực hẹp, miền Hạ Ai Cập (miền Bắc) là một đồng bằng hình tam giác.

Về tài nguyên, thiên nhiên, Ai Cập có rất nhiều loại đá quý như đã vôi, badan, hoa cương, mã não...Kim loại thì có đồng, vàng, còn sắt thì phải đưa từ bên ngoài vào,

Ngay từ thời rất sớm, trên lãnh thổ Ai Cập đã có con người, họ chính là những thổ dân châu Phi. Châu Phi là một trong những cái nôi, địa bàn hình thành con người và trong quá trình săn bắt, hái lượm ở vùng phía Đông châu Phi, các thổ dân này đi đến thung lũng sông Nil bởi nơi đây có nhiều điều kiện thuận lợi: nguồn nước phong phú, đất phù sa phì nhiêu nên họ đã chọn nơi này để định cư. Về sau có một dân tộc khác, vốn cư trú ở vùng Palestine theo ngã Đông Bắc của Ai Cập tràn vào chiếm lĩnh vùng thung lũng sông Nil và chinh phục các thổ dân ở đây và trải qua một quá trình chung sống lâu dài, tạo nên một hỗn hợp chủng tộc và đó chính là tổ tiên của người Ai Cập hiện nay, đồng thời chính họ là chủ nhận của nền văn minh sông Nil. Như vậy, tóm lại, cư dân chủ yếu của Ai Cập ngày nay là người Ả Rập nhưng thời cổ đại là người Libi, người da đen và người Xêmit từ châu Á tới.
 
2.Thời kỳ hình thành và phát triển:

Về cơ bản, hiện nay chúng ta có thể chia thành 5 thời kỳ:

1.Thời kỳ Tảo Vương Quốc (3200-3000 TCN)
2.Thời kỳ Cổ Vương Quốc (3000-2200 TCN)
3.Thời kỳ Trung Vương Quốc (2200-1570 TCN)
4.Thời kỳ Tân Vương Quốc (1570-1100 TCN)
5.Ai Cập từ TK V-I TCN


2.1Thời kỳ Tảo Vương Quốc:

Vào khoảng nửa sau thiên niên kỷ IV TCN, do sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân hoá giàu nghèo, các công xã nông thôn đã liên hiệp lại thành những nhà nước nhỏ đầu tiên gọi là châu. Dần dần, những châu ấy hợp lại thành hai miền Thương và Hạ Ai Cập. Tiếp đó, qua đấu tranh, hai miền Thượng-Hạ Ai Cập mới thống nhất thành Ai Cập. Từ khi nhà nước Ai Cập thống nhất ra đời cho đến năm 3000 TCN, ở Ai Cập đã trả qua hai vương triều: vương triều I và II gọi chung là thời Tảo Vương Quốc.

Vào thời kỳ này, người Ai Cập đã biết sử dụng công cụ bằng đồng đỏ, biết dùng cày và súc vật để kéo cày. Người đứng đầu nhà nước là một ông vua chuyên chế gọi là Pharaon.


2.2 Thời kỳ Cổ Vương Quốc:

Bao gồm 8 vương triều, từ vương triều III đến vương triều X. Đầu thời Cổ Vương Quốc, chế độ tập quyền trung ương càng được củng cố, kinh tế phát triển hơn trước. Trên cơ sở ấy, các Pharaon đã huy động sức người, sức của để xây dựng cho mình những Kim tự tháp rất đồ sộ. Nhưng từ vương triều V, thế lực của chính quyền trung ương bắt đầu suy giảm, đến vương triều VII, nền thống nhất không duy trì được nữa.

2.3 Thời kỳ Trung Vương Quốc:

Bao gồm 7 vương triều, từ vương triều XI đến vương triều XI đến vương triều XII là thời kỳ ổn định nhất. Nhưng đến năm 1570 TCN, ở Ai Cập đã nổ ra một cuộc khởi nghĩa của dân nghèo. Từ đó Ai Cập bị suy yếu. Đến năm 1710 TCN, miền bắc Ai Cập bị người Hichxốt ở Palestine chinh phục và thống trị 140 năm. Trong thời gian ấy, miền Nam Ai Cập cũng phải thần phục vương triều ngoại tộc.

2.4 Thời kỳ Tân Vương Quốc:

Năm 1570 TCN, người Hichxot bị đánh đuổi khỏi Ai Cập, đất nước thống nhất, thời Tân Vương Quốc bắt đầu. Thời kỳ này gồm 3 vương triều, từ vương triều XVIII đến XX. Các vua đầu vương triều XVIII tích cực thi hành chính sách xâm lược bên ngoài đã chinh phục được Xyri, Phênixi, Palestine ở châu Á và Libi, Nubi ở châu Phi.

Cuối vương triều XVIII, do thế lực của tầng lớp tăng lữ thờ thần mặt trời Amon phát triển quá mạnh, lấn át cả uy quyền của vua, vì vậy, để làm suy yếu thế lực của tầng lớp tăng lữ, vua Ichnaton đã tiến hành một cuộc cải cách tôn giáo, nhưng chính sách cải cách này chỉ được thi hành một thời gian ngắn mà thôi.

Về công cụ sản xuất, từ thời Trung Vương Quốc , đồng thau đã ra đời nhưng chất lượng còn kém và còn ít. Đến thời Tân Vương Quốc, đồng thau mới được sử dụng rộng rãi, đồng thời sắt đã bắt đầu xuất hiện nhưng còn rất hiếm.


2.5 Ai Cập từ thế kỷ X-I TCN

Từ thế kỷ X TCN, Ai Cập hết bị chia cắt lại bị ngoại tộc thống trị. Đặc biệt, từ năm 525 TCN, Ai Cập bị nhập vào đế quốc Ba Tư ở Tây Á. Năm 323 TCN, Ai Cập bị Alexandre ở Machedonia chinh phục. Sau khi đế quốc Machedonia tan rã, Ai Cập thuộc quyền thống trị của một vương triều Hy Lạp gọi là vương triều Ptoleme. Đến năm 30 TCN, Ai Cập thành một tỉnh của đế quốc La Mã.
 
II. Những thành tựu chủ yếu của nền văn minh Ai Cập cổ đại.

Trên cơ sở công cụ bằng đồng và nền kinh tế nông nghiệp, cư dân Ai Cập cổ đại từ rất sớm đã sáng tạo nên một nền văn minh tinh thần vô cùng rực rỡ, trong đó, những thành tựu chủ yếu là chữ viết, văn học, kiến trúc và các kiến thức khoa học tự nhiên.

1. Chữ viết:

Từ khi xã hội có giai cấp bắt đầu hình thành, chữ viết ở Ai Cập đã ra đời. Chữ viết của Ai Cập lúc đầu là chữ tượng hình, tức là muốn viết chữ để biểu thị một vật gì thì vẽ hình thù của vật ấy. Vì vậy, nhìn vào các bản chữ viết Ai Cập cổ đại, ta thấy các hình vẽ như người, các loại động vật (chim, gia súc, dã thú, côn trùng), cây cối, mặt trời, mặt trăng, sao nước, núi non…

Đối với các khái niệm trừu tượng hoặc phức tạp thì phải dùng phương pháp mượn ý. Ví dụ muốn viết chữ khát thì vẽ hình con bò đứng bên cạnh chữ nước, chữ chính nghĩa thì vẽ lông đà điểu, vì lông đà điểu hầu như dài bằng nhau. Tuy nhiên, hai phương pháp ấy chưa đủ để ghi mọi khái niệm, vì vậy dần dần xuất hiện những hình vẽ biểu thị âm tiết. Những hình vẽ biểu thị âm tiết này vốn là những chữ biểu thị một từ nhưng đồng âm với âm tiết mà người ta muốn sử dụng. Ví dụ, con mắt trong tiếng Ai Cập là ar, do đó hình con mắt biểu thị âm tiết ar. Dần dần, những chữ chỉ âm tiết biến thành chữ cái, ví dụ “hòn núi nhỏ” đọc là “ca” được dung để biểu thị âm k. Tổng số chữ tượng hình của Ai Cập cổ đại có khoảng 1000 chữ, trong đó số chữ cái có 24 chữ.

Vào thiên niên kỷ II TCN, người Hichxot đã học tập chữ cái của người Ai Cập để ghi ngôn ngữ của mình. Về sau, loại chữ viết ấy được truyền sang Phenixi, trên cơ sở ấy, người Phenixi đã sáng tạo ra vần chữ cái đầu tiên trên thế giới.

Chữ viết cổ của Ai Cập thường được viết trên đá, gỗ, đồ gốm, vải gai, da… nhưng chất liệu dùng để viết phổ biến nhất là giấy papyrus. Vốn là ở hai bên bờ sông Nil có loại cây tên papyrus, người Ai Cập lấy thân loại cây nè chẻ thành từng thanh mỏng, ghép các thanh ấy thành những tờ giấy, ép mỏng rồi phơi khô. Đó là loại giấy sớm nhất thế giới. Do vậy, về sau trong ngôn ngữ nhiều nước châu Âu, giấy được gọi là papier, paper… Để viết trên loại giấy đó, người Ai Cập cổ dùng bút làm bằng thân cây sậy, còn mực thì làm bằng bồ hóng. Loại chữ tượng hình này được dùng trong hơn 3000 năm, sau đó, không còn ai biết đọc loại chữ này nữa.

Vào thế kỷ V, một học giả Ai Cập tên Ghêrapôlông đã nghiên cứu cách đọc loại chữ cổ này nhưng không thành công. 1000 năm sau, đến thế kỷ XVII mới có một số người đặt lại vấn đề đó nhưng vẫn chưa có kết quả.

Năm 1798, Bônapác (tức Napoleon sau này) viễn chinh sang Ai Cập. Tại một địa điểm gần thành phố Rosetta, trong khi đào chiến hào, binh lính Pháp đã phát hiện được một tấm bia, đặt tên là tấm bia Rosetta, trên tấm bia này khắc hai thứ chữ: phần trên khắc chữ Ai Cập cổ, phần dưới khắc chữ Hy Lạp. Ngay sau đó, các học giả tìm cách giải mã thứ chữ đó nhưng kết quả vẫn chưa hơn gì những lần trước. Mãi đến năm 1822, Champollion, một nhà ngôn ngữ học người Pháp 32 tuổi mới tìm được cách đọc thứ chữ này. Chính từ đó, một môn khoa học mới ra đời, đó là môn Ai Cập học. Học giả nhiều nước như Pháp, Đức, Anh… đã nghiên cứu ngôn ngữ Ai Cập, biên soạn sách tiếng Ai Cập cổ, đặc biệt biên soạn cuốn Từ điển tượng hình Ai Cập. Nhờ đọc được chữ Ai Cập cổ, người ta mới biết được nhiều tư liệu quý giá thuộc các lĩnh vực như lịch sử, văn học, thiên văn, toán học…của Ai Cập cổ đại.


2.Văn học:

Ai Cập cổ đại có một kho tàng văn học khá phong phú, bao gồm tục ngữ, thơ ca trữ tình, các câu chuyện mang tính chất đại lý, giáo huấn, trào phúng, truyện thần thoại…Trong số đó, Truyện hai anh em, Nói Thật và Nói Láo, Lời răn dạy của Đuaup, Sống sót sau vụ đắm thuyền v.v…là những truyện tương đối tiêu biểu.

Truyện Nói Thật và Nói Láo kể chuyện hai anh em, người anh tên là Nói Láo, người em tên là Nói Thật. Nói Láo huênh hoang rằng có một vật có thể chứa được cả núi rừng. Nói Thật không chứng minh được như thế là nói láo nên đã bị móc mắt. Nói Thật trở thành đầy tớ của người anh và bị đày đọa rất cực khổ. Nhưng có một cô gái xinh đẹp đã yêu và lấy anh chàng mù lòa và sinh được một đứa con trai. Lớn lên đứa con quyết báo thù cho cha. Một hôm, nó dắt một con bò của mình đến nhà của Nói Láo. Nói Láo muốn đổi con bò, nhưng đứa bé không đồng ý, lại còn bịa ra nhiều chuyện hoang đường về con bò của mình. Hơn nữa nó còn xin các thần phán xử Nói Láo. Các thần không tin những lời bịa đặt về con bò, và nhớ lại những chuyện hoang đường mà trước kia Nói Láo đã bịa đặt, vì vậy cuối cùng đứa bé đã thắng được kiện.

Lời kể của Ipuxe nói về những biến động lớn lao trong xã hội do cuộc khởi nghĩa quần chúng năm 1750 TCN đem lại:

“Hãy xem: Sự việc hình như không bao giờ xảy ra ấy cuối cùng đã xảy ra rồi. Nhà vua đã bị những người nghèo khổ bắt.”
“Hãy xem: Những người trong cung đình đã bị đuổi ra khỏi cung điện của nhà vua.”
“Hãy xem: Dân thường trong nước đã biến thành phú ông. Những người giàu có đã biến thành những người không có của cải.”
“Hãy xem: Những người vốn bị quản lý thì lại biến thành chủ nô. Những kẻ bản thân mình vốn bị người khác sai khiến thì nay lại sai khiến người khác.”

Lời răn dạy của Đuaup là những lời của người cha trên đường tiễn con lên kinh đô để học, khuyên con phải chăm chỉ học tập để sau này làm quan, nếu không sẽ phải làm thợ thủ công, mà làm thợ gì cũng rất cực khổ:

“Ta chưa hề thấy người thợ điêu khắc hoặc người thợ làm đồ trang sức được làm sứ giả, nhưng ta lại thấy một người thợ đồng làm việc bên lò. Ngón tay của anh ta giống như da cá sấu, mùi trên mình anh ta còn hôi hơn cá”.

“Con xem, ngoài nghề làm quan ra, không có một nghề nghiệp nào là không có người cai quản, vì bản thân ông quan mới là người cai quản”.

Truyện Sống sót sau vụ đắm thuyền nói về một người vâng lệnh vua cùng 120 thủy thủ đi thuyền đến một vùng mỏ. Giữa biển, thuyền gặp bão, tất cả thủy thủ đều chết, chỉ có một mình người ấy nhờ có một khúc gỗ nên được sống sót. Anh ta bị giạt vào một hòn đảo. Chúa đảo là một con rắn lớn, đã dùng mồm cắp anh về chỗ ở của rắn. Rắn bảo anh ta cứ yên tâm ở lại đó, sau 4 tháng sẽ có thuyền từ kinh thành đến đón anh về. Sự việc xảy ra đúng như lời rắn nói. Anh hết lời cảm ơn rắn. Khi rời đảo, rắn tặng anh nhiều tặng phẩm, chúc anh lên đường mạnh khỏe và nói anh rằng sau khi rời hòn đảo thì đảo sẽ biến thành làn sóng. Hai tháng sau, thuyền về đến kinh thành, anh yết kiến vua, dâng lễ vật từ đảo đem về, được vua phong cho làm thị vệ.
 
3. Tôn giáo:

Giống như cư dân các quốc gia cổ đại khác, người Ai Cập trong thời kỳ này thờ rất nhiều thứ: các thần tự nhiên, các thần động vật, linh hồn người chết, thần đá, thần lửa, thần cây. Các thần tự nhiên chủ yếu gồm có Thiên thần, Địa thần và Thủy thần. Thiên thần gọi là thần Nut, là một nữ thần thường được thể hiện thành hình tượng một người đàn bà hoặc một con bò cái. Địa thần là một nam thần gọi là thần Ghép. Thủy thần, tức là thần sông Nil, gọi là thần Odirix. Chính nhờ có vị thần này mà ruộng đồng tươi tốt, bốn mùa thay đổi, cây chết rồi sống lại. Vì vậy, trong các bài thánh ca ngợi thần Odirix có những câu: “Ngài ban ngũ cốc và thực phẩm trên toàn trái đất cho loài người. Ngài làm cho con người no đủ, Ngài hiện hình thành nước”. Ngoài chức năng nói trên, thần Odirix còn được quan niệm là thần Âm phủ, Diêm Vương.

Cũng như loài người, các thần cũng thường kết hợp với nhau và tạo thành những thần mới.Thần không khí Su chính là kết quả của sự kết hợp giữa Thiên thần Nut và Địa thần Ghép. Về sau, cùng với sự hình thành nhà nước tập quyền trung ương, thần Mặt Trời trở thành vị thần quan trọng nhất.Nơi thờ thần Mặt Trời đầu tiên là thành Iunu, người Hy Lạp gọi là Heliopolix. Thần Mặt Trời ở đây gọi là thần Ra.

“Theo truyền thuyết, thần Ra hiện hình thành một vầng mặt trời xuất hiện từ một đóa hoa sen, từ đó mặt đất mới có ánh sáng. Thần Ra sinh ra thần Nut và thần Ghép. Thần Ghép bị cây cối che phủ, trên mình thần Nut thì đầy tinh tú, những ngôi sao ấy đi thuyền trên thân thể thần Nut. Một hôm thần Ra khóc, từ trong nước mắt của thần Ra đã sinh ra loài người. Đến khi thần Ra già, xương của thần biến thành bạc, thịt của thần biến thành vàng, tóc biến thành đồng. Vì thần Ra đã già nên một số thần và loài người không phục tùng thần Ra nữa. Vì vậy thần Ra sai nữ thần Hato hủy diệt loài người. Khi Hato bắt đầu giết loài người, thần Ra đổi ý, muốn ngăn thần Hato lại. Thần Ra bèn đổ mấy thùng rượu ngon trước mặt Hato, Hato uống say rồi ngủ thiếp đi, do đó loài người được cứu khỏi bị hủy diệt. Sau đó thần Ra cưỡi trên lưng thần Bò bay lên trời”.

Đến thời trung vương quốc, Thebes trở thành kinh đô của cả nước.Vì vậy thần Mặt Trời Amon của Thebes trở thành vị thần cao nhất của Ai Cập. Thời kỳ này, thần Amon cũng được gọi là thần Amon-Ra. Người Ai Cập tin rằng, hằng ngày thần Amon-Ra ngự thuyền vàng đi trên bầu trời, ban đêm thì xuống thế giới dưới đất, sáng sớm lại lên vương quốc ban ngày và chiếu những tia sáng của mình lên mặt đất. Bài thánh ca ca ngợi thần Amon-Ra viết:

“Thần Amon-Ra nhân từ, xin ngài hãy tỉnh lại!
Kẻ thống trị cả hai thế giới, vị thần nhân từ và huy hoàng chói lọi. Khi ngài ngự trên vòm cao, các thần và mọi người đều phải lạy vầng thái dương, kẻ thù của ngày cũng phải quỳ gối trước mặt ngài. Trời đang vui mừng, đất đang hân hoan. Ngài đem lại cho các thần và mọi người niềm vui của ngày lễ hội”.


Đến thời Ichnaton (1424-1388 TCN) thuộc vương triều XVIII thời Tân Vương Quốc, do thế lực của tầng lớp tăng lực thờ thần Amon ở Thebes quá mạnh nên ông đã tiến hành một cuộc cải cách tôn giáo. Ông chủ trương thờ một vị thần Mặt Trời mới gọi là thần Atôn. Thần Atôn được coi là vị thần duy nhất, nên việc thờ cấm các vị thần khác đều bị cấm. Ngoài thần Mặt Trời, người Ai Cập còn thờ thần Mặt Trăng Thoth. Thần Thoth còn được quan niệm là thần văn tự, kế toán và trí tuệ. Thần Mặt Trăng được thể hiện dưới hình tượng một con người đầu chim hồng hạc hoặc đầu khỉ.

Người Ai Cập cổ đại cũng coi trọng việc thờ người chết. Họ quan niệm rằng trong mỗi con người đều có một hình bóng gọi là “can” (linh hồn) hoàn toàn giống người đó như cái bóng ở trong gương. Khi con người mới ra đời thì linh hồn chui vào trong thân thể, khi con người chết thì linh hồn rời khỏi thể xác. Từ đó, linh hồn tồn tại độc lập nhưng con người không thể nhìn thấy, chỉ có thể thấy được trong giấc mộng. Linh hồn tồn tại đến khi thi thể người chết hủy nát thì mới chết hẳn. Nhưng nếu thi thể được bảo tồn thì linh hồn một lúc nào đó sẽ nhập vào thể xác và con người sẽ sống lại. Chính vì quan niệm đó mà người Ai Cập mới có tục ướp xác. “Người Ai Cập cổ đại tin rằng thế giới âm phủ cũng giống như thế giới trần gian, ở đó cũng có sông Nil, thần Ra ngự thuyền đi trên dó. Chúa tể của Âm phủ là thần Odirix. Người mới chết phải chịu sự xét xử của vị thần này. Khi xét xử, thần Odirix ngồi trên ngai vàng, người chết được giải đến trước mặt thần. Thần Tốt và thần Arubix (thần dẫn linh hồn âm phủ) cân quả tim của người chết, đĩa cân bên kia là nữ thần chân lý và chính nghĩa. Nếu người chết có nhiều tội thì trái tim sẽ nặng, lập tức người chết bị một con yêu quái đến ăn thịt”.

Người Ai Cập cổ đại còn thờ nhiều loại động vật từ dã thú, gia súc, chim đến côn trùng như chó sói, cá sấu, rắn, sơn dương, cừu, mèo, hồng hạc, đặc biệt là bò mộng Apix. Ngoài các con vật có thực, người Ai Cập còn thờ các con vật tưởng tượng như phượng hoàng, nhân sư.

“Theo truyền thuyết, phượng hoàng sinh ra từ trong lửa đậu trên một ngọn cây ở Heliopolix (gần Memphix). Tiếng hót của nó hay đến nỗi mặt trời cũng phải lắng nghe. Sáng sớm chính là hiện thân của phượng hoàng được đem dâng cho thần Ra. Đến chiều, khi mặt trời lặn, phượng hoàng chết, sáng hôm sau lại sống lại, lại hót véo von để chào đón bình minh.
Còn nhân sư (Sphynx) là con vật đầu người mình thú. Người Ai Cập tin rằng loài vật này sống trong sa mạc gần đó. Con nhân sư được quan niệm là kẻ bảo vệ đắc lực chống lại mọi thế lực thù địch và hung hãn. Vì vậy, tượng nhân sư thường được đặt trước đền miếu”.
 
4. Kiến trúc và điêu khắc:

Nghệ thuật kiến trúc của Ai Cập cổ đại đã đạt đến trình độ rất cao. Các công trình kiến trúc tiêu biểu là cung điện, đền miếu, đặc biệt là Kim tự tháp.

a. Kim Tự Tháp:

Kim Tự Tháp là những ngôi mộ của các vua Ai Cập thuộc Vương triều III và Vương triều IV thời Cổ vương quốc. Các ngôi mộ ấy được xây dựng ở vùng sa mạc Tây Nam Cairo ngày nay.

Kim Tự Tháp được bắt đầu xây dựng từ thời vua Djeser, vua đầu tiên của vương triều III, vương triều đầu tiên của thời Cổ vương quốc. Đây là một ngôi tháp có bậc, cao 60m, đáy là một hình chữ nhật dài 120m, rộng 106m. Xung quanh tháp Djeser có đền thờ và mộ những thành viên trong gia đình và những người thân cận. Toàn bộ khu lăng này được bao bọc bởi một tường thành xây bằng đá vôi. Thời kỳ Kim Tự Tháp được xây dựng nhiều nhất và đồ sộ nhất là thời vương triều IV. Vua đầu tiên của vương triều này là Xnepru, đã xây cho mình hai Kim Tự Tháp, cái thứ nhất cao 36,5 m, cái thứ hai cao 99 m. Các vua kế tiếp như Keop, Kephren, Mikerin đều xây dựng những Kim Tự Tháp rất lớn: Kim Tự Tháp Keop (tên Ai Cập) là Hufu cao 146,5 m, Kim Tự Tháp Kephren cao 137 m, Kim Tự Tháp Mikerin cao 66 m.

“Trong số các Kim Tự Tháp ở Ai Cập, cao lớn nhất, tiêu biểu nhất là Kim Tự Tháp của Keop, con của Xnephru. Kim Tự Tháp Keop xây thành hình tháp chóp, đáy là một hình vuông mỗi cạnh 230 m, bốn mặt là những tam giác ngoảnh về bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Toàn bộ Kim Tự Tháp được xây bằng những tảng đá vôi mài nhẵn, mỗi tảng nặng 2,5 tấn, có tảng nặng 30 tấn. Để xây Kim Tự Tháp này, người ta đã dùng đến 2.300.000 tảng đá với một khối lượng là 2.408.000 m khối. Phương pháp xây Kim Tự Tháp là ghép các tảng đá được mài nhẵn với nhau chứ không dùng vữa, thế mà các mạch ghép kín đến mức một lá kim loại mỏng cũng không thể lách qua được. Ở mặt phía Bắc của Kim Tự Tháp Keop, cách mặt đất hơn 13 m, có một cái cửa thông với hầm mộ, Kim Tự Tháp Keop có hai hầm mộ: một hầm mộ nằm ở sâu 30 m dưới lòng đất và một hầm mộ ở giữa Kim Tự Tháp cách mặt đất 40 m. Người ta cho rằng theo thiết kế ban đầu, hầm mộ ở sâu dưới đất, nhưng khi đã làm xong thì Keop thay đổi ý kiến, bắt phải xây ở trên cao.

Hơn 2000 năm sau, nhà sử học Hy Lạp Herodop đến Ai Cập còn được nghe cư dân ở đây kể lại quá trình xây Kim Tự Tháp. Herodop cho biết, sau khi quyết định xây Kim Tự Tháp, Keop đã huy động toàn thể nhân dân lao động trong nước đến công trường làm việc. Họ được tổ chức thành từng đội gồm 100.000 người, cứ ba tháng thì thay phiên một lần. Kim Tự Tháp được xây ở tả ngạn sông Nil, nhưng nơi khai thác đá lại ở nơi hữu ngạn. Vì vậy người ta phải dùng thuyền chở đá từ nơi khai thác đến nơi xây Kim Tự Tháp. Từ bến đá đến khu lăng mộ, người ta phải xây một con đường bằng những tảng đá mái nhẵn, dài hơn 900 m, rộng 18 m và chỗ cao nhất là 15 m. Chỉ riêng việc xây dựng con đường này đã mất đến 10 năm. Từ đây, người ta để đá lên xe trượt rồi dùng người hoặc bò kéo để chở đá đến công trường. Không kể thời gian làm đường và hầm mộ dưới đất, việc xây Kim Tự Tháp đã kéo dài 20 năm mới hình thành”.


Việc xây Kim Tự Tháp như Herodop nói, “đã đem lại cho nhân dân Ai Cập cổ đại không biết bao nhiêu tai họa”. Nhưng nhân dân Ai Cập cổ đại, bằng bàn tay và khối óc của mình, đã để lại cho nền văn minh nhân loại những công trình kiến trúc vô giá. Trải qua gần 500 năm, các Kim Tự Tháp hùng vĩ vẫn đứng sừng sững ở vùng sa mạc Ai Cập bất chấp thời gian và mưa nắng. Vì vậy từ lâu người Ai Cập có câu: “Tất cả đều sợ thời gian, nhưng thời gian sợ Kim Tự Tháp”. Và cũng chính vì vậy, từ thời cổ đại, người ta đã xếp Kim Tự Tháp Keop là kỳ quan số một trong bảy kỳ quan thế giới. Đến nay, trong bảy kỳ quan ấy, cũng chỉ còn lại mỗi Kim Tự Tháp mà thôi.

b. Tượng Sphynx (nhân sư):

Nghệ thuật điêu khắc của Ai Cập cổ đại cũng có những thành tựu rất lớn biểu hiện ở hai mặt tượng và phù điêu. Từ thời Cổ vương quốc về sau,các vua Ai Cập thường sai tạc tượng của mình và những người trong vương thất, Tượng thường tạc trên đá, gỗ hoặc đúc bằng đồng. Trong số các tượng của Ai Cập cổ đại, đẹp nhất là tượng bán thân hoàng hậu Nefetiti, vợ của vua Ichnaton. Tuy nhiên, độc đáo nhất trong nghệ thuật điêu khắc của Ai Cập cổ đại là tượng Sphynx.
Sphynx, người ta thường dịch là con nhân sư, là những bức tượng mình sư tử đầu người hoặc dê. Những tượng này thường đặt trước cổng đền miếu. Cá biệt, có đền miếu có đến 500 tượng như vậy.

“Trong số các tượng Sphynx của Ai Cập cổ đại, tiêu biểu nhất là tượng Sphynx gần Kim Tự Tháp Kephren ở Ghide. Tượng Sphynx này dài 55 m, cao 20 m, chỉ riêng cái tai đã dài 2 m. Đó chính là tượng của vua Kephren. Thể hiện vua dưới hình tượng đầu người mình sư tử là muốn ca ngợi vua không chỉ có trí tuệ của loài người mà còn có sức mạnh như sư tử. Tượng này được tạc vào thế kỷ XXIX TCN theo lệnh của Kephren. Từ đó về sau, tượng càng làm tăng thêm vẻ uy nghi và huyền bí của khu lăng mộ làm cho con người khiếp sợ. Dân du mục ở sa mạc gọi tượng Sphynx này là “vị thần khủng khiếp”, mỗi lần đi qua vùng này họ phải đi đường vòng chứ không dám đến gần. Hàng ngàn năm nay, người ta cứ thắc mắc mãi không rõ phía trong tượng Sphynx có gì không. Có người cho rằng trong tượng có gian phòng dùng để tế thần, phía dưới có con đường ngầm. Chính vì muốn tìm hiểu Sphynx, Bonapac đã cho nã pháo vào đầu tượng này làm tượng Sphynx bị hỏng một phần”.
 
5. Khoa học tự nhiên:

Khoa học tự nhiên ở Ai Cập cổ đại cũng có nhiều thành tựu, quan trọng nhất là thiên văn và số học.

a. Thiên văn:

Từ rất sớm, với những dụng cụ thô sơ như sợi dây dọi, mảnh ván có khe hở, các nhà thiên văn học cổ đại thường ngồi trên móc đền miếu để quan sát bầu trời. Mặc dù những tài liệu về thiên văn học để lại đến ngày nay không nhiều, nhưng chỉ qua một số chi tiết còn lưu lại cũng có thể biết được rằng những phát hiện về lĩnh vực này của người Ai Cập cổ đại là rất quan trọng. Họ đã vẽ hình thiên thể lên trần các đền miếu, đã biết được 12 cung hoàng đạo, biết được các hành tinh như sao thủy, sao kim, sao hỏam sao thổ và sao mộc.

Khi quan sát bầu trời, các nhà thiên văn học cứ một tiếng đồng hồ thì ghi vị trí các sao lên một tờ giấy có kẻ ô. Để đo thời gian, từ thời cổ vương quốc người Ai Cập đã phát minh ra các nhật khuê. Đó là một thanh gỗ có một đầu cong. Muốn biết mấy giờ thì xem bóng mặt trời của mút các đầu cong in lên vị trí nào trên thanh gỗ. Nhưng dụng cụ này chỉ xem được thời gian ban ngày và chỉ khi có nắng. Đến thời vương triều XVII, người Ai Cập lại phát minh ra đồng hồ nước. Đó là một cái bình bằng đá hình chóp nhọn. Chỗ nhọn là đáy và ở đó có một cái lỗ nhỏ. Trong bình đổ đầy nước, nước theo lỗ nhỏ chảy ra ngoài làm cho mực nước vơi dần, nhìn vào mực nước là người ta biết được thời gian. Loại đồng hồ này đã khắc phục được nhược điểm của loại nhật khuê nói trên.

Thành tựu quan trọng nhất trong lĩnh vực thiên văn của người Ai Cập cổ đại là việc làm ra lịch. Lịch Ai Cập được đặt ra dựa trên kết quả quan sát tinh tú và quy luật dâng nước của sông Nile. Họ nhận thấy rằng buổi sáng sớm khi sao Lang (Sirius) bắt đầu mọc cũng là lúc nước sông Nile bắt đầu dâng. Hơn nữa, khoảng cách của hai lần mọc sao Lang là 365 ngày. Họ lấy khoảng thời gian ấy làm một năm. Một năm được chia ra làm 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày, 5 ngày còn thừa để vào cuối năm ăn tết. Năm mới của người Ai Cập bắt đầu từ ngày nước sông Nile bắt đầu dâng (vào khoảng tháng 7 dương lịch). Một năm được chia làm ba mùa, mỗi mùa bốn tháng. Đó là mùa Nước dâng, mùa Ngũ cốc và mùa Thu hoạch.

Như vậy, lịch của người Ai Cập cổ đại là một thứ lịch được phát minh rất sớm (vào khoảng thiên kỷ thứ IV TCN) và tương đối chính xác và thuận tiện. Tuy nhiên, lịch sử Ai Cập cổ đại so với lịch mặt trời còn thiếu mất ¼ ngày, nhưng lúc bấy giờ, họ chưa biết đặt ra năm nhuận.

b. Toán học:

Do yêu cầu phải đo đạc lại ruộng đất bị nước sông Nile làm ngập và do cần phải tính toán vật liệu trong các công trình xây dựng nên từ sớm, người Ai Cập đã có khá nhiều hiểu biết đáng chú ý về toán học.

Vấn đề đầu tiên của toán học là phép đếm. Người Ai Cập cổ đại ngay từ đầu đã biết dùng phép đếm lấy 10 làm cơ sở (thập tiến vị). Các chữ số cũng được dùng chữ tượng hình để biểu thị nhưng vì không có cơ số 0 nên cách viết chữ số của họ tương đối phức tạp.

Ví dụ: đơn vị: hình nhiều cái que,
chục: hình một đoạn dây thừng,
trăm: hình một vòng đoạn dây thừng,
ngàn: hình cây sậy,
10 ngàn: hình ngón tay,
100 ngàn: hình con nòng nọc,
triệu: hình người giơ hai tay biểu thị kinh ngạc.

Về các phép tính cơ bản, người Ai Cập chỉ mới biết phép cộng và phép trừ. Còn nhân và chia, vì chưa biết bảng nhân nên phải dùng phương pháp cộng và trừ liên tiếp.

Đến thời Trung vương quốc, mầm mống của đại số học đã xuất hiện. Ẩn số x được gọi là “aha” nghĩa là “một đống”, ví dụ một số ngũ cốc chưa biết được số lượng thì gọi là “một đống ngũ cốc”. Người Ai Cập đã biết được cấp số cộng và có lẽ cũng đã biết được cấp số nhân.

Về hình học, người Ai Cập đã biết cách tính diện tích hình tam giác, diện tích hình cầu, biết được số pi là 3,16, biết tính thể tích hình tháp đáy vuông. Khi giải những bài tóan hình học không gian phục vụ cho việc xây dựng Kim Tự Tháp, họ đã biết vận dụng mầm mống của lượng giác học.

Các vấn đề toán học thường được ghi trên giấy papyrus, trong đó, tài liệu cổ nhất được viết từ năm 1850 TCN (thời Trung vương quốc). Tài liệu này viết trên một tờ giấy rộng 8 cm, dài 544 cm.

c. Y học:

Do tục ướp xác thịnh hành, từ rất sớm, người Ai Cập đã hiểu biết tương đối về cấu tạo của cơ thể người. Tình hình ấy đã tạo điều kiện cho y học có thể phát triển sớm. Nhiều thành tựu của nền y học Ai Cập cổ đại được ghi trên giấy papyrus và truyền đạt lại đến ngày nay. Các tại liệu ấy đã đề cập đến các vấn đề như nguyên nhân của bệnh tật, mô tả về óc, quan hệ giữa tim và mạch máu, các loại bệnh, cách khám bệnh, khả năng chữa trị… Về nguyên nhân chủ yếu của bệnh tật, người Ai Cập lúc bấy giờ đã nhận thức được rằng đó không phải do ma quỷ hoặc do các mụ phù thủy gây nên mà là do sự không bình thường của mạch máu. Hơn nữa, từ thời Trung vương quốc, người Ai Cập đã biết được tầm quan trọng của óc và tim đối với sức khỏe của con người, nếu óc bị tổn hại thì toàn thân sẽ bị bệnh. Tuy người Ai Cập chưa biết nhiều về sự tuần hoàn của máu nhưng họ cũng đã nhận biết sự liên quan giữa tim và mạch máu. Các tài liệu ghi rằng nhịp tim đang đập trong các mạch máu của cơ thể, do đó “khi thầy thuốc để bàn tay hoặc ngón tay ở phía sau đầu, bàn tay, mạch, bàn chân của người khác thì ông ta biết được tim”.

Các tài liệu để lại còn mô tả nhiều loại bệnh như bệnh đường ruột và dạ dày, bệnh đường hô hấp, bệnh ngoài da…

Các tài liệu cũng ghi lại nhiều bài thuốc và phương pháp chữa trị. Ví dụ, để chữa bệnh đường ruột, người ta dùng phương pháp rửa ruột hay cho nôn mửa. Các thầy thuốc Ai Cập còn biết dùng phẫu thuật để chữa một số bệnh.

Việc chữa bệnh đã được chuyên môn hóa khá tỉ mỉ. Hêrôđốt cho biết rằng khi ông đến Ai Cập du lịch thì thấy rằng: “Ở chỗ họ, y học chia thành nhiều chuyên môn, mỗi thầy thuốc chữa trị một loại bệnh chứ không phải chữa rất nhiều bệnh. Khắp nơi đều có rất nhiều thầy thuốc: người này chuyên chữa mắt, người kia chuyên chữa đau đầu, người thứ ba chuyên chữa răng, một người nữa chữa bệnh đau dạ dày, một người nữa chữa các bệnh trong nội tạng”.

Ngoài ra, các lĩnh vực khác như vật lý học, hóa học… cũng có những hiểu biết đáng kể. Không thể tưởng tượng được rằng trong việc thiết kế và xây dựng các Kim Tự Tháp mà cho đến nay vẫn rất vững bền lại thiếu những kiến thức về vật lý học nhất là về lực học.

Tóm lại, nền văn minh Ai Cập cổ đại đã để lại cho nhân loại nhiều thành tựu tuyệt vời và đã có nhiều đóng góp trực tiếp đối với sự phát triển của nhiều lĩnh vực trong nền văn hóa thế giới.
 
Văn minh Lưỡng Hà cổ đại

I. Tổng quan về Lưỡng Hà cổ đại:

1. Địa lý và cư dân:

Lưỡng Hà (Mesopotamie) nghĩa là miền giữa hai sông, bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là mêdốt là ở giữa và pôtamôt là sông. Hai sông đó là sông Tigrơ ở phía Đông và sông Ơphrat ở miền Tây. Cả hai sông này đều bắt nguồn từ miền rừng núi Acmênia chảy qua lãnh thổ Irac ngày nay rồi đổ ra vịnh Ba Tư (Pec-xich).

Về mùa xuân, tuyết ở cao nguyên Acmênia tan làm nước ở hai sông Tigrơ và Ơphrat dâng cao gây nên lũ lụt làm ngập cả một vùng rộng lớn. Nhưng chính nhờ nước lụt nên đất đai ở đây không ngừng được bồi đắp và trở nên màu mỡ. Lượng phù sa ở đây nhiều đến nỗi, qua mấy nghìn năm, cả một vùng biển rộng lớn ở cửa sông này đã trở thành đồng bằng, bờ biển của vịnh Ba Tư phải lùi xa gần 200 km. Cũng vì vậy, hai dòng sông Tigrơ và Ơphrat vốn đổ ra biển bằng hai cửa sông khác nhau đã nhập lại thành một dòng trước khi ra biển. Chính nhờ có đất đai phì nhiêu như vậy nên cũng như Ai Cập cổ đại, khi công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ, kinh tế ở đây vẫn có điều kiện phát triển, do đó đã sơm bước vào xã hội văn minh.

Trong khi Lưỡng hà là một vùng màu mỡ thuận lợi cho cuộc sống của con người như vậy thì về địa hình, Lưỡng Hà là một vùng hoàn toàn để ngỏ ở mọi phía, không có những biên giới hiểm trở để bảo vệ, vì vậy trong mấy ngàn năm lịch sử, vùng này đã trở thành nơi tranh giành của nhiều tộc người khác nhau, dẫn đến sự hưng vong của nhiều quốc gia hùng mạnh một thời.

Về tài nguyên, Lưỡng Hà hiếm đá quý và kim loại, nhưng lại có một loại đất sét rất tốt, vì vậy, đất sét đã trở thành vật liệu chủ yếu của ngành kiến trúc, chất liệu để viết, thậm chí đất sét còn được đưa vào các truyện huyền thoại. Cư dân xưa nhất ở Lưỡng Hà là người Xume, họ từ Trung Á di cư đến miền Nam Lưỡng Hà vào khoảng thiên niên kỷ thứ IV TCN. Tại đây, họ đã lập nên nhiều thành bang như Ua, Êriđu, Lagát, Uruc…

Đến thiên niên kỷ III TCN, người Accat thuộc tộc Xêmit từ vùng thảo nguyên Xyri đến định cư ở miền Trung Lưỡng Hà. Tại đây, họ đã lập nên quốc gia Accat nổi tiếng một thời. Cuối thiên niên kỷ III TCN, người Amôrit, một chi nhánh của người Xêmit cũng từ phía Tây tràn vào Lưỡng Hà. Chính họ đã thành lập quốc gia cổ Babilon nổi tiếng trong lịch sử Lưỡng Hà cổ đại.

Ngoài ra còn có nhiều tộc người khác ở vùng lân cận cùng tràn vào Lưỡng Hà. Các tộc người trước sau tới Lưỡng Hà lại đồng hóa với nhau làm cho thành phần cư dân ở đây hết sức phức tạp.
 
2. Các quốc gia ở Lưỡng Hà cổ đại.

a. Những nhà nước của người Xume:

Vào khoảng đầu thiên kỷ III TCN, ở miền Nam Lưỡng Hà, nơi cư trú của người Xu me, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, do sự phân hóa giàu nghèo, đã xuất hiện nhiều nhà nước nhỏ lấy một thành thị làm trung tâm gọi là những thành bang. Giữa các thành bang ấy thường diễn ra những cuộc đấu trường để tranh giành đất đai và nguồn nước. Đến giữa thiên kỷ III, trong số các thành bang ở miền Nam Lưỡng Hà, nổi bật nhất là Lagat, những sau đó không lâu, thành bang Umma ở phía Bắc đã đánh bại Lagat. Tiếp đó, Umma còn chinh phục được nhiều thành bang khác và thống nhất miền Nam Lưỡng Hà (cũng gọi là vùng Xume)

b. Accat:

Thành bang Accat do một chi nhánh người Xêmit thành lập ở phía Bắc vùng Xume. Đến thời vua Xacgôn (2369-2314 TCN), Accat trở thành một quốc gia hùng mạnh. Xacgôn đã tấn công và chinh phục được toàn bộ vùng Xume và như vậy lần đầu tiên đã thống nhất cả vùng Lưỡng Hà. Tiếp đó, Accat còn chiếm được các khu vực xung quanh thành lập một quốc gia lớn mạnh ở Tây Á. Xacgôn tự xưng là “vua của bốn phương”. Tuy vậy, sự hùng mạnh của Accat cũng không duy trì được lâu. Đến cuối thế kỷ XXIII TCN, Accat bị người Guti ở Đông Bắc chinh phục và thống trị trong một thời gian khá dài.

c. Vương triều III của Ua (2132-2024 TCN):

Sau khi người Guti bị đánh đuổi, quyền thống trị ở Lưỡng Hà chuyển sang tay vương triều III của Ua, một thành bang cổ xưa của Xume. Phạm vi thống trị của vương triều này cũng rất rộng. Ua đã ban bố một bộ luật mà ngày nay đã phát hiện được một số đoạn. Đó là bộ luật cổ nhất trong lịch sử thế giới. Như vậy, dưới thời vương triều III, Ua đã trở thành một nước lớn mạnh ở Lưỡng Hà, nhưng đến cuối thế kỷ XXI TCN thì bị suy yếu và bị liên quân của Elam (một bộ tộc ở phía Đông) và Mari (một thành bang ở phía Bắc) đánh bại.

d. Cổ Babilon:

Babilon là một thành phố do người Amôrit thành lập ở trung tâm Lưỡng Hà. Trong thời kỳ đầu, Babilon còn tương đối yếu, nhưng đến nửa đầu thế kỷ XVIII TCN, dưới thời vua Hammurabi (1792-1750 TCN), Babilon trở thành quốc gia hùng mạnh nổi tiếng nhất trong lịch sử Lưỡng Hà cổ đại. Hammurabi đã lần lượt đánh bại các thành bang xung quanh, thống nhất được hầu hết vùng Lưỡng Hà. Trên cơ sở đó, ông đã xây dựng bộ máy nhà nước chuyên chế tập quyền trung ương. Đặc biệt, ông đã ban hành một bộ luật gọi là bộ luật Hammurabi. Đây là một bộ luật cổ được giữ lại tương đối nguyên vẹn.

Đến thời Babilon, kinh tế Lưỡng Hà có những tiến bộ rất đáng nể. Công cụ đồng thau được dùng phổ biến, sắt cũng đã xuất hiện nhưng còn tương đối hiếm. Cư dân Lưỡng Hà đã biết sử dụng cày có lưỡng đồng thau do bò kéo. Hơn nữa, họ còn biết sử dụng loại cày có lắp bộ phận gieo hạt.

Như vậy, dưới thời Hammarabi, Babilon không những được ổn định về chính trị mà kinh tế và văn hóa cũng rất phát triển. Nhưng sau khi Hammurabi chết, Babilon bị suy yếu dần. Trong vòng 1000 năm, tình hình Babilon rất rối ren, đồng thời nhiều lần bị ngoại tộc tấn công và thống trị. Đến năm 732 TCN, Babilon bị một quốc gia hùng mạnh ở phía Bắc là Atxirin xâm chiếm, đế năm 729 TCN thì trở thành một bộ phận của Atxiri.

e. Tân Babilon và Ba Tư:

Từ giữa thế kỷ VII TCN, Atxiri bắt đầu suy yếu. Nhân tình hình ấy, năm 626 TCN, một viên tướng người Canđê, một chi nhánh của tộc Xêmit tên là Nabôpôlaxa, người được cử làm tổng đốc của Atxiri ở miền Nam Lưỡng hà đã tuyên bố Babilon độc lập. Để phân biệt với Cổ Babilon, quốc gia này được gọi là Tân Babilon.

Ngay sau đó, Tân Babilon liên minh với nước Mêđi ở phía Đông Bắc cùng tấn công Atxiri. Năm 605, Atxiri diệt vong, đất đai của Atxiri bị chia làm hai phần: nửa phía Bắc thuộc về Mêđi, nửa phía Nam thuộc về Babilon. Để tăng thêm tình hữu nghị giữa hai nước đồng minh, Nabôpôlaxa đã hỏi công chúa Mêđi cho con trai của mình là Nabusôđênôxo. Năm 604 TCN, Nabôpôlaxa chết, Nabusôđônôxo lên nối ngôi. Đây là thời kỳ cường thịnh nhất của Tân Babilon. Chính Nabusôđônôxo đã ra lệnh xây dựng vườn hoa trên không nổi tiếng.

Năm 562 TCN, Nabusôđônôxo chết, từ đó tình hình nội bộ Tân Babilon không được ổn định. Trong khi đó, ở Iran bắt đầu xuất hiện nước Ba Tư hùng mạnh. Năm 550 TCN, Ba Tư đánh bại Mêđi, Babilon cũng trở thành mục tiêu chinh phục của Ba Tư. Năm 538 TCN, quân Ba Tư tấn công và chiếm được thành Babilon. Tân Babilon cũng trở thành một bộ phận của đế quốc Ba Tư.

Năm 328 TCN, đế quốc Ba Tư bị Alexandre Maccedonia tiêu diệt. Cả Tây Á bị nhập vào đế quốc Maccedonia. Sau khi Alexandre chết, đế quốc Maccedonia bị phân chia, Babilon nằm trong vương quốc của Xêlocut, một tướng của Alexandre
 
II. Những thành tựu chủ yếu của văn minh Lưỡng Hà cổ đại:

1. Chữ viết:

Chữ viết ở Lưỡng Hà đầu tiên do người Xume sáng lập vào cuối thế kỷ IV TCN. Trong thời kỳ đầu, chữ viết của Lưỡng Hà cũng là chữ tượng hình. Ví dụ, muốn viết các chữ “chim, cá, lúa, nước” thì vẽ hình con chim, con cá, bông lúa, làn sóng. Dần dần, các hình vẽ được đơn giản hóa, tức là không phải vẽ toàn bộ sự vật mà chỉ vẽ một bộ phận tiêu biểu mà thôi. Ví dụ: chữ “trời” chỉ vẽ một ngôi sao, chữ “bò mộng” chỉ vẽ một cái đầu bò với hai cái sừng dài.

Trên cơ sở chữ tượng hình, để biểu thị các khái niệm, động tác… người ta phải dùng phương pháp biểu ý. Ví dụ: muốn viết chữ “khóc” thì vẽ con mắt và nước, “đẻ” thì vẽ chim và trứng, “bò rừng” thì vẽ bò và núi. Lúc đầu, hình cái cày vừa có nghĩa là cái cày, lại có nghĩa là người cày. Để phân biệt, bên cạnh hình cái cầy có thêm hình gỗ thì có nghĩa là cái cày, bên cạnh hình cái cày có thêm hình người thì tức là người cày.

Người ta còn dùng hình vẽ để mượn âm thanh. Ví dụ: muốn viết âm “xum” thì vẽ bó hành, vì bó hành có âm là “xum”. Các hình vẽ chỉ âm tiết còn kết hợp với một số hình khác để phân biệt các khái niệm. Ví dụ: hình bàn chân kết hợp với âm tiết NA là “đi”, hình bàn chân kết hợp BA là “đứng”. Chữ hài thanh còn dùng để biểu đạt nhiều loại từ khác như giới từ, phó từ… Nhờ có chữ hài thanh, số chữ tượng hình càng ngày càng ít đi. Lúc đầu có khoảng 2000 chữ, nhưng đến thời Lagat (thế kỷ XXIX TCN) chỉ còn lại khoảng 600 chữ.

Chất liệu dùng để viết là các tấm đất sét còn ướt và những cái que vót nhọn. Viết trên đất sét chỉ thích hợp với những nét thẳng và ngắn; vì vậy, những nét dài được thay thế bằng những nét ngắn và nét cong thì thay bằng nét thẳng. Ví dụ: Cái đầu bò được thay bằng một hình tam giác đỉnh chúc xuống dưới, phía trên có hai đoạn thẳng biểu thị hai cái sừng. Đồng thời, do dùng que viết trên đất sét nên chỗ mới ấn vào thì nét to, chỗ rút bút ra thì nét nhỏ, do đó các nét đều giống hình cái nêm. Do sự bố trí khác nhau của các nét ấy mà tạo thành các chữ khác nhau. Loại chữ này được gọi là chữ tiết hình tức là chữ hình nêm.

Tổng số chữ tiết hình không đến 600 chữ, trong đó dùng chỉ có 300 chữ, nhưng mỗi chữ thường có vài nghĩa.

Chữ tiết hình cũng do người Xume phát minh, về sau, người Accat, người Babilon, người Atxiri và các tộc khác ở Tây Á cũng dùng chữ tiết hình để viết ngôn ngữ của mình. Đến khoảng năm 1500 TCN, chữ tiết hình thành văn tự ngoại giao quốc tế, ngay Ai Cập khi ký điều ước hoặc các văn kiện ngoại giao cũng dùng loại chữ này. Về sau người Phêxini và người Ba Tư đã cải tiến chữ tiết hình thành vần chữ cái. Tuy nhiên, ở Lưỡng Hà, các tăng lữ, quan tòa và nhà chiêm tinh vẫn dùng chữ tiết hình đến trước, sau công nguyên mới bị chữ phiên âm hoàn toàn thay thế.

Lúc đầu, chữ tiết hình được viết từ trên xuống dưới và từ phải sang trái. Về sau, vì viết như thế có một điều bất tiện là khi viết đến dòng thứ hai thì tay xóa mất dòng thứ nhất vừa viết, vì vậy người ta đổi thành cách viết từ trái sang phải và theo hàng ngang, đồng thời mỗi chữ cũng quay 90 độ. Sau khi viết xong quay tấm đất sét lại thì vẫn thành viết từ trên xuống dưới và từ phải sang trái. Nếu sách gồm nhiều trang thì mỗi tấm phải có tên sách và số trang, đồng thời đầu trang sau phải nhắc lại dòng cuối cùng của trang trước. Sau khi viết xong, muốn bảo tồn lâu dài thì cho vào lửa nung. Loại “giấy” này có ưu điểm là không bị mục nát, mối mọt, không bị cháy, nhưng lại có khuyết điểm là dễ vỡ và quá nặng. Một quyển sách 50 trang thì phải nặng đến 50 kg. Ngày nay, ở Ninnivơ – kinh đô của Atxiri ngày xưa đã phát hiện được trên 20.000 tấm đất sét như vậy, kể cả ở các nơi khác đã phát hiện được mấy trăm ngàn tấm.

Từ cuối thế kỷ XVIII, một học giả Đan Mạch tên là Cacxten Nibua bắt đầu nghiên cứu cách đọc chữ tiết hình trên một minh văn do thương nhân Ý đưa từ Ba Tư về châu Âu nhưng chưa thành công. Năm 1802, một giáo viên trung học người Đức tên là Grotefend đã đọc được hai đoạn minh văn. Grotefend đã đọc được 12 chữ trong bảng vần chữ cái của Ba Tư, về sau được chứng minh là 9 chữ cái trong số đó hoàn toàn chính xác. Như vậy, Grotefend đã đặt cơ sở cho việc đọc chữ tiết hình.


Năm 1835, nhà du lịch người Anh Rawlinson phát hiện được một bản minh văn khắc trên vách đá, cao 4m, dài 20m, gồm 400 hàng. Ông đã bỏ ra mấy năm để chép bản minh văn ấy. Việc đọc chữ tiết hình được tiến triển thêm một bước.

Năm 1857, bốn độc giả đã độc lập nghiên cứu nhưng đã cùng đọc được một đoạn minh văn chữ tiết hình Atxiri. Vì vậy, năm này được coi là năm khai sinh môn Atxiri học. Từ đó, cả kho tàng tư liệu của khu vực Lưỡng Hà thuộc các lĩnh vực văn học, lịch sử, pháp luật, kinh tế, khoa học… được dịch ra ngôn ngữ hiện đại.
 
2.Văn học

Văn học Lưỡng Hà gồm hai bộ phận chủ yếu là văn học dân gian và sử thi.

- Văn học dân gian gồm có cách ngôn, ca dao, truyện ngụ ngôn... Loại văn học này thường phản ánh cuộc sống lao động của nhân dân và cách cư xử ở đời. Loại văn học này thường là văn học truyền miệng, vì thế ngày nay người ta biết được không nhiều.
- Sử thi ra đời từ thời Xume, đến thời Babilon chiếm một vị trí rất quan trọng. Nó chịu ảnh hưởng của tôn giáo rất mạnh. Chủ đề là thường ca ngợi các vị thần. Thuộc về loại này, có các truyện như "Khai thiên lập địa", "Nạn hồng thủy"...

Tóm lại, văn học Lưỡng Hà cổ đại đã đạt được những thành tựu đáng kể, có ảnh hưởng lớn với khu vực Tây Á. Những truyện Khai thiên lập địa sáng tạo ra loài người, hay "Nạn hồng thủy"... trong kinh thánh đều bắt nguồn từ nền văn học Lưỡng Hà.

3. Tôn giáo

Cư dân Lưỡng Hà thờ rất nhiều loại thần như thần tự nhiên, thần động vật, thần thực vật, linh hồn người chết... Hơn nữa, trước khi trở thành quốc gia thống nhất, Lưỡng Hà bao gồm nhiều thành bang, mỗi thành bang có những thần riêng nên đối tượng sùng bái của cư dân rất phức tạp, vị trí của các thần trước sau thường khác nhau.

Các thần lực lượng tự nhiên gồm có:

- Thần Anu là thần trời. Dần dần Anu được quan niệm là cha và là vua các vị thần.
- Thần Enlin là thần đất, cũng được quan niệm là chúa tể của trời đất.
- Thần Ea là thần nước, con trưởng của thần Anu, đồng thời là cha của thần Mácduc.
- Mặt Trăng, Mặt Trời và tinh tú cũng được coi là các vị thần, vì vậy thần Mácduc còn được coi là thần sao Mộc, thần Ixta thì được coi là thần sao Kim.
- Thần Mặt Trời Samat được quan niệm là con của thần Mặt Trăng Xin vì người Xume cho rằng ngày do đêm sinh ra. Về sau, thần Samat được coi là thần tư pháp và là thần bảo hộ các vua. Thời Babilon thiaafn Mácduc, cháu của thần Anu, con trưởng của thần Ea trở thành chúa tể các vị thần, vì vậy câu đầu tiên của bộ luật Hammurabi viết rằng:

"Thần Anu vĩ đại.... cùng với thần Enlin, chúa tể của trời đất quyết định vận mệnh của đất nước ban cho Mácduc, con trưởng của thần Ea quyền thống trị cả nhân loại..."

Ngoài những thần nói trên còn có nhiều thần thuộc các lĩnh vực khác nhau như thần sấm sét mưa lụt Ađát, nữ thần sinh đẻ và số mệnh Nintu, thần nông nghiệm Urat, thần trí tuệ Tutu, thần chiến tranh Dababa, thần ôn dịch Ira...

Việc thờ người chết cũng rất được coi trọng. Vì thế, người Lưỡng Hà rất chú ý đến lễ mai táng. Họ quan niệm rằng con người sau khi chết cũng có cuộc sống giống như ở trần thế, do đó, những người giàu có khi mai táng thường chôn theo nô lệ và những thứ quý báu và được xây dựng những lăng mộ lớn. Những người bình thường cũng được liệm trong những quan tài bằng đất sét..

Do sự phát triển của tôn giáo, tầng lớp thầy cúng hình thành: Ở Babilon, tầng lớp này chia thành 30 loại, trong đó thầy cúng đọc bùa chú và thầy cúng đoán tương lai được trọng nhất. Thu nhập của thầy cúng rất lớn, vì nhân dân thường đến các đền miếu dâng nhiều lễ vật. Ví dụ đền thần Anu ở Uruc trong một ngày dâng 2 con bò cái, 1 con bê, 4 con lợn, 50 con cừu lớn, 8 con cừu non, rất nhiều gia cầm và lương thực. Ngoài ra còn dâng từ 10-14 li rượu bằng vàng.
 
4. Luật pháp

Lưỡng Hà là khu vực có những bộ luật sớm nhất. Từ thời vương triều III của thành bang Ua (thế kỷ XXII-XXI TCN), ở Lưỡng Hà đã ban hành bộ luật cổ nhất thế giới nhưng ngày nay chỉ còn lại một số đoạn. Những đoạn ấy nói đến các vấn đề thừa kế tài sản, nuôi con nuôi, địa tô, bảo vệ vườn quả. Trách nhiệm của người chăn nuôi đối với súc vật, sự trừng phạt đối với nô lệ bướng bỉnh và nô lệ chạy trốn.

Vào khoảng thế XX TCN, nước Etnuna ở Đông Bắc Babilon cũng ban hành một bộ luật. Bộ luật này viết trên hai tấm đất sét, được phát hiện ở Iraq, nay nguyên bản trưng bày ở viện bảo tàng Batda. Nội dung bộ luật đề cập đến các vấn đề như hệ thống đo lường giá cả, quan hệ nô lệ, việc vay nợ lãi...

Bộ luật quan trọng nhất ở Lưỡng Hà cổ đại là luật Hammurabi. Bộ luật này khắc trên một bia đá, đội khảo cổ học Pháp phát hiện ở Xuda (phía đông Lưỡng Hà), nay trưng bày ở viện bảo tàng Luvre (Pháp). Đây là bộ luật cổ sớm nhất hầu như còn nguyên vẹn mà ngày nay đã phát hiện được.

Bộ luật Hammurabi chia thành ba phần: mở đầu, các điều luật và kết luận. Phần mở đầu nói về sứ mạng thiêng liêng, uy quyền của Hammurabi và mục đích ban hành bộ luật: "Vì hạnh phúc của loài người, thần Anu và thần Enlin đã ra lệnh cho trẫm - Hammurabi, một vị quốc vương quang vinh và ngoan đạo, phát huy chính nghĩa ở đời, diệt trừ những kẻ gian ác không tuân theo pháp luật, làm cho kẻ mạnh không hà hiếp kẻ yếu, làm cho trẫm giống như thần Samat sau xuống dân đen, tỏa ánh sáng khắp mặt đất"

Phần nội dung chính gồm 282 điều luật, đề cập đến các vấn đề như thủ tục kiện tụng các tội hình sự như trộm cắp, gây thương tích hoặc làm chết người, các vấn đề dân sự như hôn nhân, quyền sở hữu tài sản, thuê người làm, quyền lợi và nghĩa vụ của binh lính, chế độ ruộng đất, tô thuế, nô lệ...

Phần kết luận nhắc lại uy quyền, công đức của vua và tính hiệu lực của bộ luật.
 
đồng chí quả là cao thủ khi ngồi gõ copy lại toàn bộ phần này. Nhưng vẫn còn thiếu lịch sử Trung Hoa và Ấn Độ nữa. Nếu đồng chí cô gọn những ý chính lại thì bài viết sẽ hay hơn đó. Dù sao thì cũng thanks nhìu nhìu naz!
 
bài này dài và đầy đủ nhỉ? nhưng mình muốn xin thêm nguồn trích dẫn được không ạh?? tác giả, nxb, năm nào, trang bao nhiêu...mình muốn sử dụng nhưng ngại vàng thau lẫn lộ ấy ,à!!!hihi...mong chủ nhân tài liệu giúp em!
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top