Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Lịch sử nước Mĩ thời lập quốc
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 16195" data-attributes="member: 699"><p><strong><span style="color: Purple">JAMESTOWN</span></strong></p><p></p><p>Thuộc địa đầu tiên của nước Anh được thiết lập ở Bắc Mỹ là khu Jamestown. Theo chiếu chỉ của vua James đệ Nhất ban cho công ty Virginia (hay công ty Luân Đôn), vào năm 1607, một nhóm khoảng 100 người đã lên đường tới vịnh Chesapeake. Để tránh xung đột với người Tây Ban Nha, họ đã chọn một khu vực cách vịnh chừng 60 cây số ở thượng lưu sông James.</p><p></p><p>Nhóm người này chủ yếu là dân đô thị và những người phiêu lưu, thích tìm vàng hơn làm nông nghiệp. Họ hoàn toàn không có chí khí hay khả năng lập thân ở một vùng đất hoang sơ. Trong số họ, thuyền trưởng John Smith đã vươn lên thành nhân vật chủ chốt. Mặc dù có các cuộc cãi vã, những trận đói và các cuộc tấn công của người da đỏ, nhưng ông vẫn tăng cường tính kỷ luật nội bộ. Chính điều đó đã giúp tạo nên tinh thần đoàn kết trong khu định cư bé nhỏ trong suốt năm đầu tiên.</p><p></p><p>Năm 1609, sau khi Smith trở về nước Anh, khu định cư đó đã rơi vào tình trạng vô chính phủ. Suốt mùa đông năm 1609-1610, phần lớn những người ở lại đã không thể chiến thắng được bệnh tật. Đến tháng 5/1610, chỉ còn 60 trong số 300 người sống sót. Cũng vào năm đó, thị trấn Henrico (ngày nay là thành phố Richmond) đã được xây dựng ở khu vực xa hơn nữa thuộc thượng lưu sông James.</p><p></p><p>Tuy nhiên, không bao lâu sau đã có một sự kiện làm nên cuộc cách mạng trong nền kinh tế của Virginia. Năm 1612, John Rolfe bắt đầu lai giống cây thuốc lá nhập từ vùng Tây ấn với cây bản địa và đã tạo ra giống mới hợp khẩu vị người châu Âu. Chuyến tàu biển đầu tiên chở loại thuốc lá này đã cập cảng Luân Đôn năm 1614. Trong suốt một thập niên sau đó, loại thuốc lá này đã trở thành nguồn thu nhập chính của Virginia.</p><p></p><p>Dẫu vậy, sự giàu có cũng không đến với họ một cách quá dễ dàng và nhanh chóng. Tỷ lệ tử vong do bệnh tật và số lượng những cuộc tấn công của người da đỏ vẫn rất cao. Từ năm 1607 đến năm 1624 đã có khoảng 14.000 người di cư tới khu vực này, song vào năm 1624 chỉ còn vỏn vẹn 1.132 người vẫn sống ở đó. Theo kiến nghị của một ủy ban trong hoàng triều, nhà vua đã giải tán công ty Virginia và biến khu vực này thành thuộc địa của hoàng gia ngay trong năm đó.</p><p></p><p><strong><span style="color: Purple">MASSACHUSETTS</span></strong></p><p></p><p>Trong những biến cố tôn giáo xảy ra vào thế kỷ XVI, một nhóm gồm cả nam và nữ tín đồ Thanh giáo đã tìm cách cải tổ Anh giáo ngay từ bên trong. Họ yêu cầu mọi nghi lễ và tổ chức gắn với Giáo hội La-mã phải được thay thế bằng những hình thức tín ngưỡng và nghi lễ Can-vanh đơn giản hơn. Với việc phá bỏ tính thống nhất giữa nhà nước và nhà thờ, tư tưởng cải cách tôn giáo của họ đã đe dọa chia rẽ công chúng và ngầm phá hoại quyền lực của hoàng triều.</p><p></p><p>Năm 1607, một nhóm nhỏ những người Phân lập - phái Thanh giáo cấp tiến không tin Giáo hội chính thức có thể được cải tổ - đã bỏ tới Leyden, Hà Lan bởi tại đây, Hà Lan cho phép họ được hưởng quy chế tị nạn. Tuy nhiên, những người Hà Lan theo phái Can-vanh lại hạn chế họ chỉ được làm những công việc có mức lương thấp. Một số người trong giáo đoàn đã chán nản với sự kỳ thị này và quyết tâm di cư sang Tân Thế giới.</p><p></p><p>Năm 1620, một nhóm những tín đồ Thanh giáo ở Leyden đã được công ty Virginia cấp phép sở hữu đất. 101 người trong số họ đã lên đường tới Virginia trên con tàu Mayflower. Một trận bão đã đánh dạt họ về phía bắc và họ đã đặt chân lên vùng đất New England tại Mũi Cá tuyết (Cape Cod). Do tin rằng họ nằm ngoài phạm vi tài phán của bất kỳ một chính phủ có tổ chức nào nên họ đã soạn một điều ước chính thức cam kết tuân thủ những đạo luật công bằng và bình đẳng do các nhà lãnh đạo được họ lựa chọn soạn thảo. Đó chính là Hiệp ước Mayflower.</p><p></p><p>Đến tháng 12, tàu Mayflower cập cảng Plymouth. Những người hành hương đã bắt đầu xây dựng khu định cư trong suốt mùa đông. Gần một nửa số người đi khai hoang đó đã bị chết trong cảnh màn trời chiếu đất và vì bệnh tật, nhưng những người da đỏ thuộc bộ lạc Wampanoag gần đó đã cung cấp cho họ kiến thức giúp họ tồn tại: đó là cách trồng ngô. Đến mùa thu năm sau, những người hành hương đã có một vụ ngô bội thu và nghề buôn lông thú và gỗ xẻ đã phát triển mạnh mẽ.</p><p></p><p>Một làn sóng nhập cư mới đã ập đến bờ biển Vịnh Massachusetts vào năm 1630 sau khi vua Charles đệ Nhất đã ban chiếu cho phép họ lập thuộc địa. Nhiều người trong số họ theo Thanh giáo và những nghi lễ tôn giáo của họ đã ngày càng bị cấm nghiêm ngặt ở nước Anh. John Winthrop, thủ lĩnh của họ, đã kêu gọi xây dựng một thành phố trên đồi ở Tân Thế giới - một nơi họ hoàn toàn có thể sống theo đúng đức tin của mình và là tấm gương cho tất cả những ai theo đạo Cơ-đốc.</p><p></p><p>Thuộc địa Vịnh Massachusetts chắc hẳn đã đóng vai trò rất quan trọng quá trình phát triển toàn bộ vùng New England nói chung, một phần là vì Winthrop và những chiến hữu theo Thanh giáo của ông đã có thể mang tới đây hiến chương của riêng mình. Do đó, quyền lực của chính phủ thuộc địa chỉ giới hạn ở Massachusetts, chứ không phải ở nước Anh.</p><p></p><p>Theo những điều khoản của hiến chương, quyền lực thuộc về Tòa án Tối cao có thành viên là những công dân tự do - một điều kiện bắt buộc để trở thành thành viên của giáo đoàn Thanh giáo. Điều này bảo đảm các tín đồ Thanh giáo vừa là lực lượng chính trị vừa là lực lượng tôn giáo chính ở thuộc địa. Tòa án Tối cao bầu ra thống đốc, và vị thống đốc không là ai khác ngoài John Winthrop.</p><p></p><p>Không phải ai cũng ưa giáo lý khắt khe của Thanh giáo. Một trong số những người đầu tiên công khai thách thức Tòa án Tối cao là Roger Williams, một mục sư trẻ tuổi. Ông đã phản đối việc thuộc địa chiếm đất của người da đỏ, nhưng ủng hộ việc tách biệt nhà thờ và nhà nước. Anne Hutchinson, một người bất đồng chính kiến khác, đã phản bác những triết lý chủ đạo trong giáo lý của Thanh giáo. Kết quả là họ và những người ủng hộ đã bị trục xuất khỏi thuộc địa.</p><p></p><p>Năm 1636, Williams đã mua đất của người da đỏ thuộc bộ lạc Narragansett ở khu vực Providence, bang Rhode Island ngày nay. Năm 1644, Quốc hội Anh do phe Thanh giáo kiểm soát đã cho phép ông biến Rhode Island thành thuộc địa riêng, trong đó nhà thờ hoàn toàn tách khỏi nhà nước và người dân được tự do hành đạo.</p><p></p><p>Những người bị coi là tín đồ dị giáo như Williams không phải là những người duy nhất rời bỏ Massachusetts. Những tín đồ Thanh giáo chính thống với mục tiêu tìm đến những vùng đất và vận hội tốt hơn cũng đã bắt đầu rời bỏ thuộc địa Vịnh Massachusetts. Chẳng hạn, những tin tức thung lũng sông Connecticut màu mỡ đã thôi thúc những nông dân đang gặp khó khăn vì đất đai bạc màu, khô kiệt. Đến đầu thập niên 1630, nhiều người đã sẵn sàng đối đầu với nguy cơ bị người da đỏ tấn công để chiếm vùng đất bằng phẳng và màu mỡ. Những khu dân cư mới như vậy thường yêu cầu bắt buộc bỏ quy chế chỉ thành viên giáo hội mới được quyền bầu cử. Bằng cách đó họ đã mở rộng quyền bầu cử tới số lượng người đông đảo hơn.</p><p></p><p>Cũng trong thời gian này, những khu định cư khác đã bắt đầu xuất hiện dọc theo duyên hải New Hampshire và Maine bởi lẽ ngày càng có nhiều người nhập cư đi tìm đất đai và tự do ở Tân Thế giới.</p><p></p><p><strong><span style="color: Purple">TÂN HÀ LAN VÀ MARYLAND</span></strong></p><p></p><p>Vào năm 1609, công ty Đông Ấn, Hà Lan đã thuê Henry Hudson khảo sát khu vực xung quanh vùng đất thành phố New York ngày nay và dòng sông mang tên ông cho tới tận phía bắc Albany, bang New York ngày nay. Những cuộc hành trình tiếp theo của người Hà Lan đã trở thành căn cứ đòi đất của họ và xây dựng những khu định cư đầu tiên của người Hà Lan ở khu vực này.</p><p></p><p>Giống như người Pháp ở phía bắc, người Hà Lan trước tiên quan tâm tới nghề buôn bán lông thú. Để làm được điều đó, người Hà Lan gây dựng mối quan hệ gần gũi với năm bộ tộc của người Iroquois. Họ là nguồn cung cấp lông thú chủ yếu ở vùng đất trung tâm này. Vào năm 1617, người Hà Lan đã xây dựng một pháo đài ở điểm gặp nhau của hai con sông Hudson và Mohawk thuộc thành phố Albany ngày nay.</p><p>Khu định cư trên đảo Manhattan bắt đầu được xây dựng từ đầu thập niên 1620. Vào năm 1624, người ta đã mua hòn đảo này từ tay những da đỏ địa phương với giá 24 đô-la. Ngay sau đó, hòn đảo được đổi tên thành New Amsterdam.</p><p></p><p>Để thu hút người định cư tới khu vực sông Hudson, người Hà Lan đã khuyến khích xây dựng chế độ quý tộc phong kiến, hay còn gọi là chế độ điền chủ. Thái ấp lớn như vậy đầu tiên được thiết lập dọc theo dòng sông Hudson năm 1630. Theo chế độ điền chủ đó, bất kỳ ông chủ nào thu hút được 50 người lớn tới sinh sống trong lãnh địa của mình trong thời gian hơn bốn năm thì sẽ được thưởng một khu đất dài 25 km dọc theo triền sông Hudson, được hưởng đặc quyền đánh cá và săn bắn, và có quyền tài phán dân sự và hình sự trong lãnh địa của mình. Đổi lại, điền chủ phải cung cấp cho họ vật nuôi, công cụ và nhà ở. Tá điền phải trả tiền thuê đất và ưu tiên cho điền chủ mua nông sản dư thừa.</p><p></p><p>Ba năm sau, một công ty thương mại Thụy Điển có quan hệ với người Hà Lan đã cố gắng lập khu định cư đầu tiên của họ dọc sông Delaware về phía nam. Do không đủ sức để củng cố vị trí của mình, khu New Sweden (Tân Thụy Điển) dần dần đã bị sáp nhập vào khu New Netherland (Tân Hà Lan) và sau này là bang Pennsylvania và bang Delaware.</p><p>Năm 1632, dòng họ Calvert theo đạo Cơ-đốc đã được vua Charles đệ Nhất cho phép sở hữu vùng đất nằm ở phía bắc sông Potomac - bang Maryland ngày nay. Vì chiếu chỉ của nhà vua không nêu rõ việc cấm xây dựng các nhà thờ không thuộc đạo Tin Lành, nên thuộc địa này đã trở thành thiên đường đối với những tín đồ Cơ-đốc giáo. Thị trấn đầu tiên của bang Maryland là St.Mary's đã được thành lập năm 1634 gần khu vực nơi sông Potomac đổ vào Vịnh Chesapeake.</p><p></p><p>Trong khi thiết lập khu tị nạn cho những tín đồ Cơ-đốc giáo ngày càng bị Anh giáo ngược đãi thậm tệ, dòng họ Calvert vẫn quan tâm tới việc tạo ra những bất động sản sinh lợi. Để làm được điều đó và để tránh phiền hà với Chính phủ Anh, họ cũng khuyến khích các tín đồ Tin Lành tới nhập cư.</p><p></p><p>Chiếu chỉ của nhà vua ban cho vùng đất Maryland vừa có những nội dung cổ hủ, vừa có những nội dung cấp tiến. Một mặt, dòng họ Calvert có quyền lập thái ấp, mặt khác họ chỉ có thể ban hành luật nếu được những công dân tự do (những người được ban đất) chấp thuận. Họ thấy rằng để thu hút người định cư - và để kiếm lời từ việc cho thuê đất - họ đã phải cho những người định cư trang trại chứ không chỉ có duy nhất việc thuê điền trang. Do đó, số lượng các trang trại độc lập đã tăng lên. Những ông chủ trang trại cũng đòi hỏi có tiếng nói trong những chuyện đại sự của thuộc địa. Cơ quan lập pháp đầu tiên của bang Maryland đã được triệu tập vào năm 1635.</p><p></p><p><strong><span style="color: Purple">MỐI QUAN HỆ GIỮA THỰC DÂN VÀ NGƯỜI DA ĐỎ</span></strong></p><p></p><p>Cho đến năm 1640, người Anh đã thiết lập được những thuộc địa vững chắc dọc bờ biển New England và Vịnh Chesapeake. Ở giữa những thuộc địa của họ là khu vực sinh sống của người Hà Lan và một nhóm nhỏ người Thụy Điển. Ở phía tây là khu vực sinh sống của những người thổ dân da đỏ.</p><p></p><p>Hết thân mật rồi tới thù nghịch, các bộ lạc ở miền Đông không còn xa lạ với người châu Âu. Mặc dù thổ dân da đỏ được lợi nhờ tiếp cận công nghệ mới và thương mại, song bệnh tật và cơn sốt đất đai do những người định cư đầu tiên đem tới trở thành thách thức nghiêm trọng với lối sống vốn đã có từ lâu đời của họ.</p><p></p><p>Lúc đầu, việc buôn bán với người châu Âu đã đem lại nhiều lợi ích. Họ đã có dao, rìu, vũ khí, đồ nấu ăn, lưỡi câu cá và vô số các loại hàng hóa khác. Những người da đỏ buôn bán với người châu Âu ngay từ đầu đã nhiều lợi thế hơn so với những đối thủ cạnh tranh sau này của họ. Trước nhu cầu của người châu Âu, các bộ lạc như người Iroquois đã bắt đầu dốc sức săn bắt thú lấy da trong suốt thế kỷ XVII. Đến tận thế kỷ XVIII, lông và da thú chưa thuộc đã giúp các bộ lạc có tiền để mua hàng hóa của thực dân châu Âu.</p><p></p><p>Mối quan hệ giữa thổ dân da đỏ với thực dân châu Âu trong giai đoạn đầu vừa mang tính hợp tác vừa mang tính đấu tranh. Mối quan hệ hữu hảo đến mẫu mực đã kéo dài trong suốt nửa thế kỷ tồn tại của Pennsylvania. Tuy nhiên, đã có vô số những trở ngại, giao tranh và chiến tranh kéo dài, và bao giờ cũng vậy, thổ dân da đỏ luôn bị thua và mất đất.</p><p></p><p>Cuộc nổi dậy quan trọng đầu tiên của người da đỏ đã nổ ra tại bang Virginia vào năm 1622, khiến gần 347 người da trắng bị thiệt mạng, trong đó có một số nhà truyền giáo mới đặt chân tới Jamestown. </p><p></p><p>Việc người da trắng định cư ở khu vực sông Connecticut đã châm ngòi cho cuộc chiến với người Pequot vào năm 1673. Năm 1675, vua Philip - con trai của một tù trưởng đã từng ký hòa ước đầu tiên với những người hành hương vào năm 1621 - đã cố gắng đoàn kết các bộ lạc miền Nam New England chống lại việc người châu Âu tiếp tục xâm lấn đất đai của họ. Tuy nhiên, Phillip đã bị tử trận và nhiều người da đỏ bị bán đi làm nô lệ.</p><p></p><p>Dòng người di cư liên tục đổ về khu vực hẻo lánh ở các thuộc địa miền Đông đã phá vỡ cuộc sống của thổ dân da đỏ. Do các loài thú hoang dã bị săn bắn đến cạn kiệt nên các bộ lạc buộc phải đứng trước những lựa chọn đầy khó khăn - hoặc là bị chết đói hoặc là gây chiến hoặc xung đột với các bộ lạc khác ở phía Tây.</p><p></p><p>Người Iroquois sinh sống ở hạ lưu vùng hồ Ontario và Erie ở Bắc New York và bang Pennsylvania đã thành công hơn trong việc chống lại các cuộc tấn công của người châu Âu. Năm 1570, năm bộ lạc đã hợp nhất thành một quốc gia đa dạng nhất của thổ dân da đỏ lúc bấy giờ - “Ho-De-No-Sau-Nee" hay còn gọi là Liên minh Iroquois. Liên minh này do một hội đồng gồm 50 đại diện từ từng bộ lạc trong tổng số năm bộ lạc đó điều hành. Hội đồng giải quyết công việc chung của tất cả các bộ lạc, nhưng không quyết định cách thức các bộ lạc tự do và bình đẳng giải quyết các vấn đề hàng ngày của họ như thế nào. Không một bộ lạc nào được phép tự tuyên chiến. Hội đồng đã thông qua các đạo luật để đối phó với tội phạm, trong đó có tội giết người.</p><p></p><p>Liên minh Iroquois là một thế lực hùng mạnh trong thế kỷ XVII và XVIII. Họ đã buôn bán lông thú với người Anh và đứng về phía Anh để chống lại người Pháp trong cuộc chiến giành vị trí thống lĩnh ở châu Mỹ từ năm 1754 đến 1763. Chắc hẳn nếu không có sự giúp đỡ như vậy của họ, người Anh đã không thể chiến thắng trong cuộc chiến đó.</p><p></p><p>Liên minh Iroquois vẫn hùng mạnh cho tới khi Cách mạng Mỹ nổ ra. Lần đầu tiên sau đó, hội đồng đã không thể nhất trí quyết định ủng hộ phe nào. Các bộ lạc thành viên đã tự đưa ra quyết định riêng của họ. Một số cùng chiến đấu với người Anh, một số đứng về phía những người khai hoang, số còn lại thì giữ thái độ trung lập. Do vậy, tất cả đều chống lại Liên minh Iroquois. Tổn thất của họ quá lớn và liên minh đó đã không bao giờ có thể hồi phục trở lại.</p><p></p><p><strong><span style="color: Purple">THẾ HỆ THỨ HAI CÁC THUỘC ĐỊA CỦA ANH QUỐC</span></strong></p><p></p><p>Các cuộc nổi loạn của dân chúng và xung đột tôn giáo ở nước Anh vào giữa thế kỷ XVII đã cản trở phong trào nhập cư và khiến cho mẫu quốc thiếu quan tâm tới những thuộc địa còn non nớt ở châu Mỹ.</p><p></p><p>Năm 1643, lợi dụng nước Anh đang xao nhãng các biện pháp phòng ngự, các thuộc địa Vịnh Massachusetts, Plymouth, Connecticut và New Heaven đã thành lập Liên minh New England. Đó là nỗ lực đầu tiên của những người châu Âu đi khai hoang nhằm thống nhất địa giới.</p><p></p><p>Những trang sử đầu tiên của người Anh đi khai hoang ở vùng đất mới chứa đựng vô số những mâu thuẫn tôn giáo và chính trị. Các phe phái khác nhau cạnh tranh quyền lực và vị trí trong nội bộ và với những người láng giềng của họ. Đặc biệt, bang Maryland đã phải gánh chịu những cuộc xung đột tôn giáo gay gắt vốn đã từng gây tổn thất to lớn cho nước Anh trong thời kỳ của Oliver Cromwell. Một trong số những tổn thất đó là việc hủy bỏ Đạo luật Khoan dung trong những năm 1650. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, đạo luật này đã được phục hồi cùng với quyền tự do tôn giáo.</p><p></p><p>Cùng với việc vua Charles đệ Nhị khôi phục lại ngai vàng vào năm 1660, người Anh lại một lần nữa quan tâm tới Bắc Mỹ. Trong một thời gian ngắn, các khu định cư của người châu Âu đầu tiên đã được thiết lập tại Carolinas, còn người Hà Lan đã bị đánh bật khỏi khu vực New Netherland. Các thuộc địa có sở chủ sở hữu riêng cũng đã được thành lập ở các bang New York, New Jersey, Delaware và Pennsylvania.</p><p></p><p>Các khu vực định cư của người Hà Lan nằm dưới sự lãnh đạo của các thống sứ độc tài được cử tới từ châu Âu. Qua nhiều năm, cư dân trong các khu vực này đã xa lánh họ. Do vậy, khi thực dân Anh bắt đầu xâm chiếm đất đai của người Hà Lan ở Long Island và Manhattan, các thống sứ không được lòng dân đã không thể kêu gọi dân chúng đứng về phía họ. Khu vực New Netherland đã bị sụp đổ vào năm 1664. Tuy nhiên, các điều kiện trong thỏa ước rất ôn hòa, cho phép cư dân Hà Lan vẫn tiếp tục duy trì sở hữu và hành đạo theo ý muốn của họ. </p><p></p><p>Ngay từ đầu thập niên 1650, khu vực Albemarle Sound ở ngoài khơi phía bắc bang Bắc Carolina ngày nay chủ yếu có cư dân từ bang Virginia chuyển xuống sinh sống. Vị thống sứ đầu tiên được cử tới khu vực này vào năm 1664. MÃi tới khi một nhóm người Pháp theo đạo Tin Lành đến Albemarle vào năm 1704 thì thị trấn đầu tiên mới được xây dựng ở khu vực này - một vùng đất thậm chí đến nay vẫn còn hẻo lánh. </p><p></p><p>Năm 1670, những người nhập cư đầu tiên từ New England và đảo Barbados thuộc Ca-ri-bê đã chuyển tới khu vực Charleston, bang Nam Carolina ngày nay. Người ta đã chuẩn bị sẵn cho thuộc địa mới này một hệ thống chính quyền hết sức công phu theo tư tưởng của John Locke, triết gia người Anh. Một trong những đặc điểm của hệ thống chính quyền này là loại bỏ việc xây dựng chế độ quý tộc cha truyền con nối. Song một trong những điểm tồi tệ nhất của thuộc địa này là họ đã bắt đầu buôn nô lệ người da đỏ từ rất sớm. Tuy nhiên, theo thời gian, gỗ, gạo và bột chàm đã giúp thuộc địa này có nền tảng kinh tế vững chắc hơn. </p><p></p><p>Năm 1681, William Penn, một tín đồ Quaker giàu có và là bạn của vua Charles đệ Nhị, đã được ban một vùng đất lớn nằm ở phía Tây sông Delaware - sau này là bang Pennsylvania. Để giúp tăng dân số trong khu vực này, Penn đã chủ động tuyển mộ hàng loạt những người bất đồng tôn giáo ở nước Anh và châu Âu - bao gồm những tín đồ Quaker, tín đồ dòng Menno (Tin Lành ở Hà Lan), Amish, Moravia và Baptist (giáo phái chỉ rửa tội cho người lớn).</p><p></p><p>Một năm sau khi Penn chuyển tới khu vực này đã có người Hà Lan, Thụy Điển và người Anh sinh sống dọc theo sông Delaware. Cũng chính tại đó ông đã thành lập Philadelphia - “Thành phố của Tình huynh đệ".</p><p></p><p>Trong khi vẫn giữ vững đức tin của mình, Penn đã được thôi thúc nhờ tinh thần bình đẳng thường không thể tìm thấy ở những thuộc địa khác ở châu Mỹ lúc bấy giờ. Do đó, phụ nữ ở bang Pennsylvania có quyền từ rất lâu trước khi những phụ nữ khác ở nước Mỹ được hưởng những quyền như vậy. Penn và những chiến hữu của ông cũng rất quan tâm tới việc thúc đẩy quan hệ với người da đỏ ở bang Delaware và đảm bảo những người thổ dân da đỏ này cũng được trả tiền cho những mảnh đất dành cho người châu Âu đã tới định cư.</p><p></p><p>Người ta đã định cư tại bang Georgia vào năm 1732 - thuộc địa cuối cùng trong tổng số 13 bang thuộc địa được thành lập. Nằm gần sát, nếu không muốn nói là thực sự nằm trong địa giới của vùng đất Florida của người Tây Ban Nha, khu vực này được coi là vùng đệm chống lại các cuộc đột nhập của người Tây Ban Nha. Tuy nhiên, khu vực này còn có một nét nổi bật khác: Tướng James Oglethorpe chịu trách nhiệm về các công trình bố phòng của bang Georgia là một người có tư tưởng cải cách. Ông đã chủ động xây dựng một khu vực nương náu an toàn cho những người nghèo và tù nhân trước đây để giúp họ có những cơ hội mới.</p><p></p><p><strong><span style="color: Purple">DÂN DI CƯ, NÔ LỆ VÀ NHỮNG KẺ HẦU</span></strong></p><p><strong><span style="color: Purple"></span></strong></p><p>Những người ít quan tâm tới cuộc sống mới ở nước Mỹ thường được lôi kéo sang Tân Thế giới nhờ những lời thuyết phục điêu luyện của những người khởi xướng phong trào. Chẳng hạn, William Penn đã tuyên truyền về những vận hội mới đang đón chờ những người sang định cư tại thuộc địa Pennsylvania. Các thẩm phán và chức sắc trong các nhà lao cho phạm nhân cơ hội di cư sang các thuộc địa như Georgia để thay cho việc chịu kết án tù.</p><p></p><p>Nhưng hầu như không ai trong số họ có đủ tiền để chi trả cho chuyến vượt biển của chính họ và gia đình họ nhằm bắt đầu một cuộc sống mới ở miền đất mới. Trong một số trường hợp, thuyền trưởng của các tàu kiếm được những khoản tiền kếch xù từ việc ký hợp đồng với những người di cư nghèo khổ - hay còn gọi là người hầu. Họ cũng sử dụng mọi ngón nghề từ hứa hão cho tới bắt cóc để càng thu hút nhiều số hành khách trên tàu càng tốt.</p><p></p><p>Trong những trường hợp khác, chi phí đi lại và ăn uống, sinh hoạt lại do các công ty, như công ty Virginia và Vịnh Massachusetts chi trả. Nhưng đổi lại, những người hầu đó phải cam kết làm việc cho những công ty này thông thường từ bốn tới bảy năm theo chế độ hợp đồng. Khi hết thời hạn, họ sẽ được trao quyền tự do, đôi khi bao gồm cả một mảnh đất nhỏ.</p><p></p><p>Có thể một nửa số người đến định cư ở các thuộc địa phía nam New England đã đến Mỹ theo hình thức này. Mặc dù hầu hết trong số họ đã hoàn thành những bổn phận theo đúng cam kết, song cũng có một số kẻ bỏ trốn. Dẫu vậy, cuối cùng, nhiều người trong số họ đã có đất và xây nhà hoặc là ở những thuộc địa mà họ đã đặt chân đến từ đầu hoặc là những thuộc địa lân cận. Tuyệt nhiên không có sự kỳ thị trong xã hội đối với gia đình lập nghiệp ở nước Mỹ theo hình thức này. Tất cả các thuộc địa đều có lãnh đạo trước đây từng một thời đã là người hầu theo khế ước như vậy.</p><p></p><p>Còn một ngoại lệ rất quan trọng trong mô hình này, đó là nô lệ châu Phi. Những người da đen đầu tiên được đưa tới bang Virginia vào năm 1612, đúng 12 năm sau khi thị trấn Jamestown được thành lập. Lúc đầu, nhiều người trong số họ được coi là những người hầu theo khế ước và sau này có thể được tự do. Tuy nhiên, cho đến những năm 1660, do nhu cầu về lao động trong các đồn điền ở thuộc địa miền Nam ngày càng gia tăng nên chế độ nô lệ bắt đầu trở nên hà khắc đối với họ. Nhiều người châu Phi đã bị xiềng xích đưa sang Mỹ làm nô lệ bắt buộc suốt cả cuộc đời. </p><p></p><p>(Sưu tầm)</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 16195, member: 699"] [B][COLOR="Purple"]JAMESTOWN[/COLOR][/B] Thuộc địa đầu tiên của nước Anh được thiết lập ở Bắc Mỹ là khu Jamestown. Theo chiếu chỉ của vua James đệ Nhất ban cho công ty Virginia (hay công ty Luân Đôn), vào năm 1607, một nhóm khoảng 100 người đã lên đường tới vịnh Chesapeake. Để tránh xung đột với người Tây Ban Nha, họ đã chọn một khu vực cách vịnh chừng 60 cây số ở thượng lưu sông James. Nhóm người này chủ yếu là dân đô thị và những người phiêu lưu, thích tìm vàng hơn làm nông nghiệp. Họ hoàn toàn không có chí khí hay khả năng lập thân ở một vùng đất hoang sơ. Trong số họ, thuyền trưởng John Smith đã vươn lên thành nhân vật chủ chốt. Mặc dù có các cuộc cãi vã, những trận đói và các cuộc tấn công của người da đỏ, nhưng ông vẫn tăng cường tính kỷ luật nội bộ. Chính điều đó đã giúp tạo nên tinh thần đoàn kết trong khu định cư bé nhỏ trong suốt năm đầu tiên. Năm 1609, sau khi Smith trở về nước Anh, khu định cư đó đã rơi vào tình trạng vô chính phủ. Suốt mùa đông năm 1609-1610, phần lớn những người ở lại đã không thể chiến thắng được bệnh tật. Đến tháng 5/1610, chỉ còn 60 trong số 300 người sống sót. Cũng vào năm đó, thị trấn Henrico (ngày nay là thành phố Richmond) đã được xây dựng ở khu vực xa hơn nữa thuộc thượng lưu sông James. Tuy nhiên, không bao lâu sau đã có một sự kiện làm nên cuộc cách mạng trong nền kinh tế của Virginia. Năm 1612, John Rolfe bắt đầu lai giống cây thuốc lá nhập từ vùng Tây ấn với cây bản địa và đã tạo ra giống mới hợp khẩu vị người châu Âu. Chuyến tàu biển đầu tiên chở loại thuốc lá này đã cập cảng Luân Đôn năm 1614. Trong suốt một thập niên sau đó, loại thuốc lá này đã trở thành nguồn thu nhập chính của Virginia. Dẫu vậy, sự giàu có cũng không đến với họ một cách quá dễ dàng và nhanh chóng. Tỷ lệ tử vong do bệnh tật và số lượng những cuộc tấn công của người da đỏ vẫn rất cao. Từ năm 1607 đến năm 1624 đã có khoảng 14.000 người di cư tới khu vực này, song vào năm 1624 chỉ còn vỏn vẹn 1.132 người vẫn sống ở đó. Theo kiến nghị của một ủy ban trong hoàng triều, nhà vua đã giải tán công ty Virginia và biến khu vực này thành thuộc địa của hoàng gia ngay trong năm đó. [B][COLOR="Purple"]MASSACHUSETTS[/COLOR][/B] Trong những biến cố tôn giáo xảy ra vào thế kỷ XVI, một nhóm gồm cả nam và nữ tín đồ Thanh giáo đã tìm cách cải tổ Anh giáo ngay từ bên trong. Họ yêu cầu mọi nghi lễ và tổ chức gắn với Giáo hội La-mã phải được thay thế bằng những hình thức tín ngưỡng và nghi lễ Can-vanh đơn giản hơn. Với việc phá bỏ tính thống nhất giữa nhà nước và nhà thờ, tư tưởng cải cách tôn giáo của họ đã đe dọa chia rẽ công chúng và ngầm phá hoại quyền lực của hoàng triều. Năm 1607, một nhóm nhỏ những người Phân lập - phái Thanh giáo cấp tiến không tin Giáo hội chính thức có thể được cải tổ - đã bỏ tới Leyden, Hà Lan bởi tại đây, Hà Lan cho phép họ được hưởng quy chế tị nạn. Tuy nhiên, những người Hà Lan theo phái Can-vanh lại hạn chế họ chỉ được làm những công việc có mức lương thấp. Một số người trong giáo đoàn đã chán nản với sự kỳ thị này và quyết tâm di cư sang Tân Thế giới. Năm 1620, một nhóm những tín đồ Thanh giáo ở Leyden đã được công ty Virginia cấp phép sở hữu đất. 101 người trong số họ đã lên đường tới Virginia trên con tàu Mayflower. Một trận bão đã đánh dạt họ về phía bắc và họ đã đặt chân lên vùng đất New England tại Mũi Cá tuyết (Cape Cod). Do tin rằng họ nằm ngoài phạm vi tài phán của bất kỳ một chính phủ có tổ chức nào nên họ đã soạn một điều ước chính thức cam kết tuân thủ những đạo luật công bằng và bình đẳng do các nhà lãnh đạo được họ lựa chọn soạn thảo. Đó chính là Hiệp ước Mayflower. Đến tháng 12, tàu Mayflower cập cảng Plymouth. Những người hành hương đã bắt đầu xây dựng khu định cư trong suốt mùa đông. Gần một nửa số người đi khai hoang đó đã bị chết trong cảnh màn trời chiếu đất và vì bệnh tật, nhưng những người da đỏ thuộc bộ lạc Wampanoag gần đó đã cung cấp cho họ kiến thức giúp họ tồn tại: đó là cách trồng ngô. Đến mùa thu năm sau, những người hành hương đã có một vụ ngô bội thu và nghề buôn lông thú và gỗ xẻ đã phát triển mạnh mẽ. Một làn sóng nhập cư mới đã ập đến bờ biển Vịnh Massachusetts vào năm 1630 sau khi vua Charles đệ Nhất đã ban chiếu cho phép họ lập thuộc địa. Nhiều người trong số họ theo Thanh giáo và những nghi lễ tôn giáo của họ đã ngày càng bị cấm nghiêm ngặt ở nước Anh. John Winthrop, thủ lĩnh của họ, đã kêu gọi xây dựng một thành phố trên đồi ở Tân Thế giới - một nơi họ hoàn toàn có thể sống theo đúng đức tin của mình và là tấm gương cho tất cả những ai theo đạo Cơ-đốc. Thuộc địa Vịnh Massachusetts chắc hẳn đã đóng vai trò rất quan trọng quá trình phát triển toàn bộ vùng New England nói chung, một phần là vì Winthrop và những chiến hữu theo Thanh giáo của ông đã có thể mang tới đây hiến chương của riêng mình. Do đó, quyền lực của chính phủ thuộc địa chỉ giới hạn ở Massachusetts, chứ không phải ở nước Anh. Theo những điều khoản của hiến chương, quyền lực thuộc về Tòa án Tối cao có thành viên là những công dân tự do - một điều kiện bắt buộc để trở thành thành viên của giáo đoàn Thanh giáo. Điều này bảo đảm các tín đồ Thanh giáo vừa là lực lượng chính trị vừa là lực lượng tôn giáo chính ở thuộc địa. Tòa án Tối cao bầu ra thống đốc, và vị thống đốc không là ai khác ngoài John Winthrop. Không phải ai cũng ưa giáo lý khắt khe của Thanh giáo. Một trong số những người đầu tiên công khai thách thức Tòa án Tối cao là Roger Williams, một mục sư trẻ tuổi. Ông đã phản đối việc thuộc địa chiếm đất của người da đỏ, nhưng ủng hộ việc tách biệt nhà thờ và nhà nước. Anne Hutchinson, một người bất đồng chính kiến khác, đã phản bác những triết lý chủ đạo trong giáo lý của Thanh giáo. Kết quả là họ và những người ủng hộ đã bị trục xuất khỏi thuộc địa. Năm 1636, Williams đã mua đất của người da đỏ thuộc bộ lạc Narragansett ở khu vực Providence, bang Rhode Island ngày nay. Năm 1644, Quốc hội Anh do phe Thanh giáo kiểm soát đã cho phép ông biến Rhode Island thành thuộc địa riêng, trong đó nhà thờ hoàn toàn tách khỏi nhà nước và người dân được tự do hành đạo. Những người bị coi là tín đồ dị giáo như Williams không phải là những người duy nhất rời bỏ Massachusetts. Những tín đồ Thanh giáo chính thống với mục tiêu tìm đến những vùng đất và vận hội tốt hơn cũng đã bắt đầu rời bỏ thuộc địa Vịnh Massachusetts. Chẳng hạn, những tin tức thung lũng sông Connecticut màu mỡ đã thôi thúc những nông dân đang gặp khó khăn vì đất đai bạc màu, khô kiệt. Đến đầu thập niên 1630, nhiều người đã sẵn sàng đối đầu với nguy cơ bị người da đỏ tấn công để chiếm vùng đất bằng phẳng và màu mỡ. Những khu dân cư mới như vậy thường yêu cầu bắt buộc bỏ quy chế chỉ thành viên giáo hội mới được quyền bầu cử. Bằng cách đó họ đã mở rộng quyền bầu cử tới số lượng người đông đảo hơn. Cũng trong thời gian này, những khu định cư khác đã bắt đầu xuất hiện dọc theo duyên hải New Hampshire và Maine bởi lẽ ngày càng có nhiều người nhập cư đi tìm đất đai và tự do ở Tân Thế giới. [B][COLOR="Purple"]TÂN HÀ LAN VÀ MARYLAND[/COLOR][/B] Vào năm 1609, công ty Đông Ấn, Hà Lan đã thuê Henry Hudson khảo sát khu vực xung quanh vùng đất thành phố New York ngày nay và dòng sông mang tên ông cho tới tận phía bắc Albany, bang New York ngày nay. Những cuộc hành trình tiếp theo của người Hà Lan đã trở thành căn cứ đòi đất của họ và xây dựng những khu định cư đầu tiên của người Hà Lan ở khu vực này. Giống như người Pháp ở phía bắc, người Hà Lan trước tiên quan tâm tới nghề buôn bán lông thú. Để làm được điều đó, người Hà Lan gây dựng mối quan hệ gần gũi với năm bộ tộc của người Iroquois. Họ là nguồn cung cấp lông thú chủ yếu ở vùng đất trung tâm này. Vào năm 1617, người Hà Lan đã xây dựng một pháo đài ở điểm gặp nhau của hai con sông Hudson và Mohawk thuộc thành phố Albany ngày nay. Khu định cư trên đảo Manhattan bắt đầu được xây dựng từ đầu thập niên 1620. Vào năm 1624, người ta đã mua hòn đảo này từ tay những da đỏ địa phương với giá 24 đô-la. Ngay sau đó, hòn đảo được đổi tên thành New Amsterdam. Để thu hút người định cư tới khu vực sông Hudson, người Hà Lan đã khuyến khích xây dựng chế độ quý tộc phong kiến, hay còn gọi là chế độ điền chủ. Thái ấp lớn như vậy đầu tiên được thiết lập dọc theo dòng sông Hudson năm 1630. Theo chế độ điền chủ đó, bất kỳ ông chủ nào thu hút được 50 người lớn tới sinh sống trong lãnh địa của mình trong thời gian hơn bốn năm thì sẽ được thưởng một khu đất dài 25 km dọc theo triền sông Hudson, được hưởng đặc quyền đánh cá và săn bắn, và có quyền tài phán dân sự và hình sự trong lãnh địa của mình. Đổi lại, điền chủ phải cung cấp cho họ vật nuôi, công cụ và nhà ở. Tá điền phải trả tiền thuê đất và ưu tiên cho điền chủ mua nông sản dư thừa. Ba năm sau, một công ty thương mại Thụy Điển có quan hệ với người Hà Lan đã cố gắng lập khu định cư đầu tiên của họ dọc sông Delaware về phía nam. Do không đủ sức để củng cố vị trí của mình, khu New Sweden (Tân Thụy Điển) dần dần đã bị sáp nhập vào khu New Netherland (Tân Hà Lan) và sau này là bang Pennsylvania và bang Delaware. Năm 1632, dòng họ Calvert theo đạo Cơ-đốc đã được vua Charles đệ Nhất cho phép sở hữu vùng đất nằm ở phía bắc sông Potomac - bang Maryland ngày nay. Vì chiếu chỉ của nhà vua không nêu rõ việc cấm xây dựng các nhà thờ không thuộc đạo Tin Lành, nên thuộc địa này đã trở thành thiên đường đối với những tín đồ Cơ-đốc giáo. Thị trấn đầu tiên của bang Maryland là St.Mary's đã được thành lập năm 1634 gần khu vực nơi sông Potomac đổ vào Vịnh Chesapeake. Trong khi thiết lập khu tị nạn cho những tín đồ Cơ-đốc giáo ngày càng bị Anh giáo ngược đãi thậm tệ, dòng họ Calvert vẫn quan tâm tới việc tạo ra những bất động sản sinh lợi. Để làm được điều đó và để tránh phiền hà với Chính phủ Anh, họ cũng khuyến khích các tín đồ Tin Lành tới nhập cư. Chiếu chỉ của nhà vua ban cho vùng đất Maryland vừa có những nội dung cổ hủ, vừa có những nội dung cấp tiến. Một mặt, dòng họ Calvert có quyền lập thái ấp, mặt khác họ chỉ có thể ban hành luật nếu được những công dân tự do (những người được ban đất) chấp thuận. Họ thấy rằng để thu hút người định cư - và để kiếm lời từ việc cho thuê đất - họ đã phải cho những người định cư trang trại chứ không chỉ có duy nhất việc thuê điền trang. Do đó, số lượng các trang trại độc lập đã tăng lên. Những ông chủ trang trại cũng đòi hỏi có tiếng nói trong những chuyện đại sự của thuộc địa. Cơ quan lập pháp đầu tiên của bang Maryland đã được triệu tập vào năm 1635. [B][COLOR="Purple"]MỐI QUAN HỆ GIỮA THỰC DÂN VÀ NGƯỜI DA ĐỎ[/COLOR][/B] Cho đến năm 1640, người Anh đã thiết lập được những thuộc địa vững chắc dọc bờ biển New England và Vịnh Chesapeake. Ở giữa những thuộc địa của họ là khu vực sinh sống của người Hà Lan và một nhóm nhỏ người Thụy Điển. Ở phía tây là khu vực sinh sống của những người thổ dân da đỏ. Hết thân mật rồi tới thù nghịch, các bộ lạc ở miền Đông không còn xa lạ với người châu Âu. Mặc dù thổ dân da đỏ được lợi nhờ tiếp cận công nghệ mới và thương mại, song bệnh tật và cơn sốt đất đai do những người định cư đầu tiên đem tới trở thành thách thức nghiêm trọng với lối sống vốn đã có từ lâu đời của họ. Lúc đầu, việc buôn bán với người châu Âu đã đem lại nhiều lợi ích. Họ đã có dao, rìu, vũ khí, đồ nấu ăn, lưỡi câu cá và vô số các loại hàng hóa khác. Những người da đỏ buôn bán với người châu Âu ngay từ đầu đã nhiều lợi thế hơn so với những đối thủ cạnh tranh sau này của họ. Trước nhu cầu của người châu Âu, các bộ lạc như người Iroquois đã bắt đầu dốc sức săn bắt thú lấy da trong suốt thế kỷ XVII. Đến tận thế kỷ XVIII, lông và da thú chưa thuộc đã giúp các bộ lạc có tiền để mua hàng hóa của thực dân châu Âu. Mối quan hệ giữa thổ dân da đỏ với thực dân châu Âu trong giai đoạn đầu vừa mang tính hợp tác vừa mang tính đấu tranh. Mối quan hệ hữu hảo đến mẫu mực đã kéo dài trong suốt nửa thế kỷ tồn tại của Pennsylvania. Tuy nhiên, đã có vô số những trở ngại, giao tranh và chiến tranh kéo dài, và bao giờ cũng vậy, thổ dân da đỏ luôn bị thua và mất đất. Cuộc nổi dậy quan trọng đầu tiên của người da đỏ đã nổ ra tại bang Virginia vào năm 1622, khiến gần 347 người da trắng bị thiệt mạng, trong đó có một số nhà truyền giáo mới đặt chân tới Jamestown. Việc người da trắng định cư ở khu vực sông Connecticut đã châm ngòi cho cuộc chiến với người Pequot vào năm 1673. Năm 1675, vua Philip - con trai của một tù trưởng đã từng ký hòa ước đầu tiên với những người hành hương vào năm 1621 - đã cố gắng đoàn kết các bộ lạc miền Nam New England chống lại việc người châu Âu tiếp tục xâm lấn đất đai của họ. Tuy nhiên, Phillip đã bị tử trận và nhiều người da đỏ bị bán đi làm nô lệ. Dòng người di cư liên tục đổ về khu vực hẻo lánh ở các thuộc địa miền Đông đã phá vỡ cuộc sống của thổ dân da đỏ. Do các loài thú hoang dã bị săn bắn đến cạn kiệt nên các bộ lạc buộc phải đứng trước những lựa chọn đầy khó khăn - hoặc là bị chết đói hoặc là gây chiến hoặc xung đột với các bộ lạc khác ở phía Tây. Người Iroquois sinh sống ở hạ lưu vùng hồ Ontario và Erie ở Bắc New York và bang Pennsylvania đã thành công hơn trong việc chống lại các cuộc tấn công của người châu Âu. Năm 1570, năm bộ lạc đã hợp nhất thành một quốc gia đa dạng nhất của thổ dân da đỏ lúc bấy giờ - “Ho-De-No-Sau-Nee" hay còn gọi là Liên minh Iroquois. Liên minh này do một hội đồng gồm 50 đại diện từ từng bộ lạc trong tổng số năm bộ lạc đó điều hành. Hội đồng giải quyết công việc chung của tất cả các bộ lạc, nhưng không quyết định cách thức các bộ lạc tự do và bình đẳng giải quyết các vấn đề hàng ngày của họ như thế nào. Không một bộ lạc nào được phép tự tuyên chiến. Hội đồng đã thông qua các đạo luật để đối phó với tội phạm, trong đó có tội giết người. Liên minh Iroquois là một thế lực hùng mạnh trong thế kỷ XVII và XVIII. Họ đã buôn bán lông thú với người Anh và đứng về phía Anh để chống lại người Pháp trong cuộc chiến giành vị trí thống lĩnh ở châu Mỹ từ năm 1754 đến 1763. Chắc hẳn nếu không có sự giúp đỡ như vậy của họ, người Anh đã không thể chiến thắng trong cuộc chiến đó. Liên minh Iroquois vẫn hùng mạnh cho tới khi Cách mạng Mỹ nổ ra. Lần đầu tiên sau đó, hội đồng đã không thể nhất trí quyết định ủng hộ phe nào. Các bộ lạc thành viên đã tự đưa ra quyết định riêng của họ. Một số cùng chiến đấu với người Anh, một số đứng về phía những người khai hoang, số còn lại thì giữ thái độ trung lập. Do vậy, tất cả đều chống lại Liên minh Iroquois. Tổn thất của họ quá lớn và liên minh đó đã không bao giờ có thể hồi phục trở lại. [B][COLOR="Purple"]THẾ HỆ THỨ HAI CÁC THUỘC ĐỊA CỦA ANH QUỐC[/COLOR][/B] Các cuộc nổi loạn của dân chúng và xung đột tôn giáo ở nước Anh vào giữa thế kỷ XVII đã cản trở phong trào nhập cư và khiến cho mẫu quốc thiếu quan tâm tới những thuộc địa còn non nớt ở châu Mỹ. Năm 1643, lợi dụng nước Anh đang xao nhãng các biện pháp phòng ngự, các thuộc địa Vịnh Massachusetts, Plymouth, Connecticut và New Heaven đã thành lập Liên minh New England. Đó là nỗ lực đầu tiên của những người châu Âu đi khai hoang nhằm thống nhất địa giới. Những trang sử đầu tiên của người Anh đi khai hoang ở vùng đất mới chứa đựng vô số những mâu thuẫn tôn giáo và chính trị. Các phe phái khác nhau cạnh tranh quyền lực và vị trí trong nội bộ và với những người láng giềng của họ. Đặc biệt, bang Maryland đã phải gánh chịu những cuộc xung đột tôn giáo gay gắt vốn đã từng gây tổn thất to lớn cho nước Anh trong thời kỳ của Oliver Cromwell. Một trong số những tổn thất đó là việc hủy bỏ Đạo luật Khoan dung trong những năm 1650. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, đạo luật này đã được phục hồi cùng với quyền tự do tôn giáo. Cùng với việc vua Charles đệ Nhị khôi phục lại ngai vàng vào năm 1660, người Anh lại một lần nữa quan tâm tới Bắc Mỹ. Trong một thời gian ngắn, các khu định cư của người châu Âu đầu tiên đã được thiết lập tại Carolinas, còn người Hà Lan đã bị đánh bật khỏi khu vực New Netherland. Các thuộc địa có sở chủ sở hữu riêng cũng đã được thành lập ở các bang New York, New Jersey, Delaware và Pennsylvania. Các khu vực định cư của người Hà Lan nằm dưới sự lãnh đạo của các thống sứ độc tài được cử tới từ châu Âu. Qua nhiều năm, cư dân trong các khu vực này đã xa lánh họ. Do vậy, khi thực dân Anh bắt đầu xâm chiếm đất đai của người Hà Lan ở Long Island và Manhattan, các thống sứ không được lòng dân đã không thể kêu gọi dân chúng đứng về phía họ. Khu vực New Netherland đã bị sụp đổ vào năm 1664. Tuy nhiên, các điều kiện trong thỏa ước rất ôn hòa, cho phép cư dân Hà Lan vẫn tiếp tục duy trì sở hữu và hành đạo theo ý muốn của họ. Ngay từ đầu thập niên 1650, khu vực Albemarle Sound ở ngoài khơi phía bắc bang Bắc Carolina ngày nay chủ yếu có cư dân từ bang Virginia chuyển xuống sinh sống. Vị thống sứ đầu tiên được cử tới khu vực này vào năm 1664. MÃi tới khi một nhóm người Pháp theo đạo Tin Lành đến Albemarle vào năm 1704 thì thị trấn đầu tiên mới được xây dựng ở khu vực này - một vùng đất thậm chí đến nay vẫn còn hẻo lánh. Năm 1670, những người nhập cư đầu tiên từ New England và đảo Barbados thuộc Ca-ri-bê đã chuyển tới khu vực Charleston, bang Nam Carolina ngày nay. Người ta đã chuẩn bị sẵn cho thuộc địa mới này một hệ thống chính quyền hết sức công phu theo tư tưởng của John Locke, triết gia người Anh. Một trong những đặc điểm của hệ thống chính quyền này là loại bỏ việc xây dựng chế độ quý tộc cha truyền con nối. Song một trong những điểm tồi tệ nhất của thuộc địa này là họ đã bắt đầu buôn nô lệ người da đỏ từ rất sớm. Tuy nhiên, theo thời gian, gỗ, gạo và bột chàm đã giúp thuộc địa này có nền tảng kinh tế vững chắc hơn. Năm 1681, William Penn, một tín đồ Quaker giàu có và là bạn của vua Charles đệ Nhị, đã được ban một vùng đất lớn nằm ở phía Tây sông Delaware - sau này là bang Pennsylvania. Để giúp tăng dân số trong khu vực này, Penn đã chủ động tuyển mộ hàng loạt những người bất đồng tôn giáo ở nước Anh và châu Âu - bao gồm những tín đồ Quaker, tín đồ dòng Menno (Tin Lành ở Hà Lan), Amish, Moravia và Baptist (giáo phái chỉ rửa tội cho người lớn). Một năm sau khi Penn chuyển tới khu vực này đã có người Hà Lan, Thụy Điển và người Anh sinh sống dọc theo sông Delaware. Cũng chính tại đó ông đã thành lập Philadelphia - “Thành phố của Tình huynh đệ". Trong khi vẫn giữ vững đức tin của mình, Penn đã được thôi thúc nhờ tinh thần bình đẳng thường không thể tìm thấy ở những thuộc địa khác ở châu Mỹ lúc bấy giờ. Do đó, phụ nữ ở bang Pennsylvania có quyền từ rất lâu trước khi những phụ nữ khác ở nước Mỹ được hưởng những quyền như vậy. Penn và những chiến hữu của ông cũng rất quan tâm tới việc thúc đẩy quan hệ với người da đỏ ở bang Delaware và đảm bảo những người thổ dân da đỏ này cũng được trả tiền cho những mảnh đất dành cho người châu Âu đã tới định cư. Người ta đã định cư tại bang Georgia vào năm 1732 - thuộc địa cuối cùng trong tổng số 13 bang thuộc địa được thành lập. Nằm gần sát, nếu không muốn nói là thực sự nằm trong địa giới của vùng đất Florida của người Tây Ban Nha, khu vực này được coi là vùng đệm chống lại các cuộc đột nhập của người Tây Ban Nha. Tuy nhiên, khu vực này còn có một nét nổi bật khác: Tướng James Oglethorpe chịu trách nhiệm về các công trình bố phòng của bang Georgia là một người có tư tưởng cải cách. Ông đã chủ động xây dựng một khu vực nương náu an toàn cho những người nghèo và tù nhân trước đây để giúp họ có những cơ hội mới. [B][COLOR="Purple"]DÂN DI CƯ, NÔ LỆ VÀ NHỮNG KẺ HẦU [/COLOR][/B] Những người ít quan tâm tới cuộc sống mới ở nước Mỹ thường được lôi kéo sang Tân Thế giới nhờ những lời thuyết phục điêu luyện của những người khởi xướng phong trào. Chẳng hạn, William Penn đã tuyên truyền về những vận hội mới đang đón chờ những người sang định cư tại thuộc địa Pennsylvania. Các thẩm phán và chức sắc trong các nhà lao cho phạm nhân cơ hội di cư sang các thuộc địa như Georgia để thay cho việc chịu kết án tù. Nhưng hầu như không ai trong số họ có đủ tiền để chi trả cho chuyến vượt biển của chính họ và gia đình họ nhằm bắt đầu một cuộc sống mới ở miền đất mới. Trong một số trường hợp, thuyền trưởng của các tàu kiếm được những khoản tiền kếch xù từ việc ký hợp đồng với những người di cư nghèo khổ - hay còn gọi là người hầu. Họ cũng sử dụng mọi ngón nghề từ hứa hão cho tới bắt cóc để càng thu hút nhiều số hành khách trên tàu càng tốt. Trong những trường hợp khác, chi phí đi lại và ăn uống, sinh hoạt lại do các công ty, như công ty Virginia và Vịnh Massachusetts chi trả. Nhưng đổi lại, những người hầu đó phải cam kết làm việc cho những công ty này thông thường từ bốn tới bảy năm theo chế độ hợp đồng. Khi hết thời hạn, họ sẽ được trao quyền tự do, đôi khi bao gồm cả một mảnh đất nhỏ. Có thể một nửa số người đến định cư ở các thuộc địa phía nam New England đã đến Mỹ theo hình thức này. Mặc dù hầu hết trong số họ đã hoàn thành những bổn phận theo đúng cam kết, song cũng có một số kẻ bỏ trốn. Dẫu vậy, cuối cùng, nhiều người trong số họ đã có đất và xây nhà hoặc là ở những thuộc địa mà họ đã đặt chân đến từ đầu hoặc là những thuộc địa lân cận. Tuyệt nhiên không có sự kỳ thị trong xã hội đối với gia đình lập nghiệp ở nước Mỹ theo hình thức này. Tất cả các thuộc địa đều có lãnh đạo trước đây từng một thời đã là người hầu theo khế ước như vậy. Còn một ngoại lệ rất quan trọng trong mô hình này, đó là nô lệ châu Phi. Những người da đen đầu tiên được đưa tới bang Virginia vào năm 1612, đúng 12 năm sau khi thị trấn Jamestown được thành lập. Lúc đầu, nhiều người trong số họ được coi là những người hầu theo khế ước và sau này có thể được tự do. Tuy nhiên, cho đến những năm 1660, do nhu cầu về lao động trong các đồn điền ở thuộc địa miền Nam ngày càng gia tăng nên chế độ nô lệ bắt đầu trở nên hà khắc đối với họ. Nhiều người châu Phi đã bị xiềng xích đưa sang Mỹ làm nô lệ bắt buộc suốt cả cuộc đời. (Sưu tầm) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Hiện Đại ( Năm 1917 - Nay )
Lịch sử nước Mĩ thời lập quốc
Top