Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 9: Thực hiện đường lối đổi mới, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 17734" data-attributes="member: 699"><p><strong>III. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VII (THÁNG 6-1991)</strong></p><p><strong></strong></p><p>Đại hội VII của Đảng đã được tiến hành qua hai bước: Đại hội nội bộ từ ngày 17 đến ngày 22-6-1991 và Đại hội công khai từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1176 đại biểu đại diện cho trên hai triệu đảng viên. Nhận lời mời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta, các đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, Đảng Cộng sản Cu Ba và nhiều khách quốc tế đã tham dự Đại hội.</p><p></p><p>Đại hội đã nghe đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI đọc Diễn văn khai mạc và đọc Báo cáo chung về các văn kiện Đại hội, kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương khoá VI. Báo cáo chung nêu bật những vấn đề quan trọng sau đây:</p><p>- Đảng ta kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa và quyết tâm thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về tư tưởng, chính trị và thực tiễn trong hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước bị khủng hoảng và sụp đổ.</p><p>- Sự nghiệp phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt con người ở vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Chính sách kinh tế nhiều thành phần được thực hiện nhất quán; kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và phải được củng cố, phát triển; kinh tế tập thể cần được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động để đạt hiệu quả thiết thực. Áp dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tăng cường kinh tế gắn liền với xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Có chính sách công nghệ thích hợp với trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, vốn ít, lao động dư thừa. Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ - coi đó là quốc sách hàng đầu.</p><p></p><p>- Đổi mới hệ thống chính trị giữ vai trò rất quan trọng trong công cuộc đổi mới và phải xác định đúng nội dung, bước đi thích hợp. Đảng là người lãnh đạo hệ thống chính trị. Thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ phải gắn liền với tập trung, kỷ cương và kỷ luật; không chấp nhận chế độ chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập.</p><p></p><p>- Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng thể hiện ở những tiến bộ về kinh tế, đời sống và dân chủ hoá xã hội, cũng như ở những thành tựu trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Mặc dù vậy, đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội và không thể coi thường những nhân tố có thể gây mất ổn định chính trị.</p><p></p><p>- Mục tiêu của kế hoạch 5 năm tới là vượt qua những khó khăn gay gắt trước mắt, tăng cường ổn định chính trị, đưa đất nước cơ bản ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Phương hướng thực hiện nhiệm vụ trên là đoàn kết và động viên lực lượng của mọi tầng lớp nhân dân tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.</p><p></p><p>- Về vấn đề Đảng, các văn kiện trình Đại hội đều khẳng định Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng là yêu cầu quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng.</p><p></p><p>Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội thảo luận và thông qua, đã tổng kết tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và nêu ra những bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam: nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố đảm bảo thắng lợi cách mạng Việt Nam.</p><p></p><p>Cương lĩnh xác định rõ quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Chế độ xã hội đó mang những đặc trưng: do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.</p><p></p><p>Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 được Đại hội thảo luận và thông qua đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 2000: đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI, tăng tổng sản phẩm trong nước đến năm 2000 gấp đôi so với năm 1990. Chiến lược đề ra phương hướng đổi mới cơ cấu kinh tế, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chiến lược nêu rõ các chính sách và giải pháp về vốn và kinh tế đối ngoại, dân số và việc làm, văn hoá, giáo dục, khoa học, tài nguyên và môi trường; phương hướng cải cách bộ máy nhà nước và đổi mới công tác cán bộ.</p><p></p><p>Báo cáo chính trị đánh giá tình hình đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội và đề ra những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1991 - 1995. Báo cáo nhận định: nhân tố quyết định đưa lại những thành tựu đổi mới là sự lãnh đạo kiên định, vững vàng, độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng và sự nỗ lực phấn đấu của toàn dân. Báo cáo cũng chỉ rõ những mặt yếu kém, những khó khăn của đất nước biểu hiện tập trung ở tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội; pháp luật, kỷ cương chưa được chấp hành nghiêm; an ninh, trật tự an toàn xã hội còn nhiều hiện tượng phức tạp, những yếu tố có thể gây mất ổn định chính trị vẫn tồn tại.</p><p>Báo cáo chính trị tổng kết bước khởi đầu tiến trình đổi mới, rút ra năm bài học kinh nghiệm; một là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới;hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi và cách làm phù hợp; ba là, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội; bốn là, phát huy dân chủ phải được lãnh đạo tốt;năm là, trong quá trình đổi mới, phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát triển và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới, tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.</p><p></p><p>Báo cáo chính trị xác định những mục tiêu cụ thể cần đạt được trong những năm 1991 - 1995 là: tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu có tích luỹ từ nền kinh tế quốc dân; tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm mạnh nhịp độ tăng dân số; ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân; tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới hoạt động của Nhà nước; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng.</p><p></p><p>Báo cáo về xây dựng Đảng xác định nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng là: phát huy truyền thống cách mạng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, và phải gắn liền với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, cải cách bộ máy nhà nước, đổi mới công tác quần chúng, bảo đảm cho Đảng làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.</p><p></p><p>Đại hội thông qua Điều lệ Đảng (sửa đổi), trong đó có nhiều điểm mới được bổ sung và sửa đổi, như tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng; đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng; giữa hai kỳ đại hội đại biểu, Ban Chấp hành Đảng bộ các cấp (trừ Đảng bộ cơ sở) triệu tập hội nghị đại biểu; Ban Chấp hành Trung ương và Ban Chấp hành Đảng bộ các cấp chỉ có uỷ viên chính thức, không có uỷ viên dự khuyết, chức vụ Tổng Bí thư do Ban Chấp hành Trung ương bầu trong số Uỷ viên Bộ Chính trị.</p><p></p><p>Đại hội đã bầu 146 đồng chí vào Ban Chấp hành Trung ương khoá VII. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí, Ban Bí thư gồm 9 đồng chí. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công được giao trọng trách là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương khoá VII.</p><p></p><p>Đại hội VII đã được tiến hành theo phương châm "trí tuệ, đổi mới, dân chủ, kỷ cương, đoàn kết" đánh dấu một bước trưởng thành mới của Đảng ta. Đại hội đã hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm của Việt Nam và những giải pháp đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn. Đại hội đã củng cố thêm niềm tin của nhân dân ta đối với công cuộc đổi mới, đối với việc thực hiện mục tiêu trước mắt đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.</p><p></p><p>Sau Đại hội VII, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến rất phức tạp. Sự kiện lớn nhất là Đảng Cộng sản Liên Xô bị giải tán (ngày 25-8-1991) và Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết sụp đổ (ngày 8-12-1991). Phong trào cách mạng thế giới lâm vào thời kỳ thoái trào.</p><p></p><p>Đối với Việt Nam, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tác động mạnh về mọi phương diện: tư tưởng, chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng... Một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân lao động mất phương hướng. Quan hệ kinh tế giữa nước ta với Liên Xô và các nước Đông Âu bị đảo lộn, sản xuất hàng xuất khẩu sang các thị trường đó bị đình đốn. Bọn phản động đẩy mạnh hoạt động phá rối, thậm chí âm mưu cướp chính quyền ở vài nơi. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch âm mưu xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, xoá bỏ nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.</p><p></p><p>Đất nước ta đứng trước những thách thức hết sức nghiêm trọng, đòi hỏi Đảng ta và nhân dân ta phải quán triệt và thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại </p><p></p><p>hội VII, tìm tòi những giải pháp tiếp tục con đường đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước mắt là đưa đất nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội.</p><p></p><p>Từ tháng 11-1991 đến tháng 6-1993, Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đã họp 4 hội nghị.</p><p></p><p>Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (từ ngày 25-11 đến ngày 4-12-1991) ra nghị quyết Về nhiệm vụ và giải pháp ổn định, phát triển kinh tế - xã hội trong những năm 1992 - 1995,đề ra các nhiệm vụ cụ thể và giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội, nêu ra các quan điểm và phương hướng cơ bản trong việc sửa đổi Hiến pháp, cải cách một bước bộ máy nhà nước.</p><p></p><p>Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (từ ngày 18-6 đến ngày 29-6-1992) ra nghị quyết Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, xác định bốn nhiệm vụ quan trọng: tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng; chỉnh đốn Đảng về tổ chức; tạo bước chuyển biến quan trọng về công tác cán bộ; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết nhấn mạnh: Đảng có trách nhiệm lãnh đạo tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng và nhân dân là điều có ý nghĩa cực kỳ to lớn, bảo đảm sự vững chắc của chế độ. Hội nghị ra nghị quyết về chính sách đối ngoại, nêu rõ cần mở rộng đa dạng hoá và đa phương hóa quan hệ đối ngoại trên cơ sở nắm vững tư tưởng chỉ đạo là giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt. Hội nghị còn ra nghị quyết về nhiệm vụ quốc phòng và an ninh; nhấn mạnh phải thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình", đồng thời phải lường trước tình huống xấu nhất để có phương án đối phó.</p><p></p><p>Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (họp từ ngày 4 đến ngày 14-1-1993) ra nghị quyết về năm vấn đề: tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo; một số nhiệm vụ văn hoá, văn nghệ những năm trước mắt; những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân; chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; công tác thanh niên.</p><p></p><p>Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (họp từ ngày 3 đến ngày 10-6-1993) ra nghị quyết về Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, nêu ba mục tiêu phấn đấu đến năm 2000: phát triển nhanh và vững chắc các ngành kinh tế chủ yếu, giải quyết vững chắc nhu cầu lương thực, nguyên liệu, đẩy mạnh xuất khẩu; bảo vệ tài nguyên, cải thiện môi trường sinh thái; cải thiện một bước đời sống, tăng diện giàu, đủ ăn, xoá đói, giảm nghèo; xây dựng nông thôn mới về mọi mặt. Nghị quyết xác định bốn quan điểm chỉ đạo: phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; gắn liền sản xuất với thị trường, đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật; gắn phát triển kinh tế đi đôi với đổi mới chính trị. Nghị quyết là cơ sở cho việc thông qua Luật đất đai, Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá IX. Nghị quyết được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng và nhanh chóng đi vào cuộc sống.</p><p></p><p>Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, Bộ Chính trị đã ra một số chỉ thị, nghị quyết quan trọng chỉ đạo các mặt hoạt động. Đáng chú ý là Chỉ thị 01 ngày 16-7-1991 chỉ đạo việc quán triệt Nghị quyết Đại hội VII ở Đảng bộ các cấp; Nghị quyết số 01-NQ/TW ngày 28-3-1992 Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay (từ đó các chương trình nghiên cứu khoa học xã hội cấp Nhà nước đã được thông qua), Nghị quyết 04 ngày 12-9-1993 Về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Nghị quyết 07 ngày 17-11-1993Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất... nhằm phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường, đấu tranh cho mục tiêu: giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.</p><p></p><p>Tinh thần Nghị quyết Đại hội VII và các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương sau đó đã được quán triệt trong hoạt động của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng.</p><p></p><p>Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 11 từ ngày 24-3 đến ngày 25-4-1992 đã nhất trí thông qua Hiến pháp mới, Luật tổ chức Quốc hội và Luật bầu cử Quốc hội. Hiến pháp mới đã thể chế hoáCương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại hội VII đề ra.</p><p></p><p>Ngày 19-7-1992, nhân dân cả nước đã hăng hái đi bỏ phiếu bầu Quốc hội khoá IX. Cuộc bầu cử đã tiến hành dân chủ, đúng pháp luật, 395 đại biểu đã trúng cử. Ngày 19-9-1992, Quốc hội khoá IX đã tiến hành kỳ họp đầu tiên, bầu đồng chí Nông Đức Mạnh làm Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước, đồng chí Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng Chính phủ. Quốc hội thông qua Luật tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Toà án nhân dân tối cao và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tối cao.</p><p>Năm 1992, mặt trận kinh tế - xã hội giành được một số thắng lợi lớn. Đây là năm đầu tiên thực hiện vượt mức các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu: tổng sản phẩm trong nước tăng 8% (năm 1991: 6%), sản lượng nông nghiệp tăng 34,5%, công nghiệp tăng 22,6%, dịch vụ tăng 42,9%; tổng sản phẩm trong nước tính theo đầu người đã là 220 USD. Tỷ lệ lạm phát còn 17,5%. Mô hình mới về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đang hình thành. Tuy nhiên, những yếu kém còn nhiều: hiệu quả của nền kinh tế nói chung kém, thị trường tiêu thụ hẹp, quản lý còn sơ hở, ngân sách còn thâm hụt lớn, khu vực quốc doanh còn chậm được chấn chỉnh, các cơ sở giáo dục và y tế xuống cấp, tệ nạn xã hội phát triển. Nhìn chung, thành tựu về kinh tế - xã hội năm 1992 là kết quả phấn đấu vượt bậc và sự tranh thủ những nhân tố quốc tế thuận lợi của nhân dân ta để vượt qua thử thách, tạo đà cho phát triển toàn diện năm 1993.</p><p></p><p>Năm 1993, nước ta đã hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại, đặc biệt là hoàn thành vượt kế hoạch các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu, mặc dù trong năm có nhiều thiên tai. Quan hệ kinh tế với nước ngoài được mở rộng. Cán cân thanh toán được cải thiện, nguồn thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu vật tư, hàng hoá cần thiết. Nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ. Lạm phát cả năm chỉ ở mức 5%. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Xoá đói, giảm nghèo trở thành phong trào quần chúng. Hơn 5 triệu lượt hộ nghèo được vay hơn 6.000 tỷ đồng để phát triển sản xuất. Không có nạn đói, số hộ nghèo giảm, số hộ giàu tăng. Một số vụ chống đối và âm mưu bạo loạn bị dập tắt, tình hình chính trị ổn định. Nhìn chung, trong 3 năm 1991-1993, tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm 7,2%.</p><p>Quan hệ đối ngoại của nước ta được mở rộng, Đảng và Chính phủ ta đã đón nhiều đoàn khách quốc tế của Chính phủ Lào, Chính phủ Campuchia, Phó Tổng thống Ấn Độ, Tổng thống Pháp, Phó Thủ tướng Bỉ, Hoàng tử Hà Lan, Bộ trưởng ngoại giao Cộng hoà Liên bang Đức... Đảng và Chính phủ ta cử nhiều đoàn cấp cao đi thăm các nước Nhật, Ôxtrâylia, Phần Lan, Thuỵ Điển, Pháp, Anh, Cộng đồng châu Âu..., đặc biệt là chuyến đi của Tổng Bí thư Đỗ Mười đến Xingapo và Thái Lan, chuyến đi của Chủ tịch nước Lê Đức Anh đến Trung Quốc. Kết quả quan trọng đạt được là đã đẩy lùi một bước và phá vỡ từng phần thế bao vây nước ta của Mỹ. Ngày 2-7-1993, Tổng thống Mỹ phải tuyên bố chấm dứt việc chống các nước cho Việt Nam vay tiền. Ngày 23-12-1993, Bộ Tài chính Mỹ ra tuyên bố cho phép các công ty Mỹ tham gia các dự án do các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế thực hiện ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á đã thoả thuận cho Việt Nam vay tiền. Việt Nam và Trung Quốc đã lập lại Tổng lãnh sự quán. Quan hệ với Lào, Cuba vẫn đặc biệt thuỷ chung, trong sáng.</p><p>Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn. Ở bên ngoài, các thế lực thù địch vẫn ráo riết tiến hành các hoạt động chống phá ta. Ở trong nước, hoạt động chống đối của bọn phản động diễn ra ở một số nơi. Tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều yếu tố chưa vững chắc: thiếu việc làm, tệ nạn xã hội tăng, tệ quan liêu, tham nhũng chưa chặn được, thua thiệt trong cạnh tranh và hợp tác quốc tế.</p><p></p><p><strong>IV. HỘI NGHỊ ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC GIỮA NHIỆM KỲ (THÁNG 1-1994). ĐẤT NƯỚC RA KHỎI KHỦNG HOẢNG KINH TẾ - XÃ HỘI </strong></p><p></p><p>Yêu cầu đặt ra cho Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ là kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tổng kết một bước gần 10 năm đổi mới, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng đất nước.</p><p></p><p>Từ ngày 24-11 đến ngày 1-12-1993, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã họp Hội nghị lần thứ sáu để chuẩn bị Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ. Hội nghị đã thảo luận và nhất trí nhiều vấn đề quan trọng của dự thảo Báo cáo chính trị: chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đẩy mạnh đổi mới và chỉnh đốn Đảng bảo đảm cho quá trình đổi mới đi đúng hướng và đạt thành tựu cao. Thành công của Hội nghị lần thứ sáu là tiền đề cho thành công của Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ.</p><p></p><p>Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã họp từ ngày 20 đến ngày 25-1-1994 tại Hà Nội. Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã đọc Báo cáo chính trị, chỉ rõ ba thành tựu quan trọng:</p><p></p><p>- Khắc phục một bước quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội.</p><p></p><p>- Tiếp tục giữ vững và củng cố sự ổn định chính trị.</p><p></p><p>- Quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế của nước ta trên thế giới được nâng lên, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.</p><p></p><p>Những thành tựu quan trọng đạt được tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.</p><p></p><p>Báo cáo chính trị cũng vạch ra những mặt yếu kém và những vấn đề mới nảy sinh.</p><p></p><p>Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã chỉ ra bốn nguy cơ: 1- Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; 2- Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; 3- Nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; 4- Nguy cơ "diễn biến hoà bình".</p><p></p><p>Đồng thời, Hội nghị khẳng định những thuận lợi cơ bản và thời cơ trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới: đường lối của Đảng đúng đắn; nhân dân ta yêu nước, tin Đảng; những thành tựu đổi mới đang tạo ra thế và lực mới; cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và xu thế hợp tác, phát triển trên thế giới.</p><p></p><p>Nắm vững thời cơ và đẩy lùi nguy cơ là tư tưởng chỉ đạo nổi bật của Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ.</p><p></p><p>Hội nghị xác định những nhiệm vụ cho những năm còn lại của nhiệm kỳ Đại hội VII:</p><p></p><p>- Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.</p><p></p><p>- Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo động lực và môi trường thuận lợi hơn nữa cho các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển nhanh và có hiệu quả.</p><p></p><p>- Xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.</p><p></p><p>- Chăm lo các vấn đề văn hoá, xã hội.</p><p></p><p>- Tăng cường quốc phòng, an ninh, quán triệt tư tưởng chỉ đạo và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh mà Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương đề ra.</p><p></p><p>- Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại.</p><p></p><p>- Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.</p><p></p><p>- Đổi mới và chỉnh đốn Đảng, mở rộng khối đại đoàn kết, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng. Tích cực tiến hành tổng kết công tác xây dựng Đảng, chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.</p><p></p><p>Hội nghị bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương 20 đồng chí, đồng ý để một số đồng chí vì lý do sức khoẻ tự nguyện xin rút khỏi Ban Chấp hành Trung ương.</p><p></p><p>Sau Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, các tỉnh, thành uỷ, các đảng uỷ khối cơ quan trung ương đã tiến hành Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ, vạch chương trình công tác hai năm 1994-1995, bầu bổ sung cấp uỷ. Kết quả hội nghị các cấp tạo nên khí thế mới trong toàn Đảng, toàn dân.</p><p></p><p>Tiếp tục thực hiện chương trình cụ thể hoá và phát triển đường lối do Đại hội VII đề ra, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (từ ngày 25 đến ngày 30-7-1994) ra nghị quyết vềphát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, phấn đấu đến năm 2000 đạt và vượt các chỉ tiêu đã xác định trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Hội nghị đã xác định sáu quan điểm cơ bản của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước:một là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; hai là, giữ vững độc lập, tự chủ phải đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ;ba là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế;bốn là, phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển; năm là, khoa học và công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá;sáu là, hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn cơ bản. Nghị quyết cũng vạch rõ hướng bố trí các ngành công nghiệp, kết cấu hạ tầng, các vùng, các địa bàn quan trọng; đề ra các chính sách để thực hiện.</p><p></p><p>Về xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, Nghị quyết xác định: cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng; có trình độ học vấn, tay nghề cao, có năng lực tiếp thu, sáng tạo công nghệ mới; lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử.</p><p>Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (tháng 1-1995) ra Nghị quyết về Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính nêu lên những quan điểm chỉ đạo việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, việc cải cách hành chính và những nội dung cơ bản trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội và Chính phủ. Trong hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết, quyết định, nguyên tắc, giải quyết các vấn đề trọng đại của quốc kế dân sinh, bảo đảm ổn định, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong bước ngoặt của cách mạng.</p><p></p><p>Với Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đã hoàn thành chương trình, cụ thể hoá một bước Cương lĩnh và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội VII đã thông qua, chuẩn bị tiến tới Đại hội VIII vào năm 1996.</p><p></p><p>Tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương đã uỷ nhiệm Bộ Chính trị ra Nghị quyết Về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay nhằm tăng cường sự nhất trí tư tưởng trong Đảng, sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân. Nghị quyết nêu ra 6 định hướng:</p><p></p><p>Một là: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và của cách mạng Việt Nam.</p><p></p><p>Hai là: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn.</p><p></p><p>Ba là: Chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ; Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.</p><p></p><p>Bốn là: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ.</p><p></p><p>Năm là: Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội.</p><p></p><p>Sáu là: Phát triển văn hoá, gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.</p><p></p><p>Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, trong năm 1994, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu mới trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,8%; tổng sản lượng nông nghiệp tăng 4%; tổng sản phẩm công nghiệp tăng 13,5%; sản lượng lương thực đạt 26 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 3,6 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu 5 tỷ USD. Vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội đạt 48.000 tỷ đồng, khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước đạt 8.833 tỷ đồng. Ngân hàng nhà nước thu vượt dự toán 6,3%.</p><p></p><p>Bước sang năm 1995, tình hình nước ta tiếp tục có những chuyển biến tốt về mọi mặt. Tổng sản phẩm trong nước tăng 9,5%, sản xuất nông nghiệp tăng 4,7%, sản lượng lương thực đạt 27 triệu tấn, sản xuất công nghiệp tăng 14%, dịch vụ tăng 12,6%, đầu tư trực tiếp của nước ngoài tăng 85,4%, xuất khẩu đạt 5,3 tỷ USD, nhập khẩu đạt 7,5 tỷ USD.</p><p>Tiếp theo những thành tựu của các năm trước, thắng lợi năm 1995 đã góp phần quan trọng hoàn thành vượt mức nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991-1995. Nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước bình quân hàng năm đạt 8,2%, sản xuất công nghiệp tăng 13,3%, sản xuất nông nghiệp tăng 4,5%. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong tổng sản phẩm trong nước từ 22,6% (năm 1990) tăng lên 29,1% (năm 1995), dịch vụ từ 38,6% lên 41,9%, lạm phát bị đẩy lùi từ 67,47% (năm 1991) giảm xuống còn 12,7% (năm 1995). Lương thực đủ ăn và xuất khẩu mỗi năm khoảng 2 triệu tấn. Nhiều công trình thuộc kết cấu hạ tầng và cơ sở công nghệ trọng yếu được xây dựng. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh thêm một bước phù hợp với tính chất, trình độ, yêu cầu phát triển sản xuất.</p><p></p><p>Về xã hội, đã có một số chuyển biến tích cực: Đời sống phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ giàu tăng, số hộ nghèo giảm; Nhà nước có "chương trình việc làm quốc gia", hàng năm chi từ 200 đến 350 tỷ đồng để giải quyết việc làm cho hơn 1 triệu lao động. Trình độ dân trí được nâng lên. Người lao động được giải phóng khỏi nhiều cơ chế không hợp lý. Chủ trương "Đền ơn đáp nghĩa" đối với người có công với nước được toàn dân hưởng ứng. 37.154 bà mẹ được phong danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng". Phong trào "Xoá đói, giảm nghèo" và các hoạt động từ thiện ngày càng mở rộng. Lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của đất nước, vào Đảng và Nhà nước tăng lên.</p><p></p><p>Sự ổn định chính trị và quốc phòng, an ninh được củng cố. Việc điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh tiếp tục được thực hiện có kết quả. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Đời sống lực lượng vũ trang được cải thiện. Cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" thu nhiều thắng lợi, gần 500 cuộc bạo loạn và âm mưu bạo loạn đã bị dập tắt từ trong trứng, một số tổ chức phản động bị đưa ra xét xử.</p><p></p><p>Đã có một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.Đảng đã từng bước được đổi mới và củng cố về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Hiến pháp mới năm 1992 và nhiều văn bản pháp luật quan trọng được ban hành. Nền hành chính Nhà nước được cải cách một bước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị và xã hội đã đổi mới từng bước nội dung và phương thức hoạt động. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy. Đồng bào ta ở nước ngoài ngày càng hướng về Tổ quốc.</p><p>Quan hệ đối ngoại phát triển mạnh, nước ta đã phá được thế bị bao vây, cấm vận. Đảng và Nhà nước đã thực hiện tích cực đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ, đã khôi phục và mở rộng quan hệ bình thường với Trung Quốc, phát triển quan hệ với các nước trong khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN (ngày 28-7-1995); củng cố và đổi mới quan hệ truyền thống với Liên bang Nga và các nước Đông Âu; bình thường hoá quan hệ về ngoại giao với Mỹ (ngày 11-7-1995); ký Hiệp định chung với Liên hiệp châu Âu (ngày 17-7-1995). Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế viện trợ hoặc cho ta vay... Quan hệ đoàn kết với các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc tiếp tục phát triển, quan hệ với đảng cầm quyền ở một số nước được thiết lập.</p><p></p><p>Trong không khí phấn khởi trước những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới, từ ngày 6 đến ngày 14-11-1995, Hội nghị lần thứ chínBan Chấp hành Trung ương khoá VII đã thảo luận và thông qua các dự thảo văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, hoàn thành về cơ bản việc chuẩn bị cho Đại hội VIII.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 17734, member: 699"] [B]III. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VII (THÁNG 6-1991) [/B] Đại hội VII của Đảng đã được tiến hành qua hai bước: Đại hội nội bộ từ ngày 17 đến ngày 22-6-1991 và Đại hội công khai từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1176 đại biểu đại diện cho trên hai triệu đảng viên. Nhận lời mời của Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta, các đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Liên Xô, Đảng Nhân dân cách mạng Lào, Đảng Nhân dân cách mạng Campuchia, Đảng Cộng sản Cu Ba và nhiều khách quốc tế đã tham dự Đại hội. Đại hội đã nghe đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VI đọc Diễn văn khai mạc và đọc Báo cáo chung về các văn kiện Đại hội, kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương khoá VI. Báo cáo chung nêu bật những vấn đề quan trọng sau đây: - Đảng ta kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa và quyết tâm thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về tư tưởng, chính trị và thực tiễn trong hoàn cảnh chủ nghĩa xã hội ở nhiều nước bị khủng hoảng và sụp đổ. - Sự nghiệp phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt con người ở vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội. Chính sách kinh tế nhiều thành phần được thực hiện nhất quán; kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và phải được củng cố, phát triển; kinh tế tập thể cần được đổi mới về tổ chức và phương thức hoạt động để đạt hiệu quả thiết thực. Áp dụng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tăng cường kinh tế gắn liền với xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Có chính sách công nghệ thích hợp với trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, vốn ít, lao động dư thừa. Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục, đào tạo, khoa học và công nghệ - coi đó là quốc sách hàng đầu. - Đổi mới hệ thống chính trị giữ vai trò rất quan trọng trong công cuộc đổi mới và phải xác định đúng nội dung, bước đi thích hợp. Đảng là người lãnh đạo hệ thống chính trị. Thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ phải gắn liền với tập trung, kỷ cương và kỷ luật; không chấp nhận chế độ chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập. - Công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng thể hiện ở những tiến bộ về kinh tế, đời sống và dân chủ hoá xã hội, cũng như ở những thành tựu trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Mặc dù vậy, đất nước vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội và không thể coi thường những nhân tố có thể gây mất ổn định chính trị. - Mục tiêu của kế hoạch 5 năm tới là vượt qua những khó khăn gay gắt trước mắt, tăng cường ổn định chính trị, đưa đất nước cơ bản ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Phương hướng thực hiện nhiệm vụ trên là đoàn kết và động viên lực lượng của mọi tầng lớp nhân dân tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. - Về vấn đề Đảng, các văn kiện trình Đại hội đều khẳng định Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng là yêu cầu quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội thảo luận và thông qua, đã tổng kết tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và nêu ra những bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam: nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố đảm bảo thắng lợi cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh xác định rõ quan niệm của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng. Chế độ xã hội đó mang những đặc trưng: do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột và bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 được Đại hội thảo luận và thông qua đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 2000: đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI, tăng tổng sản phẩm trong nước đến năm 2000 gấp đôi so với năm 1990. Chiến lược đề ra phương hướng đổi mới cơ cấu kinh tế, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chiến lược nêu rõ các chính sách và giải pháp về vốn và kinh tế đối ngoại, dân số và việc làm, văn hoá, giáo dục, khoa học, tài nguyên và môi trường; phương hướng cải cách bộ máy nhà nước và đổi mới công tác cán bộ. Báo cáo chính trị đánh giá tình hình đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội và đề ra những phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1991 - 1995. Báo cáo nhận định: nhân tố quyết định đưa lại những thành tựu đổi mới là sự lãnh đạo kiên định, vững vàng, độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng và sự nỗ lực phấn đấu của toàn dân. Báo cáo cũng chỉ rõ những mặt yếu kém, những khó khăn của đất nước biểu hiện tập trung ở tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội; pháp luật, kỷ cương chưa được chấp hành nghiêm; an ninh, trật tự an toàn xã hội còn nhiều hiện tượng phức tạp, những yếu tố có thể gây mất ổn định chính trị vẫn tồn tại. Báo cáo chính trị tổng kết bước khởi đầu tiến trình đổi mới, rút ra năm bài học kinh nghiệm; một là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới;hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi và cách làm phù hợp; ba là, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội; bốn là, phát huy dân chủ phải được lãnh đạo tốt;năm là, trong quá trình đổi mới, phải quan tâm dự báo tình hình, kịp thời phát triển và giải quyết đúng đắn những vấn đề mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới, tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Báo cáo chính trị xác định những mục tiêu cụ thể cần đạt được trong những năm 1991 - 1995 là: tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản xuất, bắt đầu có tích luỹ từ nền kinh tế quốc dân; tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm mạnh nhịp độ tăng dân số; ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân; tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới hoạt động của Nhà nước; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ thành quả cách mạng. Báo cáo về xây dựng Đảng xác định nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng là: phát huy truyền thống cách mạng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thật sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, và phải gắn liền với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, cải cách bộ máy nhà nước, đổi mới công tác quần chúng, bảo đảm cho Đảng làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đại hội thông qua Điều lệ Đảng (sửa đổi), trong đó có nhiều điểm mới được bổ sung và sửa đổi, như tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng; đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng; giữa hai kỳ đại hội đại biểu, Ban Chấp hành Đảng bộ các cấp (trừ Đảng bộ cơ sở) triệu tập hội nghị đại biểu; Ban Chấp hành Trung ương và Ban Chấp hành Đảng bộ các cấp chỉ có uỷ viên chính thức, không có uỷ viên dự khuyết, chức vụ Tổng Bí thư do Ban Chấp hành Trung ương bầu trong số Uỷ viên Bộ Chính trị. Đại hội đã bầu 146 đồng chí vào Ban Chấp hành Trung ương khoá VII. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí, Ban Bí thư gồm 9 đồng chí. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công được giao trọng trách là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương khoá VII. Đại hội VII đã được tiến hành theo phương châm "trí tuệ, đổi mới, dân chủ, kỷ cương, đoàn kết" đánh dấu một bước trưởng thành mới của Đảng ta. Đại hội đã hoạch định con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm của Việt Nam và những giải pháp đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn. Đại hội đã củng cố thêm niềm tin của nhân dân ta đối với công cuộc đổi mới, đối với việc thực hiện mục tiêu trước mắt đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Sau Đại hội VII, tình hình thế giới tiếp tục diễn biến rất phức tạp. Sự kiện lớn nhất là Đảng Cộng sản Liên Xô bị giải tán (ngày 25-8-1991) và Liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xôviết sụp đổ (ngày 8-12-1991). Phong trào cách mạng thế giới lâm vào thời kỳ thoái trào. Đối với Việt Nam, sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu tác động mạnh về mọi phương diện: tư tưởng, chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng... Một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân lao động mất phương hướng. Quan hệ kinh tế giữa nước ta với Liên Xô và các nước Đông Âu bị đảo lộn, sản xuất hàng xuất khẩu sang các thị trường đó bị đình đốn. Bọn phản động đẩy mạnh hoạt động phá rối, thậm chí âm mưu cướp chính quyền ở vài nơi. Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch âm mưu xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, xoá bỏ nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đất nước ta đứng trước những thách thức hết sức nghiêm trọng, đòi hỏi Đảng ta và nhân dân ta phải quán triệt và thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VII, tìm tòi những giải pháp tiếp tục con đường đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước mắt là đưa đất nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Từ tháng 11-1991 đến tháng 6-1993, Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đã họp 4 hội nghị. Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (từ ngày 25-11 đến ngày 4-12-1991) ra nghị quyết Về nhiệm vụ và giải pháp ổn định, phát triển kinh tế - xã hội trong những năm 1992 - 1995,đề ra các nhiệm vụ cụ thể và giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội, nêu ra các quan điểm và phương hướng cơ bản trong việc sửa đổi Hiến pháp, cải cách một bước bộ máy nhà nước. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (từ ngày 18-6 đến ngày 29-6-1992) ra nghị quyết Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, xác định bốn nhiệm vụ quan trọng: tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng; chỉnh đốn Đảng về tổ chức; tạo bước chuyển biến quan trọng về công tác cán bộ; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Nghị quyết nhấn mạnh: Đảng có trách nhiệm lãnh đạo tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đồng thời phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa Đảng và nhân dân là điều có ý nghĩa cực kỳ to lớn, bảo đảm sự vững chắc của chế độ. Hội nghị ra nghị quyết về chính sách đối ngoại, nêu rõ cần mở rộng đa dạng hoá và đa phương hóa quan hệ đối ngoại trên cơ sở nắm vững tư tưởng chỉ đạo là giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội; đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt. Hội nghị còn ra nghị quyết về nhiệm vụ quốc phòng và an ninh; nhấn mạnh phải thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình", đồng thời phải lường trước tình huống xấu nhất để có phương án đối phó. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (họp từ ngày 4 đến ngày 14-1-1993) ra nghị quyết về năm vấn đề: tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo; một số nhiệm vụ văn hoá, văn nghệ những năm trước mắt; những vấn đề cấp bách của sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân; chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình; công tác thanh niên. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (họp từ ngày 3 đến ngày 10-6-1993) ra nghị quyết về Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, nêu ba mục tiêu phấn đấu đến năm 2000: phát triển nhanh và vững chắc các ngành kinh tế chủ yếu, giải quyết vững chắc nhu cầu lương thực, nguyên liệu, đẩy mạnh xuất khẩu; bảo vệ tài nguyên, cải thiện môi trường sinh thái; cải thiện một bước đời sống, tăng diện giàu, đủ ăn, xoá đói, giảm nghèo; xây dựng nông thôn mới về mọi mặt. Nghị quyết xác định bốn quan điểm chỉ đạo: phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; gắn liền sản xuất với thị trường, đẩy mạnh việc ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật; gắn phát triển kinh tế đi đôi với đổi mới chính trị. Nghị quyết là cơ sở cho việc thông qua Luật đất đai, Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá IX. Nghị quyết được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng và nhanh chóng đi vào cuộc sống. Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, Bộ Chính trị đã ra một số chỉ thị, nghị quyết quan trọng chỉ đạo các mặt hoạt động. Đáng chú ý là Chỉ thị 01 ngày 16-7-1991 chỉ đạo việc quán triệt Nghị quyết Đại hội VII ở Đảng bộ các cấp; Nghị quyết số 01-NQ/TW ngày 28-3-1992 Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay (từ đó các chương trình nghiên cứu khoa học xã hội cấp Nhà nước đã được thông qua), Nghị quyết 04 ngày 12-9-1993 Về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Nghị quyết 07 ngày 17-11-1993Về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận dân tộc thống nhất... nhằm phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường, đấu tranh cho mục tiêu: giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Tinh thần Nghị quyết Đại hội VII và các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương sau đó đã được quán triệt trong hoạt động của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Quốc hội khoá VIII, kỳ họp thứ 11 từ ngày 24-3 đến ngày 25-4-1992 đã nhất trí thông qua Hiến pháp mới, Luật tổ chức Quốc hội và Luật bầu cử Quốc hội. Hiến pháp mới đã thể chế hoáCương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 do Đại hội VII đề ra. Ngày 19-7-1992, nhân dân cả nước đã hăng hái đi bỏ phiếu bầu Quốc hội khoá IX. Cuộc bầu cử đã tiến hành dân chủ, đúng pháp luật, 395 đại biểu đã trúng cử. Ngày 19-9-1992, Quốc hội khoá IX đã tiến hành kỳ họp đầu tiên, bầu đồng chí Nông Đức Mạnh làm Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Lê Đức Anh làm Chủ tịch nước, đồng chí Võ Văn Kiệt làm Thủ tướng Chính phủ. Quốc hội thông qua Luật tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Toà án nhân dân tối cao và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Năm 1992, mặt trận kinh tế - xã hội giành được một số thắng lợi lớn. Đây là năm đầu tiên thực hiện vượt mức các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu: tổng sản phẩm trong nước tăng 8% (năm 1991: 6%), sản lượng nông nghiệp tăng 34,5%, công nghiệp tăng 22,6%, dịch vụ tăng 42,9%; tổng sản phẩm trong nước tính theo đầu người đã là 220 USD. Tỷ lệ lạm phát còn 17,5%. Mô hình mới về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đang hình thành. Tuy nhiên, những yếu kém còn nhiều: hiệu quả của nền kinh tế nói chung kém, thị trường tiêu thụ hẹp, quản lý còn sơ hở, ngân sách còn thâm hụt lớn, khu vực quốc doanh còn chậm được chấn chỉnh, các cơ sở giáo dục và y tế xuống cấp, tệ nạn xã hội phát triển. Nhìn chung, thành tựu về kinh tế - xã hội năm 1992 là kết quả phấn đấu vượt bậc và sự tranh thủ những nhân tố quốc tế thuận lợi của nhân dân ta để vượt qua thử thách, tạo đà cho phát triển toàn diện năm 1993. Năm 1993, nước ta đã hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại, đặc biệt là hoàn thành vượt kế hoạch các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu, mặc dù trong năm có nhiều thiên tai. Quan hệ kinh tế với nước ngoài được mở rộng. Cán cân thanh toán được cải thiện, nguồn thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu vật tư, hàng hoá cần thiết. Nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ. Lạm phát cả năm chỉ ở mức 5%. Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Xoá đói, giảm nghèo trở thành phong trào quần chúng. Hơn 5 triệu lượt hộ nghèo được vay hơn 6.000 tỷ đồng để phát triển sản xuất. Không có nạn đói, số hộ nghèo giảm, số hộ giàu tăng. Một số vụ chống đối và âm mưu bạo loạn bị dập tắt, tình hình chính trị ổn định. Nhìn chung, trong 3 năm 1991-1993, tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân hàng năm 7,2%. Quan hệ đối ngoại của nước ta được mở rộng, Đảng và Chính phủ ta đã đón nhiều đoàn khách quốc tế của Chính phủ Lào, Chính phủ Campuchia, Phó Tổng thống Ấn Độ, Tổng thống Pháp, Phó Thủ tướng Bỉ, Hoàng tử Hà Lan, Bộ trưởng ngoại giao Cộng hoà Liên bang Đức... Đảng và Chính phủ ta cử nhiều đoàn cấp cao đi thăm các nước Nhật, Ôxtrâylia, Phần Lan, Thuỵ Điển, Pháp, Anh, Cộng đồng châu Âu..., đặc biệt là chuyến đi của Tổng Bí thư Đỗ Mười đến Xingapo và Thái Lan, chuyến đi của Chủ tịch nước Lê Đức Anh đến Trung Quốc. Kết quả quan trọng đạt được là đã đẩy lùi một bước và phá vỡ từng phần thế bao vây nước ta của Mỹ. Ngày 2-7-1993, Tổng thống Mỹ phải tuyên bố chấm dứt việc chống các nước cho Việt Nam vay tiền. Ngày 23-12-1993, Bộ Tài chính Mỹ ra tuyên bố cho phép các công ty Mỹ tham gia các dự án do các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế thực hiện ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á đã thoả thuận cho Việt Nam vay tiền. Việt Nam và Trung Quốc đã lập lại Tổng lãnh sự quán. Quan hệ với Lào, Cuba vẫn đặc biệt thuỷ chung, trong sáng. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều thách thức lớn. Ở bên ngoài, các thế lực thù địch vẫn ráo riết tiến hành các hoạt động chống phá ta. Ở trong nước, hoạt động chống đối của bọn phản động diễn ra ở một số nơi. Tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều yếu tố chưa vững chắc: thiếu việc làm, tệ nạn xã hội tăng, tệ quan liêu, tham nhũng chưa chặn được, thua thiệt trong cạnh tranh và hợp tác quốc tế. [B]IV. HỘI NGHỊ ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC GIỮA NHIỆM KỲ (THÁNG 1-1994). ĐẤT NƯỚC RA KHỎI KHỦNG HOẢNG KINH TẾ - XÃ HỘI [/B] Yêu cầu đặt ra cho Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ là kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, tổng kết một bước gần 10 năm đổi mới, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn trong quá trình xây dựng đất nước. Từ ngày 24-11 đến ngày 1-12-1993, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã họp Hội nghị lần thứ sáu để chuẩn bị Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ. Hội nghị đã thảo luận và nhất trí nhiều vấn đề quan trọng của dự thảo Báo cáo chính trị: chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; đẩy mạnh đổi mới và chỉnh đốn Đảng bảo đảm cho quá trình đổi mới đi đúng hướng và đạt thành tựu cao. Thành công của Hội nghị lần thứ sáu là tiền đề cho thành công của Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã họp từ ngày 20 đến ngày 25-1-1994 tại Hà Nội. Đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã đọc Báo cáo chính trị, chỉ rõ ba thành tựu quan trọng: - Khắc phục một bước quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. - Tiếp tục giữ vững và củng cố sự ổn định chính trị. - Quan hệ đối ngoại được mở rộng, vị thế của nước ta trên thế giới được nâng lên, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu quan trọng đạt được tạo ra những tiền đề đưa đất nước chuyển dần sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Báo cáo chính trị cũng vạch ra những mặt yếu kém và những vấn đề mới nảy sinh. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã chỉ ra bốn nguy cơ: 1- Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; 2- Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; 3- Nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; 4- Nguy cơ "diễn biến hoà bình". Đồng thời, Hội nghị khẳng định những thuận lợi cơ bản và thời cơ trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới: đường lối của Đảng đúng đắn; nhân dân ta yêu nước, tin Đảng; những thành tựu đổi mới đang tạo ra thế và lực mới; cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và xu thế hợp tác, phát triển trên thế giới. Nắm vững thời cơ và đẩy lùi nguy cơ là tư tưởng chỉ đạo nổi bật của Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ. Hội nghị xác định những nhiệm vụ cho những năm còn lại của nhiệm kỳ Đại hội VII: - Thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, tạo động lực và môi trường thuận lợi hơn nữa cho các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp phát triển nhanh và có hiệu quả. - Xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Chăm lo các vấn đề văn hoá, xã hội. - Tăng cường quốc phòng, an ninh, quán triệt tư tưởng chỉ đạo và tiếp tục thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh mà Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương đề ra. - Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại. - Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. - Đổi mới và chỉnh đốn Đảng, mở rộng khối đại đoàn kết, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và quần chúng. Tích cực tiến hành tổng kết công tác xây dựng Đảng, chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Hội nghị bầu bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương 20 đồng chí, đồng ý để một số đồng chí vì lý do sức khoẻ tự nguyện xin rút khỏi Ban Chấp hành Trung ương. Sau Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, các tỉnh, thành uỷ, các đảng uỷ khối cơ quan trung ương đã tiến hành Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ, vạch chương trình công tác hai năm 1994-1995, bầu bổ sung cấp uỷ. Kết quả hội nghị các cấp tạo nên khí thế mới trong toàn Đảng, toàn dân. Tiếp tục thực hiện chương trình cụ thể hoá và phát triển đường lối do Đại hội VII đề ra, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (từ ngày 25 đến ngày 30-7-1994) ra nghị quyết vềphát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, phấn đấu đến năm 2000 đạt và vượt các chỉ tiêu đã xác định trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Hội nghị đã xác định sáu quan điểm cơ bản của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước:một là, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa; hai là, giữ vững độc lập, tự chủ phải đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ;ba là, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế;bốn là, phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển; năm là, khoa học và công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá;sáu là, hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn cơ bản. Nghị quyết cũng vạch rõ hướng bố trí các ngành công nghiệp, kết cấu hạ tầng, các vùng, các địa bàn quan trọng; đề ra các chính sách để thực hiện. Về xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới, Nghị quyết xác định: cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng; có trình độ học vấn, tay nghề cao, có năng lực tiếp thu, sáng tạo công nghệ mới; lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khoá VII (tháng 1-1995) ra Nghị quyết về Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính nêu lên những quan điểm chỉ đạo việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, việc cải cách hành chính và những nội dung cơ bản trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội và Chính phủ. Trong hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết, quyết định, nguyên tắc, giải quyết các vấn đề trọng đại của quốc kế dân sinh, bảo đảm ổn định, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong bước ngoặt của cách mạng. Với Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương khoá VII đã hoàn thành chương trình, cụ thể hoá một bước Cương lĩnh và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội VII đã thông qua, chuẩn bị tiến tới Đại hội VIII vào năm 1996. Tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương đã uỷ nhiệm Bộ Chính trị ra Nghị quyết Về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay nhằm tăng cường sự nhất trí tư tưởng trong Đảng, sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân. Nghị quyết nêu ra 6 định hướng: Một là: Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và của cách mạng Việt Nam. Hai là: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn. Ba là: Chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ; Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bốn là: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ. Năm là: Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội. Sáu là: Phát triển văn hoá, gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, trong năm 1994, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu mới trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,8%; tổng sản lượng nông nghiệp tăng 4%; tổng sản phẩm công nghiệp tăng 13,5%; sản lượng lương thực đạt 26 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 3,6 tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu 5 tỷ USD. Vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội đạt 48.000 tỷ đồng, khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước đạt 8.833 tỷ đồng. Ngân hàng nhà nước thu vượt dự toán 6,3%. Bước sang năm 1995, tình hình nước ta tiếp tục có những chuyển biến tốt về mọi mặt. Tổng sản phẩm trong nước tăng 9,5%, sản xuất nông nghiệp tăng 4,7%, sản lượng lương thực đạt 27 triệu tấn, sản xuất công nghiệp tăng 14%, dịch vụ tăng 12,6%, đầu tư trực tiếp của nước ngoài tăng 85,4%, xuất khẩu đạt 5,3 tỷ USD, nhập khẩu đạt 7,5 tỷ USD. Tiếp theo những thành tựu của các năm trước, thắng lợi năm 1995 đã góp phần quan trọng hoàn thành vượt mức nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1991-1995. Nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước bình quân hàng năm đạt 8,2%, sản xuất công nghiệp tăng 13,3%, sản xuất nông nghiệp tăng 4,5%. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong tổng sản phẩm trong nước từ 22,6% (năm 1990) tăng lên 29,1% (năm 1995), dịch vụ từ 38,6% lên 41,9%, lạm phát bị đẩy lùi từ 67,47% (năm 1991) giảm xuống còn 12,7% (năm 1995). Lương thực đủ ăn và xuất khẩu mỗi năm khoảng 2 triệu tấn. Nhiều công trình thuộc kết cấu hạ tầng và cơ sở công nghệ trọng yếu được xây dựng. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh thêm một bước phù hợp với tính chất, trình độ, yêu cầu phát triển sản xuất. Về xã hội, đã có một số chuyển biến tích cực: Đời sống phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ giàu tăng, số hộ nghèo giảm; Nhà nước có "chương trình việc làm quốc gia", hàng năm chi từ 200 đến 350 tỷ đồng để giải quyết việc làm cho hơn 1 triệu lao động. Trình độ dân trí được nâng lên. Người lao động được giải phóng khỏi nhiều cơ chế không hợp lý. Chủ trương "Đền ơn đáp nghĩa" đối với người có công với nước được toàn dân hưởng ứng. 37.154 bà mẹ được phong danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam anh hùng". Phong trào "Xoá đói, giảm nghèo" và các hoạt động từ thiện ngày càng mở rộng. Lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của đất nước, vào Đảng và Nhà nước tăng lên. Sự ổn định chính trị và quốc phòng, an ninh được củng cố. Việc điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an ninh tiếp tục được thực hiện có kết quả. Thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Đời sống lực lượng vũ trang được cải thiện. Cuộc đấu tranh chống "diễn biến hoà bình" thu nhiều thắng lợi, gần 500 cuộc bạo loạn và âm mưu bạo loạn đã bị dập tắt từ trong trứng, một số tổ chức phản động bị đưa ra xét xử. Đã có một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.Đảng đã từng bước được đổi mới và củng cố về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Hiến pháp mới năm 1992 và nhiều văn bản pháp luật quan trọng được ban hành. Nền hành chính Nhà nước được cải cách một bước. Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị và xã hội đã đổi mới từng bước nội dung và phương thức hoạt động. Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy. Đồng bào ta ở nước ngoài ngày càng hướng về Tổ quốc. Quan hệ đối ngoại phát triển mạnh, nước ta đã phá được thế bị bao vây, cấm vận. Đảng và Nhà nước đã thực hiện tích cực đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ, đã khôi phục và mở rộng quan hệ bình thường với Trung Quốc, phát triển quan hệ với các nước trong khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN (ngày 28-7-1995); củng cố và đổi mới quan hệ truyền thống với Liên bang Nga và các nước Đông Âu; bình thường hoá quan hệ về ngoại giao với Mỹ (ngày 11-7-1995); ký Hiệp định chung với Liên hiệp châu Âu (ngày 17-7-1995). Nhiều chính phủ và tổ chức quốc tế viện trợ hoặc cho ta vay... Quan hệ đoàn kết với các đảng cộng sản và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc tiếp tục phát triển, quan hệ với đảng cầm quyền ở một số nước được thiết lập. Trong không khí phấn khởi trước những thành tựu quan trọng trong công cuộc đổi mới, từ ngày 6 đến ngày 14-11-1995, Hội nghị lần thứ chínBan Chấp hành Trung ương khoá VII đã thảo luận và thông qua các dự thảo văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, hoàn thành về cơ bản việc chuẩn bị cho Đại hội VIII. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 9: Thực hiện đường lối đổi mới, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng
Top