Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 8:Tìm tòi con đường thích hợp đi lên Chủ nghĩa Xã hội (1975-1986)
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 17546" data-attributes="member: 699"><p><strong>VII. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI CỦA ĐẢNG (THÁNG 12-1986)</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>1. Quá trình chuẩn bị</strong></p><p><strong></strong></p><p>Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được chuẩn bị từ năm 1984.</p><p></p><p>Tháng 5-1986, Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khoá V thông qua dự thảo Báo cáo chính trị lần thứ nhất và chủ trương đưa dự thảo xuống thảo luận ở Đại hội vòng 1 các cấp sau khi được Bộ Chính trị xem xét bổ sung hoàn chỉnh.</p><p></p><p>Ngày 10-7-1986, giữa lúc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang ra sức tháo gỡ khó khăn, khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho Đại hội VI, đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, qua đời. </p><p></p><p>Ngày 14-7-1986, Hội nghị bất thường Ban Chấp hành Trung ương khoá V đã bầu đồng chí Trường Chinh, Uỷ viên Bộ Chính trị làm Tổng Bí thư.</p><p></p><p>Từ giữa năm 1986 đến tháng 11-1986, Đại hội vòng 1 các cấp từ cơ sở quận, huyện đến tỉnh, thành phố và các Đảng bộ trực thuộc Trung ương góp ý kiến vào các văn kiện Đại hội, phản ánh những thực tế nóng bỏng của cuộc sống xã hội.</p><p></p><p>Tháng 7-1986, sau khi sơ bộ tổng hợp ý kiến đóng góp của Đại hội Đảng bộ vòng 1 các cấp, Bộ Chính trị nhận thấy dự thảo Báo cáo chính trị lần thứ nhất chưa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; chưa rút ra được những bài học cơ bản từ thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội; chưa đề ra được nội dung đổi mới về kinh tế để có thể làm chuyển biến tình hình.</p><p></p><p>Tháng 8-1986,Hội nghị Bộ Chính trị và Ban Bí thư đã thảo luận kỹ ba vấn đề lớn về kinh tế thời kỳ quá độ: cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý kinh tế. Hội nghị cho rằng, phương hướng cơ bản để tháo gỡ là giải phóng năng lực sản xuất hiện có, khai thác và phát huy mọi tiềm năng của đất nước để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Hội nghị chỉ rõ: Hơn 10 năm qua, chúng ta đã mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư..., chúng ta muốn đi nhanh nhưng thực tế đã đi đường vòng, gây thêm cho mình những khó khăn mới và lãng phí thời gian, làm cho chặng đường đầu tiên bị kéo dài.</p><p>Về cơ cấu kinh tế:</p><p></p><p>Hội nghị vạch ra sai lầm chủ quan, nóng vội, quy mô quá lớn, nhịp độ quá nhanh trong xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất là một nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất trong 5 năm gần đây như giẫm chân tại chỗ, năng suất lao động giảm sút, chi phí sản xuất không ngừng tăng lên, tình hình kinh tế - xã hội ngày càng không ổn định. Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp chậm giải quyết vấn đề căn bản là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và tạo nguồn hàng lớn cho xuất khẩu.</p><p></p><p>Căn cứ vào nhận định trên, Hội nghị chủ trương điều chỉnh lớn trên cơ sở bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ.</p><p></p><p>Hội nghị nhắc nhở các cấp đảng bộ và cơ quan nhà nước hiểu cho thấu đáo chuyển hướng là việc rất khó khăn, đòi hỏi phải đổi mới cách suy nghĩ và cách làm, dám thừa nhận và thay đổi các sai lầm trước đây của chính mình, dũng cảm xử lý những phức tạp nảy sinh trong quá trình chuyển hướng và điều chỉnh.</p><p></p><p><em><strong>Về cải tạo xã hội chủ nghĩa:</strong></em></p><p></p><p>Sau khi điểm qua những khuyết điểm nóng vội, chạy theo hình thức của công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa thời gian qua, Hội nghị chỉ ra nguyên nhân là do chưa nắm vững quy luật đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.</p><p>Quy luật này đòi hỏi:</p><p></p><p>- Cải tạo quan hệ sản xuất cũ ở một nước từ sản xuất nhỏ đi lên như nước ta, trình độ xã hội hoá còn thấp, phải biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp, phải qua những bước trung gian quá độ từ thấp lên cao và từ nhỏ đến lớn, làm cho quan hệ sản xuất luôn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.</p><p></p><p>- Đặc trưng thời kỳ quá độ là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần: a- Kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh và tập thể); b- Các thành phần khác: công tư hợp doanh, tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, tiểu thương, kinh tế tự nhiên) và kinh tế tư bản tư nhân tồn tại trong một thời gian dài. Đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất. Kinh tế xã hội chủ nghĩa phải giữ vai trò chủ đạo.</p><p></p><p><strong><em>Về cơ chế quản lý kinh tế:</em></strong></p><p></p><p>Hội nghị cho rằng, cơ chế quản lý kinh tế cũ mang nặng tính chất tập trung quan liêu. Đặc trưng của cơ chế ấy là cơ quan quản lý hành chính có toàn quyền quyết định những vấn đề kinh tế nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về các quyết định của mình: không tính tới hiệu quả sử dụng tiền vốn, tài sản, vật tư, lao động; không gắn trách nhiệm với lợi ích vật chất, tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động; bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng lớp trung gian, cửa quyền, kém năng động, thiếu trách nhiệm.</p><p></p><p><strong><em>Hội nghị nêu nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa là:</em></strong></p><p></p><p>- Đổi mới kế hoạch hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hoá - tiền tệ.</p><p></p><p>- Làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, tự tạo vốn và hoàn vốn, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, thu nhập của tập thể và người lao động phải căn cứ vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.</p><p></p><p>- Phân biệt chức năng quản lý hành chính - kinh tế của Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế.</p><p></p><p>- Phân công, phân cấp bảo đảm các quyền tập trung thống nhất của Trung ương trong những khâu then chốt về kinh tế, quyền chủ động của địa phương trên địa bàn lãnh thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở. Trách nhiệm đi đôi với quyền hạn, nghĩa vụ gắn liền với lợi ích. Vừa chống tập trung quan liêu vừa chống tự do vô tổ chức, vô kỷ luật, cục bộ, địa phương.</p><p></p><p>Công tác kế hoạch hoá phải được kết hợp chặt chẽ với thị trường. Kế hoạch phải thông qua thị trường, coi thị trường là căn cứ để xây dựng và điều chỉnh kế hoạch, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nhà nước cần sử dụng những biện pháp quản lý có hiệu quả kinh tế tư bản tư nhân, nghiêm trị bọn đầu cơ buôn lậu nhưng không thể xoá bỏ thị trường tự do theo ý muốn chủ quan bằng mệnh lệnh hành chính.</p><p></p><p>- Chính sách giá cả phải vận dụng tổng hợp nhiều quy luật, trong đó quy luật giá trị có tác dụng trực tiếp, giá cả phải phù hợp với giá trị, sức mua của đồng tiền và quan hệ cung - cầu. Thước đo chính sách giá cả đúng đắn là ở chỗ làm cho người lao động làm ra nhiều sản phẩm hàng hoá, tích cực phấn đấu giảm tiêu hao sản xuất, hạ giá thành, nâng cao giá trị sản phẩm và hăng hái bán sản phẩm cho Nhà nước.</p><p></p><p>Phấn đấu thi hành chính sách một giá, làm cho thương nghiệp mua được, bán được, Nhà nước không phải bù lỗ, không tạo ra nhu cầu giả tạo, ngăn chặn các hiện tượng thất thoát hàng hoá, tạo điều kiện giảm bớt căng thẳng cung - cầu và ổn định thị trường. Trong điều kiện Nhà nước chưa đủ điều kiện bảo đảm một số mặt hàng thiết yếu thì tạm thời áp dụng chính sách hai giá ở những nơi, những lúc nhất định.</p><p></p><p>Những kết luận trên đây của Bộ Chính trị là cơ sở để đổi mới và hoàn chỉnh dự thảoBáo cáo chính trị trình Đại hội VI, là căn cứ để giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt, đồng thời là sự đổi mới tư duy về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mở đường đưa đất nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Những kết luận của Bộ Chính trị (8-1986)là bước đột phá thứ ba để đi đến khẳng định đường lối đổi mới.</p><p>Hội nghị lần thứ mười một Ban Chấp hành Trung ương khoá V (tháng 11-1986) đã thông qua dự thảoBáo cáo chính trị mới được bổ sung và hoàn chỉnh bằng những quan điểm của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 8-1986.</p><p></p><p>Hội nghị cho rằng: Sau khi đã có chủ trương đổi mới thì việc lựa chọn cán bộ để thực hiện chủ trương trở thành khâu quyết định. Hội nghị nhất trí nêu ra những tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ: đổi mới tư duy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; đồng thời nhấn mạnh công tác cán bộ phải đảm bảo đủ quy trình; Ban Chấp hành Trung ương cần có yêu cầu về chất lượng cao và có 3 độ tuổi; bố trí cán bộ cân đối cả nước, coi trọng các địa bàn, lĩnh vực quan trọng.</p><p></p><p>Căn cứ vào những tiêu chuẩn trên đây, Hội nghị đã xem xét, lựa chọn, giới thiệu 177 đồng chí tham gia Ban Chấp hành Trung ương khoá VI.</p><p>Hội nghị lần thứ mười haiBan Chấp hành Trung ương khoá V (tháng 12-1986) căn bản nhất trí với danh sách giới thiệu của Hội nghị lần thứ mười một, có điều chỉnh một số trường hợp và thông qua danh sách cuối cùng trình Đại hội VI.</p><p></p><p><strong>2. Tiến hành Đại hội</strong></p><p></p><p>Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được tiến hành tại Hà Nội từ ngày 5 -12-1986.</p><p></p><p>Về dự Đại hội VI có 1.129 đại biểu chính thức, thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên cả nước, 35 đoàn đại biểu các đảng anh em, các tổ chức cách mạng và bầu bạn khắp năm châu, 300 nhà báo trong và ngoài nước.</p><p>Đại hội nội bộ tiến hành từ ngày 5 đến ngày 14-12-1986.</p><p></p><p>Đại hội đi sâu nghiên cứu và góp ý kiến vàoBáo cáo chính trị. Đại hội nhất trí khẳng định: Nhân dân ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong thời kỳ 1981 - 1985. So với 5 năm trước (1976 - 1980), thời kỳ này nông nghiệp bình quân hàng năm tăng gần 5%. Tổng sản lượng lương thực năm 1986 tăng hơn 3 triệu tấn so với năm 1981. Sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 9,5%. Thu nhập quốc dân bình quân hàng năm tăng 6,4%. Công trình thuỷ điện Hoà Bình, Trị An đang được xây dựng, dầu mỏ bắt đầu được khai thác. Cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến thêm một bước, đặc biệt chủ trương khoán sản phẩm theo Chỉ thị 100 đã mở lối ra cho quan hệ sản xuất ở nông thôn cũng như chủ trương nhiều nguồn cân đối và 3 phần kế hoạch trong Quyết định 25-CP đang mở đường cho sản xuất công nghiệp.Văn hoá xã hội phát triển.</p><p></p><p>Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đã giành được những thắng lợi to lớn. Nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân Lào và Campuchia được thực hiện tốt, góp phần tăng cường quan hệ giữa ba nước Đông Dương. Quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa thêm chặt chẽ.</p><p></p><p>Những thành tựu trên đã tạo cho sự nghiệp cách mạng nước ta những nhân tố mới để tiếp tục tiến lên.</p><p></p><p>Báo cáo chính trị đã nghiêm khắc chỉ ra tính chất nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội : sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được; tài nguyên bị lãng phí; phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Thiếu sót lớn nhất là chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân - mục tiêu hàng đầu do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đề ra. Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là những sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn; về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện của Đảng và của Nhà nước. Sai lầm thể hiện trên các mặt: xác định mục tiêu và bước đi không sát thực tế nước ta, không coi trọng khôi phục kinh tế là nhiệm vụ cấp bách; nông nghiệp vẫn chưa thực sự là mặt trận hàng đầu; muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa trong vòng 5 năm; chưa biết kết hợp kế hoạch hoá với quan hệ hàng hoá - tiền tệ; mắc sai lầm rất nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thông.</p><p></p><p>Trên lĩnh vực tư tưởng đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận, chậm tổng kết kinh nghiệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.</p><p></p><p>Trong công tác tổ chức, chậm thực hiện đổi mới công tác cán bộ. Lựa chọn và bố trí cán bộ chỉ nhấn mạnh học vị, bằng cấp mà không chú ý đến thực chất năng lực làm việc và kinh nghiệm rèn luyện thực tế. Phong cách lãnh đạo mang nặng chủ nghĩa quan liêu. Việc điều chỉnh địa giới lãnh thổ thiếu căn cứ khoa học, dẫn đến nhiều tỉnh, huyện quá lớn, hợp tác xã quá rộng.</p><p></p><p>Ban Chấp hành Trung ương khoá V tự phê bình nghiêm túc trước Đại hội: </p><p></p><p>"Trách nhiệm trước hết thuộc về Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng".</p><p></p><p> <strong><em>Báo cáo chính trị nêu ra bốn bài học kinh nghiệm:</em></strong></p><p></p><p>Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc".</p><p></p><p>Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.</p><p></p><p>Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.</p><p></p><p>Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.</p><p></p><p>Báo cáo chính trị xác định nhiệm vụ chung của chặng đường đầu tiên là:ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc công nghiệp hoá trong chặng đường tiếp theo.</p><p></p><p><em><strong>Mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội của chặng đường đầu tiên là:</strong></em></p><p></p><p><em>1. Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ.</em></p><p><em></em></p><p><em>2. Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất khẩu.</em></p><p><em></em></p><p><em>3. Làm cho thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động.</em></p><p><em></em></p><p><em>4. Tạo ra chuyển biến về mặt xã hội, việc làm, công bằng xã hội, chống tiêu cực, mở rộng dân chủ, giữ kỷ cương phép nước.</em></p><p><em></em></p><p><em>5. Củng cố quốc phòng và an ninh.</em></p><p></p><p>Về chính sách đối ngoại, Báo cáo chính trị nêu rõ: Góp phần phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới.</p><p></p><p>Về phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, Báo cáo chính trị đề ra khẩu hiệu "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", và nêu rõ: tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu bảo đảm huy động lực lượng to lớn của quần chúng.</p><p></p><p>Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Báo cáo chính trị nêu ra 6 yêu cầu:</p><p></p><p>1. Đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ đảng viên và nhân dân là nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng. Coi trọng công tác lý luận, cung cấp nội dung cho sự nghiệp đổi mới. Đổi mới cả về nội dung, hình thức, phương pháp, con người và phương tiện làm công tác tư tưởng. Đổi mới đội ngũ cán bộ giảng dạy, viết lại sách giáo khoa và đổi mới cách dạy học ở các trường của Đảng, Nhà nước và đoàn thể.</p><p></p><p>2. Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Trước hết phải đổi mới công tác cán bộ, bộ máy, cơ chế và đội ngũ những người làm công tác cán bộ. Tiêu chuẩn để đánh giá cán bộ là hiệu quả công tác. Chấm dứt tình trạng bổ nhiệm cán bộ không có hiểu biết hoặc kém chuyên môn vào các cương vị lãnh đạo và quản lý cơ quan chuyên môn. Thực hiện chế độ bãi miễn đối với cán bộ vô trách nhiệm, thiếu năng lực.</p><p></p><p>3. Đổi mới phong cách làm việc, mở rộng dân chủ, khuyến khích năng động, sáng tạo trên cơ sở nguyên tắc, đường lối của Đảng. Hoàn chỉnh các chế độ hội nghị, kiểm tra, tự phê bình và phê bình, điều tra nghiên cứu, nắm thông tin nhanh chóng, chính xác, tiếp xúc và lắng nghe ý kiến quần chúng, tổng kết kinh nghiệm, lãnh đạo tập thể.</p><p></p><p>4. Nâng cao chất lượng đảng viên. Mở cuộc vận động làm trong sạch Đảng. Học tập đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chống tham nhũng, chống đặc quyền đặc lợi, đưa lên phương tiện thông tin đại chúng những vụ sai lầm nghiêm trọng về phẩm chất.</p><p></p><p>5. Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở. Tạo điều kiện để quần chúng tham gia xây dựng Đảng.</p><p></p><p>6. Tăng cường đoàn kết, nhất trí trong Đảng.</p><p></p><p>Báo cáo chính trị được Đại hội hoan nghênh và bổ sung phong phú thêm. Gần 700 ý kiến của đại biểu đề nghị nhấn mạnh việc tổng kết kinh nghiệm, giải quyết những trường hợp mất đoàn kết, đổi mới đội ngũ cán bộ cho đúng thực chất, vận dụng chính sách đối ngoại truyền thống.</p><p>Báo cáo về phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 1986 - 1990 đã cụ thể hoá những vấn đề kinh tế và xã hội lớn nêu trong Báo cáo chính trị, trước hết là ba chương trình lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu.</p><p></p><p>Nhiều đoàn đại biểu cho rằng, Báo cáo kinh tế chưa tìm ra những giải pháp làm giảm nhịp độ tăng giá, giảm khó khăn trong đời sống của người ăn lương; đề nghị chỉ nêu dựa trên các nguồn lực đã nắm được để tập trung cho ba chương trình kinh tế lớn; phấn đấu thi hành chính sách một giá, tạm thời duy trì chính sách hai giá ở những nơi, những lúc Nhà nước chưa có đủ lực lượng.</p><p></p><p>Báo cáo về sửa đổi Điều lệ Đảng được Đại hội thảo luận và bổ sung. Đại hội nhắc lại tiêu chuẩn của đảng viên là có lao động, không bóc lột. Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tập trung, thống nhất về mọi mặt của Đảng; trên cơ sở đảm bảo sự lãnh đạo tập thể của tổ chức đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy ở tất cả các cấp trong quân đội. Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư do Ban Chấp hành Trung ương cử ra. Về kỷ luật của Đảng, chậm nhất là 1 năm sau khi đảng viên bị thi hành kỷ luật, tổ chức đảng phải nghe đảng viên báo cáo về tình hình sửa chữa khuyết điểm, nếu xét thấy đảng viên thực sự đã sửa chữa và tiến bộ thì quyết định công nhận đảng viên đã sửa chữa khuyết điểm, tổ chức đảng không có định kiến trong việc sử dụng, cất nhắc những đảng viên đó.</p><p></p><p>Từ ngày 9 đến ngày 13-12-1986, sau khi nghe và thảo luận Báo cáo đề nghị của Ban Chấp hành Trung ương về nhân sự, tiêu chuẩn, cấu trúc, số lượng Ban Chấp hành Trung ương mới,Đại hội tiến hành bầu cử.</p><p></p><p>Ban Chấp hành Trung ương mới gồm có 173 đồng chí (124 uỷ viên chính thức, 49 uỷ viên dự khuyết). Có 92 đồng chí khoá V được bầu lại và 81 đồng chí mới được bầu. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khoá VI họp ngày 14-12-1986 đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 uỷ viên chính thức và 1 uỷ viên dự khuyết (9 đồng chí uỷ viên cũ và 5 đồng chí uỷ viên mới). Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư. Ban Bí thư gồm 12 đồng chí và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Đảng gồm 7 đồng chí.</p><p></p><p><strong>Đại hội công khai họp từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986.</strong></p><p><strong></strong></p><p>Ngày 15-12, Đại hội nghe đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương khoá V trình bày Tóm tắt báo cáo chính trị; đồng chí Võ Văn Kiệt, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trình bày tóm tắtPhương hướng, mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 1986 - 1990; đồng chí Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị trình bày Báo cáo bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong Điều lệ Đảng.</p><p></p><p>Các ngày tiếp theo, Đại hội nghe tham luận của các đại biểu. Tham luận của các đoàn đại biểu quốc tế đều nói lên tình cảm gắn bó với Đảng ta và nhân dân ta, đánh giá cao tinh thần dũng cảm tự phê bình của Đảng ta, bày tỏ lòng tin ở con đường và sức sống của Việt Nam đổi mới.</p><p>Chiều ngày 17-12, Đại hội nghe đồng chí Phạm Hùng báo cáo về đề nghị không ứng cử của ba đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ. Đại hội tuyên dương công trạng to lớn vì nước vì dân của ba đồng chí đã làm nổi bật truyền thống cao đẹp của dân tộc ta: Truyền thống thế hệ trước ân cần dìu dắt thế hệ sau, thế hệ sau kế tục trung thành với sự nghiệp của thế hệ trước. Đại hội nhất trí trao trách nhiệm cao cả cho ba đồng chí làm cố vấn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.</p><p></p><p>Ngày 18-12, Đại hội thông qua Nghị quyết về Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế và Báo cáo xây dựng Đảng.</p><p></p><p>Nghị quyết Đại hội VI khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.</p><p></p><p>Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá VI chỉ đạo việc hoàn thành 10 nhiệm vụ cụ thể để thực hiện Nghị quyết Đại hội.</p><p></p><p>Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đọc Diễn văn bế mạc Đại hội.</p><p></p><p>Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với tầm nhìn thấu rõ thực trạng đất nước, tổng kết được những kinh nghiệm từ thực tiễn thành công và thất bại; với ý thức trách nhiệm vì dân, vì nước, dũng cảm thừa nhận sai lầm, khuyết điểm, với tinh thần đoàn kết, nhất trí cao. Đại hội VI đã tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, Đại hội VI còn có hạn chế về những giải pháp tháo gỡ tình trạng rối ren trong phân phối, lưu thông.</p><p></p><p>Từ tháng 3-1979 đến tháng 12-1986, nhân dân ta và Đảng ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách vô cùng gay go, quyết liệt. Thành công nổi bật của giai đoạn này chưa phải là giải quyết được cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội mà chủ yếu là tìm ra con đường đúng đi lên chủ nghĩa xã hội, ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế. Qua 8 năm trăn trở, suy tư, từ những thử nghiệm thành công về khoán sản phẩm trong nông nghiệp và giao quyền tự chủ trong công nghiệp đến những thực tiễn thất bại, thành công trong lựa chọn cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, toàn dân ta hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng: con đường đúng đắn đã được tìm ra. Đó là con đường đúng đắn vì con đường đó hợp với lòng dân, ngày càng được thực tiễn cuộc sống chứng minh là phù hợp quy luật của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, dù đây mới chỉ là tìm tòi ban đầu. Tìm ra con đường thích hợp và giải pháp ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, một lần nữa Đảng ta tỏ rõ bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường.</p><p></p><p>Qua quá trình tìm tòi con đường thích hợp, Đảng ta đã rút ra một số kinh nghiệm:</p><p></p><p>1. Muốn tìm ra con đường đúng, điều kiện tiên quyết là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng thực trạng đất nước. Tổng kết thực tiễn một cách công phu và khoa học là phương pháp tốt nhất đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên nhân, con đường.</p><p></p><p>2. Tổng kết thực tiễn đòi hỏi phải biết lắng nghe các ý kiến khác nhau, phân tích từng loại ý kiến, tự đặt câu hỏi và tìm cách trả lời để khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí.</p><p></p><p><strong><em><p style="text-align: right">(Nguồn: Báo ĐT ĐCS)</p><p></em></strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 17546, member: 699"] [B]VII. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI CỦA ĐẢNG (THÁNG 12-1986) 1. Quá trình chuẩn bị [/B] Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được chuẩn bị từ năm 1984. Tháng 5-1986, Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khoá V thông qua dự thảo Báo cáo chính trị lần thứ nhất và chủ trương đưa dự thảo xuống thảo luận ở Đại hội vòng 1 các cấp sau khi được Bộ Chính trị xem xét bổ sung hoàn chỉnh. Ngày 10-7-1986, giữa lúc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang ra sức tháo gỡ khó khăn, khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho Đại hội VI, đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, qua đời. Ngày 14-7-1986, Hội nghị bất thường Ban Chấp hành Trung ương khoá V đã bầu đồng chí Trường Chinh, Uỷ viên Bộ Chính trị làm Tổng Bí thư. Từ giữa năm 1986 đến tháng 11-1986, Đại hội vòng 1 các cấp từ cơ sở quận, huyện đến tỉnh, thành phố và các Đảng bộ trực thuộc Trung ương góp ý kiến vào các văn kiện Đại hội, phản ánh những thực tế nóng bỏng của cuộc sống xã hội. Tháng 7-1986, sau khi sơ bộ tổng hợp ý kiến đóng góp của Đại hội Đảng bộ vòng 1 các cấp, Bộ Chính trị nhận thấy dự thảo Báo cáo chính trị lần thứ nhất chưa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; chưa rút ra được những bài học cơ bản từ thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội; chưa đề ra được nội dung đổi mới về kinh tế để có thể làm chuyển biến tình hình. Tháng 8-1986,Hội nghị Bộ Chính trị và Ban Bí thư đã thảo luận kỹ ba vấn đề lớn về kinh tế thời kỳ quá độ: cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý kinh tế. Hội nghị cho rằng, phương hướng cơ bản để tháo gỡ là giải phóng năng lực sản xuất hiện có, khai thác và phát huy mọi tiềm năng của đất nước để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Hội nghị chỉ rõ: Hơn 10 năm qua, chúng ta đã mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư..., chúng ta muốn đi nhanh nhưng thực tế đã đi đường vòng, gây thêm cho mình những khó khăn mới và lãng phí thời gian, làm cho chặng đường đầu tiên bị kéo dài. Về cơ cấu kinh tế: Hội nghị vạch ra sai lầm chủ quan, nóng vội, quy mô quá lớn, nhịp độ quá nhanh trong xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất là một nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất trong 5 năm gần đây như giẫm chân tại chỗ, năng suất lao động giảm sút, chi phí sản xuất không ngừng tăng lên, tình hình kinh tế - xã hội ngày càng không ổn định. Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp chậm giải quyết vấn đề căn bản là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và tạo nguồn hàng lớn cho xuất khẩu. Căn cứ vào nhận định trên, Hội nghị chủ trương điều chỉnh lớn trên cơ sở bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Hội nghị nhắc nhở các cấp đảng bộ và cơ quan nhà nước hiểu cho thấu đáo chuyển hướng là việc rất khó khăn, đòi hỏi phải đổi mới cách suy nghĩ và cách làm, dám thừa nhận và thay đổi các sai lầm trước đây của chính mình, dũng cảm xử lý những phức tạp nảy sinh trong quá trình chuyển hướng và điều chỉnh. [I][B]Về cải tạo xã hội chủ nghĩa:[/B][/I] Sau khi điểm qua những khuyết điểm nóng vội, chạy theo hình thức của công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa thời gian qua, Hội nghị chỉ ra nguyên nhân là do chưa nắm vững quy luật đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Quy luật này đòi hỏi: - Cải tạo quan hệ sản xuất cũ ở một nước từ sản xuất nhỏ đi lên như nước ta, trình độ xã hội hoá còn thấp, phải biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp, phải qua những bước trung gian quá độ từ thấp lên cao và từ nhỏ đến lớn, làm cho quan hệ sản xuất luôn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. - Đặc trưng thời kỳ quá độ là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần: a- Kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh và tập thể); b- Các thành phần khác: công tư hợp doanh, tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, tiểu thương, kinh tế tự nhiên) và kinh tế tư bản tư nhân tồn tại trong một thời gian dài. Đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất. Kinh tế xã hội chủ nghĩa phải giữ vai trò chủ đạo. [B][I]Về cơ chế quản lý kinh tế:[/I][/B] Hội nghị cho rằng, cơ chế quản lý kinh tế cũ mang nặng tính chất tập trung quan liêu. Đặc trưng của cơ chế ấy là cơ quan quản lý hành chính có toàn quyền quyết định những vấn đề kinh tế nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về các quyết định của mình: không tính tới hiệu quả sử dụng tiền vốn, tài sản, vật tư, lao động; không gắn trách nhiệm với lợi ích vật chất, tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động; bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng lớp trung gian, cửa quyền, kém năng động, thiếu trách nhiệm. [B][I]Hội nghị nêu nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa là:[/I][/B] - Đổi mới kế hoạch hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hoá - tiền tệ. - Làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, tự tạo vốn và hoàn vốn, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, thu nhập của tập thể và người lao động phải căn cứ vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. - Phân biệt chức năng quản lý hành chính - kinh tế của Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. - Phân công, phân cấp bảo đảm các quyền tập trung thống nhất của Trung ương trong những khâu then chốt về kinh tế, quyền chủ động của địa phương trên địa bàn lãnh thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở. Trách nhiệm đi đôi với quyền hạn, nghĩa vụ gắn liền với lợi ích. Vừa chống tập trung quan liêu vừa chống tự do vô tổ chức, vô kỷ luật, cục bộ, địa phương. Công tác kế hoạch hoá phải được kết hợp chặt chẽ với thị trường. Kế hoạch phải thông qua thị trường, coi thị trường là căn cứ để xây dựng và điều chỉnh kế hoạch, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nhà nước cần sử dụng những biện pháp quản lý có hiệu quả kinh tế tư bản tư nhân, nghiêm trị bọn đầu cơ buôn lậu nhưng không thể xoá bỏ thị trường tự do theo ý muốn chủ quan bằng mệnh lệnh hành chính. - Chính sách giá cả phải vận dụng tổng hợp nhiều quy luật, trong đó quy luật giá trị có tác dụng trực tiếp, giá cả phải phù hợp với giá trị, sức mua của đồng tiền và quan hệ cung - cầu. Thước đo chính sách giá cả đúng đắn là ở chỗ làm cho người lao động làm ra nhiều sản phẩm hàng hoá, tích cực phấn đấu giảm tiêu hao sản xuất, hạ giá thành, nâng cao giá trị sản phẩm và hăng hái bán sản phẩm cho Nhà nước. Phấn đấu thi hành chính sách một giá, làm cho thương nghiệp mua được, bán được, Nhà nước không phải bù lỗ, không tạo ra nhu cầu giả tạo, ngăn chặn các hiện tượng thất thoát hàng hoá, tạo điều kiện giảm bớt căng thẳng cung - cầu và ổn định thị trường. Trong điều kiện Nhà nước chưa đủ điều kiện bảo đảm một số mặt hàng thiết yếu thì tạm thời áp dụng chính sách hai giá ở những nơi, những lúc nhất định. Những kết luận trên đây của Bộ Chính trị là cơ sở để đổi mới và hoàn chỉnh dự thảoBáo cáo chính trị trình Đại hội VI, là căn cứ để giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt, đồng thời là sự đổi mới tư duy về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mở đường đưa đất nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Những kết luận của Bộ Chính trị (8-1986)là bước đột phá thứ ba để đi đến khẳng định đường lối đổi mới. Hội nghị lần thứ mười một Ban Chấp hành Trung ương khoá V (tháng 11-1986) đã thông qua dự thảoBáo cáo chính trị mới được bổ sung và hoàn chỉnh bằng những quan điểm của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 8-1986. Hội nghị cho rằng: Sau khi đã có chủ trương đổi mới thì việc lựa chọn cán bộ để thực hiện chủ trương trở thành khâu quyết định. Hội nghị nhất trí nêu ra những tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ: đổi mới tư duy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; đồng thời nhấn mạnh công tác cán bộ phải đảm bảo đủ quy trình; Ban Chấp hành Trung ương cần có yêu cầu về chất lượng cao và có 3 độ tuổi; bố trí cán bộ cân đối cả nước, coi trọng các địa bàn, lĩnh vực quan trọng. Căn cứ vào những tiêu chuẩn trên đây, Hội nghị đã xem xét, lựa chọn, giới thiệu 177 đồng chí tham gia Ban Chấp hành Trung ương khoá VI. Hội nghị lần thứ mười haiBan Chấp hành Trung ương khoá V (tháng 12-1986) căn bản nhất trí với danh sách giới thiệu của Hội nghị lần thứ mười một, có điều chỉnh một số trường hợp và thông qua danh sách cuối cùng trình Đại hội VI. [B]2. Tiến hành Đại hội[/B] Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được tiến hành tại Hà Nội từ ngày 5 -12-1986. Về dự Đại hội VI có 1.129 đại biểu chính thức, thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên cả nước, 35 đoàn đại biểu các đảng anh em, các tổ chức cách mạng và bầu bạn khắp năm châu, 300 nhà báo trong và ngoài nước. Đại hội nội bộ tiến hành từ ngày 5 đến ngày 14-12-1986. Đại hội đi sâu nghiên cứu và góp ý kiến vàoBáo cáo chính trị. Đại hội nhất trí khẳng định: Nhân dân ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong thời kỳ 1981 - 1985. So với 5 năm trước (1976 - 1980), thời kỳ này nông nghiệp bình quân hàng năm tăng gần 5%. Tổng sản lượng lương thực năm 1986 tăng hơn 3 triệu tấn so với năm 1981. Sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 9,5%. Thu nhập quốc dân bình quân hàng năm tăng 6,4%. Công trình thuỷ điện Hoà Bình, Trị An đang được xây dựng, dầu mỏ bắt đầu được khai thác. Cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến thêm một bước, đặc biệt chủ trương khoán sản phẩm theo Chỉ thị 100 đã mở lối ra cho quan hệ sản xuất ở nông thôn cũng như chủ trương nhiều nguồn cân đối và 3 phần kế hoạch trong Quyết định 25-CP đang mở đường cho sản xuất công nghiệp.Văn hoá xã hội phát triển. Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đã giành được những thắng lợi to lớn. Nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân Lào và Campuchia được thực hiện tốt, góp phần tăng cường quan hệ giữa ba nước Đông Dương. Quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa thêm chặt chẽ. Những thành tựu trên đã tạo cho sự nghiệp cách mạng nước ta những nhân tố mới để tiếp tục tiến lên. Báo cáo chính trị đã nghiêm khắc chỉ ra tính chất nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội : sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được; tài nguyên bị lãng phí; phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Thiếu sót lớn nhất là chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân - mục tiêu hàng đầu do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đề ra. Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là những sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn; về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện của Đảng và của Nhà nước. Sai lầm thể hiện trên các mặt: xác định mục tiêu và bước đi không sát thực tế nước ta, không coi trọng khôi phục kinh tế là nhiệm vụ cấp bách; nông nghiệp vẫn chưa thực sự là mặt trận hàng đầu; muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa trong vòng 5 năm; chưa biết kết hợp kế hoạch hoá với quan hệ hàng hoá - tiền tệ; mắc sai lầm rất nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thông. Trên lĩnh vực tư tưởng đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận, chậm tổng kết kinh nghiệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong công tác tổ chức, chậm thực hiện đổi mới công tác cán bộ. Lựa chọn và bố trí cán bộ chỉ nhấn mạnh học vị, bằng cấp mà không chú ý đến thực chất năng lực làm việc và kinh nghiệm rèn luyện thực tế. Phong cách lãnh đạo mang nặng chủ nghĩa quan liêu. Việc điều chỉnh địa giới lãnh thổ thiếu căn cứ khoa học, dẫn đến nhiều tỉnh, huyện quá lớn, hợp tác xã quá rộng. Ban Chấp hành Trung ương khoá V tự phê bình nghiêm túc trước Đại hội: "Trách nhiệm trước hết thuộc về Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng". [B][I]Báo cáo chính trị nêu ra bốn bài học kinh nghiệm:[/I][/B] Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc". Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Báo cáo chính trị xác định nhiệm vụ chung của chặng đường đầu tiên là:ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc công nghiệp hoá trong chặng đường tiếp theo. [I][B]Mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội của chặng đường đầu tiên là:[/B][/I] [I]1. Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ. 2. Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất khẩu. 3. Làm cho thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động. 4. Tạo ra chuyển biến về mặt xã hội, việc làm, công bằng xã hội, chống tiêu cực, mở rộng dân chủ, giữ kỷ cương phép nước. 5. Củng cố quốc phòng và an ninh.[/I] Về chính sách đối ngoại, Báo cáo chính trị nêu rõ: Góp phần phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Về phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, Báo cáo chính trị đề ra khẩu hiệu "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", và nêu rõ: tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu bảo đảm huy động lực lượng to lớn của quần chúng. Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Báo cáo chính trị nêu ra 6 yêu cầu: 1. Đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ đảng viên và nhân dân là nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng. Coi trọng công tác lý luận, cung cấp nội dung cho sự nghiệp đổi mới. Đổi mới cả về nội dung, hình thức, phương pháp, con người và phương tiện làm công tác tư tưởng. Đổi mới đội ngũ cán bộ giảng dạy, viết lại sách giáo khoa và đổi mới cách dạy học ở các trường của Đảng, Nhà nước và đoàn thể. 2. Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Trước hết phải đổi mới công tác cán bộ, bộ máy, cơ chế và đội ngũ những người làm công tác cán bộ. Tiêu chuẩn để đánh giá cán bộ là hiệu quả công tác. Chấm dứt tình trạng bổ nhiệm cán bộ không có hiểu biết hoặc kém chuyên môn vào các cương vị lãnh đạo và quản lý cơ quan chuyên môn. Thực hiện chế độ bãi miễn đối với cán bộ vô trách nhiệm, thiếu năng lực. 3. Đổi mới phong cách làm việc, mở rộng dân chủ, khuyến khích năng động, sáng tạo trên cơ sở nguyên tắc, đường lối của Đảng. Hoàn chỉnh các chế độ hội nghị, kiểm tra, tự phê bình và phê bình, điều tra nghiên cứu, nắm thông tin nhanh chóng, chính xác, tiếp xúc và lắng nghe ý kiến quần chúng, tổng kết kinh nghiệm, lãnh đạo tập thể. 4. Nâng cao chất lượng đảng viên. Mở cuộc vận động làm trong sạch Đảng. Học tập đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chống tham nhũng, chống đặc quyền đặc lợi, đưa lên phương tiện thông tin đại chúng những vụ sai lầm nghiêm trọng về phẩm chất. 5. Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở. Tạo điều kiện để quần chúng tham gia xây dựng Đảng. 6. Tăng cường đoàn kết, nhất trí trong Đảng. Báo cáo chính trị được Đại hội hoan nghênh và bổ sung phong phú thêm. Gần 700 ý kiến của đại biểu đề nghị nhấn mạnh việc tổng kết kinh nghiệm, giải quyết những trường hợp mất đoàn kết, đổi mới đội ngũ cán bộ cho đúng thực chất, vận dụng chính sách đối ngoại truyền thống. Báo cáo về phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 1986 - 1990 đã cụ thể hoá những vấn đề kinh tế và xã hội lớn nêu trong Báo cáo chính trị, trước hết là ba chương trình lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nhiều đoàn đại biểu cho rằng, Báo cáo kinh tế chưa tìm ra những giải pháp làm giảm nhịp độ tăng giá, giảm khó khăn trong đời sống của người ăn lương; đề nghị chỉ nêu dựa trên các nguồn lực đã nắm được để tập trung cho ba chương trình kinh tế lớn; phấn đấu thi hành chính sách một giá, tạm thời duy trì chính sách hai giá ở những nơi, những lúc Nhà nước chưa có đủ lực lượng. Báo cáo về sửa đổi Điều lệ Đảng được Đại hội thảo luận và bổ sung. Đại hội nhắc lại tiêu chuẩn của đảng viên là có lao động, không bóc lột. Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tập trung, thống nhất về mọi mặt của Đảng; trên cơ sở đảm bảo sự lãnh đạo tập thể của tổ chức đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy ở tất cả các cấp trong quân đội. Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư do Ban Chấp hành Trung ương cử ra. Về kỷ luật của Đảng, chậm nhất là 1 năm sau khi đảng viên bị thi hành kỷ luật, tổ chức đảng phải nghe đảng viên báo cáo về tình hình sửa chữa khuyết điểm, nếu xét thấy đảng viên thực sự đã sửa chữa và tiến bộ thì quyết định công nhận đảng viên đã sửa chữa khuyết điểm, tổ chức đảng không có định kiến trong việc sử dụng, cất nhắc những đảng viên đó. Từ ngày 9 đến ngày 13-12-1986, sau khi nghe và thảo luận Báo cáo đề nghị của Ban Chấp hành Trung ương về nhân sự, tiêu chuẩn, cấu trúc, số lượng Ban Chấp hành Trung ương mới,Đại hội tiến hành bầu cử. Ban Chấp hành Trung ương mới gồm có 173 đồng chí (124 uỷ viên chính thức, 49 uỷ viên dự khuyết). Có 92 đồng chí khoá V được bầu lại và 81 đồng chí mới được bầu. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khoá VI họp ngày 14-12-1986 đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 uỷ viên chính thức và 1 uỷ viên dự khuyết (9 đồng chí uỷ viên cũ và 5 đồng chí uỷ viên mới). Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư. Ban Bí thư gồm 12 đồng chí và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Đảng gồm 7 đồng chí. [B]Đại hội công khai họp từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986. [/B] Ngày 15-12, Đại hội nghe đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương khoá V trình bày Tóm tắt báo cáo chính trị; đồng chí Võ Văn Kiệt, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trình bày tóm tắtPhương hướng, mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 1986 - 1990; đồng chí Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị trình bày Báo cáo bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong Điều lệ Đảng. Các ngày tiếp theo, Đại hội nghe tham luận của các đại biểu. Tham luận của các đoàn đại biểu quốc tế đều nói lên tình cảm gắn bó với Đảng ta và nhân dân ta, đánh giá cao tinh thần dũng cảm tự phê bình của Đảng ta, bày tỏ lòng tin ở con đường và sức sống của Việt Nam đổi mới. Chiều ngày 17-12, Đại hội nghe đồng chí Phạm Hùng báo cáo về đề nghị không ứng cử của ba đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ. Đại hội tuyên dương công trạng to lớn vì nước vì dân của ba đồng chí đã làm nổi bật truyền thống cao đẹp của dân tộc ta: Truyền thống thế hệ trước ân cần dìu dắt thế hệ sau, thế hệ sau kế tục trung thành với sự nghiệp của thế hệ trước. Đại hội nhất trí trao trách nhiệm cao cả cho ba đồng chí làm cố vấn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ngày 18-12, Đại hội thông qua Nghị quyết về Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế và Báo cáo xây dựng Đảng. Nghị quyết Đại hội VI khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá VI chỉ đạo việc hoàn thành 10 nhiệm vụ cụ thể để thực hiện Nghị quyết Đại hội. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đọc Diễn văn bế mạc Đại hội. Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với tầm nhìn thấu rõ thực trạng đất nước, tổng kết được những kinh nghiệm từ thực tiễn thành công và thất bại; với ý thức trách nhiệm vì dân, vì nước, dũng cảm thừa nhận sai lầm, khuyết điểm, với tinh thần đoàn kết, nhất trí cao. Đại hội VI đã tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, Đại hội VI còn có hạn chế về những giải pháp tháo gỡ tình trạng rối ren trong phân phối, lưu thông. Từ tháng 3-1979 đến tháng 12-1986, nhân dân ta và Đảng ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách vô cùng gay go, quyết liệt. Thành công nổi bật của giai đoạn này chưa phải là giải quyết được cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội mà chủ yếu là tìm ra con đường đúng đi lên chủ nghĩa xã hội, ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế. Qua 8 năm trăn trở, suy tư, từ những thử nghiệm thành công về khoán sản phẩm trong nông nghiệp và giao quyền tự chủ trong công nghiệp đến những thực tiễn thất bại, thành công trong lựa chọn cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, toàn dân ta hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng: con đường đúng đắn đã được tìm ra. Đó là con đường đúng đắn vì con đường đó hợp với lòng dân, ngày càng được thực tiễn cuộc sống chứng minh là phù hợp quy luật của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, dù đây mới chỉ là tìm tòi ban đầu. Tìm ra con đường thích hợp và giải pháp ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, một lần nữa Đảng ta tỏ rõ bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường. Qua quá trình tìm tòi con đường thích hợp, Đảng ta đã rút ra một số kinh nghiệm: 1. Muốn tìm ra con đường đúng, điều kiện tiên quyết là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng thực trạng đất nước. Tổng kết thực tiễn một cách công phu và khoa học là phương pháp tốt nhất đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên nhân, con đường. 2. Tổng kết thực tiễn đòi hỏi phải biết lắng nghe các ý kiến khác nhau, phân tích từng loại ý kiến, tự đặt câu hỏi và tìm cách trả lời để khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí. [B][I][RIGHT](Nguồn: Báo ĐT ĐCS)[/RIGHT][/I][/B] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 8:Tìm tòi con đường thích hợp đi lên Chủ nghĩa Xã hội (1975-1986)
Top