Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 7: Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam thống
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 17537" data-attributes="member: 699"><p><strong>II. TẠO THẾ, TẠO LỰC VÀ TẠO THỜI CƠ CHO TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG, QUYẾT ĐỊNH LỊCH SỬ THÁNG 10-1974</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>1. Tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ cho trận đánh cuối cùng</strong></p><p></p><p>Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III được thực hiện, làm cho cục diện cách mạng miền Nam có sự thay đổi lớn.Từ thế bị động đối phó, chiến tranh cách mạng miền Nam chuyển lên chủ động phản công và tiến công, bẻ gẫy kế hoạch lấn chiếm của Mỹ - nguỵ. Từ chỗ mất đất, mất dân, chuyển lên thu hồi và mở rộng vùng giải phóng, đẩy Mỹ - nguỵ vào tình trạng bế tắc, suy sụp. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21, tháng 10-1973, Hội nghị Quân uỷ Trung ương vạch rõ : nhiệm vụ trung tâm số 1 về mặt quân sự lúc này là phá bình định, lấn chiếm, giành quyền làm chủ.</p><p></p><p>Trong những tháng cuối năm 1973, phong trào phản công, tiến công, chống lấn chiếm, phá bình định bùng lên mạnh mẽ trong toàn miền. Ở miền Tây Nam Bộ, quân dân ta đã đập tan cuộc hành quân lấn chiếm dài ngày của 76 tiểu đoàn nguỵ trên địa bàn Chương Thiện. Ở Trung Nam Bộ, quân dân ta phản công lấy lại một số vùng Nam - Bắc lộ 4, Mỹ Tho, Bến Tre, khôi phục vùng giải phóng. Ở Đông Nam Bộ, giải phóng Bù Bông (Tuy Đức), tiến công sân bay BiênHoà và kho xăng Nhà Bè, lực lượng vũ trang áp sát vùng ven Sài Gòn. Ở Cực Nam Trung Bộ, đánh phá tuyến đường sắt Phan Rang - Phan Thiết, bức rút một số đồn. Ở Trung Trung Bộ, giành lại nhiều vùng bị địch lấn chiếm ở Duy Xuyên, Điện Bàn (Quảng Nam), Phù Mỹ (Bình Định), Sơn Tịnh (Quảng Ngãi), bẻ gẫy cuộc tiến công lấn chiếm của quân nguỵ ở Hoài Nhơn (Bình Định). Ngày 22-9-1973, lực lượng vũ trang Tây Nguyên giải phóng Chư Nghé, đánh thông đường tiếp vận chiến lược Đông Trường Sơn. Ở Trị Thiên, ta giữ vùng giải phóng như trước Hiệp định.</p><p></p><p>Song song với đòn phản công và tiến công, nhân dân miền Nam đã mở nhiều đợt đấu tranh chính trị đòi hoà bình, hiệp thương, đòi thi hành Hiệp định Pari, phá ấp chiến lược, làm tan rã nguỵ quyền, đòi quyền dân sinh dân chủ. Hàng trăm ngàn đồng bào ở các vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Trung Bộ bỏ ấp chiến lược trở về nhà sản xuất. Ở đô thị, các phong trào chống thuế gia tăng, chống nạn khan hiếm lúa gạo, chống bắt lính kết hợp với cuộc vận động đào, rã ngũ trong binh sĩ nguỵ liên tiếp nổ ra. Trong năm 1973 có khoảng 135.000 binh sĩ nguỵ bỏ về nhà.</p><p></p><p>Chiến tranh chuyển lên quy mô lớn, yêu cầu mở rộng lực lượng vũ trang và bổ sung tổn thất đặt ra hết sức khẩn trương. Yêu cầu đó chủ yếu đặt lên vai hậu phương miền Bắc.</p><p></p><p>Tháng 12-1973, Hội nghị thứ 22 Ban Chấp hành Trung ương khoá III họp bàn về khôi phục kinh tế ở miền Bắc.</p><p></p><p>Hội nghị xác định nhiệm vụ của miền Bắc trong giai đoạn mới là nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu của đế quốc Mỹ và tay sai; ra sức làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với miền Nam và nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia.</p><p></p><p>Hội nghị thông qua phương hướng, kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế trong 2 năm 1973 - 1974 nhằm đưa mức sản xuất lên bằng hoặc cao hơn mức đã đạt được năm 1965 và năm 1971.</p><p></p><p>Năm 1974, hai vụ lúa được mùa,sản xuất hoa màu phát triển mạnh khắp các địa phương. Nông dân tập thể nộp và bán đủ nghĩa vụ cho Nhà nước. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp vượt kế hoạch 4%. Sản xuất đã đạt và vượt mức năm 1965 và năm 1971. Năm học 1974 - 1975 có 6.630.900 người đi học (so với số dân miền Bắc lúc ấy là 21.700.000 người). Tính bình quân cứ 1 vạn dân có 11,7 bác sĩ, y sĩ (năm 1965: 5,2).</p><p>Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trước mắt, Đảng ta không quên chuẩn bị cho kế hoạch lâu dài. Tháng 2 -1973, Bộ Chính trị ra nghị quyết về công tác cán bộ trong giai đoạn mới. Nghị quyết nêu 5 tiêu chuẩn cán bộ: 1- Trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội; 2- Nhất trí với đường lối, quan điểm của Đảng; 3- Có năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ; 4- Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân; 5- Có ý thức tổ chức và kỷ luật.</p><p></p><p>Tháng 12-1974, Ban Chấp hành Trung ương khoá III họp Hội nghị lần thứ 23 bàn về : Tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng.</p><p></p><p>Đúc kết kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng giai đoạn đã qua, Hội nghị nêu ra 3 phương châm: 1- Xây dựng Đảng phải gắn liền với việc nâng cao năng lực quản lý, kiện toàn tổ chức của Nhà nước và việc xây dựng, củng cố các đoàn thể quần chúng; 2- Nâng cao chất lượng đảng viên phải kết hợp với nâng cao chất lượng cán bộ, với kiện toàn cơ quan lãnh đạo từng cấp, từng ngành; 3- Phát triển Đảng phải coi trọng chất lượng, phát triển phải đi đôi với củng cố.</p><p></p><p>Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III tháng 10-1973, Bộ Chính trị phê chuẩn kế hoạch của Quân uỷ trung ương và Bộ Quốc phòng xây dựng các quân đoàn chủ lực. Từ tháng 10 -1973 đến tháng 3 -1975, bốn quân đoàn lần lượt ra đời. Song song với việc hình thành và bố trí các quân đoàn trên các địa bàn chiến lược, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực cơ động trực thuộc Bộ Quốc phòng và các quân khu cũng được tăng cường.</p><p></p><p>Từ cuối năm 1973, các cuộc tập huấn cán bộ quân sự được tổ chức để nâng cao nghệ thuật tổ chức và chỉ huy các chiến dịch tiến công, chiến dịch phòng ngự. Trong những năm 1973 - 1975 đã có gần nửa triệu thanh niên nhập ngũ, lên đường ra mặt trận.</p><p></p><p>Tháng 11-1973, Hội đồng Chính phủ phê chuẩn thiết kế xây dựng hệ thống đường vận tải chiến lược Trường Sơn Đông và nâng cấp đường Trường Sơn Tây. Tháng 1-1975, xăng dầu vận hành bằng đường ống đã vào đến miền Đông Nam Bộ.</p><p></p><p>Trong tháng 3, 4 và 5 năm 1974, Quân giải phóng mở cuộc tiến công ở biên giới Việt Nam - Campuchia, giải phóng các vị trí Lệ Ngọc (ngày 8-3), Tống Lê Chân (ngày 12-4), Con Rốc (ngày 24-4), Riné (ngày 15-4). Rạch Bắp, Đắc Pét (ngày 16-5), Iaxúp (ngày 30-5). Vùng giải phóng Tây Nguyên mở rộng, liên hoàn với vùng giải phóng Đông Nam Bộ, mở ra thế trận áp sát Sài Gòn. Vùng giải phóng đồng bằng Khu V và đồng bằng Nam Bộ mở rộng, vùng kiểm soát của địch ngày càng thu hẹp.</p><p></p><p>Ngày 18-7-1974, quân giải phóng tiến công cụm cứ điểm Nông Sơn - Trung Phước (Quảng Nam), diệt 2 tiểu đoàn chủ lực cơ động nguỵ, giải phóng 13.000 dân. Vùng giải phóng tỉnh Quảng Nam mở rộng đến sát đường số 1. Vùng giải phóng tỉnh Quảng Ngãi mở rộng đến sát biển. Vùng nông thôn Bắc Bình Định căn bản được giải phóng. Vùng giải phóng tỉnh Phú Yên được khôi phục.</p><p></p><p>Phát huy chiến thắng Nông Sơn - Trung Phước, ngày 7-8-1974, quân giải phóng giành được thắng lợi vang dội, hoàn toàn làm chủ chi khu quận lỵ Thượng Đức (Quảng Nam), tiêu diệt 1.600 tên, giải phóng 11.000 dân. Chiến thắng Nông Sơn - Thượng Đức đã tạo cho quân ta một bàn đạp tiến công mới, tuyến phòng thủ ngoài cùng của Đà Nẵng bị xoá bỏ, Thành phố Đà Nẵng bị uy hiếp từ phía Tây Nam. Thừa thắng xốc tới, quân giải phóng hoàn toàn làm chủ các chi khu, quận lỵ Minh Long (ngày 10-8), Măng Bút (ngày 20-8); Giá Vụt (ngày 20-9), Măng Đẻn (ngày 30-10). Cho đến tháng 12-1974, một loạt chi khu, quận lỵ đã được giải phóng: Bà Mi, Châu Thành A, Đức Phong, Bố Đúc, Hưng Long, Tánh Linh, Đồng Xoài, Bù Đốp. Ở Đông Nam Bộ, thời gian này, quân dân ta đã giải phóng một vùng rộng ở Nam đường số 7, Bắc sông Đồng Nai, tiến công hàng chục vị trí địch ven Sài Gòn, đặc biệt là trận tập kích kho xăng Nhà Bè (ngày 2-6-1974).</p><p></p><p>Từ tháng 7 đến tháng 10-1974, quân dân Tây Nam Bộ đã đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm, giải phóng gần 800.000 dân. Quân dân Trung Nam Bộ mở rộng vùng giải phóng Đồng Tháp Mười, giải phóng 130.000 dân. Trung Trung Bộ giải phóng 200.000 dân.</p><p></p><p>Trên toàn miền Nam, vùng giải phóng có gần 5 triệu người dân, vùng tranh chấp trên 5 triệu dân. Địch chỉ còn kiểm soát được 9,5 triệu dân.</p><p>Năm 1974, tình thế mới xuất hiện trên chiến trường miền Nam. Quân, dân ta đã giải phóng và giữ được hàng chục chi khu, quận lỵ, nguỵ quyền Sài Gòn đành chịu bó tay, không còn khả năng lấy lại được. Tình thế này chứng tỏ quân chủ lực cơ động của ta đã mạnh hơn hẳn quân chủ lực cơ động của địch, khả năng giải phóng hoàn toàn miền Nam đã chín muồi.</p><p>Trong khi lực lượng mọi mặt của nhân dân ta lớn mạnh, thì lực lượng mọi mặt của Mỹ - nguỵ ở miền Nam đang suy sụp, tan rã. Tiếp theo việc cắt bỏ kinh phí ném bom Campuchia, tháng 6 - 1994, Quốc hội Mỹ lại bác bỏ yêu sách của Níchxơn đòi viện trợ bổ sung 216 triệu đôla cho chính quyền Sài Gòn.</p><p></p><p>Ngày 9-8-1974, Tổng thống Níchxơn buộc phải tuyên bố từ chức, điều này chứng tỏ chính sách kéo dài chiến tranh của Mỹ đã hoàn toàn phá sản. Xu thế chung của nhân dân Mỹ là chấm dứt chiến tranh. Ghêron Pho (Gerald Ford) lên thay Níchxơn làm Tổng thống cũng không cưỡng nổi xu thế này. G.Pho tuyên bố rằng, cần theo đuổi chính sách kiềm chế tương đối ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Thực tế hành động của G.Pho đã chứng minh chính sách đó có nghĩa là bỏ rơi ngụy quyền Sài Gòn.</p><p></p><p>Ngày 13-8-1974, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra thông báo nhận định: Trước tình cảnh khốn cùng, giai cấp thống trị Mỹ đã dùng Níchxơn làm vật hy sinh, hòng làm dịu mâu thuẫn của Chính phủ Mỹ và nhân dân Mỹ. Thông báo vạch rõ: Ta không có ảo tưởng về sự thay đổi tổng thống ở Mỹ, đây chỉ là một thủ đoạn thay ngựa giữa dòng của tập đoàn tư bản lũng đoạn Mỹ để cứu vãn tình thế.</p><p></p><p>Việc Níchxơn từ chức có ảnh hưởng trực tiếp tới nguỵ quyền Sài Gòn. Trong ngày Níchxơn từ chức, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh báo động toàn miền.</p><p></p><p>Ngày 28-8-1974, giáo hội Thiên chúa thành lập "Phong trào nhân dân chống tham nhũng để cứu nước và kiến tạo hoà bình". Trong tháng 9 và tháng 10, các tổ chức "Lực lượng hoà bình và hoà hợp dân tộc", "Mặt trận nhân dân cứu đói", "Uỷ ban đấu tranh đòi thả tù chính trị" ra đời. Ngày 8 và 15-9-1974, hàng vạn đồng bào Huế xuống đường biểu tình chống khủng bố báo chí, bóp nghẹt tự do dân chủ, đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức.</p><p></p><p>Trước cuộc khủng hoảng sâu sắc của nguỵ quyền Sài Gòn, đại sứ Mỹ G.Matin- trùm cố vấn Mỹ, buộc Nguyễn Văn Thiệu phải làm dịu tình hình bằng cách cách chức 4 thành viên trong chính phủ, cách chức 400 tướng tá và thuyên chuyển 3 tư lệnh quân khu. Có những dấu hiệu Mỹ đang xoay con bài mới, trở lại Hiệp định Pari, đưa lực lượng thứ ba ra sân khấu chính trị Sài Gòn.</p><p></p><p><strong>2. Quyết định lịch sử của Bộ Chính trị tháng 10-1974 và tháng 1-1975 về giải phóng hoàn toàn miền Nam</strong></p><p></p><p>Những cuộc phản công và tiến công thắng lợi của quân giải phóng đã đẩy nhanh thời cơ chín muồi cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam.</p><p>Ngày 21-7-1974, tại thị xã Đồ Sơn, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đã nghe các đồng chí lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu báo cáo về sự chuyển biến mới của chiến trường miền Nam. Đồng chí Lê Duẩn phân tích âm mưu mới của đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch là chia vùng ảnh hưởng và chia cắt lâu dài nước ta. Đảng và nhân dân ta phải nắm vững thời cơ để giành thắng lợi sớm, trước khi các thế lực đó thực hiện âm mưu của chúng. Bộ Tổng tham mưu được giao nhiệm vụ chuẩn bị kế hoạch chiến lược giành thắng lợi năm 1975, giành thắng lợi quyết định năm 1976 trình Bộ Chính trị.</p><p>Từ ngày 30-9 đến ngày 8-10-1974, Hội nghị Bộ Chính trị đợt 1 bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam.</p><p></p><p>Đánh giá về khả năng Mỹ có can thiệp trở lại miền Nam Việt Nam hay không, Hội nghị cho rằng: Mỹ rất ngoan cố và còn nhiều âm mưu thâm độc, nhưng đã rút quân ra thì việc quay lại không phải dễ; dù Mỹ có can thiệp trở lại chừng mực nào đó thì cũng không xoay chuyển được tình thế. Nhân dân ta vẫn thắng.</p><p></p><p>Từ kết luận trên, Hội nghị đề ra nhiệm vụ trung tâm trước mắt của nhân dân cả nước ta là: Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà. Hội nghị quyết định giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976.</p><p></p><p>Ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974, một không khí khẩn trương chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công toả xuống các chiến trường, các quân binh chủng và các địa phương.</p><p></p><p>Ngày 8-10-1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra tuyên bố đòi Mỹ chấm dứt mọi can thiệp, đòi đánh đổ Nguyễn Văn Thiệu và phe cánh - trở ngại chính cho việc giải quyết các vấn đề chính trị ở miền Nam Việt Nam.</p><p></p><p>Đợt 2 của Hội nghị Bộ Chính trị họp từ ngày 8-12-1974 đến ngày 7-1-1975. Hội nghị cho rằng, thế và lực mới của cách mạng đã thể hiện trên các mặt sau đây:một là, ta đã giành quyền chủ động tiến công địch trên khắp các chiến trường;hai là, những binh đoàn chủ lực cơ động và những nguồn dự trữ chiến lược của ta đã được xây dựng đủ; ba là, phong trào đấu tranh chính trị đòi hoà bình, độc lập, hoà hợp dân tộc đã được phát động; bốn là, thế giới đồng tình, ủng hộ ta trừng trị bọn lấn chiếm.</p><p></p><p>Ngày 6-1-1975, tin giải phóng thị xã Phước Long làm cho Hội nghị càng thêm tin chắc rằng quân Mỹ không thể trở lại miền Nam và việc giải phóng miền Nam có thể tiến hành với nhịp độ nhanh hơn.Tiếp tục quán triệt Nghị quyết của Hội nghị đợt 1, Hội nghị đợt 2 vạch rõ:Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận đánh quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy, thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 17537, member: 699"] [B]II. TẠO THẾ, TẠO LỰC VÀ TẠO THỜI CƠ CHO TRẬN ĐÁNH CUỐI CÙNG, QUYẾT ĐỊNH LỊCH SỬ THÁNG 10-1974 1. Tạo thế, tạo lực, tạo thời cơ cho trận đánh cuối cùng[/B] Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III được thực hiện, làm cho cục diện cách mạng miền Nam có sự thay đổi lớn.Từ thế bị động đối phó, chiến tranh cách mạng miền Nam chuyển lên chủ động phản công và tiến công, bẻ gẫy kế hoạch lấn chiếm của Mỹ - nguỵ. Từ chỗ mất đất, mất dân, chuyển lên thu hồi và mở rộng vùng giải phóng, đẩy Mỹ - nguỵ vào tình trạng bế tắc, suy sụp. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21, tháng 10-1973, Hội nghị Quân uỷ Trung ương vạch rõ : nhiệm vụ trung tâm số 1 về mặt quân sự lúc này là phá bình định, lấn chiếm, giành quyền làm chủ. Trong những tháng cuối năm 1973, phong trào phản công, tiến công, chống lấn chiếm, phá bình định bùng lên mạnh mẽ trong toàn miền. Ở miền Tây Nam Bộ, quân dân ta đã đập tan cuộc hành quân lấn chiếm dài ngày của 76 tiểu đoàn nguỵ trên địa bàn Chương Thiện. Ở Trung Nam Bộ, quân dân ta phản công lấy lại một số vùng Nam - Bắc lộ 4, Mỹ Tho, Bến Tre, khôi phục vùng giải phóng. Ở Đông Nam Bộ, giải phóng Bù Bông (Tuy Đức), tiến công sân bay BiênHoà và kho xăng Nhà Bè, lực lượng vũ trang áp sát vùng ven Sài Gòn. Ở Cực Nam Trung Bộ, đánh phá tuyến đường sắt Phan Rang - Phan Thiết, bức rút một số đồn. Ở Trung Trung Bộ, giành lại nhiều vùng bị địch lấn chiếm ở Duy Xuyên, Điện Bàn (Quảng Nam), Phù Mỹ (Bình Định), Sơn Tịnh (Quảng Ngãi), bẻ gẫy cuộc tiến công lấn chiếm của quân nguỵ ở Hoài Nhơn (Bình Định). Ngày 22-9-1973, lực lượng vũ trang Tây Nguyên giải phóng Chư Nghé, đánh thông đường tiếp vận chiến lược Đông Trường Sơn. Ở Trị Thiên, ta giữ vùng giải phóng như trước Hiệp định. Song song với đòn phản công và tiến công, nhân dân miền Nam đã mở nhiều đợt đấu tranh chính trị đòi hoà bình, hiệp thương, đòi thi hành Hiệp định Pari, phá ấp chiến lược, làm tan rã nguỵ quyền, đòi quyền dân sinh dân chủ. Hàng trăm ngàn đồng bào ở các vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Trung Bộ bỏ ấp chiến lược trở về nhà sản xuất. Ở đô thị, các phong trào chống thuế gia tăng, chống nạn khan hiếm lúa gạo, chống bắt lính kết hợp với cuộc vận động đào, rã ngũ trong binh sĩ nguỵ liên tiếp nổ ra. Trong năm 1973 có khoảng 135.000 binh sĩ nguỵ bỏ về nhà. Chiến tranh chuyển lên quy mô lớn, yêu cầu mở rộng lực lượng vũ trang và bổ sung tổn thất đặt ra hết sức khẩn trương. Yêu cầu đó chủ yếu đặt lên vai hậu phương miền Bắc. Tháng 12-1973, Hội nghị thứ 22 Ban Chấp hành Trung ương khoá III họp bàn về khôi phục kinh tế ở miền Bắc. Hội nghị xác định nhiệm vụ của miền Bắc trong giai đoạn mới là nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu của đế quốc Mỹ và tay sai; ra sức làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với miền Nam và nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Campuchia. Hội nghị thông qua phương hướng, kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế trong 2 năm 1973 - 1974 nhằm đưa mức sản xuất lên bằng hoặc cao hơn mức đã đạt được năm 1965 và năm 1971. Năm 1974, hai vụ lúa được mùa,sản xuất hoa màu phát triển mạnh khắp các địa phương. Nông dân tập thể nộp và bán đủ nghĩa vụ cho Nhà nước. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp vượt kế hoạch 4%. Sản xuất đã đạt và vượt mức năm 1965 và năm 1971. Năm học 1974 - 1975 có 6.630.900 người đi học (so với số dân miền Bắc lúc ấy là 21.700.000 người). Tính bình quân cứ 1 vạn dân có 11,7 bác sĩ, y sĩ (năm 1965: 5,2). Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ trước mắt, Đảng ta không quên chuẩn bị cho kế hoạch lâu dài. Tháng 2 -1973, Bộ Chính trị ra nghị quyết về công tác cán bộ trong giai đoạn mới. Nghị quyết nêu 5 tiêu chuẩn cán bộ: 1- Trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội; 2- Nhất trí với đường lối, quan điểm của Đảng; 3- Có năng lực hoàn thành tốt nhiệm vụ; 4- Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân; 5- Có ý thức tổ chức và kỷ luật. Tháng 12-1974, Ban Chấp hành Trung ương khoá III họp Hội nghị lần thứ 23 bàn về : Tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Đúc kết kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng giai đoạn đã qua, Hội nghị nêu ra 3 phương châm: 1- Xây dựng Đảng phải gắn liền với việc nâng cao năng lực quản lý, kiện toàn tổ chức của Nhà nước và việc xây dựng, củng cố các đoàn thể quần chúng; 2- Nâng cao chất lượng đảng viên phải kết hợp với nâng cao chất lượng cán bộ, với kiện toàn cơ quan lãnh đạo từng cấp, từng ngành; 3- Phát triển Đảng phải coi trọng chất lượng, phát triển phải đi đôi với củng cố. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương khoá III tháng 10-1973, Bộ Chính trị phê chuẩn kế hoạch của Quân uỷ trung ương và Bộ Quốc phòng xây dựng các quân đoàn chủ lực. Từ tháng 10 -1973 đến tháng 3 -1975, bốn quân đoàn lần lượt ra đời. Song song với việc hình thành và bố trí các quân đoàn trên các địa bàn chiến lược, các sư đoàn, trung đoàn chủ lực cơ động trực thuộc Bộ Quốc phòng và các quân khu cũng được tăng cường. Từ cuối năm 1973, các cuộc tập huấn cán bộ quân sự được tổ chức để nâng cao nghệ thuật tổ chức và chỉ huy các chiến dịch tiến công, chiến dịch phòng ngự. Trong những năm 1973 - 1975 đã có gần nửa triệu thanh niên nhập ngũ, lên đường ra mặt trận. Tháng 11-1973, Hội đồng Chính phủ phê chuẩn thiết kế xây dựng hệ thống đường vận tải chiến lược Trường Sơn Đông và nâng cấp đường Trường Sơn Tây. Tháng 1-1975, xăng dầu vận hành bằng đường ống đã vào đến miền Đông Nam Bộ. Trong tháng 3, 4 và 5 năm 1974, Quân giải phóng mở cuộc tiến công ở biên giới Việt Nam - Campuchia, giải phóng các vị trí Lệ Ngọc (ngày 8-3), Tống Lê Chân (ngày 12-4), Con Rốc (ngày 24-4), Riné (ngày 15-4). Rạch Bắp, Đắc Pét (ngày 16-5), Iaxúp (ngày 30-5). Vùng giải phóng Tây Nguyên mở rộng, liên hoàn với vùng giải phóng Đông Nam Bộ, mở ra thế trận áp sát Sài Gòn. Vùng giải phóng đồng bằng Khu V và đồng bằng Nam Bộ mở rộng, vùng kiểm soát của địch ngày càng thu hẹp. Ngày 18-7-1974, quân giải phóng tiến công cụm cứ điểm Nông Sơn - Trung Phước (Quảng Nam), diệt 2 tiểu đoàn chủ lực cơ động nguỵ, giải phóng 13.000 dân. Vùng giải phóng tỉnh Quảng Nam mở rộng đến sát đường số 1. Vùng giải phóng tỉnh Quảng Ngãi mở rộng đến sát biển. Vùng nông thôn Bắc Bình Định căn bản được giải phóng. Vùng giải phóng tỉnh Phú Yên được khôi phục. Phát huy chiến thắng Nông Sơn - Trung Phước, ngày 7-8-1974, quân giải phóng giành được thắng lợi vang dội, hoàn toàn làm chủ chi khu quận lỵ Thượng Đức (Quảng Nam), tiêu diệt 1.600 tên, giải phóng 11.000 dân. Chiến thắng Nông Sơn - Thượng Đức đã tạo cho quân ta một bàn đạp tiến công mới, tuyến phòng thủ ngoài cùng của Đà Nẵng bị xoá bỏ, Thành phố Đà Nẵng bị uy hiếp từ phía Tây Nam. Thừa thắng xốc tới, quân giải phóng hoàn toàn làm chủ các chi khu, quận lỵ Minh Long (ngày 10-8), Măng Bút (ngày 20-8); Giá Vụt (ngày 20-9), Măng Đẻn (ngày 30-10). Cho đến tháng 12-1974, một loạt chi khu, quận lỵ đã được giải phóng: Bà Mi, Châu Thành A, Đức Phong, Bố Đúc, Hưng Long, Tánh Linh, Đồng Xoài, Bù Đốp. Ở Đông Nam Bộ, thời gian này, quân dân ta đã giải phóng một vùng rộng ở Nam đường số 7, Bắc sông Đồng Nai, tiến công hàng chục vị trí địch ven Sài Gòn, đặc biệt là trận tập kích kho xăng Nhà Bè (ngày 2-6-1974). Từ tháng 7 đến tháng 10-1974, quân dân Tây Nam Bộ đã đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm, giải phóng gần 800.000 dân. Quân dân Trung Nam Bộ mở rộng vùng giải phóng Đồng Tháp Mười, giải phóng 130.000 dân. Trung Trung Bộ giải phóng 200.000 dân. Trên toàn miền Nam, vùng giải phóng có gần 5 triệu người dân, vùng tranh chấp trên 5 triệu dân. Địch chỉ còn kiểm soát được 9,5 triệu dân. Năm 1974, tình thế mới xuất hiện trên chiến trường miền Nam. Quân, dân ta đã giải phóng và giữ được hàng chục chi khu, quận lỵ, nguỵ quyền Sài Gòn đành chịu bó tay, không còn khả năng lấy lại được. Tình thế này chứng tỏ quân chủ lực cơ động của ta đã mạnh hơn hẳn quân chủ lực cơ động của địch, khả năng giải phóng hoàn toàn miền Nam đã chín muồi. Trong khi lực lượng mọi mặt của nhân dân ta lớn mạnh, thì lực lượng mọi mặt của Mỹ - nguỵ ở miền Nam đang suy sụp, tan rã. Tiếp theo việc cắt bỏ kinh phí ném bom Campuchia, tháng 6 - 1994, Quốc hội Mỹ lại bác bỏ yêu sách của Níchxơn đòi viện trợ bổ sung 216 triệu đôla cho chính quyền Sài Gòn. Ngày 9-8-1974, Tổng thống Níchxơn buộc phải tuyên bố từ chức, điều này chứng tỏ chính sách kéo dài chiến tranh của Mỹ đã hoàn toàn phá sản. Xu thế chung của nhân dân Mỹ là chấm dứt chiến tranh. Ghêron Pho (Gerald Ford) lên thay Níchxơn làm Tổng thống cũng không cưỡng nổi xu thế này. G.Pho tuyên bố rằng, cần theo đuổi chính sách kiềm chế tương đối ở Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Thực tế hành động của G.Pho đã chứng minh chính sách đó có nghĩa là bỏ rơi ngụy quyền Sài Gòn. Ngày 13-8-1974, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra thông báo nhận định: Trước tình cảnh khốn cùng, giai cấp thống trị Mỹ đã dùng Níchxơn làm vật hy sinh, hòng làm dịu mâu thuẫn của Chính phủ Mỹ và nhân dân Mỹ. Thông báo vạch rõ: Ta không có ảo tưởng về sự thay đổi tổng thống ở Mỹ, đây chỉ là một thủ đoạn thay ngựa giữa dòng của tập đoàn tư bản lũng đoạn Mỹ để cứu vãn tình thế. Việc Níchxơn từ chức có ảnh hưởng trực tiếp tới nguỵ quyền Sài Gòn. Trong ngày Níchxơn từ chức, Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh báo động toàn miền. Ngày 28-8-1974, giáo hội Thiên chúa thành lập "Phong trào nhân dân chống tham nhũng để cứu nước và kiến tạo hoà bình". Trong tháng 9 và tháng 10, các tổ chức "Lực lượng hoà bình và hoà hợp dân tộc", "Mặt trận nhân dân cứu đói", "Uỷ ban đấu tranh đòi thả tù chính trị" ra đời. Ngày 8 và 15-9-1974, hàng vạn đồng bào Huế xuống đường biểu tình chống khủng bố báo chí, bóp nghẹt tự do dân chủ, đòi Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Trước cuộc khủng hoảng sâu sắc của nguỵ quyền Sài Gòn, đại sứ Mỹ G.Matin- trùm cố vấn Mỹ, buộc Nguyễn Văn Thiệu phải làm dịu tình hình bằng cách cách chức 4 thành viên trong chính phủ, cách chức 400 tướng tá và thuyên chuyển 3 tư lệnh quân khu. Có những dấu hiệu Mỹ đang xoay con bài mới, trở lại Hiệp định Pari, đưa lực lượng thứ ba ra sân khấu chính trị Sài Gòn. [B]2. Quyết định lịch sử của Bộ Chính trị tháng 10-1974 và tháng 1-1975 về giải phóng hoàn toàn miền Nam[/B] Những cuộc phản công và tiến công thắng lợi của quân giải phóng đã đẩy nhanh thời cơ chín muồi cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam. Ngày 21-7-1974, tại thị xã Đồ Sơn, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đã nghe các đồng chí lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu báo cáo về sự chuyển biến mới của chiến trường miền Nam. Đồng chí Lê Duẩn phân tích âm mưu mới của đế quốc Mỹ và các thế lực thù địch là chia vùng ảnh hưởng và chia cắt lâu dài nước ta. Đảng và nhân dân ta phải nắm vững thời cơ để giành thắng lợi sớm, trước khi các thế lực đó thực hiện âm mưu của chúng. Bộ Tổng tham mưu được giao nhiệm vụ chuẩn bị kế hoạch chiến lược giành thắng lợi năm 1975, giành thắng lợi quyết định năm 1976 trình Bộ Chính trị. Từ ngày 30-9 đến ngày 8-10-1974, Hội nghị Bộ Chính trị đợt 1 bàn về chủ trương giải phóng hoàn toàn miền Nam. Đánh giá về khả năng Mỹ có can thiệp trở lại miền Nam Việt Nam hay không, Hội nghị cho rằng: Mỹ rất ngoan cố và còn nhiều âm mưu thâm độc, nhưng đã rút quân ra thì việc quay lại không phải dễ; dù Mỹ có can thiệp trở lại chừng mực nào đó thì cũng không xoay chuyển được tình thế. Nhân dân ta vẫn thắng. Từ kết luận trên, Hội nghị đề ra nhiệm vụ trung tâm trước mắt của nhân dân cả nước ta là: Động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ở cả hai miền, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy cuối cùng, đưa chiến tranh cách mạng phát triển đến mức cao nhất, tiêu diệt và làm tan rã quân ngụy, đánh chiếm Sài Gòn, sào huyệt trung tâm của địch cũng như tất cả các thành thị khác, đánh đổ ngụy quyền trung ương và các cấp, giành toàn bộ chính quyền về tay nhân dân, giải phóng hoàn toàn miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, tiến tới thống nhất nước nhà. Hội nghị quyết định giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976. Ngay sau Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974, một không khí khẩn trương chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công toả xuống các chiến trường, các quân binh chủng và các địa phương. Ngày 8-10-1974, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam ra tuyên bố đòi Mỹ chấm dứt mọi can thiệp, đòi đánh đổ Nguyễn Văn Thiệu và phe cánh - trở ngại chính cho việc giải quyết các vấn đề chính trị ở miền Nam Việt Nam. Đợt 2 của Hội nghị Bộ Chính trị họp từ ngày 8-12-1974 đến ngày 7-1-1975. Hội nghị cho rằng, thế và lực mới của cách mạng đã thể hiện trên các mặt sau đây:một là, ta đã giành quyền chủ động tiến công địch trên khắp các chiến trường;hai là, những binh đoàn chủ lực cơ động và những nguồn dự trữ chiến lược của ta đã được xây dựng đủ; ba là, phong trào đấu tranh chính trị đòi hoà bình, độc lập, hoà hợp dân tộc đã được phát động; bốn là, thế giới đồng tình, ủng hộ ta trừng trị bọn lấn chiếm. Ngày 6-1-1975, tin giải phóng thị xã Phước Long làm cho Hội nghị càng thêm tin chắc rằng quân Mỹ không thể trở lại miền Nam và việc giải phóng miền Nam có thể tiến hành với nhịp độ nhanh hơn.Tiếp tục quán triệt Nghị quyết của Hội nghị đợt 1, Hội nghị đợt 2 vạch rõ:Nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận đánh quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới tổng tiến công và nổi dậy, thắng địch tại sào huyệt quan trọng nhất của chúng là Sài Gòn. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 7: Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam thống
Top