Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 6: Xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đánh thắng ba chiến lược chiến tr
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 17531" data-attributes="member: 699"><p>I<strong>II. ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC "VIỆT NAM HOÁ CHIẾN TRANH", QUÂN MỸ PHẢI RÚT KHỎI MIỀN NAM NƯỚC TA (1969 - 1-1973)</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>1. Chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ và chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>Chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ.</strong></p><p></p><p>Sau thất bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam Việt Nam, nước Mỹ lâm vào cuộc khủng hoảng nặng nề nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngân sách thâm hụt lớn, lạm phát tăng, đội quân thất nghiệp ngày càng đông và "xã hội Mỹ đang có khủng hoảng về tinh thần và bị giằng xé, chia rẽ về chính trị". Trong khi Mỹ sa lầy trong chiến tranh Việt Nam, các nước Tây Âu và Nhật Bản nhanh chóng vượt lên về kinh tế. Cạnh tranh với Mỹ, Liên Xô đã giành được thế cân bằng về vũ khí chiến lược với Mỹ. Phong trào độc lập dân tộc tiếp tục phát triển ở châu Á, châu Phi và ngay cả Mỹ Latinh, "sân sau" của đế quốc Mỹ.</p><p></p><p>Tình hình đó thúc ép giai cấp thống trị Mỹ phải điều chỉnh chiến lược để tiếp tục thực hiện âm mưu bá chủ thế giới. Đầu năm 1969, bước vào Nhà Trắng, Níchxơn đề ra chiến lược toàn cầu mang tên "học thuyết Níchxơn", với ba nguyên tắc "tập thể tham gia", "sức mạnh của Mỹ", "sẵn sàng thương lượng".</p><p></p><p>Níchxơn vận dụng học thuyết này vào cuộc chiến tranh Việt Nam, đề ra chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", một sự điều chỉnh chủ trương "phi Mỹ hoá" của Giônxơn, thực chất là "dùng người Việt giết người Việt" để duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam.</p><p></p><p>Thực hiện chiến lược mới, Mỹ áp dụng một loạt biện pháp: ra sức củng cố nguỵ quyền, xây dựng đội quân nguỵ đông và hiện đại, tự gánh vác được nhiệm vụ chiến tranh để cho quân Mỹ rút; ráo riết thực hiện chương trình bình định, tăng cường chiến tranh phá hoại ở miền Bắc Việt Nam nhằm cắt nguồn viện trợ của miền Nam; mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia; thoả hiệp với Trung Quốc, hoà hoãn với Liên Xô hòng cắt giảm nguồn viện trợ chủ yếu của Việt Nam.</p><p></p><p>"Việt Nam hoá chiến tranh" là một chiến lược hết sức thâm độc và nguy hiểm. Nhưng như Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 4-1969 chỉ rõ, chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" ra đời trong thế Mỹ thua, buộc phải xuống thang chiến tranh nhưng lại muốn xuống thang trên thế mạnh; phải rút quân Mỹ ra mà lại muốn quân nguỵ mạnh lên; muốn giảm thương vong và chi phí cho chiến tranh nhưng lại buộc phải rút quân nhỏ giọt, kéo dài và mở rộng chiến tranh; muốn xoa dịu sự chống đối ở trong nước và dư luận thế giới nhưng không che giấu được tính chất tàn bạo của "Việt Nam hoá chiến tranh". Đó là những mâu thuẫn cơ bản, đồng thời là những chỗ yếu cơ bản của chiến lược chiến tranh mới của Mỹ.</p><p></p><p>Năm 1969 và đầu năm 1970 là giai đoạn đầu Mỹ thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh". Mỹ - nguỵ tiến hành liên tiếp các chiến dịch bình định, mở hàng vạn cuộc hành quân càn quét, đóng hàng nghìn đồn bốt ở ấp xã, dồn dân vào các khu tập trung để kìm kẹp dân, tìm diệt lực lượng của ta; đánh phá các căn cứ giải phóng ở miền núi và vùng giáp ranh. Đồng thời, Mỹ ra sức tăng cường quân nguỵ, củng cố nguỵ quyền Thiệu - Kỳ. Không quân Mỹ tăng cường đánh phá đường Hồ Chí Minh và các kho tàng, bến bãi của ta từ Quảng Bình đến Vĩnh Linh, hòng chặn đứng sự tăng viện của miền Bắc vào miền Nam. Tại cuộc đàm phán ở Pari, phía Mỹ đưa ra những đề nghị ngang ngược (như đòi miền Bắc rút quân khỏi miền Nam) để kéo dài đàm phán.</p><p></p><p><strong>Chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng.</strong></p><p></p><p>Để củng cố tinh thần quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta, ngày 1-1-1969, trong Thư chúc mừng năm mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: "Vì độc lập, vì tự do, Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào...".</p><p>Tiếp theo Chỉ thị gửi Đảng bộ miền Nam tháng 11-1968, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 4-1969 động viên quân và dân ta tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa đánh bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" và âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh của Mỹ. Như vậy, tuy đã thấy những khuyết điểm sau đợt Tổng tiến công Xuân 1968, nhưng như các Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 18 và 21 sau này vạch rõ, ta chưa đánh giá thật đầy đủ ý đồ thâm độc và khả năng mới của địch cũng như tình hình khó khăn của ta trên chiến trường, cho nên chưa thấy cần phải chuyển hướng tiến công về nông thôn để phá tan âm mưu của địch.</p><p></p><p>Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, miền Bắc đưa một khối lượng lớn người và vũ khí vào tăng cường sức chiến đấu cho miền Nam. (6 trung đoàn bộ binh, 10 tiểu đoàn và 100 đại đội, trung đội đặc công, 8 vạn quân bổ sung cùng 17 vạn tấn vũ khí - TG). Quân và dân miền Nam anh dũng đồng loạt mở hai cuộc tiến công mùa Xuân và mùa Hè 1969, diệt hàng vạn tên địch, hỗ trợ nhân dân nhiều nơi nổi dậy giành quyền làm chủ.</p><p></p><p>Tháng 6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam được thành lập, đánh dấu một bước thắng lợi trong việc củng cố chính quyền cách mạng, nâng cao vị trí quốc tế của Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Trước đó, tại Hội nghị Pari đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đưa ra giải pháp toàn bộ 10 điểm, trong đó nêu rõ hai vấn đề chủ yếu là Mỹ rút quân và vấn đề nội bộ giữa người Việt Nam với nhau ở miền Nam sau khi Mỹ rút quân. Hai sự kiện trên được dư luận rộng rãi trên thế giới đồng tình và ủng hộ, cổ vũ mạnh mẽ phong trào chống chiến tranh của nhân dân Mỹ.(Hội nghị quốc tế ủng hộ Việt Nam của 50 nước và 21 tổ chức tại Xtốckhôm - Thuỵ Điển tháng 5-1969 hoan nghênh lập trường của ta, đòi Mỹ rút quân, chấm dứt chiến tranh - TG).</p><p></p><p>Sau các đợt hoạt động Xuân và Hè 1969, lực lượng ta bị hao mòn chưa kịp được củng cố thì địch lại lợi dụng mùa mưa phản kích quyết liệt tại vùng nông thôn, đánh phá các căn cứ miền núi. Chúng lấn chiếm phần lớn vùng đồng bằng, chiếm thêm 3.000 ấp với gần 3 triệu dân (so với cuối năm 1968). Lực lượng chính trị và vũ trang cơ sở của ta bị tổn thất nặng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên bị đánh bật khỏi địa bàn, dạt lên vùng căn cứ. Bộ đội chủ lực bị đẩy lên vùng biên giới, một bộ phận phải di chuyển ra sát miền Bắc để củng cố. Tư tưởng hữu khuynh, tiêu cực xuất hiện trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ mùa Thu năm 1969, Bộ Chính trị chỉ đạo các chiến trường chuyển hướng hành động nhằm đánh mạnh vào kế hoạch bình định của địch, song địch vẫn mở rộng được vùng bình định.</p><p></p><p>Tháng 1-1970, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) họpHội nghị lần thứ 18, đánh giá cục diện kháng chiến, đề ra phương hướng và giải pháp đưa cuộc kháng chiến tiến lên. Hội nghị khẳng định những thắng lợi đạt được trong hai năm 1968-1969, vạch rõ khuyết điểm của sự chỉ đạo là chưa đánh giá đầy đủ, kịp thời âm mưu mới của địch, chậm đề ra sự chuyển hướng chiến lược, dẫn đến nhiều thiệt hại, khó khăn. Hội nghị dự đoán sắp tới địch sẽ tiếp tục thực hiện kế hoạch bình định, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, Lào và Campuchia và tiếp tục bám giữ lập trường ngoan cố trong đàm phán, với hy vọng thực hiện được "Việt Nam hoá chiến tranh". Hội nghị nhấn mạnh phải nhận thức rõ tính chất lâu dài, gay go phức tạp của cuộc đấu tranh, kiên trì khôi phục và xây dựng lực lượng chiến đấu, tiến tới giành thắng lợi quyết định. Hội nghị chủ trương tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở các thành thị, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và nổi dậy của quần chúng ở nông thôn, mở rộng vùng giải phóng.</p><p></p><p>Hội nghị Trung ương lần thứ 18 đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng về chỉ đạo chiến lược. Nghị quyết Hội nghị được truyền xuống các cấp tạo ra sự nhất trí, tin tưởng và quyết tâm mới trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân.</p><p></p><p><strong>2. Tăng cường củng cố miền Bắc và liên minh chiến đấu với Lào, Campuchia</strong></p><p></p><p><strong><em>Xây dựng miền Bắc ngang tầm nhiệm vụ hậu phương lớn của các chiến trường Đông Dương.</em></strong></p><p></p><p>Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 18 chỉ rõ, miền Bắc có nhiệm vụ tranh thủ thuận lợi mới trong hoàn cảnh không còn chiến tranh phá hoại, tiếp tục khẩn trương xây dựng chủ nghĩa xã hội, có kế hoạch làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn với tiền tuyến lớn, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu đánh bại mọi âm mưu khiêu khích vũ trang hoặc mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ.</p><p></p><p>Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, thọ 79 tuổi. Tổn thất này vô cùng to lớn. Dân tộc ta, Đảng ta mất một lãnh tụ thiên tài và một người thầy vĩ đại. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và cả loài người tiến bộ mất một chiến sĩ lỗi lạc.</p><p>Khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho nhân dân ta bảnDi chúc lịch sử. Người dặn lại đồng bào và chiến sĩ cả nước "phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn" và khẳng định: "Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà". Người căn dặn "phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình", "phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Người nhắc nhở Đảng ta phải quan tâm "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau", "có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân". Người mong "Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình".</p><p></p><p>Để biến đau thương thành sức mạnh, ngày 29-9-1969 Bộ Chính trị quyết định mở đợt sinh hoạt chính trị trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân học tập và làm theoDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.</p><p></p><p>Đầu năm 1970, Trung ương Đảng phát động ba cuộc vận động lớn: lao động sản xuất, phát huy dân chủ và tăng cường chế độ làm chủ ở nông thôn, nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh, nhằm động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân quyết tâm khắc phục khó khăn, khuyết điểm, giành thắng lợi mới trong việc khôi phục và phát triển kinh tế, tăng cường lực lượng về mọi mặt.</p><p></p><p>Đầu năm 1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) họp Hội nghị lần thứ 19, chủ trương kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, phát triển kinh tế ở miền Bắc mà nhiệm vụ trung tâm là phát triển nông nghiệp.</p><p>Các cuộc vận động đã đem lại một số kết quả quan trọng. Nhờ các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp nên sản lượng lương thực năm 1970 đạt gần 5,3 triệu tấn, tăng 50 vạn tấn so với năm 1969 và xấp xỉ năm 1965; năm 1971 mặc dù bị trận lũ lớn vẫn đạt xấp xỉ năm 1970. Trong công nghiệp, nhờ chú trọng chỉ đạo ổn định sản xuất và chấn chỉnh quản lý, sản xuất có chuyển biến tốt, đạt giá trị sản lượng năm 1970 xấp xỉ năm 1965, năm 1971 tăng 14% so với năm 1970. Hệ thống giao thông vận tải được khẩn trương khôi phục, bảo đảm vận chuyển thông suốt trên các tuyến. Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế được đẩy mạnh về chất lượng. Đời sống nhân dân bớt khó khăn.</p><p></p><p>Công tác xây dựng Đảng đã được kết hợp với việc vận động quần chúng thực hiện dân chủ, đẩy mạnh sản xuất và sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành các nhiệm vụ trước mắt. Cuộc vận động kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh được tiến hành trong một năm (từ ngày 19-5-1970 đến ngày 19-5-1971), đã kết nạp gần 4 vạn đảng viên mới đủ tiêu chuẩn, góp phần tăng cường sức chiến đấu của Đảng.</p><p></p><p>Cùng với nhiệm vụ khôi phục kinh tế, việc xây dựng tiềm lực quốc phòng và lực lượng vũ trang được tăng cường. Các sư đoàn chủ lực cơ động tăng từ 4 lên 6 sư đoàn, được xây dựng thành những binh đoàn mạnh. Các lực lượng phòng không, pháo bờ biển được kiện toàn về tổ chức và trang bị. Tháng 6-1970, Bộ Chính trị quyết định thành lập Hội đồng chi viện tiền tuyến Trung ương nhằm động viên hơn nữa sức mạnh của hậu phương lớn tăng viện cho các chiến trường. Tuyến đường vận tải Bắc Nam được mở rộng, tuyến đường ống dẫn dầu dài gần 1.500 km được xây dựng. Mặc dù địch tăng cường đánh phá, nhưng khối lượng chi viện vật chất cho miền Nam ngày càng tăng, năm 1969 được 2 vạn tấn, năm 1970 lên 4 vạn tấn và năm 1971 đạt tới 6 vạn tấn. Từ cuối năm 1969 đến năm 1971, miền Bắc tăng viện một lực lượng bộ binh và đặc công đông tới 19,5 vạn người, giúp chiến trường duy trì và tăng cường sức chiến đấu.</p><p></p><p>Sự cố gắng vượt bậc của quân và dân miền Bắc đã củng cố hậu phương vững mạnh và phát huy vai trò to lớn của hậu phương đối với tiền tuyến, góp phần quyết định vào những chiến thắng trong các năm 1971-1972.</p><p>Liên minh chiến đấu với Lào và Campuchia, mở ra thế chiến lược mới.</p><p>Nhằm hỗ trợ cho chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", áp đặt ách thống trị thực dân mới trên cả bán đảo Đông Dương, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược sang Lào và Campuchia.</p><p></p><p>Hội nghị Bộ Chính trị tháng 4-1969 và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 18 tháng 1-1970 đã dự đoán đúng âm mưu của Mỹ mở rộng chiến tranh và vạch rõ nhiệm vụ của nhân dân ta tăng cường đoàn kết chiến đấu với nhân dân Lào và Campuchia, đánh bại mưu đồ xâm lược của chúng.</p><p></p><p>Ở Lào, đầu năm 1970 Mỹ mở cuộc hành quân của hơn một vạn quân nguỵ Lào được không quân Mỹ chi viện tiến công lấn chiếm khu vực chiến lược Cánh đồng Chum (Xiêng Khoảng). Thực hiện chủ trương của lãnh đạo Đảng ta và lãnh đạo Đảng bạn, lực lượng vũ trang của hai nước đã phối hợp mở chiến dịch phản công quy mô lớn, đánh bại cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 6.000 tên, bảo vệ căn cứ địa chủ yếu của Lào, phá thế uy hiếp sườn phía tây miền Bắc nước ta và tuyến vận tải Tây Trường Sơn.</p><p></p><p>Ở Campuchia, ngày 18-3-1970, Mỹ cho bọn tay sai làm đảo chính lật đổ Chính phủ Vương quốc trung lập Campuchia do Hoàng thân Nôrôđôm Xihanúc đứng đầu, lập chính quyền tay sai Lon Non. Đây là nấc thang chiến tranh mới của Mỹ nhằm biến Campuchia thành thuộc địa kiểu mới, xoá bỏ căn cứ và bàn đạp chiến lược của ta, cắt đứt tuyến tiếp tế miền Bắc cho miền Nam (qua nước Campuchia), bóp nghẹt cách mạng miền Nam. Bộ Chính trị Đảng ta chủ trương ủng hộ Hoàng thân Nôrôđôm Xihanúc, giúp nhân dân Campuchia chống đế quốc Mỹ và tay sai và chỉ thị cho các đơn vị quân đội ta phối hợp với bạn đánh địch và phát động quần chúng tiến công và nổi dậy.</p><p></p><p>Trước tình hình chiến tranh xâm lược của Mỹ mở rộng, sự phối hợp chiến trường ba nước Đông Dương trở nên cấp bách. Bộ Chính trị cử đồng chí Phạm Văn Đồng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ sang Bắc Kinh thống nhất với Hoàng thân Xihanúc và Pôn Pốt về chủ trương lập Mặt trận thống nhất chống Mỹ và tay sai của ba nước Đông Dương, đồng thời tranh thủ sự đồng tình của các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Trong hai ngày 24 và 25-4-1970, Hội nghị cấp cao của nhân dân ba nước Đông Dương họp ra Tuyên bố chung khẳng định quyết tâm của nhân dân ba nước liên minh chiến đấu, đoàn kết trong mặt trận đấu tranh chung trên cơ sở tôn trọng độc lập, tự chủ của mỗi nước.</p><p></p><p>Ngày 29-4-1970, 10 vạn quân Mỹ và quân nguỵ Sài Gòn tiến công xâm lược Campuchia nhằm củng cố chế độ Lon Non, tìm diệt cơ quan đầu não kháng chiến và phá cơ sở hậu phương của cách mạng miền Nam. Được chuẩn bị sẵn, các lực lượng vũ trang của ta phối hợp với bạn kịp thời phản công và tiến công địch, giành thắng lợi to lớn và toàn diện: loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên Mỹ - nguỵ, giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh đông bắc và phần lớn 6 tỉnh khác, hình thành vùng giải phóng rộng lớn với hơn 3 triệu dân nằm kề vùng giải phóng miền Nam Việt Nam. Chính quyền cách mạng cùng với lực lượng chính trị và vũ trang ba thứ quân của bạn được ta giúp xây dựng tương đối hoàn chỉnh. (Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia từ 9 trung đội, đến cuối năm 1970, đã có 5 tiểu đoàn, 36 đại đội, 127 trung đội gồm 9.399 người. Tỉnh, huyện có bộ đội địa phương, xã có du kích). Ngày 30-6-1970, Mỹ phải tuyên bố rút quân ra khỏi Campuchia.</p><p></p><p>Phối hợp với cuộc phản công ở Campuchia, liên quân Việt - Lào tiến công giải phóng vùng Hạ Lào, hình thành vùng giải phóng rộng lớn của ba nước liên hoàn với nhau, tạo thế trận vững chắc cho nhân dân ba nước chống kẻ thù chung. Ở miền Nam quân và dân ta mở đợt hoạt động Xuân - Hè, đẩy mạnh hoạt động phá bình định ở nông thôn và đấu tranh chính trị ở thành thị.</p><p></p><p>Ngày 19-6-1970, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ mới, dự đoán Mỹ còn tìm cách mở rộng chiến tranh trên bán đảo Đông Dương và xác định nhiệm vụ cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân; nhấn mạnh việc tăng cường đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương.</p><p></p><p>Đầu năm 1971, đế quốc Mỹ huy động 4 vạn quânnguỵ Sài Gòn được sự yểm trợ của 1,5 vạn quân Mỹ và hàng nghìn máy bay, xe tăng, pháo lớn mở cuộc hành quân "Lam Sơn 719" đánh ra Đường 9 - Nam Lào, hòng đánh phá tận gốc đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam, làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương, chủ yếu là miền Nam Việt Nam, thử nghiệm công thức của chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh": bộ binh nguỵ + hoả lực + hậu cần Mỹ. Đồng thời, Mỹ mở hai cuộc hành quân đánh vào tuyến hành lang chiến lược ở khu vực đông - bắc Campuchia và vùng Ba biên giới ở Tây Nguyên.</p><p></p><p>Tại mặt trận Đường 9 - Nam Lào, quân ta và bạn Lào mở chiến dịch phản công, kiên quyết đánh thắng vì đây là "một trận có ý nghĩa quyết định về chiến lược". Sau 43 ngày đêm chiến đấu (từ 8-2 đến 23-3-1971), ta và bạn đã giành thắng lợi lớn: tiêu diệt và bắt sống hơn 2 vạn tên địch, đánh thiệt hại nặng 3 sư đoàn tinh nhuệ quân nguỵ Sài Gòn, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của địch, đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của Mỹ - nguỵ trong chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh".</p><p>Tại mặt trận đông - bắc Campuchia và mặt trận vùng Ba biên giới, ta và bạn cũng đánh thắng cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng vạn tên, bảo vệ tuyến hành lang chiến lược.</p><p></p><p><strong>3. Cuộc tiến công chiến lược năm 1972</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>Quyết tâm chiến lược của Đảng</strong></p><p></p><p>Những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta trong Xuân - Hè 1970 và 1971 đã đẩy Mỹ - nguỵ vào thế phòng ngự bị động, lúng túng về chiến lược; nước Mỹ lại sắp bước vào cuộc bầu cử Tổng thống năm 1972. Chúng ta đứng trước tình thế thuận lợi mới, có điều kiện kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, chủ động tiếp tục tiến công để giành thắng lợi lớn.</p><p></p><p>Tháng 5-1971, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 nhằm giành thắng lợi quyết định, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp chiến tranh còn kéo dài. Cuộc tiến công dự định tiến hành bằng ba đòn chiến lược kết hợp: đòn tiến công tiêu diệt địch của bộ đội chủ lực trên ba hướng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị - Thiên; đòn tiến công và nổi dậy ở vùng nông thôn đánh phá bình định; đòn đấu tranh chính trị ở các thành thị làm lung lay tận gốc chính quyền địch.</p><p></p><p>Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ đạo các địa phương dốc sức chuẩn bị trong 9 tháng, đặc biệt là về vận chuyển tăng cường lực lượng chiến đấu cho các chiến trường. Miền Bắc đã tăng viện cho miền Nam 5,5 vạn cán bộ chiến sĩ cùng một khối lượng lớn trang bị kỹ thuật gồm cả xe tăng và pháo cơ giới là những vũ khí hạng nặng lần đầu tiên được đưa vào chiến trường. Các "Hội đồng cung cấp tiền phương" ở miền Nam tích cực vận động nhân dân tạo nguồn vật chất tại chỗ.</p><p></p><p>Tháng 2-1972, Tổng thống Mỹ Níchxơn đi Trung Quốc, ký "Thông cáo chung Thượng Hải" nhằm phân chia khu vực ảnh hưởng đồng thời cô lập cuộc kháng chiến của nhân dân ta.</p><p></p><p>Cuối tháng 3-1972, trước diễn biến phức tạp của tình hình mới, Bộ Chính trị sau khi cân nhắc mọi mặt đã khẳng định quyết tâm không có gì thay đổi là kiên quyết tiến hành cuộc tiến công chiến lược đánh bại về cơ bản chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", làm chuyển biến cục diện chiến tranh.</p><p></p><p><strong>Cuộc tiến công chiến lược năm 1972</strong></p><p></p><p>Ngày 30-3-1972, nhằm lúc địch chủ quan, sơ hở dophán đoán sai thời gian, quy mô và hướng tiến công của ta, quân và dân ta mở đầu cuộc tiến công chiến lược với quy mô lớn và cường độ mạnh vào hướng chủ yếu là Trị - Thiên, đánh thẳng vào tuyến phòng ngự của địch ở Đường 9, tiếp sau là các hướng Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ rồi đến đồng bằng Khu V và đồng bằng sông Cửu Long. Mỹ - nguỵ phản công quyết liệt ở Quảng Trị và ngày 6-4-1972 không quân và hải quân Mỹ đánh phá trở lại miền Bắc Việt Nam.</p><p></p><p>Sau 2 tháng tiến công, đến cuối tháng 5-1972 quân và dân ta giành thắng lợi lớn: phá vỡ từng mảng ba tuyến phòng thủ vòng ngoài mạnh nhất của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 11 vạn quân địch, giải phóng tỉnh Quảng Trị và một số vùng đất rộng gồm hơn 1 triệu dân. Chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ đứng trước nguy cơ bị phá sản hoàn toàn.</p><p></p><p>Tháng 5-1972, Níchxơn đi Mátxcơva nhằm tranh thủ Liên Xô để cùng Trung Quốc hạn chế viện trợ vật chất cho ta và ép ta đàm phán theo điều kiện của Mỹ. Song do sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa tất thắng và đường lối quốc tế đúng đắn của ta, ta vẫn tiếp tục nhận được sự ủng hộ lớn nhất có thể có của cả Trung Quốc và Liên Xô.</p><p></p><p>Ngày 1-6-1972, nhận định cục diện kháng chiến đã có điều kiện để tiến lên đánh bại về cơ bản chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ, Bộ Chính trị chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cuộc tiến công chiến lược ở miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, bảo đảm hậu phương làm tốt nghĩa vụ chi viện cho tiền tuyến.</p><p></p><p>Thực hiện quyết tâm của Đảng, quân và dân ta không quản hy sinh gian khổ, kiên cường đánh bại nhiều cuộc phản kích quyết liệt của địch, bảo vệ Thành cổ Quảng Trị trong 81 ngày đêm và giữ được phần lớn các vùng giải phóng mới mở ra ở miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Khu V. Đồng thời, quân và dân ta mở các chiến dịch kết hợp tiến công và nổi dậy ở đồng bằng Nam Bộ và Khu V, tiêu diệt nhiều địch, phá kế hoạch bình định của chúng. Riêng ở đồng bằng Nam Bộ, ta đã giải phóng và làm chủ 72 xã với 48 vạn dân, tạo thế đứng vững chắc cho lực lượng tương đương 2 sư đoàn chủ lực ta trở về hoạt động. Quân và dân ở hai nước Lào và Campuchia liên tiếp tiến công địch ở nhiều nơi, phối hợp với cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở miền Nam.</p><p></p><p>Cuộc tiến công chiến lược 1972 đã giành thắng lợi to lớn, làm chuyển biến căn bản cục diện chiến tranh. Ta đã diệt và làm tan rã khoảng 30 vạn quân địch, giải phóng những vùng đất rộng gồm trên 1 triệu dân, đưa tổng số dân được giải phóng lên tới 4 triệu (trong tổng số 11 triệu dân). Bộ đội chủ lực ta trở về miền Nam đứng vững trên những địa bàn quan trọng, bộ đội địa phương và dân quân, du kích phát triển. Thắng lợi của cuộc tiến công đã góp phần quyết định buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari rút hết quân ra khỏi miền Nam nước ta.</p><p></p><p>Tuy nhiên, bên cạnh thắng lợi mà ta đạt được, sự chỉ đạo của Đảng còn có nhiều thiếu sót trong việc đánh giá tình hình và so sánh lực lượng, chưa thấy hết khả năng đối phó của địch cũng như những mặt hạn chế của ta, đề ra mục tiêu của cuộc tiến công vượt quá khả năng của ta, chỉ đạo kế hoạch ứng phó chưa đầy đủ và kịp thời. Vì vậy thương vong và tổn thất còn ở mức cao.</p><p></p><p><strong>4. Đánh thắng trận tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của Mỹ. Hiệp định Pari được ký kết</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>Miền Bắc đánh thắng hành động chiến tranh mới của Mỹ</strong></p><p></p><p>Đế quốc Mỹ huy động lực lượng lớn không quân và hải quân Mỹ ồ ạt tham chiến ở miền Nam, đồng thời đánh phá trở lại miền Bắc, thả thuỷ lôi phong toả các cảng biển, cửa sông hòng ngăn chặn viện trợ quốc tế vào miền Bắc và sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, cứu nguy cho nguỵ quyền Sài Gòn và tăng sức ép đối với ta trong đàm phán. Thủ đoạn đánh phá của Mỹ rất tàn bạo, đã gây cho ta nhiều thiệt hại về người và của và những khó khăn lớn trên mặt trận giao thông vận tải.</p><p></p><p>Cuối tháng 5-1972, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp quyết định chuyển mọi hoạt động của miền Bắc cho phù hợp với tình hình mới, phát động cuộc chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tiếp tục làm nhiệm vụ tăng viện cho các chiến trường. Quân và dân miền Bắc đã kiên cường đánh trả địch, bắn rơi hàng trăm máy bay, bắn cháy nhiều tàu chiến Mỹ.</p><p></p><p>Miền Bắc thực hiện nhiều biện pháp vượt qua sự phong toả của địch, tổ chức tiếp nhận hàng viện trợ của các nước bạn và tăng cường chi viện cho tiền tuyến. Khối lượng hàng vận chuyển cho các chiến trường tăng 1,7 lần so với năm 1971.</p><p></p><p><strong>Đẩy mạnh tiến công ngoại giao phối hợp với tiến công quân sự</strong></p><p></p><p>Tháng 10-1972, mặc dù đế quốc Mỹ có cố gắng chiến tranh rất lớn và phải chịu nhiều tổn thất trên cả hai miền nước ta, nhưng chúng vẫn không đạt được các mục tiêu đề ra. Tại nước Mỹ, chính quyền Níchxơn gặp khó khăn về nhiều mặt do chính sách mở rộng chiến tranh xâm lược.</p><p>Dựa trên thắng lợi quân sự và chính trị, ta đẩy mạnh tiến công ngoại giao. Cuối tháng 9-1972, Bộ Chính trị đề ra chủ trương về đàm phán tại Hội nghị Pari. Trên cơ sở nhận định thế và lực của ta, đặc biệt trên chiến trường miền Nam không ngừng phát triển, nhưng quân nguỵ còn đông (65 vạn) và còn kiểm soát nhiều vùng đông dân, Bộ Chính trị đề ra mục tiêu chính cần đạt được là chấm dứt mọi sự dính líu quân sự của Mỹ. Ta không đòi phải có ngay giải pháp toàn bộ, tạm thời gác khẩu hiệu đánh đổ chính quyền Thiệu mà chỉ đề ra việc thành lập chính phủ hoà hợp ba thành phần. Chủ trương này thể hiện bước đi đúng đắn và sáng tạo theo phương hướng chiến lược được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát "đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào".</p><p></p><p>Ngày 8-10-1972, Đoàn đại biểu Chính phủ ta tại Hội nghị Pari đưa ra bản dự thảo "Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam", với nội dung giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam theo hai bước:bước 1, hai bên Mỹ và Việt Nam ký hiệp định chấm dứt chiến tranh, Mỹ rút hết quân và chấm dứt mọi sự dính líu về quân sự; bước 2, hai bên chính quyền ở miền Nam Việt Nam bàn giải quyết vấn đề nội bộ miền Nam.</p><p>Ngày 20-10-1972, phía Mỹ chấp nhận những điểm căn bản của bản dự thảo hiệp định và thoả thuận lịch ký kết. Nhưng ngay sau đó, Mỹ lật lọng, vin lý do "khó khăn từ phía chính quyền Sài Gòn" đòi ta phải sửa nhiều điều khoản đã thoả thuận. Âm mưu của Tổng thống Mỹ Níchxơn là muốn đánh thêm một đòn quân sự nữa sau bầu cử Tổng thống ở Mỹ để ép ta phải nhượng bộ và tranh thủ thời gian viện trợ cho quân nguỵ Sài Gòn.</p><p></p><p><strong>Đánh thắng cuộc tập kích bằng máy bay B.52 của đế quốc Mỹ. Hiệp định Pari được ký kết</strong></p><p></p><p>Ngay sau khi Mỹ có thái độ tráo trở, Bộ Chính trị chỉ rõ: sau khi vượt qua tuyển cử, Níchxơn sẽ tăng cường hành động quân sự; quân và dân cả nước phải kiên trì đẩy mạnh kháng chiến, đánh thắng âm mưu kéo dài và kết thúc chiến tranh trên thế mạnh của đế quốc Mỹ; miền Bắc có nhiệm vụ đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở mức độ cao, đặc biệt là bằng máy bay B.52. Từ cuối năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự kiến: Sớm muộn đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B.52 đánh ra Hà Nội trước khi chúng chịu thua trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Dự kiến sáng suốt của Người đã soi đường cho quân và dân ta trong nhiệm vụ đánh thắng máy bay B.52 của Mỹ. Quân và dân ta ráo riết chuẩn bị chiến đấu, tăng cường công tác phòng không nhân dân, hoàn chỉnh các phương án đánh địch, đồng thời đánh trả các cuộc đánh phá quyết liệt của máy bay Mỹ từ vĩ tuyến 20 trở vào.</p><p></p><p>Từ đêm 18 đến ngày 30-12, trong 12 ngày đêm đế quốc Mỹ đã sử dụng 729 lượt B.52 và 1.900 lượt máy bay cường kích tập trung đánh phá Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, thả một khối lượng bom có sức công phá bằng 5 quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Nhật Bản hồi tháng 8-1945.</p><p>Quân và dân miền Bắc đã kiên cường, mưu trí giáng cho địch những đòn đích đáng từ trận đầu và đã đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của Mỹ. 81 máy bay hiện đại, trong đó có 34 B.52 và 5F.111 bị bắn rơi; 43 giặc lái bị bắt sống. Riêng Hà Nội bắn rơi 23 B.52, phần lớn là bắn rơi tại chỗ. Đây là một chiến công oanh liệt của quân và dân ta trong chiến dịch phòng không đầu tiên trên thế giới tiêu diệt nhiều máy bay B.52 của Mỹ, giáng cho không quân chiến lược Mỹ đòn thất bại nặng nề nhất trong lịch sử xâm lược của đế quốc Mỹ. Nói về tầm vóc to lớn của chiến thắng vẻ vang này, dư luận thế giới gọi đây là trận "Điện Biên Phủ trên không".</p><p></p><p>Ngày 30-12-1972, sau khi buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, Chính phủ Mỹ đề nghị gặp lại đại biểu Chính phủ ta để bàn việc ký Hiệp định. Từ ngày 8 đến ngày 13-1-1973, tại Hội nghị Pari phái đoàn ta kiên quyết đấu tranh buộc Mỹ phải chấp nhận những điều khoản cơ bản của bản dự thảo Hiệp định tháng 10-1972.</p><p></p><p>Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai mà đỉnh cao là cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B.52 của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc diễn ra gần 9 tháng (từ ngày 6-4 đến ngày 29-12-1972) đã bị quân và dân ta đánh bại hoàn toàn.</p><p></p><p>Ngày 23-1-1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký tắt giữa đại diện Chính phủ ta và Chính phủ Mỹ. Ngày 27-1-1973, Hiệp định được chính thức ký kết tại Pari và bắt đầu có hiệu lực từ 9 giờ ngày 28-1-1973.</p><p></p><p>Theo Hiệp định, Mỹ phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; chấm dứt mọi sự dính líu quân sự, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam; chấp nhận lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam vẫn ở nguyên tại miền Nam; hai bên ở miền Nam hiệp thương giải quyết vấn đề nội bộ ở miền Nam Việt Nam. Tình hình sau đó của đất nước ta chứng minh rằng, một khi quân Mỹ đã rút đi và quân ta vẫn còn đó thì lực lượng so sánh giữa ta và địch đã thay đổi căn bản. Đây là tiền đề cơ bản cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam hơn hai năm sau.</p><p></p><p>Hiệp định Pari đã ghi lại những thắng lợi rất to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Trong suốt 5 năm, khoảng thời gian dài chưa từng thấy của lịch sử đàm phán, với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn, hàng trăm cuộc mít tinh ủng hộ Việt Nam, cuộc đấu tranh ngoại giao của ta ở Pari đã thực sự góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ.</p><p></p><p><strong><em><p style="text-align: right">Nguồn: Báo ĐT ĐCS</p><p></em></strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 17531, member: 699"] I[B]II. ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC "VIỆT NAM HOÁ CHIẾN TRANH", QUÂN MỸ PHẢI RÚT KHỎI MIỀN NAM NƯỚC TA (1969 - 1-1973) 1. Chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ và chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng Chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ.[/B] Sau thất bại của chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam Việt Nam, nước Mỹ lâm vào cuộc khủng hoảng nặng nề nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngân sách thâm hụt lớn, lạm phát tăng, đội quân thất nghiệp ngày càng đông và "xã hội Mỹ đang có khủng hoảng về tinh thần và bị giằng xé, chia rẽ về chính trị". Trong khi Mỹ sa lầy trong chiến tranh Việt Nam, các nước Tây Âu và Nhật Bản nhanh chóng vượt lên về kinh tế. Cạnh tranh với Mỹ, Liên Xô đã giành được thế cân bằng về vũ khí chiến lược với Mỹ. Phong trào độc lập dân tộc tiếp tục phát triển ở châu Á, châu Phi và ngay cả Mỹ Latinh, "sân sau" của đế quốc Mỹ. Tình hình đó thúc ép giai cấp thống trị Mỹ phải điều chỉnh chiến lược để tiếp tục thực hiện âm mưu bá chủ thế giới. Đầu năm 1969, bước vào Nhà Trắng, Níchxơn đề ra chiến lược toàn cầu mang tên "học thuyết Níchxơn", với ba nguyên tắc "tập thể tham gia", "sức mạnh của Mỹ", "sẵn sàng thương lượng". Níchxơn vận dụng học thuyết này vào cuộc chiến tranh Việt Nam, đề ra chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", một sự điều chỉnh chủ trương "phi Mỹ hoá" của Giônxơn, thực chất là "dùng người Việt giết người Việt" để duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Thực hiện chiến lược mới, Mỹ áp dụng một loạt biện pháp: ra sức củng cố nguỵ quyền, xây dựng đội quân nguỵ đông và hiện đại, tự gánh vác được nhiệm vụ chiến tranh để cho quân Mỹ rút; ráo riết thực hiện chương trình bình định, tăng cường chiến tranh phá hoại ở miền Bắc Việt Nam nhằm cắt nguồn viện trợ của miền Nam; mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia; thoả hiệp với Trung Quốc, hoà hoãn với Liên Xô hòng cắt giảm nguồn viện trợ chủ yếu của Việt Nam. "Việt Nam hoá chiến tranh" là một chiến lược hết sức thâm độc và nguy hiểm. Nhưng như Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 4-1969 chỉ rõ, chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" ra đời trong thế Mỹ thua, buộc phải xuống thang chiến tranh nhưng lại muốn xuống thang trên thế mạnh; phải rút quân Mỹ ra mà lại muốn quân nguỵ mạnh lên; muốn giảm thương vong và chi phí cho chiến tranh nhưng lại buộc phải rút quân nhỏ giọt, kéo dài và mở rộng chiến tranh; muốn xoa dịu sự chống đối ở trong nước và dư luận thế giới nhưng không che giấu được tính chất tàn bạo của "Việt Nam hoá chiến tranh". Đó là những mâu thuẫn cơ bản, đồng thời là những chỗ yếu cơ bản của chiến lược chiến tranh mới của Mỹ. Năm 1969 và đầu năm 1970 là giai đoạn đầu Mỹ thực hiện chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh". Mỹ - nguỵ tiến hành liên tiếp các chiến dịch bình định, mở hàng vạn cuộc hành quân càn quét, đóng hàng nghìn đồn bốt ở ấp xã, dồn dân vào các khu tập trung để kìm kẹp dân, tìm diệt lực lượng của ta; đánh phá các căn cứ giải phóng ở miền núi và vùng giáp ranh. Đồng thời, Mỹ ra sức tăng cường quân nguỵ, củng cố nguỵ quyền Thiệu - Kỳ. Không quân Mỹ tăng cường đánh phá đường Hồ Chí Minh và các kho tàng, bến bãi của ta từ Quảng Bình đến Vĩnh Linh, hòng chặn đứng sự tăng viện của miền Bắc vào miền Nam. Tại cuộc đàm phán ở Pari, phía Mỹ đưa ra những đề nghị ngang ngược (như đòi miền Bắc rút quân khỏi miền Nam) để kéo dài đàm phán. [B]Chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng.[/B] Để củng cố tinh thần quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của quân và dân ta, ngày 1-1-1969, trong Thư chúc mừng năm mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi: "Vì độc lập, vì tự do, Đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào...". Tiếp theo Chỉ thị gửi Đảng bộ miền Nam tháng 11-1968, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 4-1969 động viên quân và dân ta tiếp tục đẩy mạnh tổng công kích, tổng khởi nghĩa đánh bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" và âm mưu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh của Mỹ. Như vậy, tuy đã thấy những khuyết điểm sau đợt Tổng tiến công Xuân 1968, nhưng như các Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 18 và 21 sau này vạch rõ, ta chưa đánh giá thật đầy đủ ý đồ thâm độc và khả năng mới của địch cũng như tình hình khó khăn của ta trên chiến trường, cho nên chưa thấy cần phải chuyển hướng tiến công về nông thôn để phá tan âm mưu của địch. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng, miền Bắc đưa một khối lượng lớn người và vũ khí vào tăng cường sức chiến đấu cho miền Nam. (6 trung đoàn bộ binh, 10 tiểu đoàn và 100 đại đội, trung đội đặc công, 8 vạn quân bổ sung cùng 17 vạn tấn vũ khí - TG). Quân và dân miền Nam anh dũng đồng loạt mở hai cuộc tiến công mùa Xuân và mùa Hè 1969, diệt hàng vạn tên địch, hỗ trợ nhân dân nhiều nơi nổi dậy giành quyền làm chủ. Tháng 6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam được thành lập, đánh dấu một bước thắng lợi trong việc củng cố chính quyền cách mạng, nâng cao vị trí quốc tế của Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Trước đó, tại Hội nghị Pari đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam đưa ra giải pháp toàn bộ 10 điểm, trong đó nêu rõ hai vấn đề chủ yếu là Mỹ rút quân và vấn đề nội bộ giữa người Việt Nam với nhau ở miền Nam sau khi Mỹ rút quân. Hai sự kiện trên được dư luận rộng rãi trên thế giới đồng tình và ủng hộ, cổ vũ mạnh mẽ phong trào chống chiến tranh của nhân dân Mỹ.(Hội nghị quốc tế ủng hộ Việt Nam của 50 nước và 21 tổ chức tại Xtốckhôm - Thuỵ Điển tháng 5-1969 hoan nghênh lập trường của ta, đòi Mỹ rút quân, chấm dứt chiến tranh - TG). Sau các đợt hoạt động Xuân và Hè 1969, lực lượng ta bị hao mòn chưa kịp được củng cố thì địch lại lợi dụng mùa mưa phản kích quyết liệt tại vùng nông thôn, đánh phá các căn cứ miền núi. Chúng lấn chiếm phần lớn vùng đồng bằng, chiếm thêm 3.000 ấp với gần 3 triệu dân (so với cuối năm 1968). Lực lượng chính trị và vũ trang cơ sở của ta bị tổn thất nặng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên bị đánh bật khỏi địa bàn, dạt lên vùng căn cứ. Bộ đội chủ lực bị đẩy lên vùng biên giới, một bộ phận phải di chuyển ra sát miền Bắc để củng cố. Tư tưởng hữu khuynh, tiêu cực xuất hiện trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Từ mùa Thu năm 1969, Bộ Chính trị chỉ đạo các chiến trường chuyển hướng hành động nhằm đánh mạnh vào kế hoạch bình định của địch, song địch vẫn mở rộng được vùng bình định. Tháng 1-1970, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) họpHội nghị lần thứ 18, đánh giá cục diện kháng chiến, đề ra phương hướng và giải pháp đưa cuộc kháng chiến tiến lên. Hội nghị khẳng định những thắng lợi đạt được trong hai năm 1968-1969, vạch rõ khuyết điểm của sự chỉ đạo là chưa đánh giá đầy đủ, kịp thời âm mưu mới của địch, chậm đề ra sự chuyển hướng chiến lược, dẫn đến nhiều thiệt hại, khó khăn. Hội nghị dự đoán sắp tới địch sẽ tiếp tục thực hiện kế hoạch bình định, mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, Lào và Campuchia và tiếp tục bám giữ lập trường ngoan cố trong đàm phán, với hy vọng thực hiện được "Việt Nam hoá chiến tranh". Hội nghị nhấn mạnh phải nhận thức rõ tính chất lâu dài, gay go phức tạp của cuộc đấu tranh, kiên trì khôi phục và xây dựng lực lượng chiến đấu, tiến tới giành thắng lợi quyết định. Hội nghị chủ trương tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở các thành thị, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và nổi dậy của quần chúng ở nông thôn, mở rộng vùng giải phóng. Hội nghị Trung ương lần thứ 18 đánh dấu sự chuyển hướng quan trọng về chỉ đạo chiến lược. Nghị quyết Hội nghị được truyền xuống các cấp tạo ra sự nhất trí, tin tưởng và quyết tâm mới trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. [B]2. Tăng cường củng cố miền Bắc và liên minh chiến đấu với Lào, Campuchia[/B] [B][I]Xây dựng miền Bắc ngang tầm nhiệm vụ hậu phương lớn của các chiến trường Đông Dương.[/I][/B] Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 18 chỉ rõ, miền Bắc có nhiệm vụ tranh thủ thuận lợi mới trong hoàn cảnh không còn chiến tranh phá hoại, tiếp tục khẩn trương xây dựng chủ nghĩa xã hội, có kế hoạch làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn với tiền tuyến lớn, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu đánh bại mọi âm mưu khiêu khích vũ trang hoặc mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ. Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, thọ 79 tuổi. Tổn thất này vô cùng to lớn. Dân tộc ta, Đảng ta mất một lãnh tụ thiên tài và một người thầy vĩ đại. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc và cả loài người tiến bộ mất một chiến sĩ lỗi lạc. Khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho nhân dân ta bảnDi chúc lịch sử. Người dặn lại đồng bào và chiến sĩ cả nước "phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn" và khẳng định: "Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà". Người căn dặn "phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình", "phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Người nhắc nhở Đảng ta phải quan tâm "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau", "có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân". Người mong "Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình". Để biến đau thương thành sức mạnh, ngày 29-9-1969 Bộ Chính trị quyết định mở đợt sinh hoạt chính trị trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân học tập và làm theoDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đầu năm 1970, Trung ương Đảng phát động ba cuộc vận động lớn: lao động sản xuất, phát huy dân chủ và tăng cường chế độ làm chủ ở nông thôn, nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh, nhằm động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn dân quyết tâm khắc phục khó khăn, khuyết điểm, giành thắng lợi mới trong việc khôi phục và phát triển kinh tế, tăng cường lực lượng về mọi mặt. Đầu năm 1971, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) họp Hội nghị lần thứ 19, chủ trương kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến, phát triển kinh tế ở miền Bắc mà nhiệm vụ trung tâm là phát triển nông nghiệp. Các cuộc vận động đã đem lại một số kết quả quan trọng. Nhờ các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp nên sản lượng lương thực năm 1970 đạt gần 5,3 triệu tấn, tăng 50 vạn tấn so với năm 1969 và xấp xỉ năm 1965; năm 1971 mặc dù bị trận lũ lớn vẫn đạt xấp xỉ năm 1970. Trong công nghiệp, nhờ chú trọng chỉ đạo ổn định sản xuất và chấn chỉnh quản lý, sản xuất có chuyển biến tốt, đạt giá trị sản lượng năm 1970 xấp xỉ năm 1965, năm 1971 tăng 14% so với năm 1970. Hệ thống giao thông vận tải được khẩn trương khôi phục, bảo đảm vận chuyển thông suốt trên các tuyến. Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế được đẩy mạnh về chất lượng. Đời sống nhân dân bớt khó khăn. Công tác xây dựng Đảng đã được kết hợp với việc vận động quần chúng thực hiện dân chủ, đẩy mạnh sản xuất và sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành các nhiệm vụ trước mắt. Cuộc vận động kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh được tiến hành trong một năm (từ ngày 19-5-1970 đến ngày 19-5-1971), đã kết nạp gần 4 vạn đảng viên mới đủ tiêu chuẩn, góp phần tăng cường sức chiến đấu của Đảng. Cùng với nhiệm vụ khôi phục kinh tế, việc xây dựng tiềm lực quốc phòng và lực lượng vũ trang được tăng cường. Các sư đoàn chủ lực cơ động tăng từ 4 lên 6 sư đoàn, được xây dựng thành những binh đoàn mạnh. Các lực lượng phòng không, pháo bờ biển được kiện toàn về tổ chức và trang bị. Tháng 6-1970, Bộ Chính trị quyết định thành lập Hội đồng chi viện tiền tuyến Trung ương nhằm động viên hơn nữa sức mạnh của hậu phương lớn tăng viện cho các chiến trường. Tuyến đường vận tải Bắc Nam được mở rộng, tuyến đường ống dẫn dầu dài gần 1.500 km được xây dựng. Mặc dù địch tăng cường đánh phá, nhưng khối lượng chi viện vật chất cho miền Nam ngày càng tăng, năm 1969 được 2 vạn tấn, năm 1970 lên 4 vạn tấn và năm 1971 đạt tới 6 vạn tấn. Từ cuối năm 1969 đến năm 1971, miền Bắc tăng viện một lực lượng bộ binh và đặc công đông tới 19,5 vạn người, giúp chiến trường duy trì và tăng cường sức chiến đấu. Sự cố gắng vượt bậc của quân và dân miền Bắc đã củng cố hậu phương vững mạnh và phát huy vai trò to lớn của hậu phương đối với tiền tuyến, góp phần quyết định vào những chiến thắng trong các năm 1971-1972. Liên minh chiến đấu với Lào và Campuchia, mở ra thế chiến lược mới. Nhằm hỗ trợ cho chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", áp đặt ách thống trị thực dân mới trên cả bán đảo Đông Dương, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh xâm lược sang Lào và Campuchia. Hội nghị Bộ Chính trị tháng 4-1969 và Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 18 tháng 1-1970 đã dự đoán đúng âm mưu của Mỹ mở rộng chiến tranh và vạch rõ nhiệm vụ của nhân dân ta tăng cường đoàn kết chiến đấu với nhân dân Lào và Campuchia, đánh bại mưu đồ xâm lược của chúng. Ở Lào, đầu năm 1970 Mỹ mở cuộc hành quân của hơn một vạn quân nguỵ Lào được không quân Mỹ chi viện tiến công lấn chiếm khu vực chiến lược Cánh đồng Chum (Xiêng Khoảng). Thực hiện chủ trương của lãnh đạo Đảng ta và lãnh đạo Đảng bạn, lực lượng vũ trang của hai nước đã phối hợp mở chiến dịch phản công quy mô lớn, đánh bại cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu 6.000 tên, bảo vệ căn cứ địa chủ yếu của Lào, phá thế uy hiếp sườn phía tây miền Bắc nước ta và tuyến vận tải Tây Trường Sơn. Ở Campuchia, ngày 18-3-1970, Mỹ cho bọn tay sai làm đảo chính lật đổ Chính phủ Vương quốc trung lập Campuchia do Hoàng thân Nôrôđôm Xihanúc đứng đầu, lập chính quyền tay sai Lon Non. Đây là nấc thang chiến tranh mới của Mỹ nhằm biến Campuchia thành thuộc địa kiểu mới, xoá bỏ căn cứ và bàn đạp chiến lược của ta, cắt đứt tuyến tiếp tế miền Bắc cho miền Nam (qua nước Campuchia), bóp nghẹt cách mạng miền Nam. Bộ Chính trị Đảng ta chủ trương ủng hộ Hoàng thân Nôrôđôm Xihanúc, giúp nhân dân Campuchia chống đế quốc Mỹ và tay sai và chỉ thị cho các đơn vị quân đội ta phối hợp với bạn đánh địch và phát động quần chúng tiến công và nổi dậy. Trước tình hình chiến tranh xâm lược của Mỹ mở rộng, sự phối hợp chiến trường ba nước Đông Dương trở nên cấp bách. Bộ Chính trị cử đồng chí Phạm Văn Đồng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ sang Bắc Kinh thống nhất với Hoàng thân Xihanúc và Pôn Pốt về chủ trương lập Mặt trận thống nhất chống Mỹ và tay sai của ba nước Đông Dương, đồng thời tranh thủ sự đồng tình của các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Trong hai ngày 24 và 25-4-1970, Hội nghị cấp cao của nhân dân ba nước Đông Dương họp ra Tuyên bố chung khẳng định quyết tâm của nhân dân ba nước liên minh chiến đấu, đoàn kết trong mặt trận đấu tranh chung trên cơ sở tôn trọng độc lập, tự chủ của mỗi nước. Ngày 29-4-1970, 10 vạn quân Mỹ và quân nguỵ Sài Gòn tiến công xâm lược Campuchia nhằm củng cố chế độ Lon Non, tìm diệt cơ quan đầu não kháng chiến và phá cơ sở hậu phương của cách mạng miền Nam. Được chuẩn bị sẵn, các lực lượng vũ trang của ta phối hợp với bạn kịp thời phản công và tiến công địch, giành thắng lợi to lớn và toàn diện: loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên Mỹ - nguỵ, giải phóng hoàn toàn 5 tỉnh đông bắc và phần lớn 6 tỉnh khác, hình thành vùng giải phóng rộng lớn với hơn 3 triệu dân nằm kề vùng giải phóng miền Nam Việt Nam. Chính quyền cách mạng cùng với lực lượng chính trị và vũ trang ba thứ quân của bạn được ta giúp xây dựng tương đối hoàn chỉnh. (Lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia từ 9 trung đội, đến cuối năm 1970, đã có 5 tiểu đoàn, 36 đại đội, 127 trung đội gồm 9.399 người. Tỉnh, huyện có bộ đội địa phương, xã có du kích). Ngày 30-6-1970, Mỹ phải tuyên bố rút quân ra khỏi Campuchia. Phối hợp với cuộc phản công ở Campuchia, liên quân Việt - Lào tiến công giải phóng vùng Hạ Lào, hình thành vùng giải phóng rộng lớn của ba nước liên hoàn với nhau, tạo thế trận vững chắc cho nhân dân ba nước chống kẻ thù chung. Ở miền Nam quân và dân ta mở đợt hoạt động Xuân - Hè, đẩy mạnh hoạt động phá bình định ở nông thôn và đấu tranh chính trị ở thành thị. Ngày 19-6-1970, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ mới, dự đoán Mỹ còn tìm cách mở rộng chiến tranh trên bán đảo Đông Dương và xác định nhiệm vụ cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân; nhấn mạnh việc tăng cường đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương. Đầu năm 1971, đế quốc Mỹ huy động 4 vạn quânnguỵ Sài Gòn được sự yểm trợ của 1,5 vạn quân Mỹ và hàng nghìn máy bay, xe tăng, pháo lớn mở cuộc hành quân "Lam Sơn 719" đánh ra Đường 9 - Nam Lào, hòng đánh phá tận gốc đường vận chuyển chiến lược Bắc - Nam, làm suy yếu cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương, chủ yếu là miền Nam Việt Nam, thử nghiệm công thức của chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh": bộ binh nguỵ + hoả lực + hậu cần Mỹ. Đồng thời, Mỹ mở hai cuộc hành quân đánh vào tuyến hành lang chiến lược ở khu vực đông - bắc Campuchia và vùng Ba biên giới ở Tây Nguyên. Tại mặt trận Đường 9 - Nam Lào, quân ta và bạn Lào mở chiến dịch phản công, kiên quyết đánh thắng vì đây là "một trận có ý nghĩa quyết định về chiến lược". Sau 43 ngày đêm chiến đấu (từ 8-2 đến 23-3-1971), ta và bạn đã giành thắng lợi lớn: tiêu diệt và bắt sống hơn 2 vạn tên địch, đánh thiệt hại nặng 3 sư đoàn tinh nhuệ quân nguỵ Sài Gòn, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của địch, đánh bại cố gắng quân sự cao nhất của Mỹ - nguỵ trong chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh". Tại mặt trận đông - bắc Campuchia và mặt trận vùng Ba biên giới, ta và bạn cũng đánh thắng cuộc hành quân của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hàng vạn tên, bảo vệ tuyến hành lang chiến lược. [B]3. Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 Quyết tâm chiến lược của Đảng[/B] Những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân và dân ta trong Xuân - Hè 1970 và 1971 đã đẩy Mỹ - nguỵ vào thế phòng ngự bị động, lúng túng về chiến lược; nước Mỹ lại sắp bước vào cuộc bầu cử Tổng thống năm 1972. Chúng ta đứng trước tình thế thuận lợi mới, có điều kiện kết hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao, chủ động tiếp tục tiến công để giành thắng lợi lớn. Tháng 5-1971, Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 nhằm giành thắng lợi quyết định, buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh bằng thương lượng trên thế thua, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp chiến tranh còn kéo dài. Cuộc tiến công dự định tiến hành bằng ba đòn chiến lược kết hợp: đòn tiến công tiêu diệt địch của bộ đội chủ lực trên ba hướng Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Trị - Thiên; đòn tiến công và nổi dậy ở vùng nông thôn đánh phá bình định; đòn đấu tranh chính trị ở các thành thị làm lung lay tận gốc chính quyền địch. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ đạo các địa phương dốc sức chuẩn bị trong 9 tháng, đặc biệt là về vận chuyển tăng cường lực lượng chiến đấu cho các chiến trường. Miền Bắc đã tăng viện cho miền Nam 5,5 vạn cán bộ chiến sĩ cùng một khối lượng lớn trang bị kỹ thuật gồm cả xe tăng và pháo cơ giới là những vũ khí hạng nặng lần đầu tiên được đưa vào chiến trường. Các "Hội đồng cung cấp tiền phương" ở miền Nam tích cực vận động nhân dân tạo nguồn vật chất tại chỗ. Tháng 2-1972, Tổng thống Mỹ Níchxơn đi Trung Quốc, ký "Thông cáo chung Thượng Hải" nhằm phân chia khu vực ảnh hưởng đồng thời cô lập cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Cuối tháng 3-1972, trước diễn biến phức tạp của tình hình mới, Bộ Chính trị sau khi cân nhắc mọi mặt đã khẳng định quyết tâm không có gì thay đổi là kiên quyết tiến hành cuộc tiến công chiến lược đánh bại về cơ bản chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", làm chuyển biến cục diện chiến tranh. [B]Cuộc tiến công chiến lược năm 1972[/B] Ngày 30-3-1972, nhằm lúc địch chủ quan, sơ hở dophán đoán sai thời gian, quy mô và hướng tiến công của ta, quân và dân ta mở đầu cuộc tiến công chiến lược với quy mô lớn và cường độ mạnh vào hướng chủ yếu là Trị - Thiên, đánh thẳng vào tuyến phòng ngự của địch ở Đường 9, tiếp sau là các hướng Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ rồi đến đồng bằng Khu V và đồng bằng sông Cửu Long. Mỹ - nguỵ phản công quyết liệt ở Quảng Trị và ngày 6-4-1972 không quân và hải quân Mỹ đánh phá trở lại miền Bắc Việt Nam. Sau 2 tháng tiến công, đến cuối tháng 5-1972 quân và dân ta giành thắng lợi lớn: phá vỡ từng mảng ba tuyến phòng thủ vòng ngoài mạnh nhất của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 11 vạn quân địch, giải phóng tỉnh Quảng Trị và một số vùng đất rộng gồm hơn 1 triệu dân. Chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ đứng trước nguy cơ bị phá sản hoàn toàn. Tháng 5-1972, Níchxơn đi Mátxcơva nhằm tranh thủ Liên Xô để cùng Trung Quốc hạn chế viện trợ vật chất cho ta và ép ta đàm phán theo điều kiện của Mỹ. Song do sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa tất thắng và đường lối quốc tế đúng đắn của ta, ta vẫn tiếp tục nhận được sự ủng hộ lớn nhất có thể có của cả Trung Quốc và Liên Xô. Ngày 1-6-1972, nhận định cục diện kháng chiến đã có điều kiện để tiến lên đánh bại về cơ bản chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ, Bộ Chính trị chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cuộc tiến công chiến lược ở miền Nam, đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, bảo đảm hậu phương làm tốt nghĩa vụ chi viện cho tiền tuyến. Thực hiện quyết tâm của Đảng, quân và dân ta không quản hy sinh gian khổ, kiên cường đánh bại nhiều cuộc phản kích quyết liệt của địch, bảo vệ Thành cổ Quảng Trị trong 81 ngày đêm và giữ được phần lớn các vùng giải phóng mới mở ra ở miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và Khu V. Đồng thời, quân và dân ta mở các chiến dịch kết hợp tiến công và nổi dậy ở đồng bằng Nam Bộ và Khu V, tiêu diệt nhiều địch, phá kế hoạch bình định của chúng. Riêng ở đồng bằng Nam Bộ, ta đã giải phóng và làm chủ 72 xã với 48 vạn dân, tạo thế đứng vững chắc cho lực lượng tương đương 2 sư đoàn chủ lực ta trở về hoạt động. Quân và dân ở hai nước Lào và Campuchia liên tiếp tiến công địch ở nhiều nơi, phối hợp với cuộc chiến đấu của quân và dân ta ở miền Nam. Cuộc tiến công chiến lược 1972 đã giành thắng lợi to lớn, làm chuyển biến căn bản cục diện chiến tranh. Ta đã diệt và làm tan rã khoảng 30 vạn quân địch, giải phóng những vùng đất rộng gồm trên 1 triệu dân, đưa tổng số dân được giải phóng lên tới 4 triệu (trong tổng số 11 triệu dân). Bộ đội chủ lực ta trở về miền Nam đứng vững trên những địa bàn quan trọng, bộ đội địa phương và dân quân, du kích phát triển. Thắng lợi của cuộc tiến công đã góp phần quyết định buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari rút hết quân ra khỏi miền Nam nước ta. Tuy nhiên, bên cạnh thắng lợi mà ta đạt được, sự chỉ đạo của Đảng còn có nhiều thiếu sót trong việc đánh giá tình hình và so sánh lực lượng, chưa thấy hết khả năng đối phó của địch cũng như những mặt hạn chế của ta, đề ra mục tiêu của cuộc tiến công vượt quá khả năng của ta, chỉ đạo kế hoạch ứng phó chưa đầy đủ và kịp thời. Vì vậy thương vong và tổn thất còn ở mức cao. [B]4. Đánh thắng trận tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của Mỹ. Hiệp định Pari được ký kết Miền Bắc đánh thắng hành động chiến tranh mới của Mỹ[/B] Đế quốc Mỹ huy động lực lượng lớn không quân và hải quân Mỹ ồ ạt tham chiến ở miền Nam, đồng thời đánh phá trở lại miền Bắc, thả thuỷ lôi phong toả các cảng biển, cửa sông hòng ngăn chặn viện trợ quốc tế vào miền Bắc và sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, cứu nguy cho nguỵ quyền Sài Gòn và tăng sức ép đối với ta trong đàm phán. Thủ đoạn đánh phá của Mỹ rất tàn bạo, đã gây cho ta nhiều thiệt hại về người và của và những khó khăn lớn trên mặt trận giao thông vận tải. Cuối tháng 5-1972, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp quyết định chuyển mọi hoạt động của miền Bắc cho phù hợp với tình hình mới, phát động cuộc chiến tranh nhân dân đánh thắng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, tiếp tục làm nhiệm vụ tăng viện cho các chiến trường. Quân và dân miền Bắc đã kiên cường đánh trả địch, bắn rơi hàng trăm máy bay, bắn cháy nhiều tàu chiến Mỹ. Miền Bắc thực hiện nhiều biện pháp vượt qua sự phong toả của địch, tổ chức tiếp nhận hàng viện trợ của các nước bạn và tăng cường chi viện cho tiền tuyến. Khối lượng hàng vận chuyển cho các chiến trường tăng 1,7 lần so với năm 1971. [B]Đẩy mạnh tiến công ngoại giao phối hợp với tiến công quân sự[/B] Tháng 10-1972, mặc dù đế quốc Mỹ có cố gắng chiến tranh rất lớn và phải chịu nhiều tổn thất trên cả hai miền nước ta, nhưng chúng vẫn không đạt được các mục tiêu đề ra. Tại nước Mỹ, chính quyền Níchxơn gặp khó khăn về nhiều mặt do chính sách mở rộng chiến tranh xâm lược. Dựa trên thắng lợi quân sự và chính trị, ta đẩy mạnh tiến công ngoại giao. Cuối tháng 9-1972, Bộ Chính trị đề ra chủ trương về đàm phán tại Hội nghị Pari. Trên cơ sở nhận định thế và lực của ta, đặc biệt trên chiến trường miền Nam không ngừng phát triển, nhưng quân nguỵ còn đông (65 vạn) và còn kiểm soát nhiều vùng đông dân, Bộ Chính trị đề ra mục tiêu chính cần đạt được là chấm dứt mọi sự dính líu quân sự của Mỹ. Ta không đòi phải có ngay giải pháp toàn bộ, tạm thời gác khẩu hiệu đánh đổ chính quyền Thiệu mà chỉ đề ra việc thành lập chính phủ hoà hợp ba thành phần. Chủ trương này thể hiện bước đi đúng đắn và sáng tạo theo phương hướng chiến lược được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát "đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào". Ngày 8-10-1972, Đoàn đại biểu Chính phủ ta tại Hội nghị Pari đưa ra bản dự thảo "Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam", với nội dung giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam theo hai bước:bước 1, hai bên Mỹ và Việt Nam ký hiệp định chấm dứt chiến tranh, Mỹ rút hết quân và chấm dứt mọi sự dính líu về quân sự; bước 2, hai bên chính quyền ở miền Nam Việt Nam bàn giải quyết vấn đề nội bộ miền Nam. Ngày 20-10-1972, phía Mỹ chấp nhận những điểm căn bản của bản dự thảo hiệp định và thoả thuận lịch ký kết. Nhưng ngay sau đó, Mỹ lật lọng, vin lý do "khó khăn từ phía chính quyền Sài Gòn" đòi ta phải sửa nhiều điều khoản đã thoả thuận. Âm mưu của Tổng thống Mỹ Níchxơn là muốn đánh thêm một đòn quân sự nữa sau bầu cử Tổng thống ở Mỹ để ép ta phải nhượng bộ và tranh thủ thời gian viện trợ cho quân nguỵ Sài Gòn. [B]Đánh thắng cuộc tập kích bằng máy bay B.52 của đế quốc Mỹ. Hiệp định Pari được ký kết[/B] Ngay sau khi Mỹ có thái độ tráo trở, Bộ Chính trị chỉ rõ: sau khi vượt qua tuyển cử, Níchxơn sẽ tăng cường hành động quân sự; quân và dân cả nước phải kiên trì đẩy mạnh kháng chiến, đánh thắng âm mưu kéo dài và kết thúc chiến tranh trên thế mạnh của đế quốc Mỹ; miền Bắc có nhiệm vụ đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở mức độ cao, đặc biệt là bằng máy bay B.52. Từ cuối năm 1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự kiến: Sớm muộn đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B.52 đánh ra Hà Nội trước khi chúng chịu thua trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Dự kiến sáng suốt của Người đã soi đường cho quân và dân ta trong nhiệm vụ đánh thắng máy bay B.52 của Mỹ. Quân và dân ta ráo riết chuẩn bị chiến đấu, tăng cường công tác phòng không nhân dân, hoàn chỉnh các phương án đánh địch, đồng thời đánh trả các cuộc đánh phá quyết liệt của máy bay Mỹ từ vĩ tuyến 20 trở vào. Từ đêm 18 đến ngày 30-12, trong 12 ngày đêm đế quốc Mỹ đã sử dụng 729 lượt B.52 và 1.900 lượt máy bay cường kích tập trung đánh phá Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, thả một khối lượng bom có sức công phá bằng 5 quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Nhật Bản hồi tháng 8-1945. Quân và dân miền Bắc đã kiên cường, mưu trí giáng cho địch những đòn đích đáng từ trận đầu và đã đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 của Mỹ. 81 máy bay hiện đại, trong đó có 34 B.52 và 5F.111 bị bắn rơi; 43 giặc lái bị bắt sống. Riêng Hà Nội bắn rơi 23 B.52, phần lớn là bắn rơi tại chỗ. Đây là một chiến công oanh liệt của quân và dân ta trong chiến dịch phòng không đầu tiên trên thế giới tiêu diệt nhiều máy bay B.52 của Mỹ, giáng cho không quân chiến lược Mỹ đòn thất bại nặng nề nhất trong lịch sử xâm lược của đế quốc Mỹ. Nói về tầm vóc to lớn của chiến thắng vẻ vang này, dư luận thế giới gọi đây là trận "Điện Biên Phủ trên không". Ngày 30-12-1972, sau khi buộc phải tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, Chính phủ Mỹ đề nghị gặp lại đại biểu Chính phủ ta để bàn việc ký Hiệp định. Từ ngày 8 đến ngày 13-1-1973, tại Hội nghị Pari phái đoàn ta kiên quyết đấu tranh buộc Mỹ phải chấp nhận những điều khoản cơ bản của bản dự thảo Hiệp định tháng 10-1972. Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai mà đỉnh cao là cuộc tập kích chiến lược đường không bằng máy bay B.52 của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc diễn ra gần 9 tháng (từ ngày 6-4 đến ngày 29-12-1972) đã bị quân và dân ta đánh bại hoàn toàn. Ngày 23-1-1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký tắt giữa đại diện Chính phủ ta và Chính phủ Mỹ. Ngày 27-1-1973, Hiệp định được chính thức ký kết tại Pari và bắt đầu có hiệu lực từ 9 giờ ngày 28-1-1973. Theo Hiệp định, Mỹ phải công nhận độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; chấm dứt mọi sự dính líu quân sự, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam; chấp nhận lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam vẫn ở nguyên tại miền Nam; hai bên ở miền Nam hiệp thương giải quyết vấn đề nội bộ ở miền Nam Việt Nam. Tình hình sau đó của đất nước ta chứng minh rằng, một khi quân Mỹ đã rút đi và quân ta vẫn còn đó thì lực lượng so sánh giữa ta và địch đã thay đổi căn bản. Đây là tiền đề cơ bản cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam hơn hai năm sau. Hiệp định Pari đã ghi lại những thắng lợi rất to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đánh dấu bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Trong suốt 5 năm, khoảng thời gian dài chưa từng thấy của lịch sử đàm phán, với 201 phiên họp công khai, 45 cuộc gặp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn, hàng trăm cuộc mít tinh ủng hộ Việt Nam, cuộc đấu tranh ngoại giao của ta ở Pari đã thực sự góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ. [B][I][RIGHT]Nguồn: Báo ĐT ĐCS[/RIGHT][/I][/B] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam-Bài 6: Xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đánh thắng ba chiến lược chiến tr
Top