Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam-Bài 4
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 14355" data-attributes="member: 699"><p><strong>V. CỦNG CỐ HẬU PHƯƠNG, ĐẨY MẠNH TIẾN CÔNG ĐỊCH, GIỮ VỮNG QUYỀN CHỦ ĐỘNG CHIẾN LƯỢC</strong></p><p></p><p>Sau thất bại ở biên giới, tháng 12-1950, thực dân Pháp phái Đại tướng Đờlát đờ Tátxinhi (Delattre de Tassigny) - danh tướng số một của nước Pháp, sang Đông Dương làm Tổng chỉ huy kiêm Cao uỷ hòng xoay chuyển tình thế. Kế hoạch Đờlát ra đời gồm 4 điểm chính:</p><p></p><p>1. Gấp rút tập trung binh lực, xây dựng lực lượng cơ động chiến lược mạnh và phát triển quân nguỵ.</p><p></p><p>2. Xây dựng tuyến phòng thủ boong-ke (đồn xi măng cốt sắt) cắt Bắc Bộ từ Hồng Quảng đến Ninh Bình bằng con đường số 18 bao quanh đồng bằng Bắc Bộ và trung du bằng một "vành đai trắng" nhằm ngăn chặn quân ta tiến công vào vùng địch, ngăn chặn nhân lực, vật lực ta đưa ra vùng tự do.</p><p></p><p>3. Tập trung lực lượng bình định vùng địch kiểm soát, chủ yếu là vùng đồng bằng Bắc Bộ, củng cố nguỵ quyền và bắt lính.</p><p></p><p>4. Mở những cuộc tiến công ra vùng tự do của ta hòng giành lại thế chủ động, lấy lại tinh thần binh sĩ, có cớ xin thêm viện trợ Mỹ.</p><p></p><p>Thực hiện kế hoạch trên, địch củng cố thế phòng ngự, lấy Hà Nội - Hải Phòng làm trung tâm, tập trung quân Âu - Phi xây dựng được 7 binh đoàn cơ động và 4 tiểu đoàn dù đóng ở đồng bằng Bắc Bộ (12-1950), tuyển mộ hàng vạn nguỵ binh. Quân địch đẩy mạnh việc bình định ở vùng chúng kiểm soát, liên tiếp mở 10 trận càn quét lớn từ tháng 7 đến tháng 10 năm 1951, hòng phá tan cơ sở kháng chiến, triệt phá kinh tế của ta, cướp và đốt thóc lúa, giết trâu bò, phá đê điều, dồn làng tập trung dân. Nguỵ quyền được tô thêm lớp son giả hiệu "độc lập", "dân chủ".</p><p></p><p>Tình hình đó đã làm cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta gặp những khó khăn mới, đòi hỏi Đảng phải có phương hướng và biện pháp khắc phục.</p><p></p><p>Tháng 3-1951, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (khoá II) đề ra phương châm tác chiến là tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ba thứ quân, tăng cường công tác địch vận; tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, bảo đảm vấn đề cung cấp.</p><p></p><p>Hội nghị Trung ương lần thứ hai (khoá II) tháng 9-1951 đề ra ba nhiệm vụ lớn: ra sức tiêu diệt nhiều sinh lực địch; phá tan kế hoạch "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt" của địch; bồi dưỡng sức dân, xây dựng lực lượng, củng cố hậu phương. Hội nghị còn bàn về công tác vùng sau lưng địch.</p><p></p><p>Hội nghị Trung ương lần thứ ba (khoá II) tháng 4-1952 quyết định chỉnh Đảng chỉnh quân, coi đó là nhiệm vụ trung tâm về xây dựng Đảng và xây dựng lực lượng vũ trang, nhằm nâng cao năng lực về mọi mặt cho cán bộ, đảng viên và chiến sĩ.</p><p></p><p>Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khoá II) tháng 1-1953chủ trương thực hiện cải cách ruộng đất trong kháng chiến, thông qua cương lĩnh ruộng đất.</p><p></p><p>Thực hiện các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong hai năm 1951-1952, nhân dân và quân đội ta đã ra sức xây dựng lực lượng vũ trang, phục hồi và phát triển cuộc đấu tranh trong vùng sau lưng địch, củng cố hậu phương và mở một số cuộc tiến công về quân sự.</p><p></p><p>Công tác xây dựng lực lượng vũ trangđã chú ý các trọng tâm là chất lượng, xây dựng về chính trị và xây dựng bộ đội chủ lực. Đến cuối năm 1952, lực lượng vũ trang nhân dân đã có 6 đại đoàn bộ binh chủ lực, một đại đoàn công binh và pháo binh, mỗi Liên khu có 2 trung đoàn chủ lực, Nam Bộ có 4 trung đoàn chủ lực. Cuộc vận động chỉnh quân về chính trị và quân sự được tiến hành vào mùa hè 1952 và trong năm 1953. Kết quả là nâng cao giác ngộ giai cấp và dân tộc, nâng cao sự hiểu biết về đường lối kháng chiến và nhiệm vụ của quân đội, trình độ kỹ thuật, chiến thuật cho cán bộ và chiến sĩ. Công tác cung cấp của quân đội được tăng cường, lương thực, vũ khí, thuốc men được bổ sung, đường sá được xây dựng thêm. Công tác tổ chức và cán bộ đã được tiến hành theo phương châm tinh binh, tinh cán.</p><p></p><p>Phong trào đấu tranh ở vùng sau lưng địch hồi phục và phát triển. Ba chiến dịch tiến công của bộ đội chủ lực ở trung du Bắc Bộ (12-1950), đường số 18 (3-1951) và Hà - Nam - Ninh (5-1951) không làm thay đổi được tình thế về quân sự, nhưng đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân ta ở các vùng sau lưng địch. Công nhân, nông dân, dân quân, du kích, bộ đội địa phương đấu tranh sôi nổi, với các hình thức từ đấu tranh kinh tế và chính trị đòi những quyền dân sinh, dân chủ hàng ngày đến đấu tranh vũ trang, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế, vừa tiến công địch vừa chống địch càn quét.</p><p></p><p>Cuối năm 1951, quân Pháp mở chiến dịch đánh chiếm Hoà Bình nhằm kéo bộ đội ta ra để tiêu diệt và giành lại thế chủ động đã mất. Tận dụng thời cơ để tiêu diệt địch, quân ta tiến công ở ven sông Đà và đường số 6, đến cuối tháng 12-1951 cô lập địch ở thị xã Hoà Bình. Một phần bộ đội chủ lực của ta tiến sâu vào vùng sau lưng địch ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ để tiến công địch, hỗ trợ phong trào nổi dậy của quần chúng, phá nguỵ quyền, mở khu du kích, củng cố chính quyền nhân dân. Đến tháng 2-1952 ở mặt trận sau lưng địch ta đã tiêu diệt hơn 15.000 tên, bức rút hàng nghìn đồn giặc, mở rộng căn cứ du kích liên hoàn từ Bắc Giang đến Thái Bình, Kiến An, Quảng Yên, Ninh Bình, Hà Đông, giải phóng hai triệu dân. Ở Hoà Bình chúng bị tiêu diệt hơn 6.000 tên.</p><p></p><p>Ngày 23-2-1952, quân địch rút chạy khỏi Hoà Bình. Kết quả bình định của địch cả năm 1951 ở đồng bằng Bắc Bộ bị phá tan, ý định giành lại thế chủ động ở chiến trường Bắc Bộ bị thất bại. Chiến thắng Hoà Bình đánh dấu bước trưởng thành lớn của quân ta về phối hợp giữa chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích.</p><p></p><p>Nhằm cứu vãn tình thế, Tổng tư lệnh Pháp Xalăng (Salan) thay tướng Đờlát mở liên tiếp 20 trận càn vào các căn cứ du kích của ta ở đồng bằng Bắc Bộ. Quân và dân ta đã bẻ gẫy các trận càn, tiêu diệt hơn 10.000 tên địch, đồng thời mở rộng hoạt động ở Bình - Trị - Thiên, Liên khu V và Nam Bộ.</p><p></p><p>Về củng cố hậu phương của kháng chiến, năm 1952 Đảng phát động cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm nhằm giảm bớt tình hình căng thẳng về kinh tế, tài chính. Kết quả, đã giảm bớt nhiều khó khăn, riêng về sản xuất lương thực chỉ tính từ Liên khu V trở ra đạt hơn 2,7 triệu tấn thóc năm 1953. Năm 1951, sắc lệnh về thuế nông nghiệp và sắc lệnh về một số thuế khác (công thương, xuất nhập khẩu...) được ban hành. Theo đường lối giai cấp của Đảng, thuế nông nghiệp đánh nặng vào địa chủ, phú nông, giảm nhẹ cho bần cố nông, ưu đãi quân nhân, gia đình liệt sĩ. Cộng cả 4 năm (1951-1954) từ Liên khu V trở ra số thuế nông nghiệp thu được gần 1,6 triệu tấn thóc. Tháng 6-1951, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập và sau đó mậu dịch quốc doanh ra đời. Từ năm 1949 đến năm 1954, tính từ Liên khu V trở ra, nông dân đã được tạm cấp gần 180.000 ha ruộng đất của thực dân, địa chủ, ruộng bỏ hoang, ruộng công, ruộng vắng chủ... Công tác văn hoá kháng chiến, giáo dục, xoá nạn mù chữ, bảo vệ sức khoẻ cũng đạt được nhiều kết quả.</p><p></p><p>Về xây dựng Đảng, cuộc vận động chỉnh Đảng trong hai năm 1952, 1953 giúp cho cán bộ quán triệt thêm đường lối cách mạng và quan điểm kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh, khắc phục một bước những lệch lạc "tả" khuynh, hữu khuynh. Kết quả chỉnh Đảng bị hạn chế do những thiếu sót về cách làm không dựa trên cơ sở tổng kết công tác, phê bình thiếu khách quan, toàn diện, thiếu tinh thần xây dựng.</p><p></p><p>Giữa năm 1952, những thắng lợi của nhân dân ta ở vùng tự do và vùng sau lưng địch đã tạo ra sức mạnh mới cho cuộc kháng chiến. Tháng 9-1952, thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, quân ta mở chiến dịch Tây Bắc nhằm: tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một phần đất đai và xây dựng căn cứ địa ở Tây Bắc.</p><p></p><p>Sau ba tháng chiến đấu (từ ngày 4-10 đến ngày 30-12-1952) tại mặt trận Tây Bắc quân và dân ta đã tiêu diệt trên 6.000 tên địch, giải phóng đại bộ phận khu Tây Bắc rộng 28.500 km2 với 25 vạn dân; phá tan âm mưu lập "Xứ Thái tự trị" của giặc Pháp, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Địch phải tập trung tàn quân về Nà Sản, xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm lớn với lực lượng 10 tiểu đoàn.</p><p></p><p>Ở vùng sau lưng địch thuộc đồng bằng Bắc Bộ, quân chủ lực kết hợp với bộ đội địa phương, dân quân, du kích, phá nhiều đồn bốt giặc, phá tề, mở rộng căn cứ du kích. Ở Phú Thọ, quân ta đập tan cuộc hành quân của địch âm mưu kéo chủ lực ta về để đỡ đòn cho Tây Bắc. Kể cả ba mặt trận Tây Bắc, đồng bằng Bắc Bộ và Phú Thọ, quân và dân ta đã tiêu diệt 13.800 tên địch.</p><p></p><p>Chiến thắng Tây Bắc đã chứng minh phương hướng chiến lược "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu" là hoàn toàn đúng đắn, để lại nhiều kinh nghiệm về tổ chức một chiến dịch chính quy ở một chiến trường xa, khó tiếp tế, vận chuyển.</p><p></p><p>Thất bại nặng ở Tây Bắc, quân Pháp tăng cường phòng thủ Thượng Lào, xây dựng tập đoàn căn cứ điểm thị xã Sầm Nưa. Tháng 4 - 1953, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân đội giải phóng Lào mở Chiến dịch Thượng Lào. Sau gần một tháng chiến đấu, liên quân Lào - Việt đã giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phong Xa Lỳ với trên 30 vạn dân, tiêu diệt 2.800 tên địch. Căn cứ kháng chiến Thượng Lào nối liền với vùng Tây Bắc của Việt Nam, tạo thành thế uy hiếp mạnh đối với quân Pháp.</p><p></p><p>Năm 1953, thắng lợi trong việc thực hiện ba nhiệm vụ chiến lược tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta và phá tan kế hoạch bình định của giặc Pháp đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân, dân ta trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến.</p><p> </p><p><strong>VI. CUỘC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC ĐÔNG – XUÂN 1953-1954. CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ. HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ</strong></p><p></p><p>Qua 8 năm kháng chiến, lực lượng so sánh giữa ta và địch đã thay đổi lớn. Ở Bắc Bộ, vùng tự do bao gồm hầu hết các tỉnh miền núi rộng lớn ở Việt Bắc, Tây Bắc và tỉnh Hoà Bình. Vùng địch tạm chiếm bị thu hẹp. Tại Trung Bộ, hai vùng tự do rộng lớn gồm Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh (Liên khu IV) và các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên (Liên khu V) được củng cố. Tại Nam Bộ, các căn cứ địa kháng chiến, căn cứ du kích đứng vững, cơ sở kháng chiến được xây dựng ở cả nông thôn và thành thị. Lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Lực lượng cơ động chiến lược của ta hơn hẳn lực lượng cơ động chiến lược của địch.</p><p></p><p>Trước những khó khăn gay gắt ở Pháp và ở Đông Dương, Pháp ngày càng lệ thuộc Mỹ. Quân Pháp tăng cường về số lượng (lên tới 465.000 tên năm 1953) nhưng chất lượng kém. Mỹ đã can thiệp sâu vào Đông Dương chờ cơ hội hất cẳng Pháp. Tháng 5-1953, tướng Nava được phái sang Đông Dương làm tổng chỉ huy quân đội viễn chinh và với sự thoả thuận của Mỹ, kế hoạch Nava (Navarre) ra đời nhằm thực hiện chủ trương của Chính phủ Pháp là tìm con đường thoát bằng chính trị, tạo ra những điều kiện quân sự làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có danh dự. Kế hoạch Nava có nhiệm vụ tăng gấp ba lần số đơn vị cơ động chiến lược thành 27 binh đoàn và về tác chiến chia làm hai bước:</p><p></p><p>Bước thứ nhất (Thu - Đông 1953 và Xuân 1954): phòng ngự chiến lược ở Bắc vĩ tuyến 18 và xây dựng lực lượng; tiến công ở Nam vĩ tuyến 18 nhằm bình định miền Nam và miền Trung, xoá bỏ vùng tự do Liên khu V.</p><p></p><p>Bước thứ hai: sau khi có ưu thế về lực lượng cơ động, từ mùa thu 1954 chuyển toàn bộ lực lượng ra phía Bắc, mở cuộc tiến công quân sự gây sức ép buộc ta phải đàm phán theo những điều kiện của chúng.</p><p></p><p>Theo kế hoạch trên đây, tháng 7-1953, quân nhảy dù Pháp tập kích bất ngờ vào thị xã Lạng Sơn, tăng cường hoạt động biệt kích ở Lào Cai, Lai Châu, Sơn La và càn quét ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên và Nam Bộ. Tháng 8-1953, sau khi rút quân ở Nà Sản về, địch tập trung hơn 90% lực lượng cơ động ở Bắc Bộ.</p><p></p><p>Cuối tháng 9-1953, tại Định Hoá, Thái Nguyên, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp bàn về nhiệm vụ quân sự Đông - Xuân 1953 -1954. Bộ Chính trị chủ trương đưa bộ đội chủ lực lên Tây Bắc để buộc địch phải phân tán lực lượng và ta có thể tiêu diệt sinh lực của chúng, phối hợp các chiến trường, chuẩn bị điều kiện tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ.</p><p></p><p>Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 gồm ba đòn tiến công chiến lược: đánh vào Lai Châu, giải phóng hoàn toàn Tây Bắc; phối hợp với quân giải phóng Lào giải phóng Phong Xa Lỳ, tiến công ở Trung Lào và Hạ Lào, phối hợp với quân giải phóng Campuchia đánh ở Đông Bắc Campuchia; mở rộng vùng giải phóng tới sau lưng Sài Gòn, giành lấy Tây Nguyên và phá âm mưu bình định của địch ở miền Nam. Phương châm tác chiến: đánh ăn chắc, đánh tiêu diệt, đánh nơi địch sơ hở và tương đối yếu buộc địch phải phân tán; tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt.</p><p></p><p>Trong lúc ta chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược, giữa tháng 10-1953, quân Pháp đánh vào Tây nam Ninh Bình, bị lực lượng vũ trang của ta phản công ngay từ đầu, nên chúng buộc phải rút lui.</p><p></p><p>Theo kế hoạch đã định, giữa tháng 11-1953 bộ đội ta tiến lên Lai Châu và sang Trung Lào. Ngày 20-11-1953, Nava vội vã cho quân nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ và xây dựng phòng tuyến sông Nậm Hu nối liền Thượng Lào với Điện Biên Phủ. Từ đầu tháng 12-1953 Pháp tăng thêm quân ở Điện Biên Phủ để xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm kiên cố, sẵn sàng "nghiền nát" quân chủ lực của ta. Như vậy, ngay từ đầu kế hoạch Nava đã bị đảo lộn.</p><p></p><p>Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ.</p><p></p><p>Ngày 10-12-1953, bộ đội ta tiến công địch ở Lai Châu, cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 bắt đầu. Sau 10 ngày đêm chiến đấu, quân ta giải phóng Lai Châu trừ Điện Biên Phủ, Nava quyết định điều thêm quân cơ động lên Điện Biên Phủ, đưa lực lượng ở đây lên 12 tiểu đoàn.</p><p></p><p>Hạ tuần tháng 12-1953, quân tình nguyện Việt Nam và quân giải phóng Lào tiến công giải phóng hầu hết vùng Trung Lào. Nava phải điều quân từ Bắc Bộ sang cùng lực lượng tại chỗ lập tập đoàn cứ điểm ở Xênô (Xavannakhét). Liên quân Lào - Việt tiến xuống Hạ Lào và cuối tháng 1-1954 giải phóng cao nguyên Bôlôven. Một bộ phận quân ta phối hợp với quân giải phóng Campuchia tiến công mở rộng vùng giải phóng Đông Bắc Campuchia nối liền với vùng giải phóng Hạ Lào.</p><p></p><p>Cuối tháng 1-1954, địch tập trung một lực lượng lớn đánh Phú Yên hòng chiếm Liên khu V. Quân ta đánh chặn địch ở Phú Yên đồng thời tiến công Tây Nguyên, giải phóng thị xã Kon Tum và bắc Tây Nguyên, tập kích Plâycu. Quân Pháp buộc phải ngừng tiến công ở Phú Yên, điều lực lượng lên Tây Nguyên tổ chức hai tập đoàn cứ điểm An Khê và Plâycu.</p><p>Cuối tháng 1-1954, bị đánh mạnh ở Thượng Lào và mất tỉnh Phong Xa Lỳ, Nava phải điều quân tới Mường Sài và Luông Phabăng chốt giữ.</p><p></p><p>Ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên, Liên khu V và Nam Bộ, quân và dân ta hoạt động đều khắp, giam chân và tiêu diệt nhiều sinh lực địch, buộc địch phải phân tán lực lượng.</p><p></p><p>Đầu tháng 3-1954, lực lượng địch ở Điện Biên Phủ đã lên tới hơn 20 tiểu đoàn, phần lớn là lính Âu - Phi, bố trí 49 cứ điểm, được sự tiếp tế và hỗ trợ chiến đấu của 80% số máy bay của Pháp ở Đông Dương.</p><p></p><p>Với khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng", Đảng đã động viên sức người, sức của cho mặt trận Điện Biên Phủ. Hơn 26 vạn dân công với trên 10 triệu ngày công đã tham gia phục vụ chiến dịch. 27.400 tấn gạo được huy động chuyển đến mặt trận, trong đó đồng bào Tây Bắc mới giải phóng góp 7.300 tấn. Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với công binh mở mới và sửa chữa hàng nghìn kilômét đường. Các phương tiện vận tải các loại, kể cả xe đạp được huy động tối đa.</p><p></p><p>Kế hoạch tác chiến đề ra hai phương châm:một là "đánh nhanh thắng nhanh",hai là "đánh chắc tiến chắc". Khi địch mới nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, quân và dân ta chuẩn bị "đánh nhanh thắng nhanh". Trước ngày quân ta dự định nổ súng tiến công (25-1-1954), tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã được tăng cường. Bộ Chính trị chuẩn y đề nghị Đảng uỷ Mặt trận chuyển sang phương châm "đánh chắc tiến chắc" và hoãn ngày mở đầu chiến dịch.</p><p></p><p>Cùng với những hoạt động về quân sự và chuẩn bị chiến dịch, Đảng ta mở cuộc vận động thực hiện chính sách ruộng đất. Ba đợt thí điểm được tiến hành từ tháng 4 đến tháng 12-1953. Tháng 11-1953, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ năm và Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất (khoá II) của Đảng thông qua Cương lĩnh về vấn đề ruộng đất. Ngày 1-12-1953, Quốc hội khoá I thông qua Luật cải cách ruộng đất. Từ tháng 4-1953 đến tháng 7-1954, Đảng đã lãnh đạo nông dân tiến hành 5 đợt giảm tô và 1 đợt cải cách ruộng đất ở một số nơi thuộc vùng tự do. Việc làm đó đã có ảnh hưởng tốt đến nhiều vùng trong nước, tới cả vùng sau lưng địch. Không khí phấn khởi của nông dân đã truyền tới các chiến sĩ ngoài mặt trận, góp phần củng cố quyết tâm đánh thắng giặc Pháp xâm lược.</p><p></p><p>Ngày 13-3-1954, quân ta mở đợt tiến công thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Bộ đội ta tiêu diệt gọn hai cứ điểm Him Lam, Độc Lập, tiếp đó uy hiếp sân bay Mường Thanh. Thắng lợi đầu tiên của ta làm cho tinh thần binh sĩ địch dao động, thực dân Pháp ở Hà Nội, Sài Gòn và Chính phủ Pháp bàng hoàng.</p><p></p><p>Đợt tiến công thứ hai bắt đầu ngày 30-3. Quân ta chiếm được phần lớn cứ điểm quan trọng ở phía Đông, chia cắt, bao vây, khống chế được tiếp viện của địch. Quân Pháp được tăng thêm 4 tiểu đoàn, chống cự quyết liệt. Đế quốc Mỹ tăng viện gấp cho Pháp 179 máy bay và giặc lái, dự định mở chiến dịch "con diều hâu" dùng máy bay ném bom hạng nặng để cứu nguy cho quân Pháp ở Điện Biên Phủ.</p><p></p><p>Ngày 19-4, Bộ Chính trị nhận định hai đợt tiến công của ta đã giành được thắng lợi, nhưng thắng lợi còn hạn chế và ta đã phải chịu nhiều tổn thất; trong một số cán bộ đảng viên xuất hiện tư tưởng hữu khuynh, ngại khó, thiếu ý thức trách nhiệm. Bộ Chính trị quyết định tăng cường chi viện cho Điện Biên Phủ, cử nhiều uỷ viên Trung ương Đảng ra mặt trận, chuyển một bộ phận cán bộ của cuộc vận động thực hiện chính sách ruộng đất sang phục vụ chiến dịch và mở đợt sinh hoạt chính trị nâng cao tinh thần chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ ở mặt trận.</p><p></p><p>Ngày 1-5-1954, quân ta mở đợt tiến công thứ ba nhằm tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Sau ba ngày đêm chiến đấu, bộ đội ta chỉ còn cách sở chỉ huy địch 300 mét. Thấy rõ nguy cơ bị tiêu diệt, địch định phá vòng vây tháo chạy sang Lào nhưng không kịp. 17 giờ 30 ngày 7-5-1954, tướng Đờ Caxtơri (De Castries) và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống, 12.000 quân địch ra hàng. Chiến dịch Điện Biên Phủ đã toàn thắng.</p><p></p><p>Sau 55 ngày đêm chiến đấu gian khổ và anh dũng, quân ta đã tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, diệt và bắt sống 16.200 quân địch, bắn rơi 62 chiếc máy bay, thu nhiều vũ khí. Ngày 8-5-1954 Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc và căn dặn: thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bước đầu.</p><p></p><p>Chiến thắng Điện Biên Phủ cổ vũ và tạo điều kiện cho cuộc tiến công và nổi dậy (phá tề, trừ gian, chống bắt lính, làm tan rã hàng ngũ địch) của quân và dân ta ở vùng địch chiếm đóng. Ngày 27-5-1954, hơn 20.000 nhân dân thành phố Hải Phòng xuống đường biểu tình chống bắt lính, diễu qua các đường lớn, phá phòng động viên Cầu Đất và đốt phá một số đồn cảnh sát.</p><p></p><p>Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ đã kết thúc thành công. Gần một phần tư tổng lực của địch đã bị tiêu diệt. Quân và dân ta đã đánh bại kế hoạch Nava là cố gắng chiến tranh cao nhất, cuối cùng của thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ, giáng đòn quyết định, đập tan ý chí xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp.</p><p></p><p>Lo sợ gặp phải một "Điện Biên Phủ mới", ngày 14-5-1954 Chính phủ Pháp chủ trương rút quân khỏi miền nam đồng bằng Bắc Bộ và xác định mục tiêu chính của Pháp ở Đông Dương là bảo vệ quân đội viễn chinh. Tính đến giữa tháng 7-1954, quân Pháp rút 175 vị trí ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ, rút khỏi Việt Trì và hầu hết các tỉnh Thái Bình, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam. Gần 90% đồng bằng Bắc Bộ được giải phóng.</p><p></p><p>Thắng lợi của nhân dân ta có sự đóng góp quý báu của nhân dân Pháp và nhân dân tiến bộ trên thế giới đã ủng hộ, giúp đỡ nhân dân ta kháng chiến chống cuộc "chiến tranh bẩn thỉu" của đế quốc Pháp.</p><p></p><p>Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược được kết thúc bằng cuộc đấu tranh về ngoại giao.</p><p></p><p>Sau khi Quốc hội Pháp biểu quyết ủng hộ Chính phủ Pháp tìm giải pháp thương lượng cho cuộc chiến tranh, ngày 26-11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời phỏng vấn của phóng viên báo Etxprétxen (Thuỵ Điển) nói rõ quan điểm của Đảng và Chính phủ ta về thương lượng: cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp phải thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam.</p><p></p><p>Ngày 8-5-1954, một ngày sau khi quân Pháp thảm bại ở Điện Biên Phủ, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương khai mạc ở Giơnevơ (Thuỵ Sĩ). Tham dự Hội nghị có đại diện của 9 bên: Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Pháp, Mỹ, Anh và ba đoàn của chính quyền bù nhìn Việt Nam, Lào, Campuchia. Tại Hội nghị, đồng chí Phạm Văn Đồng trưởng đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố lập trường về một giải pháp hoàn chỉnh: đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương đi đôi với một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, vấn đề Lào và vấn đề Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước ở Đông Dương. Chủ trương của phía Pháp là chỉ giải quyết vấn đề quân sự, tách vấn đề Lào và vấn đề Campuchia khỏi vấn đề Việt Nam. Do lập trường các bên khác nhau, mỗi đế quốc lại có ý đồ riêng nên đến trung tuần tháng 6-1954, Hội nghị hầu như giẫm chân tại chỗ. Một số vấn đề tồn tại là: đường ranh giới tập kết ở Việt Nam; thời hạn tổng tuyển cử ở Việt Nam; thời hạn rút quân Pháp khỏi miền Bắc Việt Nam, Lào và Campuchia.</p><p></p><p>Ngày 21-7-1954, Hội nghị Giơnevơ đi đến giải pháp và ký kết Hiệp định. Hiệp định Giơnevơ quy định: Các nước tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào, nhân dân Campuchia, Pháp rút quân khỏi ba nước Đông Dương, vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời; tháng 7-1956, tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước.</p><p></p><p>Trong số 9 đoàn tham dự Hội nghị Giơnevơ, có 8 đoàn tham gia ký vào Hiệp định. Riêng đoàn Mỹ không ký mà chỉ ra một bản tuyên bố ghi nhận. Đây là sự chuẩn bị trước cho việc Mỹ không thực hiện Hiệp định sau này.</p><p></p><p>Hiệp định Giơnevơ đã góp phần cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ chấm dứt chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương. Miền Bắc nước ta được giải phóng, có điều kiện xây dựng trong hoà bình, làm cơ sở cho sự nghiệp giải phóng miền Nam sau này.</p><p></p><p>Hiệp định Giơnevơ có mặt hạn chế là không phản ánh đầy đủ những thắng lợi của quân và dân ta trên chiến trường. Điều đó được thể hiện trong việc chia giới tuyến quân sự tạm thời, thời hạn tổng tuyển cử, giải pháp về Lào và Campuchia. Nguyên nhân của hạn chế đó là do ta không nắm được đầy đủ tình hình và ý đồ các bên, chưa có kinh nghiệm để giữ vững độc lập tự chủ trong một Hội nghị quốc tế.</p><p></p><p>Từ ngày 23-9-1945 đến ngày 21-7-1954, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trải qua hơn 3.200 ngày đêm kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ nhưng vô cùng anh dũng và tự hào.</p><p></p><p>Gần nửa triệu quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp bị loại khỏi vòng chiến đấu; khoảng 3.000 tỷ phơrăng Pháp và 2.600 triệu đôla Mỹ viện trợ tiêu phí vì chiến tranh; 20 lần Chính phủ Pháp bị đổ; 7 lần toàn quyền Pháp bị triệu hồi; 8 tổng chỉ huy quân đội Pháp kế tiếp nhau thua trận. Thực dân Pháp buộc phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia và phải rút quân khỏi ba nước.</p><p></p><p>Ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp ở ba nước Đông Dương bị đập tan. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân cũ, trước hết là hệ thống thuộc địa của Pháp; cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.</p><p></p><p>Những kinh nghiệm và thành tựu mà Đảng và nhân dân ta thu được trong kháng chiến là những đóng góp quý giá vào kho tàng lý luận giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Những lực lượng cách mạng mà Đảng ta đã xây dựng là những vốn liếng bảo đảm cho nhân dân ta tiến lên hoàn thành thắng lợi sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước sau này.</p><p>Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:</p><p></p><p>"Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới".</p><p>Cuộc kháng chiến chống Pháp đã để lại cho Đảng ta và nhân dân ta những kinh nghiệm lịch sử quý báu:</p><p></p><p>1. Xác định đúng và quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, nhất định thắng lợi trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và trong toàn bộ quá trình kháng chiến.</p><p></p><p>2. Vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ mới.</p><p></p><p>3. Vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng chiến đấu.</p><p></p><p>4. Phương thức tiến hành chiến tranh thích hợp.</p><p></p><p>5. Nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh.</p><p></p><p>Nguồn: Báo ĐT ĐCS</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 14355, member: 699"] [B]V. CỦNG CỐ HẬU PHƯƠNG, ĐẨY MẠNH TIẾN CÔNG ĐỊCH, GIỮ VỮNG QUYỀN CHỦ ĐỘNG CHIẾN LƯỢC[/B] Sau thất bại ở biên giới, tháng 12-1950, thực dân Pháp phái Đại tướng Đờlát đờ Tátxinhi (Delattre de Tassigny) - danh tướng số một của nước Pháp, sang Đông Dương làm Tổng chỉ huy kiêm Cao uỷ hòng xoay chuyển tình thế. Kế hoạch Đờlát ra đời gồm 4 điểm chính: 1. Gấp rút tập trung binh lực, xây dựng lực lượng cơ động chiến lược mạnh và phát triển quân nguỵ. 2. Xây dựng tuyến phòng thủ boong-ke (đồn xi măng cốt sắt) cắt Bắc Bộ từ Hồng Quảng đến Ninh Bình bằng con đường số 18 bao quanh đồng bằng Bắc Bộ và trung du bằng một "vành đai trắng" nhằm ngăn chặn quân ta tiến công vào vùng địch, ngăn chặn nhân lực, vật lực ta đưa ra vùng tự do. 3. Tập trung lực lượng bình định vùng địch kiểm soát, chủ yếu là vùng đồng bằng Bắc Bộ, củng cố nguỵ quyền và bắt lính. 4. Mở những cuộc tiến công ra vùng tự do của ta hòng giành lại thế chủ động, lấy lại tinh thần binh sĩ, có cớ xin thêm viện trợ Mỹ. Thực hiện kế hoạch trên, địch củng cố thế phòng ngự, lấy Hà Nội - Hải Phòng làm trung tâm, tập trung quân Âu - Phi xây dựng được 7 binh đoàn cơ động và 4 tiểu đoàn dù đóng ở đồng bằng Bắc Bộ (12-1950), tuyển mộ hàng vạn nguỵ binh. Quân địch đẩy mạnh việc bình định ở vùng chúng kiểm soát, liên tiếp mở 10 trận càn quét lớn từ tháng 7 đến tháng 10 năm 1951, hòng phá tan cơ sở kháng chiến, triệt phá kinh tế của ta, cướp và đốt thóc lúa, giết trâu bò, phá đê điều, dồn làng tập trung dân. Nguỵ quyền được tô thêm lớp son giả hiệu "độc lập", "dân chủ". Tình hình đó đã làm cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta gặp những khó khăn mới, đòi hỏi Đảng phải có phương hướng và biện pháp khắc phục. Tháng 3-1951, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (khoá II) đề ra phương châm tác chiến là tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ba thứ quân, tăng cường công tác địch vận; tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, bảo đảm vấn đề cung cấp. Hội nghị Trung ương lần thứ hai (khoá II) tháng 9-1951 đề ra ba nhiệm vụ lớn: ra sức tiêu diệt nhiều sinh lực địch; phá tan kế hoạch "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt trị người Việt" của địch; bồi dưỡng sức dân, xây dựng lực lượng, củng cố hậu phương. Hội nghị còn bàn về công tác vùng sau lưng địch. Hội nghị Trung ương lần thứ ba (khoá II) tháng 4-1952 quyết định chỉnh Đảng chỉnh quân, coi đó là nhiệm vụ trung tâm về xây dựng Đảng và xây dựng lực lượng vũ trang, nhằm nâng cao năng lực về mọi mặt cho cán bộ, đảng viên và chiến sĩ. Hội nghị Trung ương lần thứ tư (khoá II) tháng 1-1953chủ trương thực hiện cải cách ruộng đất trong kháng chiến, thông qua cương lĩnh ruộng đất. Thực hiện các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong hai năm 1951-1952, nhân dân và quân đội ta đã ra sức xây dựng lực lượng vũ trang, phục hồi và phát triển cuộc đấu tranh trong vùng sau lưng địch, củng cố hậu phương và mở một số cuộc tiến công về quân sự. Công tác xây dựng lực lượng vũ trangđã chú ý các trọng tâm là chất lượng, xây dựng về chính trị và xây dựng bộ đội chủ lực. Đến cuối năm 1952, lực lượng vũ trang nhân dân đã có 6 đại đoàn bộ binh chủ lực, một đại đoàn công binh và pháo binh, mỗi Liên khu có 2 trung đoàn chủ lực, Nam Bộ có 4 trung đoàn chủ lực. Cuộc vận động chỉnh quân về chính trị và quân sự được tiến hành vào mùa hè 1952 và trong năm 1953. Kết quả là nâng cao giác ngộ giai cấp và dân tộc, nâng cao sự hiểu biết về đường lối kháng chiến và nhiệm vụ của quân đội, trình độ kỹ thuật, chiến thuật cho cán bộ và chiến sĩ. Công tác cung cấp của quân đội được tăng cường, lương thực, vũ khí, thuốc men được bổ sung, đường sá được xây dựng thêm. Công tác tổ chức và cán bộ đã được tiến hành theo phương châm tinh binh, tinh cán. Phong trào đấu tranh ở vùng sau lưng địch hồi phục và phát triển. Ba chiến dịch tiến công của bộ đội chủ lực ở trung du Bắc Bộ (12-1950), đường số 18 (3-1951) và Hà - Nam - Ninh (5-1951) không làm thay đổi được tình thế về quân sự, nhưng đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần đấu tranh của nhân dân ta ở các vùng sau lưng địch. Công nhân, nông dân, dân quân, du kích, bộ đội địa phương đấu tranh sôi nổi, với các hình thức từ đấu tranh kinh tế và chính trị đòi những quyền dân sinh, dân chủ hàng ngày đến đấu tranh vũ trang, kết hợp đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế, vừa tiến công địch vừa chống địch càn quét. Cuối năm 1951, quân Pháp mở chiến dịch đánh chiếm Hoà Bình nhằm kéo bộ đội ta ra để tiêu diệt và giành lại thế chủ động đã mất. Tận dụng thời cơ để tiêu diệt địch, quân ta tiến công ở ven sông Đà và đường số 6, đến cuối tháng 12-1951 cô lập địch ở thị xã Hoà Bình. Một phần bộ đội chủ lực của ta tiến sâu vào vùng sau lưng địch ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ để tiến công địch, hỗ trợ phong trào nổi dậy của quần chúng, phá nguỵ quyền, mở khu du kích, củng cố chính quyền nhân dân. Đến tháng 2-1952 ở mặt trận sau lưng địch ta đã tiêu diệt hơn 15.000 tên, bức rút hàng nghìn đồn giặc, mở rộng căn cứ du kích liên hoàn từ Bắc Giang đến Thái Bình, Kiến An, Quảng Yên, Ninh Bình, Hà Đông, giải phóng hai triệu dân. Ở Hoà Bình chúng bị tiêu diệt hơn 6.000 tên. Ngày 23-2-1952, quân địch rút chạy khỏi Hoà Bình. Kết quả bình định của địch cả năm 1951 ở đồng bằng Bắc Bộ bị phá tan, ý định giành lại thế chủ động ở chiến trường Bắc Bộ bị thất bại. Chiến thắng Hoà Bình đánh dấu bước trưởng thành lớn của quân ta về phối hợp giữa chiến tranh chính quy với chiến tranh du kích. Nhằm cứu vãn tình thế, Tổng tư lệnh Pháp Xalăng (Salan) thay tướng Đờlát mở liên tiếp 20 trận càn vào các căn cứ du kích của ta ở đồng bằng Bắc Bộ. Quân và dân ta đã bẻ gẫy các trận càn, tiêu diệt hơn 10.000 tên địch, đồng thời mở rộng hoạt động ở Bình - Trị - Thiên, Liên khu V và Nam Bộ. Về củng cố hậu phương của kháng chiến, năm 1952 Đảng phát động cuộc vận động tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm nhằm giảm bớt tình hình căng thẳng về kinh tế, tài chính. Kết quả, đã giảm bớt nhiều khó khăn, riêng về sản xuất lương thực chỉ tính từ Liên khu V trở ra đạt hơn 2,7 triệu tấn thóc năm 1953. Năm 1951, sắc lệnh về thuế nông nghiệp và sắc lệnh về một số thuế khác (công thương, xuất nhập khẩu...) được ban hành. Theo đường lối giai cấp của Đảng, thuế nông nghiệp đánh nặng vào địa chủ, phú nông, giảm nhẹ cho bần cố nông, ưu đãi quân nhân, gia đình liệt sĩ. Cộng cả 4 năm (1951-1954) từ Liên khu V trở ra số thuế nông nghiệp thu được gần 1,6 triệu tấn thóc. Tháng 6-1951, Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập và sau đó mậu dịch quốc doanh ra đời. Từ năm 1949 đến năm 1954, tính từ Liên khu V trở ra, nông dân đã được tạm cấp gần 180.000 ha ruộng đất của thực dân, địa chủ, ruộng bỏ hoang, ruộng công, ruộng vắng chủ... Công tác văn hoá kháng chiến, giáo dục, xoá nạn mù chữ, bảo vệ sức khoẻ cũng đạt được nhiều kết quả. Về xây dựng Đảng, cuộc vận động chỉnh Đảng trong hai năm 1952, 1953 giúp cho cán bộ quán triệt thêm đường lối cách mạng và quan điểm kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh, khắc phục một bước những lệch lạc "tả" khuynh, hữu khuynh. Kết quả chỉnh Đảng bị hạn chế do những thiếu sót về cách làm không dựa trên cơ sở tổng kết công tác, phê bình thiếu khách quan, toàn diện, thiếu tinh thần xây dựng. Giữa năm 1952, những thắng lợi của nhân dân ta ở vùng tự do và vùng sau lưng địch đã tạo ra sức mạnh mới cho cuộc kháng chiến. Tháng 9-1952, thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị, quân ta mở chiến dịch Tây Bắc nhằm: tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng một phần đất đai và xây dựng căn cứ địa ở Tây Bắc. Sau ba tháng chiến đấu (từ ngày 4-10 đến ngày 30-12-1952) tại mặt trận Tây Bắc quân và dân ta đã tiêu diệt trên 6.000 tên địch, giải phóng đại bộ phận khu Tây Bắc rộng 28.500 km2 với 25 vạn dân; phá tan âm mưu lập "Xứ Thái tự trị" của giặc Pháp, mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Địch phải tập trung tàn quân về Nà Sản, xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm lớn với lực lượng 10 tiểu đoàn. Ở vùng sau lưng địch thuộc đồng bằng Bắc Bộ, quân chủ lực kết hợp với bộ đội địa phương, dân quân, du kích, phá nhiều đồn bốt giặc, phá tề, mở rộng căn cứ du kích. Ở Phú Thọ, quân ta đập tan cuộc hành quân của địch âm mưu kéo chủ lực ta về để đỡ đòn cho Tây Bắc. Kể cả ba mặt trận Tây Bắc, đồng bằng Bắc Bộ và Phú Thọ, quân và dân ta đã tiêu diệt 13.800 tên địch. Chiến thắng Tây Bắc đã chứng minh phương hướng chiến lược "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu" là hoàn toàn đúng đắn, để lại nhiều kinh nghiệm về tổ chức một chiến dịch chính quy ở một chiến trường xa, khó tiếp tế, vận chuyển. Thất bại nặng ở Tây Bắc, quân Pháp tăng cường phòng thủ Thượng Lào, xây dựng tập đoàn căn cứ điểm thị xã Sầm Nưa. Tháng 4 - 1953, quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với quân đội giải phóng Lào mở Chiến dịch Thượng Lào. Sau gần một tháng chiến đấu, liên quân Lào - Việt đã giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh Phong Xa Lỳ với trên 30 vạn dân, tiêu diệt 2.800 tên địch. Căn cứ kháng chiến Thượng Lào nối liền với vùng Tây Bắc của Việt Nam, tạo thành thế uy hiếp mạnh đối với quân Pháp. Năm 1953, thắng lợi trong việc thực hiện ba nhiệm vụ chiến lược tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta và phá tan kế hoạch bình định của giặc Pháp đã tạo điều kiện thuận lợi cho quân, dân ta trong giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến. [B]VI. CUỘC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC ĐÔNG – XUÂN 1953-1954. CHIẾN THẮNG ĐIỆN BIÊN PHỦ. HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ[/B] Qua 8 năm kháng chiến, lực lượng so sánh giữa ta và địch đã thay đổi lớn. Ở Bắc Bộ, vùng tự do bao gồm hầu hết các tỉnh miền núi rộng lớn ở Việt Bắc, Tây Bắc và tỉnh Hoà Bình. Vùng địch tạm chiếm bị thu hẹp. Tại Trung Bộ, hai vùng tự do rộng lớn gồm Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh (Liên khu IV) và các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên (Liên khu V) được củng cố. Tại Nam Bộ, các căn cứ địa kháng chiến, căn cứ du kích đứng vững, cơ sở kháng chiến được xây dựng ở cả nông thôn và thành thị. Lực lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. Lực lượng cơ động chiến lược của ta hơn hẳn lực lượng cơ động chiến lược của địch. Trước những khó khăn gay gắt ở Pháp và ở Đông Dương, Pháp ngày càng lệ thuộc Mỹ. Quân Pháp tăng cường về số lượng (lên tới 465.000 tên năm 1953) nhưng chất lượng kém. Mỹ đã can thiệp sâu vào Đông Dương chờ cơ hội hất cẳng Pháp. Tháng 5-1953, tướng Nava được phái sang Đông Dương làm tổng chỉ huy quân đội viễn chinh và với sự thoả thuận của Mỹ, kế hoạch Nava (Navarre) ra đời nhằm thực hiện chủ trương của Chính phủ Pháp là tìm con đường thoát bằng chính trị, tạo ra những điều kiện quân sự làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có danh dự. Kế hoạch Nava có nhiệm vụ tăng gấp ba lần số đơn vị cơ động chiến lược thành 27 binh đoàn và về tác chiến chia làm hai bước: Bước thứ nhất (Thu - Đông 1953 và Xuân 1954): phòng ngự chiến lược ở Bắc vĩ tuyến 18 và xây dựng lực lượng; tiến công ở Nam vĩ tuyến 18 nhằm bình định miền Nam và miền Trung, xoá bỏ vùng tự do Liên khu V. Bước thứ hai: sau khi có ưu thế về lực lượng cơ động, từ mùa thu 1954 chuyển toàn bộ lực lượng ra phía Bắc, mở cuộc tiến công quân sự gây sức ép buộc ta phải đàm phán theo những điều kiện của chúng. Theo kế hoạch trên đây, tháng 7-1953, quân nhảy dù Pháp tập kích bất ngờ vào thị xã Lạng Sơn, tăng cường hoạt động biệt kích ở Lào Cai, Lai Châu, Sơn La và càn quét ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên và Nam Bộ. Tháng 8-1953, sau khi rút quân ở Nà Sản về, địch tập trung hơn 90% lực lượng cơ động ở Bắc Bộ. Cuối tháng 9-1953, tại Định Hoá, Thái Nguyên, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp bàn về nhiệm vụ quân sự Đông - Xuân 1953 -1954. Bộ Chính trị chủ trương đưa bộ đội chủ lực lên Tây Bắc để buộc địch phải phân tán lực lượng và ta có thể tiêu diệt sinh lực của chúng, phối hợp các chiến trường, chuẩn bị điều kiện tiến tới giải phóng đồng bằng Bắc Bộ. Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 gồm ba đòn tiến công chiến lược: đánh vào Lai Châu, giải phóng hoàn toàn Tây Bắc; phối hợp với quân giải phóng Lào giải phóng Phong Xa Lỳ, tiến công ở Trung Lào và Hạ Lào, phối hợp với quân giải phóng Campuchia đánh ở Đông Bắc Campuchia; mở rộng vùng giải phóng tới sau lưng Sài Gòn, giành lấy Tây Nguyên và phá âm mưu bình định của địch ở miền Nam. Phương châm tác chiến: đánh ăn chắc, đánh tiêu diệt, đánh nơi địch sơ hở và tương đối yếu buộc địch phải phân tán; tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt. Trong lúc ta chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược, giữa tháng 10-1953, quân Pháp đánh vào Tây nam Ninh Bình, bị lực lượng vũ trang của ta phản công ngay từ đầu, nên chúng buộc phải rút lui. Theo kế hoạch đã định, giữa tháng 11-1953 bộ đội ta tiến lên Lai Châu và sang Trung Lào. Ngày 20-11-1953, Nava vội vã cho quân nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ và xây dựng phòng tuyến sông Nậm Hu nối liền Thượng Lào với Điện Biên Phủ. Từ đầu tháng 12-1953 Pháp tăng thêm quân ở Điện Biên Phủ để xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm kiên cố, sẵn sàng "nghiền nát" quân chủ lực của ta. Như vậy, ngay từ đầu kế hoạch Nava đã bị đảo lộn. Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngày 10-12-1953, bộ đội ta tiến công địch ở Lai Châu, cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954 bắt đầu. Sau 10 ngày đêm chiến đấu, quân ta giải phóng Lai Châu trừ Điện Biên Phủ, Nava quyết định điều thêm quân cơ động lên Điện Biên Phủ, đưa lực lượng ở đây lên 12 tiểu đoàn. Hạ tuần tháng 12-1953, quân tình nguyện Việt Nam và quân giải phóng Lào tiến công giải phóng hầu hết vùng Trung Lào. Nava phải điều quân từ Bắc Bộ sang cùng lực lượng tại chỗ lập tập đoàn cứ điểm ở Xênô (Xavannakhét). Liên quân Lào - Việt tiến xuống Hạ Lào và cuối tháng 1-1954 giải phóng cao nguyên Bôlôven. Một bộ phận quân ta phối hợp với quân giải phóng Campuchia tiến công mở rộng vùng giải phóng Đông Bắc Campuchia nối liền với vùng giải phóng Hạ Lào. Cuối tháng 1-1954, địch tập trung một lực lượng lớn đánh Phú Yên hòng chiếm Liên khu V. Quân ta đánh chặn địch ở Phú Yên đồng thời tiến công Tây Nguyên, giải phóng thị xã Kon Tum và bắc Tây Nguyên, tập kích Plâycu. Quân Pháp buộc phải ngừng tiến công ở Phú Yên, điều lực lượng lên Tây Nguyên tổ chức hai tập đoàn cứ điểm An Khê và Plâycu. Cuối tháng 1-1954, bị đánh mạnh ở Thượng Lào và mất tỉnh Phong Xa Lỳ, Nava phải điều quân tới Mường Sài và Luông Phabăng chốt giữ. Ở đồng bằng Bắc Bộ, Bình - Trị - Thiên, Liên khu V và Nam Bộ, quân và dân ta hoạt động đều khắp, giam chân và tiêu diệt nhiều sinh lực địch, buộc địch phải phân tán lực lượng. Đầu tháng 3-1954, lực lượng địch ở Điện Biên Phủ đã lên tới hơn 20 tiểu đoàn, phần lớn là lính Âu - Phi, bố trí 49 cứ điểm, được sự tiếp tế và hỗ trợ chiến đấu của 80% số máy bay của Pháp ở Đông Dương. Với khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng", Đảng đã động viên sức người, sức của cho mặt trận Điện Biên Phủ. Hơn 26 vạn dân công với trên 10 triệu ngày công đã tham gia phục vụ chiến dịch. 27.400 tấn gạo được huy động chuyển đến mặt trận, trong đó đồng bào Tây Bắc mới giải phóng góp 7.300 tấn. Hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với công binh mở mới và sửa chữa hàng nghìn kilômét đường. Các phương tiện vận tải các loại, kể cả xe đạp được huy động tối đa. Kế hoạch tác chiến đề ra hai phương châm:một là "đánh nhanh thắng nhanh",hai là "đánh chắc tiến chắc". Khi địch mới nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, quân và dân ta chuẩn bị "đánh nhanh thắng nhanh". Trước ngày quân ta dự định nổ súng tiến công (25-1-1954), tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã được tăng cường. Bộ Chính trị chuẩn y đề nghị Đảng uỷ Mặt trận chuyển sang phương châm "đánh chắc tiến chắc" và hoãn ngày mở đầu chiến dịch. Cùng với những hoạt động về quân sự và chuẩn bị chiến dịch, Đảng ta mở cuộc vận động thực hiện chính sách ruộng đất. Ba đợt thí điểm được tiến hành từ tháng 4 đến tháng 12-1953. Tháng 11-1953, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ năm và Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất (khoá II) của Đảng thông qua Cương lĩnh về vấn đề ruộng đất. Ngày 1-12-1953, Quốc hội khoá I thông qua Luật cải cách ruộng đất. Từ tháng 4-1953 đến tháng 7-1954, Đảng đã lãnh đạo nông dân tiến hành 5 đợt giảm tô và 1 đợt cải cách ruộng đất ở một số nơi thuộc vùng tự do. Việc làm đó đã có ảnh hưởng tốt đến nhiều vùng trong nước, tới cả vùng sau lưng địch. Không khí phấn khởi của nông dân đã truyền tới các chiến sĩ ngoài mặt trận, góp phần củng cố quyết tâm đánh thắng giặc Pháp xâm lược. Ngày 13-3-1954, quân ta mở đợt tiến công thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Bộ đội ta tiêu diệt gọn hai cứ điểm Him Lam, Độc Lập, tiếp đó uy hiếp sân bay Mường Thanh. Thắng lợi đầu tiên của ta làm cho tinh thần binh sĩ địch dao động, thực dân Pháp ở Hà Nội, Sài Gòn và Chính phủ Pháp bàng hoàng. Đợt tiến công thứ hai bắt đầu ngày 30-3. Quân ta chiếm được phần lớn cứ điểm quan trọng ở phía Đông, chia cắt, bao vây, khống chế được tiếp viện của địch. Quân Pháp được tăng thêm 4 tiểu đoàn, chống cự quyết liệt. Đế quốc Mỹ tăng viện gấp cho Pháp 179 máy bay và giặc lái, dự định mở chiến dịch "con diều hâu" dùng máy bay ném bom hạng nặng để cứu nguy cho quân Pháp ở Điện Biên Phủ. Ngày 19-4, Bộ Chính trị nhận định hai đợt tiến công của ta đã giành được thắng lợi, nhưng thắng lợi còn hạn chế và ta đã phải chịu nhiều tổn thất; trong một số cán bộ đảng viên xuất hiện tư tưởng hữu khuynh, ngại khó, thiếu ý thức trách nhiệm. Bộ Chính trị quyết định tăng cường chi viện cho Điện Biên Phủ, cử nhiều uỷ viên Trung ương Đảng ra mặt trận, chuyển một bộ phận cán bộ của cuộc vận động thực hiện chính sách ruộng đất sang phục vụ chiến dịch và mở đợt sinh hoạt chính trị nâng cao tinh thần chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ ở mặt trận. Ngày 1-5-1954, quân ta mở đợt tiến công thứ ba nhằm tổng công kích, tiêu diệt toàn bộ quân địch ở Điện Biên Phủ. Sau ba ngày đêm chiến đấu, bộ đội ta chỉ còn cách sở chỉ huy địch 300 mét. Thấy rõ nguy cơ bị tiêu diệt, địch định phá vòng vây tháo chạy sang Lào nhưng không kịp. 17 giờ 30 ngày 7-5-1954, tướng Đờ Caxtơri (De Castries) và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống, 12.000 quân địch ra hàng. Chiến dịch Điện Biên Phủ đã toàn thắng. Sau 55 ngày đêm chiến đấu gian khổ và anh dũng, quân ta đã tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, diệt và bắt sống 16.200 quân địch, bắn rơi 62 chiếc máy bay, thu nhiều vũ khí. Ngày 8-5-1954 Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc và căn dặn: thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bước đầu. Chiến thắng Điện Biên Phủ cổ vũ và tạo điều kiện cho cuộc tiến công và nổi dậy (phá tề, trừ gian, chống bắt lính, làm tan rã hàng ngũ địch) của quân và dân ta ở vùng địch chiếm đóng. Ngày 27-5-1954, hơn 20.000 nhân dân thành phố Hải Phòng xuống đường biểu tình chống bắt lính, diễu qua các đường lớn, phá phòng động viên Cầu Đất và đốt phá một số đồn cảnh sát. Cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953-1954 với đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ đã kết thúc thành công. Gần một phần tư tổng lực của địch đã bị tiêu diệt. Quân và dân ta đã đánh bại kế hoạch Nava là cố gắng chiến tranh cao nhất, cuối cùng của thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ, giáng đòn quyết định, đập tan ý chí xâm lược Đông Dương của thực dân Pháp. Lo sợ gặp phải một "Điện Biên Phủ mới", ngày 14-5-1954 Chính phủ Pháp chủ trương rút quân khỏi miền nam đồng bằng Bắc Bộ và xác định mục tiêu chính của Pháp ở Đông Dương là bảo vệ quân đội viễn chinh. Tính đến giữa tháng 7-1954, quân Pháp rút 175 vị trí ở phía nam đồng bằng Bắc Bộ, rút khỏi Việt Trì và hầu hết các tỉnh Thái Bình, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam. Gần 90% đồng bằng Bắc Bộ được giải phóng. Thắng lợi của nhân dân ta có sự đóng góp quý báu của nhân dân Pháp và nhân dân tiến bộ trên thế giới đã ủng hộ, giúp đỡ nhân dân ta kháng chiến chống cuộc "chiến tranh bẩn thỉu" của đế quốc Pháp. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược được kết thúc bằng cuộc đấu tranh về ngoại giao. Sau khi Quốc hội Pháp biểu quyết ủng hộ Chính phủ Pháp tìm giải pháp thương lượng cho cuộc chiến tranh, ngày 26-11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời phỏng vấn của phóng viên báo Etxprétxen (Thuỵ Điển) nói rõ quan điểm của Đảng và Chính phủ ta về thương lượng: cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp phải thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam. Ngày 8-5-1954, một ngày sau khi quân Pháp thảm bại ở Điện Biên Phủ, Hội nghị quốc tế về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương khai mạc ở Giơnevơ (Thuỵ Sĩ). Tham dự Hội nghị có đại diện của 9 bên: Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Pháp, Mỹ, Anh và ba đoàn của chính quyền bù nhìn Việt Nam, Lào, Campuchia. Tại Hội nghị, đồng chí Phạm Văn Đồng trưởng đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố lập trường về một giải pháp hoàn chỉnh: đình chỉ chiến sự trên toàn bán đảo Đông Dương đi đôi với một giải pháp chính trị cho vấn đề Việt Nam, vấn đề Lào và vấn đề Campuchia trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước ở Đông Dương. Chủ trương của phía Pháp là chỉ giải quyết vấn đề quân sự, tách vấn đề Lào và vấn đề Campuchia khỏi vấn đề Việt Nam. Do lập trường các bên khác nhau, mỗi đế quốc lại có ý đồ riêng nên đến trung tuần tháng 6-1954, Hội nghị hầu như giẫm chân tại chỗ. Một số vấn đề tồn tại là: đường ranh giới tập kết ở Việt Nam; thời hạn tổng tuyển cử ở Việt Nam; thời hạn rút quân Pháp khỏi miền Bắc Việt Nam, Lào và Campuchia. Ngày 21-7-1954, Hội nghị Giơnevơ đi đến giải pháp và ký kết Hiệp định. Hiệp định Giơnevơ quy định: Các nước tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào, nhân dân Campuchia, Pháp rút quân khỏi ba nước Đông Dương, vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời; tháng 7-1956, tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước. Trong số 9 đoàn tham dự Hội nghị Giơnevơ, có 8 đoàn tham gia ký vào Hiệp định. Riêng đoàn Mỹ không ký mà chỉ ra một bản tuyên bố ghi nhận. Đây là sự chuẩn bị trước cho việc Mỹ không thực hiện Hiệp định sau này. Hiệp định Giơnevơ đã góp phần cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ chấm dứt chiến tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương. Miền Bắc nước ta được giải phóng, có điều kiện xây dựng trong hoà bình, làm cơ sở cho sự nghiệp giải phóng miền Nam sau này. Hiệp định Giơnevơ có mặt hạn chế là không phản ánh đầy đủ những thắng lợi của quân và dân ta trên chiến trường. Điều đó được thể hiện trong việc chia giới tuyến quân sự tạm thời, thời hạn tổng tuyển cử, giải pháp về Lào và Campuchia. Nguyên nhân của hạn chế đó là do ta không nắm được đầy đủ tình hình và ý đồ các bên, chưa có kinh nghiệm để giữ vững độc lập tự chủ trong một Hội nghị quốc tế. Từ ngày 23-9-1945 đến ngày 21-7-1954, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trải qua hơn 3.200 ngày đêm kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ nhưng vô cùng anh dũng và tự hào. Gần nửa triệu quân xâm lược nhà nghề của thực dân Pháp bị loại khỏi vòng chiến đấu; khoảng 3.000 tỷ phơrăng Pháp và 2.600 triệu đôla Mỹ viện trợ tiêu phí vì chiến tranh; 20 lần Chính phủ Pháp bị đổ; 7 lần toàn quyền Pháp bị triệu hồi; 8 tổng chỉ huy quân đội Pháp kế tiếp nhau thua trận. Thực dân Pháp buộc phải thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Campuchia và phải rút quân khỏi ba nước. Ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp ở ba nước Đông Dương bị đập tan. Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đã mở đầu sự phá sản của chủ nghĩa thực dân cũ, trước hết là hệ thống thuộc địa của Pháp; cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Những kinh nghiệm và thành tựu mà Đảng và nhân dân ta thu được trong kháng chiến là những đóng góp quý giá vào kho tàng lý luận giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Những lực lượng cách mạng mà Đảng ta đã xây dựng là những vốn liếng bảo đảm cho nhân dân ta tiến lên hoàn thành thắng lợi sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước sau này. Đánh giá về ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới". Cuộc kháng chiến chống Pháp đã để lại cho Đảng ta và nhân dân ta những kinh nghiệm lịch sử quý báu: 1. Xác định đúng và quán triệt đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, nhất định thắng lợi trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và trong toàn bộ quá trình kháng chiến. 2. Vừa kháng chiến, vừa xây dựng chế độ mới. 3. Vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng chiến đấu. 4. Phương thức tiến hành chiến tranh thích hợp. 5. Nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của Đảng trong chiến tranh. Nguồn: Báo ĐT ĐCS [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam-Bài 4
Top