Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam-Bài 2
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 13911" data-attributes="member: 699"><p><strong>IV. CAO TRÀO VẬN ĐỘNG DÂN CHỦ, CHỐNG PHẢN ĐỘNG THUỘC ĐỊA, CHỐNG PHÁT XÍT VÀ CHIẾN TRANH, ĐÒI TỰ DO, CƠM ÁO, HOÀ BÌNH (1936-1939)</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>1. Đảng chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng</strong></p><p></p><p>Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và nguy cơ một cuộc khủng hoảng kinh tế mới làm cho mâu thuẫn xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa thêm sâu sắc. Các đế quốc Đức, Ý, Nhật thiết lập chế độ phát xít, chuẩn bị chiến tranh để chia lại thế giới và từ năm 1935 tiến hành xâm lược một số nước. Mâu thuẫn giữa phát xít Đức, Ý, Nhật và Anh, Pháp, Mỹ trở nên rất gay gắt. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với Liên Xô - lúc này đã trở thành một nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh, cũng rất sâu sắc. Phong trào đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh nổi lên ở nhiều nước.</p><p></p><p>Tháng 7-1935, Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản được triệu tập ở Mátxcơva. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí Lê Hồng Phong dẫn đầu tham dự Đại hội. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đang học tập và nghiên cứu ở Trường Quốc tế Lênin ở Mátxcơva cũng được mời dự Đại hội.</p><p></p><p>Đại hội xác định kẻ thù trước mắt của nhân dân thế giới lúc này không phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít; nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân chưa phải là đấu tranh đánh đổ toàn bộ chủ nghĩa tư bản mà là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, giành dân chủ và hoà bình, bảo vệ Liên Xô. Để thực hiện nhiệm vụ ấy, cần thực hiện Mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân và thiết lập Mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hoà bình và cải thiện đời sống. Đại hội VII đã bầu ra Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản do đồng chí G.Đimitrốp làm Tổng Bí thư, đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Uỷ viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản.</p><p></p><p>Thực hiện sự chuyển hướng về chiến lược cách mạng của Quốc tế Cộng sản, các Đảng Cộng sản ra sức vận động thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít. Ở Pháp, Mặt trận nhân dân chống phát xít được thành lập do Đảng Cộng sản Pháp làm nòng cốt đã giành thắng lợi trong cuộc tuyển cử tháng 4-1936, thành lập Chính phủ phái tả gồm những người thuộc Đảng Xã hội và Đảng Cấp tiến do lãnh tụ Đảng Xã hội Lêông Blum làm thủ tướng. Đối với các nước thuộc địa, cương lĩnh của Mặt trận nhân dân Pháp (khi ấy gọi là Mặt trận bình dân) nêu ra việc thả tù chính trị, cử các phái đoàn điều tra tình hình thuộc địa, đặc biệt là Bắc Phi và Đông Dương, thi hành một số cải cách xã hội cho giới lao động.</p><p></p><p>Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản và Mặt trận nhân dân Pháp có ảnh hưởng sâu sắc tới phong trào cách mạng ở Đông Dương. Trong thời gian này, do chính sách tăng cường bóc lột, áp bức của thực dân Pháp và do khủng hoảng kinh tế, cuộc sống của các giai cấp và tầng lớp nhân dân, kể cả tư sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ rất khó khăn. Nguyện vọng bức thiết của nhân dân là đòi được quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình.</p><p></p><p>Quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản, đáp ứng nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, căn cứ vào tình hình lực lượng so sánh giữa cách mạng và phản cách mạng, tháng 7-1936, Ban lãnh đạo của Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh trong thời kỳ mới (Sau Đại hội lần thứ nhất của Đảng, 8 đồng chí Uỷ viên Trung ương bị địch bắt, công tác của Ban Chấp hành Trung ương do Ban chỉ huy ở ngoài đảm nhiệm. Đồng chí Hà Huy Tập - Trưởng Ban chỉ huy ở ngoài kiêm chức Tổng Bí thư Đảng đến tháng 3-1938 -TG). Nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị được thể hiện trong tài liệu Chung quanh vấn đề chính sách mới, xuất bản ngày 30-10-1936.</p><p>Hội nghị khẳng định mục tiêu chiến lược vẫn là chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày; song mục tiêu trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình. Hội nghị quyết định lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế, bao gồm các giai cấp, đảng phái, dân tộc, đoàn thể chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau, với nòng cốt là liên minh công nông. Hội nghị nêu khẩu hiệu ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp để phối hợp với Đảng Cộng sản và nhân dân lao động Pháp chống phát xít và phản động thuộc địa, đồng thời nêu khẩu hiệu ủng hộ chính phủ Lêông Blum nhằm đòi thực hiện các yêu cầu dân chủ cho nhân dân Đông Dương.</p><p></p><p>Hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang hình thức tổ chức công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp nhằm tập hợp quần chúng rộng rãi, giáo dục và lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Để giữ vững sự lãnh đạo đối với các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, hợp pháp, Đảng cần phải củng cố tổ chức bí mật của Đảng.</p><p></p><p>Hội nghị tháng 7-1936 đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng, các mối quan hệ giữa liên minh công nông và mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa phong trào cách mạng Đông Dương và phong trào cách mạng ở Pháp và trên thế giới; đề ra các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt thích hợp nhằm hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh cao hơn vì độc lập và tự do. Nghị quyết Hội nghị đánh dấu một bước trưởng thành của Đảng về chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh, tinh thần độc lập, sáng tạo của Đảng, mở ra một cao trào cách mạng mới trong cả nước.</p><p></p><p><strong>2. Đấu tranh đòi triệu tập Đại hội Đông Dương và đòi các quyền dân chủ, dân sinh</strong></p><p></p><p>Mở đầu cao trào đấu tranh là phong trào Đại hội Đông Dương. Nhân cơ hội Quốc hội Pháp quyết định cử phái đoàn điều tra sang Đông Dương, Đảng chủ trương vận động và tổ chức nhân dân ở tất cả các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, công sở, trường học, khu phố, làng xã hội họp bàn về các yêu cầu tự do, dân chủ, dân sinh, thảo ra các bản dân nguyện để gửi cho phái đoàn điều tra Pháp; tiến tới tổ chức Đông Dương Đại hội.</p><p></p><p>Để hướng dẫn các hoạt động của quần chúng, Đảng nêu ra các yêu cầu về tự do, dân chủ chủ yếu như: các quyền tự do về ngôn luận, hội họp, tổ chức và đi lại; trả tự do cho các tù chính trị; thực hành luật lao động ngày làm 8 giờ và định lương tối thiểu, bỏ thuế thân và giảm các thuế khác, bắt buộc học tiếng Việt tại các trường; nam nữ bình đẳng... Đảng kêu gọi thành lập các uỷ ban hành động từ thành thị đến nông thôn để vận động quần chúng bầu cử đại biểu tham dự Đại hội Đông Dương. Tháng 8-1936, Uỷ ban trù bị Đại hội Đông Dương được thành lập.</p><p></p><p>Để đối phó lại, chính quyền thực dân dùng thủ đoạn cho một số người trong Đảng Lập hiến ở Nam Kỳ, trong hai Viện dân biểu ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ tổ chức các cuộc họp gồm những đại diện cho tư sản, địa chủ, trí thức để thảo ra các bản "dân nguyện" theo chỉ đạo của chúng hòng hạn chế phong trào đấu tranh của quần chúng lao động, song thủ đoạn đó đã bị vạch trần và thất bại.</p><p></p><p>Cuối cùng chính quyền thực dân chuyển sang các hành động đàn áp, ra lệnh giải tán các uỷ ban hành động, cấm tất cả các cuộc họp của nhân dân, cho tay sai và khuyến khích bọn tờrốtkít xuyên tạc chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương, vu cáo những người cộng sản. Do sức mạnh đấu tranh của quần chúng, tháng 10-1936, thực dân Pháp phải đưa ra một số quy định về quyền lợi cho công nhân và lao động làm thuê như ngày làm 8 giờ, nghỉ ngày chủ nhật và hàng năm nghỉ 10 ngày có lương; thi hành một phần việc "ân xá" tù chính trị. Đến cuối năm 1936, trên 1.000 tù chính trị được thả và tính đến tháng 10-1937, đã có 1.532 tù chính trị, phần lớn là đảng viên cộng sản ra khỏi nhà tù của đế quốc. Đó là một thắng lợi lớn của Đảng, của cách mạng.</p><p></p><p>Đại hội Đông Dương bị cấm, song quần chúng lao động đã được thức tỉnh, Đảng có một số kinh nghiệm lãnh đạo đấu tranh công khai, hợp pháp cho nên phong trào đấu tranh đòi các quyền dân chủ, cải thiện đời sống của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác tiếp tục phát triển. Tiêu biểu là cuộc tổng bãi công của hơn 30.000 công nhân khu mỏ Hồng Gai tháng 11-1936. Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên của Chính phủ Pháp là Gôđa (Justin Godart) sang điều tra tình hình Đông Dương và tiếp đó là Bơrêviê (Jules Brévié) sang nhận chức toàn quyền, Đảng lại vận động và tổ chức quần chúng biểu dương lực lượng, bằng cách đi đón và đưa yêu sách cho Chính phủ Pháp. Trên đường Gôđa đi từ Sài Gòn ra Hà Nội, đâu đâu nhân dân cũng biểu tình đưa yêu sách về dân chủ, dân sinh.</p><p></p><p><strong>3. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh công khai hợp pháp trên báo chí và nghị trường</strong></p><p></p><p>Tháng 3-1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp và nhận định: phong trào dân chủ phát triển mạnh, ảnh hưởng của Đảng lan rộng, tổ chức của Đảng và các hội quần chúng phát triển; song công tác tổ chức của Đảng còn nhiều thiếu sót, cơ sở Đảng còn yếu ở nhiều nơi, nhất là ở nông thôn và ở các nơi tập trung công nhân. Hội nghị tháng 3 cùng với Hội nghị tháng 9-1937 đã tập trung giải quyết những vấn đề về công tác tổ chức của Đảng trong phong trào Mặt trận dân chủ.</p><p></p><p>Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh phải có phương pháp tổ chức mới để thực hiện đường lối chính trị, tận dụng các khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để tổ chức quần chúng, đoàn kết quần chúng trong một mặt trận thống nhất chống phản động thuộc địa, chống phát xít, đòi tự do, cơm áo, hoà bình. Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế đổi thành Mặt trận dân chủ Đông Dương; Đoàn thanh niên phản đế đổi thành Thanh niên Cộng sản đoàn; Hội cứu tế bình dân đổi thành Cứu tế đỏ; Công hội đỏ, Nông hội đỏ đổi thành Công hội, Nông hội. Các hội quần chúng công khai và nửa công khai được mở rộng như ái hữu, tương tế, thể thao, âm nhạc, hội cấy, hội gặt; uỷ ban vận động binh lính được thành lập.</p><p></p><p>Về xây dựng Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng nêu rõ phải coi trọng chất lượng hơn số lượng, tập trung xây dựng Đảng ở thành thị, khu công nghiệp, các vùng quan trọng về kinh tế, chính trị, chấm dứt tình trạng tổ chức Đảng bí mật không lãnh đạo được các bộ phận Đảng làm công tác công khai.</p><p></p><p>Ban Chấp hành Trung ương Đảng còn chủ trương đẩy mạnh hoạt động báo chí công khai, tranh cử và hoạt động ở các viện dân biểu.</p><p></p><p>Phong trào đấu tranh của quần chúng phát triểnmạnh. Trong năm 1937, có gần 400 cuộc đấu tranh của công nhân, tiêu biểu là các cuộc bãi công của công nhân xe lửa Trường Thi, Gia Lâm và một số địa phương ở phía nam. Từ năm 1938, chế độ ngày làm 8 giờ, hàng tuần có ngày nghỉ, hàng năm nghỉ 10 ngày có lương được thực hiện. Có hơn 150 cuộc đấu tranh của nông dân chống cướp ruộng đất, đòi chia lại ruộng công, giảm tô giảm tức, khất thuế. Ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn và một số thành phố, thị xã, tiểu thương đã bãi chợ đòi giảm thuế môn bài, thuế hàng hoá, học sinh đòi lập thêm trường học. Các hội hợp pháp, nửa hợp pháp tập hợp được hàng triệu quần chúng.</p><p></p><p>Đẩy mạnh hoạt động báo chí công khai phục vụ cho đấu tranh cách mạng là một hoạt động mới và nổi bật của Đảng. Hàng chục tờ báo của Đảng, của Mặt trận dân chủ và các tổ chức quần chúng đã ra đời, trong đó có một số báo tiếng Pháp. Tờ Tin tức và tờDân chúng phát hành hàng ngày từ 5.000 đến 15.000 bản.</p><p></p><p>Báo chí của Đảng, của Mặt trận dân chủ mang tính chiến đấu cao, vạch trần chính sách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và tay sai, phản ánh những nguyện vọng của phong trào đấu tranh của quần chúng, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chống lại mọi thủ đoạn lừa bịp, chia rẽ của bọn thống trị và bọn tờrốtkít giả danh cách mạng. Ngoài ra, Đảng còn xuất bản các tập sách chính trị để giới thiệu chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối của Đảng như cuốnChủ nghĩa Các Mác của Hải Triều, cuốn Vấn đề dân cày của Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp).</p><p></p><p>Mạng lưới phát hành sách báo của Mặt trận được tổ chức trong cả nước. Toà soạn và cơ quan phát hành sách báo là đầu mối liên lạc giữa Đảng với quần chúng, liên lạc giữa bộ phận công khai và bộ phận bí mật của tổ chức Đảng.</p><p></p><p>Một hoạt động công khai có ý nghĩa trong việc tập hợp quần chúng nữa là phong trào truyền bá quốc ngữ từ cuối năm 1937.</p><p></p><p>Đảng lợi dụng khả năng hợp pháp để tham gia các cuộc tranh cử vào các Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ nhằm mở rộng lực lượng của Mặt trận dân chủ, kết hợp đấu tranh của quần chúng ở bên ngoài với đấu tranh tại nghị trường chống chính sách thuộc địa phản động của Pháp, bênh vực quyền lợi của quần chúng. Mở đầu là cuộc tranh cử vào Viện dân biểu Trung Kỳ năm 1937 đã thắng lợi, hầu hết số người ứng cử là trí thức, tư sản dân tộc, địa chủ tiến bộ do Đảng vận động đã trúng cử.</p><p></p><p>Năm 1938, nguy cơ Chiến tranh thế giới thứ hai đang đến gần, phát xít Nhật chuẩn bị nhảy vào Đông Dương. Chính phủ Pháp ngả dần về phía hữu và bọn phản động thuộc địa ra sức đàn áp phong trào cách mạng ở Đông Dương. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 3-1938 xác định nhiệm vụ trung tâm là thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương, đề ra những chủ trương cụ thể về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ. Hội nghị nhắc nhở đấu tranh chống khuynh hướng "tả" đưa ra khẩu hiệu quá cao, tư tưởng hẹp hòi đối với trí thức, tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ và chống khuynh hướng hữu coi thường phong trào đấu tranh của công nông, thiếu kiên quyết chống bọn tờrốtkít.</p><p></p><p>Hội nghị quyết định phải củng cố cơ sở Đảng đã có, phát triển cơ sở mới, đặc biệt chú trọng các cơ sở ở thành phố, các vùng công nghiệp tập trung và đồn điền, củng cố các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương và địa phương; giữ vững nguyên tắc quan hệ giữa bộ phận hoạt động bí mật và bộ phận hoạt động công khai của Đảng (Theo báo cáo của Ban chấp hành Trung ương gửi Quốc tế Cộng sản, đến tháng 3-1938, toàn Đảng có 1.597 đảng viên, trong đó Nam Kỳ có 655, Trung Kỳ có 740 và Bắc Kỳ có 202 đảng viên, ở cả ba kỳ đều có xứ uỷ).</p><p></p><p>Hội nghị ra một nghị quyết riêng về phòng thủ Đông Dương và chống bắt lính, phát động quần chúng cảnh giác với âm mưu xâm lược của Nhật, đấu tranh đòi bọn cầm quyền Pháp phải vũ trang cho nhân dân và mở rộng cải cách dân chủ, dân sinh để nhân dân có khả năng tham gia phòng thủ.</p><p></p><p>Hội nghị bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư thay đồng chí Hà Huy Tập.</p><p>Năm 1938 và đầu năm 1939, phong trào đấu tranh của quần chúng tiếp tục phát triển. Được sự ủng hộ của nông dân, người buôn bán nhỏ, các cuộc đấu tranh của công nhân các ngành, các nơi có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Năm 1938, ngày Quốc tế lao động (1-5) lần đầu được tổ chức công khai, rầm rộ khắp nước, đặc biệt là cuộc míttinh ở khu Đấu Xảo, Hà Nội với số lượng 25.000 người tham gia. Về đấu tranh nghị trường, Mặt trận dân chủ giành được thắng lợi trong bầu cử Viện dân biểu ở Bắc Kỳ, Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương bác bỏ dự án tăng thuế ở Viện dân biểu Trung Kỳ.</p><p></p><p>Cuối năm 1938, đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô trở lại Trung Quốc làm nhiệm vụ do Quốc tế Cộng sản phân công. Người rất quan tâm truyền đạt cho Đảng ta những ý kiến về đường lối, chủ trương của cách mạng. Người chỉ rõ: "Lúc này, Đảng không nên đưa ra những đòi hỏi quá cao (độc lập dân tộc, nghị viện v.v.). Như thế sẽ rơi vào cạm bẫy của phát xít Nhật.</p><p></p><p>Chỉ nên đòi các quyền dân chủ, tự do tổ chức, tự do hội họp, tự do báo chí và tự do ngôn luận, đòi ân xá toàn thể chính trị phạm, đấu tranh để Đảng được hoạt động hợp pháp". Người nêu ra việc Mặt trận dân chủ phải thu hút cả người Pháp tiến bộ ở Đông Dương, cả giai cấp tư sản dân tộc. Người nhấn mạnh Đảng "phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất... khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo... Đảng phải đấu tranh không nhân nhượng chống tư tưởng bè phái, và phải tổ chức học tập có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin để nâng cao trình độ văn hoá và chính trị cho đảng viên... Phải duy trì quan hệ chặt chẽ với Đảng Cộng sản Pháp".</p><p></p><p>Từ đầu năm 1939, phong trào Mặt trận nhân dân Pháptan rã, Chính phủ Pháp chuyển sang hữu. Bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương tăng cường bóc lột và đàn áp nhân dân. Các cuộc đấu tranh chống phát xít, đòi phòng thủ Đông Dương, cải thiện đời sống... đều bị đàn áp dữ dội. Trong tháng 3 và 4 - 1939, Đảng kêu gọi đấu tranh chống khủng bố, đòi tự do, dân chủ..., đề phòng hoạ phát xít đang đến gần. BáoDân chúng bị đình bản. Cuộc tranh cử Hội đồng quản hạt Nam Kỳ của những người ứng cử thuộc Mặt trận dân chủ bị thất bại do không có sự nhất trí trong hành động.</p><p></p><p>Tháng 7-1939, đồng chí Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩmTự chỉ trích. Tác phẩm khẳng định đường lối chính trị của Đảng là đúng đắn, phân tích những khuyết điểm và rút ra kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo Mặt trận dân chủ.</p><p></p><p>Phân tích nguyên nhân thất bại của cuộc tranh cử vào Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, đồng chí Nguyễn Văn Cừ nêu rõ: một phần là do thủ đoạn đàn áp của kẻ thù, thái độ lừng chừng của các phần tử cải lương. Nhưng phần quan trọng là do ta có khuyết điểm, nhược điểm: Mặt trận dân chủ chưa đủ mạnh; công tác vận động của ta có sai sót; ta coi thường nguy cơ của bọn tờrốtkít. </p><p>Tổng kết hoạt động của Mặt trận dân chủ, đồng chí Nguyễn Văn Cừ nêu lên mấy bài học: Mặt trận dân chủ là sự liên hiệp các giai cấp, các đảng phải tán thành cải cách, nhưng không thể liên hiệp với các đảng phái phản động; vừa liên minh bên trên, vừa liên minh bên dưới; phân biệt kẻ thù nguy hiểm nhiều với kẻ thù nguy hiểm ít; cô lập bọn phản động, tranh thủ người tiến bộ và lừng chừng, tranh thủ đông đảo quần chúng trong các đảng phái cải lương; liên minh với giai cấp tư sản, phải vừa đoàn kết vừa đấu tranh, Mặt trận dân chủ phải đoàn kết được đông đảo quần chúng; đòi những quyền tự do tư sản, chống phát xít nhưng không phải để duy trì mãi chế độ tự do tư sản mà để tiến lên chế độ tự do cao hơn. Phê phán thái độ phê bình, tự phê bình sai trái của một số đồng chí đặt cá nhân mình lên trên Đảng, vin vào một vài khuyết điểm mà mạt sát Đảng, gây chia rẽ, bè phái trong Đảng, gieo mối hoài nghi trong quần chúng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ nhắc lại, nguyên tắc tự chỉ trích bônsêvích là tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, nâng cao uy tín của Đảng, giáo dục đảng viên, giáo dục quần chúng, đưa phong trào tiến lên.</p><p></p><p>Tác phẩm Tự chỉ trích là một mẫu mực về tổng kết kinh nghiệm, đấu tranh nội bộ tự phê bình, phê bình, góp phần xây dựng kho tàng lý luận về xây dựng Đảng, xây dựng Mặt trận thống nhất của cách mạng nước ta.</p><p></p><p>Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Bọn cầm quyền Pháp ở Đông Dương ráo riết đàn áp các lực lượng cách mạng. Thời kỳ vận động dân chủ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp chấm dứt.</p><p></p><p>Cao trào cách mạng do Đảng lãnh đạo trong thời kỳ Mặt trận dân chủ 1936-1939 ngay sau khi khôi phục được hệ thống tổ chức của Đảng là một thắng lợi lớn của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Qua lãnh đạo cuộc đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp rộng lớn kết hợp với hoạt động bí mật, không hợp pháp, Đảng được rèn luyện, trưởng thành, lực lượng quần chúng cách mạng mở rộng và được thử thách. Cao trào cách mạng 1936-1939 là cuộc tổng diễn tập thứ hai cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945.</p><p></p><p>Đánh giá ưu điểm và khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1936-1939, sau này Hồ Chí Minh đã viết trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951):</p><p></p><p>"Hồi đó, Mặt trận Bình dân ở Pháp cầm chính quyền, Đảng bèn mở cuộc vận động dân chủ và lập Mặt trận dân chủ Đông Dương.</p><p></p><p>Phong trào Mặt trận dân chủ lúc đó khá mạnh mẽ, rộng khắp; nhân dân đấu tranh công khai. Đó là ưu điểm. Nhưng khuyết điểm là: Đảng lãnh đạo không thật sát, cho nên nhiều nơi cán bộ phạm phải bệnh hẹp hòi, bệnh công khai, say sưa vì thắng lợi bộ phận mà xao lãng việc củng cố tổ chức bí mật của Đảng. Đảng không giải thích rõ lập trường của mình về vấn đề độc lập dân tộc. Một số đồng chí hợp tác vô nguyên tắc với bọn tờrốtkít. Đến khi Mặt trận Bình dân bên Pháp thất bại, Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu, thì phong trào Mặt trậndân chủ ở nước ta cũng bị thực dân đàn áp, và Đảng cũng bối rối một hồi".</p><p></p><p>Qua lãnh đạo cao trào cách mạng 1936-1939, Đảng có thêm những kinh nghiệm:</p><p></p><p>- Xác định rõ kẻ thù chủ yếu và xác định mục tiêu đấu tranh trước mắt của cách mạng là tập hợp đội quân chính trị quần chúng - bước đi tất yếu chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền sau này.</p><p></p><p>- Chủ trương xây dựng Mặt trận dân chủ hết sức rộng rãi là hình thức thích hợp bảo đảm thực hiện mục tiêu trước mắt đã đề ra, đưa đến một cao trào cách mạng mới.</p><p></p><p>- Để lãnh đạo được mặt trận rộng rãi, Đảng phải giữ vững tính độc lập về chính trị và tổ chức, dựa chắc vào lực lượng công nông làm nền tảng.</p><p></p><p>- Giải quyết đúng các mối quan hệ mật thiết giữa mục tiêu đấu tranh với hình thức và tổ chức đấu tranh; giữa các hình thức tổ chức và hoạt động công khai, hợp pháp với các hình thức tổ chức và hoạt động bí mật, không hợp pháp; vừa tập hợp được đông đảo quần chúng vừa chuẩn bị đề phòng khi kẻ thù đàn áp, phải rút vào bí mật.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 13911, member: 699"] [B]IV. CAO TRÀO VẬN ĐỘNG DÂN CHỦ, CHỐNG PHẢN ĐỘNG THUỘC ĐỊA, CHỐNG PHÁT XÍT VÀ CHIẾN TRANH, ĐÒI TỰ DO, CƠM ÁO, HOÀ BÌNH (1936-1939) 1. Đảng chuyển hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng[/B] Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 và nguy cơ một cuộc khủng hoảng kinh tế mới làm cho mâu thuẫn xã hội ở các nước tư bản chủ nghĩa thêm sâu sắc. Các đế quốc Đức, Ý, Nhật thiết lập chế độ phát xít, chuẩn bị chiến tranh để chia lại thế giới và từ năm 1935 tiến hành xâm lược một số nước. Mâu thuẫn giữa phát xít Đức, Ý, Nhật và Anh, Pháp, Mỹ trở nên rất gay gắt. Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với Liên Xô - lúc này đã trở thành một nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh, cũng rất sâu sắc. Phong trào đấu tranh chống phát xít, chống chiến tranh nổi lên ở nhiều nước. Tháng 7-1935, Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản được triệu tập ở Mátxcơva. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí Lê Hồng Phong dẫn đầu tham dự Đại hội. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đang học tập và nghiên cứu ở Trường Quốc tế Lênin ở Mátxcơva cũng được mời dự Đại hội. Đại hội xác định kẻ thù trước mắt của nhân dân thế giới lúc này không phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít; nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân chưa phải là đấu tranh đánh đổ toàn bộ chủ nghĩa tư bản mà là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, giành dân chủ và hoà bình, bảo vệ Liên Xô. Để thực hiện nhiệm vụ ấy, cần thực hiện Mặt trận thống nhất của giai cấp công nhân và thiết lập Mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, hoà bình và cải thiện đời sống. Đại hội VII đã bầu ra Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản do đồng chí G.Đimitrốp làm Tổng Bí thư, đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Uỷ viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản. Thực hiện sự chuyển hướng về chiến lược cách mạng của Quốc tế Cộng sản, các Đảng Cộng sản ra sức vận động thành lập Mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít. Ở Pháp, Mặt trận nhân dân chống phát xít được thành lập do Đảng Cộng sản Pháp làm nòng cốt đã giành thắng lợi trong cuộc tuyển cử tháng 4-1936, thành lập Chính phủ phái tả gồm những người thuộc Đảng Xã hội và Đảng Cấp tiến do lãnh tụ Đảng Xã hội Lêông Blum làm thủ tướng. Đối với các nước thuộc địa, cương lĩnh của Mặt trận nhân dân Pháp (khi ấy gọi là Mặt trận bình dân) nêu ra việc thả tù chính trị, cử các phái đoàn điều tra tình hình thuộc địa, đặc biệt là Bắc Phi và Đông Dương, thi hành một số cải cách xã hội cho giới lao động. Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản và Mặt trận nhân dân Pháp có ảnh hưởng sâu sắc tới phong trào cách mạng ở Đông Dương. Trong thời gian này, do chính sách tăng cường bóc lột, áp bức của thực dân Pháp và do khủng hoảng kinh tế, cuộc sống của các giai cấp và tầng lớp nhân dân, kể cả tư sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ rất khó khăn. Nguyện vọng bức thiết của nhân dân là đòi được quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hoà bình. Quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản, đáp ứng nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, căn cứ vào tình hình lực lượng so sánh giữa cách mạng và phản cách mạng, tháng 7-1936, Ban lãnh đạo của Đảng họp tại Thượng Hải (Trung Quốc) đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, định ra đường lối, phương pháp tổ chức và đấu tranh trong thời kỳ mới (Sau Đại hội lần thứ nhất của Đảng, 8 đồng chí Uỷ viên Trung ương bị địch bắt, công tác của Ban Chấp hành Trung ương do Ban chỉ huy ở ngoài đảm nhiệm. Đồng chí Hà Huy Tập - Trưởng Ban chỉ huy ở ngoài kiêm chức Tổng Bí thư Đảng đến tháng 3-1938 -TG). Nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị được thể hiện trong tài liệu Chung quanh vấn đề chính sách mới, xuất bản ngày 30-10-1936. Hội nghị khẳng định mục tiêu chiến lược vẫn là chống đế quốc và chống phong kiến, giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày; song mục tiêu trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình. Hội nghị quyết định lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế, bao gồm các giai cấp, đảng phái, dân tộc, đoàn thể chính trị, xã hội và tôn giáo khác nhau, với nòng cốt là liên minh công nông. Hội nghị nêu khẩu hiệu ủng hộ Mặt trận nhân dân Pháp để phối hợp với Đảng Cộng sản và nhân dân lao động Pháp chống phát xít và phản động thuộc địa, đồng thời nêu khẩu hiệu ủng hộ chính phủ Lêông Blum nhằm đòi thực hiện các yêu cầu dân chủ cho nhân dân Đông Dương. Hội nghị chủ trương chuyển hình thức tổ chức bí mật, không hợp pháp sang hình thức tổ chức công khai, hợp pháp và nửa hợp pháp nhằm tập hợp quần chúng rộng rãi, giáo dục và lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Để giữ vững sự lãnh đạo đối với các hình thức tổ chức và đấu tranh công khai, hợp pháp, Đảng cần phải củng cố tổ chức bí mật của Đảng. Hội nghị tháng 7-1936 đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách mạng, các mối quan hệ giữa liên minh công nông và mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, giữa phong trào cách mạng Đông Dương và phong trào cách mạng ở Pháp và trên thế giới; đề ra các hình thức tổ chức và đấu tranh linh hoạt thích hợp nhằm hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày, chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh cao hơn vì độc lập và tự do. Nghị quyết Hội nghị đánh dấu một bước trưởng thành của Đảng về chính trị và tư tưởng, thể hiện bản lĩnh, tinh thần độc lập, sáng tạo của Đảng, mở ra một cao trào cách mạng mới trong cả nước. [B]2. Đấu tranh đòi triệu tập Đại hội Đông Dương và đòi các quyền dân chủ, dân sinh[/B] Mở đầu cao trào đấu tranh là phong trào Đại hội Đông Dương. Nhân cơ hội Quốc hội Pháp quyết định cử phái đoàn điều tra sang Đông Dương, Đảng chủ trương vận động và tổ chức nhân dân ở tất cả các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, công sở, trường học, khu phố, làng xã hội họp bàn về các yêu cầu tự do, dân chủ, dân sinh, thảo ra các bản dân nguyện để gửi cho phái đoàn điều tra Pháp; tiến tới tổ chức Đông Dương Đại hội. Để hướng dẫn các hoạt động của quần chúng, Đảng nêu ra các yêu cầu về tự do, dân chủ chủ yếu như: các quyền tự do về ngôn luận, hội họp, tổ chức và đi lại; trả tự do cho các tù chính trị; thực hành luật lao động ngày làm 8 giờ và định lương tối thiểu, bỏ thuế thân và giảm các thuế khác, bắt buộc học tiếng Việt tại các trường; nam nữ bình đẳng... Đảng kêu gọi thành lập các uỷ ban hành động từ thành thị đến nông thôn để vận động quần chúng bầu cử đại biểu tham dự Đại hội Đông Dương. Tháng 8-1936, Uỷ ban trù bị Đại hội Đông Dương được thành lập. Để đối phó lại, chính quyền thực dân dùng thủ đoạn cho một số người trong Đảng Lập hiến ở Nam Kỳ, trong hai Viện dân biểu ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ tổ chức các cuộc họp gồm những đại diện cho tư sản, địa chủ, trí thức để thảo ra các bản "dân nguyện" theo chỉ đạo của chúng hòng hạn chế phong trào đấu tranh của quần chúng lao động, song thủ đoạn đó đã bị vạch trần và thất bại. Cuối cùng chính quyền thực dân chuyển sang các hành động đàn áp, ra lệnh giải tán các uỷ ban hành động, cấm tất cả các cuộc họp của nhân dân, cho tay sai và khuyến khích bọn tờrốtkít xuyên tạc chủ trương của Đảng Cộng sản Đông Dương, vu cáo những người cộng sản. Do sức mạnh đấu tranh của quần chúng, tháng 10-1936, thực dân Pháp phải đưa ra một số quy định về quyền lợi cho công nhân và lao động làm thuê như ngày làm 8 giờ, nghỉ ngày chủ nhật và hàng năm nghỉ 10 ngày có lương; thi hành một phần việc "ân xá" tù chính trị. Đến cuối năm 1936, trên 1.000 tù chính trị được thả và tính đến tháng 10-1937, đã có 1.532 tù chính trị, phần lớn là đảng viên cộng sản ra khỏi nhà tù của đế quốc. Đó là một thắng lợi lớn của Đảng, của cách mạng. Đại hội Đông Dương bị cấm, song quần chúng lao động đã được thức tỉnh, Đảng có một số kinh nghiệm lãnh đạo đấu tranh công khai, hợp pháp cho nên phong trào đấu tranh đòi các quyền dân chủ, cải thiện đời sống của công nhân, nông dân và các tầng lớp lao động khác tiếp tục phát triển. Tiêu biểu là cuộc tổng bãi công của hơn 30.000 công nhân khu mỏ Hồng Gai tháng 11-1936. Đầu năm 1937, nhân dịp phái viên của Chính phủ Pháp là Gôđa (Justin Godart) sang điều tra tình hình Đông Dương và tiếp đó là Bơrêviê (Jules Brévié) sang nhận chức toàn quyền, Đảng lại vận động và tổ chức quần chúng biểu dương lực lượng, bằng cách đi đón và đưa yêu sách cho Chính phủ Pháp. Trên đường Gôđa đi từ Sài Gòn ra Hà Nội, đâu đâu nhân dân cũng biểu tình đưa yêu sách về dân chủ, dân sinh. [B]3. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh công khai hợp pháp trên báo chí và nghị trường[/B] Tháng 3-1937, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp và nhận định: phong trào dân chủ phát triển mạnh, ảnh hưởng của Đảng lan rộng, tổ chức của Đảng và các hội quần chúng phát triển; song công tác tổ chức của Đảng còn nhiều thiếu sót, cơ sở Đảng còn yếu ở nhiều nơi, nhất là ở nông thôn và ở các nơi tập trung công nhân. Hội nghị tháng 3 cùng với Hội nghị tháng 9-1937 đã tập trung giải quyết những vấn đề về công tác tổ chức của Đảng trong phong trào Mặt trận dân chủ. Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhấn mạnh phải có phương pháp tổ chức mới để thực hiện đường lối chính trị, tận dụng các khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để tổ chức quần chúng, đoàn kết quần chúng trong một mặt trận thống nhất chống phản động thuộc địa, chống phát xít, đòi tự do, cơm áo, hoà bình. Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế đổi thành Mặt trận dân chủ Đông Dương; Đoàn thanh niên phản đế đổi thành Thanh niên Cộng sản đoàn; Hội cứu tế bình dân đổi thành Cứu tế đỏ; Công hội đỏ, Nông hội đỏ đổi thành Công hội, Nông hội. Các hội quần chúng công khai và nửa công khai được mở rộng như ái hữu, tương tế, thể thao, âm nhạc, hội cấy, hội gặt; uỷ ban vận động binh lính được thành lập. Về xây dựng Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng nêu rõ phải coi trọng chất lượng hơn số lượng, tập trung xây dựng Đảng ở thành thị, khu công nghiệp, các vùng quan trọng về kinh tế, chính trị, chấm dứt tình trạng tổ chức Đảng bí mật không lãnh đạo được các bộ phận Đảng làm công tác công khai. Ban Chấp hành Trung ương Đảng còn chủ trương đẩy mạnh hoạt động báo chí công khai, tranh cử và hoạt động ở các viện dân biểu. Phong trào đấu tranh của quần chúng phát triểnmạnh. Trong năm 1937, có gần 400 cuộc đấu tranh của công nhân, tiêu biểu là các cuộc bãi công của công nhân xe lửa Trường Thi, Gia Lâm và một số địa phương ở phía nam. Từ năm 1938, chế độ ngày làm 8 giờ, hàng tuần có ngày nghỉ, hàng năm nghỉ 10 ngày có lương được thực hiện. Có hơn 150 cuộc đấu tranh của nông dân chống cướp ruộng đất, đòi chia lại ruộng công, giảm tô giảm tức, khất thuế. Ở Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn và một số thành phố, thị xã, tiểu thương đã bãi chợ đòi giảm thuế môn bài, thuế hàng hoá, học sinh đòi lập thêm trường học. Các hội hợp pháp, nửa hợp pháp tập hợp được hàng triệu quần chúng. Đẩy mạnh hoạt động báo chí công khai phục vụ cho đấu tranh cách mạng là một hoạt động mới và nổi bật của Đảng. Hàng chục tờ báo của Đảng, của Mặt trận dân chủ và các tổ chức quần chúng đã ra đời, trong đó có một số báo tiếng Pháp. Tờ Tin tức và tờDân chúng phát hành hàng ngày từ 5.000 đến 15.000 bản. Báo chí của Đảng, của Mặt trận dân chủ mang tính chiến đấu cao, vạch trần chính sách áp bức, bóc lột của thực dân Pháp và tay sai, phản ánh những nguyện vọng của phong trào đấu tranh của quần chúng, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chống lại mọi thủ đoạn lừa bịp, chia rẽ của bọn thống trị và bọn tờrốtkít giả danh cách mạng. Ngoài ra, Đảng còn xuất bản các tập sách chính trị để giới thiệu chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối của Đảng như cuốnChủ nghĩa Các Mác của Hải Triều, cuốn Vấn đề dân cày của Qua Ninh (Trường Chinh) và Vân Đình (Võ Nguyên Giáp). Mạng lưới phát hành sách báo của Mặt trận được tổ chức trong cả nước. Toà soạn và cơ quan phát hành sách báo là đầu mối liên lạc giữa Đảng với quần chúng, liên lạc giữa bộ phận công khai và bộ phận bí mật của tổ chức Đảng. Một hoạt động công khai có ý nghĩa trong việc tập hợp quần chúng nữa là phong trào truyền bá quốc ngữ từ cuối năm 1937. Đảng lợi dụng khả năng hợp pháp để tham gia các cuộc tranh cử vào các Viện dân biểu Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Hội đồng quản hạt Nam Kỳ nhằm mở rộng lực lượng của Mặt trận dân chủ, kết hợp đấu tranh của quần chúng ở bên ngoài với đấu tranh tại nghị trường chống chính sách thuộc địa phản động của Pháp, bênh vực quyền lợi của quần chúng. Mở đầu là cuộc tranh cử vào Viện dân biểu Trung Kỳ năm 1937 đã thắng lợi, hầu hết số người ứng cử là trí thức, tư sản dân tộc, địa chủ tiến bộ do Đảng vận động đã trúng cử. Năm 1938, nguy cơ Chiến tranh thế giới thứ hai đang đến gần, phát xít Nhật chuẩn bị nhảy vào Đông Dương. Chính phủ Pháp ngả dần về phía hữu và bọn phản động thuộc địa ra sức đàn áp phong trào cách mạng ở Đông Dương. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 3-1938 xác định nhiệm vụ trung tâm là thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương, đề ra những chủ trương cụ thể về vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, các tầng lớp tiểu tư sản thành thị và tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ. Hội nghị nhắc nhở đấu tranh chống khuynh hướng "tả" đưa ra khẩu hiệu quá cao, tư tưởng hẹp hòi đối với trí thức, tư sản dân tộc, địa chủ nhỏ và chống khuynh hướng hữu coi thường phong trào đấu tranh của công nông, thiếu kiên quyết chống bọn tờrốtkít. Hội nghị quyết định phải củng cố cơ sở Đảng đã có, phát triển cơ sở mới, đặc biệt chú trọng các cơ sở ở thành phố, các vùng công nghiệp tập trung và đồn điền, củng cố các cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Trung ương và địa phương; giữ vững nguyên tắc quan hệ giữa bộ phận hoạt động bí mật và bộ phận hoạt động công khai của Đảng (Theo báo cáo của Ban chấp hành Trung ương gửi Quốc tế Cộng sản, đến tháng 3-1938, toàn Đảng có 1.597 đảng viên, trong đó Nam Kỳ có 655, Trung Kỳ có 740 và Bắc Kỳ có 202 đảng viên, ở cả ba kỳ đều có xứ uỷ). Hội nghị ra một nghị quyết riêng về phòng thủ Đông Dương và chống bắt lính, phát động quần chúng cảnh giác với âm mưu xâm lược của Nhật, đấu tranh đòi bọn cầm quyền Pháp phải vũ trang cho nhân dân và mở rộng cải cách dân chủ, dân sinh để nhân dân có khả năng tham gia phòng thủ. Hội nghị bầu đồng chí Nguyễn Văn Cừ làm Tổng Bí thư thay đồng chí Hà Huy Tập. Năm 1938 và đầu năm 1939, phong trào đấu tranh của quần chúng tiếp tục phát triển. Được sự ủng hộ của nông dân, người buôn bán nhỏ, các cuộc đấu tranh của công nhân các ngành, các nơi có sự phối hợp chặt chẽ với nhau. Năm 1938, ngày Quốc tế lao động (1-5) lần đầu được tổ chức công khai, rầm rộ khắp nước, đặc biệt là cuộc míttinh ở khu Đấu Xảo, Hà Nội với số lượng 25.000 người tham gia. Về đấu tranh nghị trường, Mặt trận dân chủ giành được thắng lợi trong bầu cử Viện dân biểu ở Bắc Kỳ, Hội đồng kinh tế lý tài Đông Dương bác bỏ dự án tăng thuế ở Viện dân biểu Trung Kỳ. Cuối năm 1938, đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô trở lại Trung Quốc làm nhiệm vụ do Quốc tế Cộng sản phân công. Người rất quan tâm truyền đạt cho Đảng ta những ý kiến về đường lối, chủ trương của cách mạng. Người chỉ rõ: "Lúc này, Đảng không nên đưa ra những đòi hỏi quá cao (độc lập dân tộc, nghị viện v.v.). Như thế sẽ rơi vào cạm bẫy của phát xít Nhật. Chỉ nên đòi các quyền dân chủ, tự do tổ chức, tự do hội họp, tự do báo chí và tự do ngôn luận, đòi ân xá toàn thể chính trị phạm, đấu tranh để Đảng được hoạt động hợp pháp". Người nêu ra việc Mặt trận dân chủ phải thu hút cả người Pháp tiến bộ ở Đông Dương, cả giai cấp tư sản dân tộc. Người nhấn mạnh Đảng "phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất... khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo... Đảng phải đấu tranh không nhân nhượng chống tư tưởng bè phái, và phải tổ chức học tập có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin để nâng cao trình độ văn hoá và chính trị cho đảng viên... Phải duy trì quan hệ chặt chẽ với Đảng Cộng sản Pháp". Từ đầu năm 1939, phong trào Mặt trận nhân dân Pháptan rã, Chính phủ Pháp chuyển sang hữu. Bọn phản động thuộc địa ở Đông Dương tăng cường bóc lột và đàn áp nhân dân. Các cuộc đấu tranh chống phát xít, đòi phòng thủ Đông Dương, cải thiện đời sống... đều bị đàn áp dữ dội. Trong tháng 3 và 4 - 1939, Đảng kêu gọi đấu tranh chống khủng bố, đòi tự do, dân chủ..., đề phòng hoạ phát xít đang đến gần. BáoDân chúng bị đình bản. Cuộc tranh cử Hội đồng quản hạt Nam Kỳ của những người ứng cử thuộc Mặt trận dân chủ bị thất bại do không có sự nhất trí trong hành động. Tháng 7-1939, đồng chí Nguyễn Văn Cừ cho xuất bản tác phẩmTự chỉ trích. Tác phẩm khẳng định đường lối chính trị của Đảng là đúng đắn, phân tích những khuyết điểm và rút ra kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo Mặt trận dân chủ. Phân tích nguyên nhân thất bại của cuộc tranh cử vào Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, đồng chí Nguyễn Văn Cừ nêu rõ: một phần là do thủ đoạn đàn áp của kẻ thù, thái độ lừng chừng của các phần tử cải lương. Nhưng phần quan trọng là do ta có khuyết điểm, nhược điểm: Mặt trận dân chủ chưa đủ mạnh; công tác vận động của ta có sai sót; ta coi thường nguy cơ của bọn tờrốtkít. Tổng kết hoạt động của Mặt trận dân chủ, đồng chí Nguyễn Văn Cừ nêu lên mấy bài học: Mặt trận dân chủ là sự liên hiệp các giai cấp, các đảng phải tán thành cải cách, nhưng không thể liên hiệp với các đảng phái phản động; vừa liên minh bên trên, vừa liên minh bên dưới; phân biệt kẻ thù nguy hiểm nhiều với kẻ thù nguy hiểm ít; cô lập bọn phản động, tranh thủ người tiến bộ và lừng chừng, tranh thủ đông đảo quần chúng trong các đảng phái cải lương; liên minh với giai cấp tư sản, phải vừa đoàn kết vừa đấu tranh, Mặt trận dân chủ phải đoàn kết được đông đảo quần chúng; đòi những quyền tự do tư sản, chống phát xít nhưng không phải để duy trì mãi chế độ tự do tư sản mà để tiến lên chế độ tự do cao hơn. Phê phán thái độ phê bình, tự phê bình sai trái của một số đồng chí đặt cá nhân mình lên trên Đảng, vin vào một vài khuyết điểm mà mạt sát Đảng, gây chia rẽ, bè phái trong Đảng, gieo mối hoài nghi trong quần chúng, đồng chí Nguyễn Văn Cừ nhắc lại, nguyên tắc tự chỉ trích bônsêvích là tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, nâng cao uy tín của Đảng, giáo dục đảng viên, giáo dục quần chúng, đưa phong trào tiến lên. Tác phẩm Tự chỉ trích là một mẫu mực về tổng kết kinh nghiệm, đấu tranh nội bộ tự phê bình, phê bình, góp phần xây dựng kho tàng lý luận về xây dựng Đảng, xây dựng Mặt trận thống nhất của cách mạng nước ta. Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Bọn cầm quyền Pháp ở Đông Dương ráo riết đàn áp các lực lượng cách mạng. Thời kỳ vận động dân chủ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp chấm dứt. Cao trào cách mạng do Đảng lãnh đạo trong thời kỳ Mặt trận dân chủ 1936-1939 ngay sau khi khôi phục được hệ thống tổ chức của Đảng là một thắng lợi lớn của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến. Qua lãnh đạo cuộc đấu tranh hợp pháp và nửa hợp pháp rộng lớn kết hợp với hoạt động bí mật, không hợp pháp, Đảng được rèn luyện, trưởng thành, lực lượng quần chúng cách mạng mở rộng và được thử thách. Cao trào cách mạng 1936-1939 là cuộc tổng diễn tập thứ hai cho Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đánh giá ưu điểm và khuyết điểm của Đảng trong thời kỳ 1936-1939, sau này Hồ Chí Minh đã viết trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951): "Hồi đó, Mặt trận Bình dân ở Pháp cầm chính quyền, Đảng bèn mở cuộc vận động dân chủ và lập Mặt trận dân chủ Đông Dương. Phong trào Mặt trận dân chủ lúc đó khá mạnh mẽ, rộng khắp; nhân dân đấu tranh công khai. Đó là ưu điểm. Nhưng khuyết điểm là: Đảng lãnh đạo không thật sát, cho nên nhiều nơi cán bộ phạm phải bệnh hẹp hòi, bệnh công khai, say sưa vì thắng lợi bộ phận mà xao lãng việc củng cố tổ chức bí mật của Đảng. Đảng không giải thích rõ lập trường của mình về vấn đề độc lập dân tộc. Một số đồng chí hợp tác vô nguyên tắc với bọn tờrốtkít. Đến khi Mặt trận Bình dân bên Pháp thất bại, Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu, thì phong trào Mặt trậndân chủ ở nước ta cũng bị thực dân đàn áp, và Đảng cũng bối rối một hồi". Qua lãnh đạo cao trào cách mạng 1936-1939, Đảng có thêm những kinh nghiệm: - Xác định rõ kẻ thù chủ yếu và xác định mục tiêu đấu tranh trước mắt của cách mạng là tập hợp đội quân chính trị quần chúng - bước đi tất yếu chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền sau này. - Chủ trương xây dựng Mặt trận dân chủ hết sức rộng rãi là hình thức thích hợp bảo đảm thực hiện mục tiêu trước mắt đã đề ra, đưa đến một cao trào cách mạng mới. - Để lãnh đạo được mặt trận rộng rãi, Đảng phải giữ vững tính độc lập về chính trị và tổ chức, dựa chắc vào lực lượng công nông làm nền tảng. - Giải quyết đúng các mối quan hệ mật thiết giữa mục tiêu đấu tranh với hình thức và tổ chức đấu tranh; giữa các hình thức tổ chức và hoạt động công khai, hợp pháp với các hình thức tổ chức và hoạt động bí mật, không hợp pháp; vừa tập hợp được đông đảo quần chúng vừa chuẩn bị đề phòng khi kẻ thù đàn áp, phải rút vào bí mật. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch sử Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam
Lịch sử Đảng Cộng Sản Việt Nam-Bài 2
Top