Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Lịch sử chiếm hữu nô lệ phương Đông cổ đại
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Chị Lan" data-source="post: 50367" data-attributes="member: 28779"><p><strong><span style="color: Blue">D. ẤN ÐỘ </span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">I/ NỀN VĂN MINH SÔNG ẤN VÀ THỜI ÐẠI VÊ-ÐA</span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"> 1. Ðiều kiện thiên nhiên và cư dân ở Ấn độ thời cổ. </span></strong></p><p></p><p>Ấn độ là một đảo lớn nằm ở miền Nam châu Á, hai mặt Ðông Nam và Tây Nam ngó ra Ấn độ dương, phía Bắc có dãy núi Hi-ma-lay-a hùng vĩ án ngữ, khiến cho đất nước Ấn độ ngày xưa hầu như cách biệt với thới giới bên ngoài. Các con sông Ấn (Indus), sông hằng (Gange), sông Bramapoutre phát nguyên từ miền Hi-ma-lay-a, Tây tạng mang nước nguồn về tưới cho cả một vùng đồng bằng rộng lớn ở miền Bắc Ấn độ, tạo điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển của nghề nông.</p><p></p><p>Ấn độ là một nước đất rộng, người đông. Thành phần chủng tộc và ngôn ngữ của cư dân ở Ấn đô hết sức phức tạp. Nhiều học giả cho rằng người Ðravida là dân bản địa xưa nhất, về sau, những bộ lạc người Ariel thuộc ngữ hệ Ấn, Âu Trung Á xâm nhập Ấn độ rồi làm chủ bán đảo này, dồn người Ðravida về phía Nam. </p><p></p><p>Tiếp theo sau là người Hy lạp, người Hung nô, người A rập, người Mông cổ ... lần lược từ phía Tây bắc kéo tới chung sống lâu đời với những giống người đến trước, tạo thành một sự hỗn hợp chủng tộc hết sức phức tạp trong lịch sử Ấn độ. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">2. Nền văn minh sông Ấn hay văn minh Harappa và Mohan-jo-Daro. </span></strong></p><p></p><p>Cuối thiên nhiên kỷ IV trước công nguyên, ở Ấn độ đã bất đầu sử dụng công cụ bằng kim loại. </p><p></p><p>Những cuộc khai quật khảo cổ ở vùng Hrappa và Mohan-jo, Daro chứng minh rằng từ giữa thiên niên kỷ III đến đầu thiên niên kỷ II trước công nguyên, ở lưu vực sông Ấn, đã xuất hiện một nền văn hóa rực rỡ. Những di tích văn hóa tìm được ở các vùng khai quật chứng tỏ xã hội Ấn độ đã phân chia thành giai cấp và dân cư lúc đó đã biết chế tác đồ dùng bằng đồng, tuy rằng đồ đá hãy còn được dùng khá phổ biến. Ngành sản xuất kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, dùng lưỡi cày bằng đá. </p><p></p><p>Trong nền văn hóa Hrappa, nghệ thuật kiến trúc đã đạt tới trình độ khá cao. Những di chỉ đó cho biết rằng thành phố đã được xây dựng theo một quy hoạch thống nhất, chặt chẽ. </p><p></p><p>Nền văn minh tối cổ này của Ấn Ðộ đứng về mặt thời gian mà nói, cũng không ra đời chậm lắm so với các nền văn minh cổ Ai Cập và Lưỡng Hà. Về mặt nào đó mà nói, đời sống văn hóa của người Dravida lại còn cao hơn cả người Ai Cập và người Lưỡng Hà. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">3. Cuộc chinh phục miền Bắc Ấn độ của người Ariel-Thời đại Vê-đa.</span></strong> </p><p></p><p>Vào khoảng trên dưới 2000 năm trước công nguyên, một số bộ lạc thuộc chủng tộc người Ariel bắt đầu xâm nhập miền tây bắc Ấn độ. Người Ariel hồi đó đang sống dưới chế độ công xã thị tộc mạt kỳ, gồm nhiều bộ lạc du mục. Trước sự xâm lăng của người Ariel, một bộ phận người Draviđa đã phải lánh đến vùng rừng núi phía nam mà sống, một bộ phận khác ở lại thì hầu hết bị người Ariel biến thành nô lệ. Sau một thời kỳ sống chung lâu dài, người chinh phục và kẻ bị chinh phục đã đồng hóa với nhau. Do tiếp thu nền văn hoá cũ của người Draviđa, do học tập được kỹ thuật canh tác của họ, do chiếm cứ được những vùng đất đai màu mỡ, người Ariel bắt đầu chuyển từ đời sống chăn nuôi du mục sang đời sống nông nghiệp định cư. Chế độ công xã nông thôn xuất hiện cùng với sự thiên di của người Ariel sang phía đông, trung tâm văn minh Ấn Ðô cổ đại di chuyển từ lưu vực sông Ấn sang lưu vực Sông Hằng. </p><p></p><p>Trong công xã, kinh tế tiểu nông kết hợp chặt chẻ với thủ công nghiệp gia đình. Mỗi công xã đều tự cấp tự túc, quan hệ trao đổi giữa các công xã rất yếu ớt, lỏng lẽo. Ðó là đặc điểm của nền kinh tế tự nhiên Ấn Ðộ, làm trì trệ sự phát triển của xã hội Ấn độ. Ở đây, tàn dự chế độ công xã tồn tại mãi đến giữa thế kỷ XIX mới bị thủ tiêu. </p><p></p><p>Trong thời kỳ Vê-đa, chế độ nô lệ ở Ấn độ chưa được phát triển lắm. Theo bộ luật Narađa, có trên 15 hạng người nô lệ do 5 nguồn gốc chính sau đây mà ra: </p><p></p><p>- Nô lệ tù binh. </p><p></p><p>- Nô lệ vi phạm tội. </p><p></p><p>- Nô lệ vì nợ, </p><p></p><p>- Nô lệ xuất thân là dân tự do Ariel bị bần cùng hóa </p><p></p><p>- Nô lệ do cha mẹ là nô lệ đẻ ra. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">4. Chế độ đẳng cấp Varna và cơ sở tôn giáo của nó: đạo Bà- la -môn </span></strong></p><p></p><p> Ở thời kỳ Vê-đa, tại Ấn Ðộ đã xuất hiện một chế đô đẳng cấp đặc biệt, gọi là chế Varna cũng gọi là chế độ " chủng tính" ở một số </p><p>Chế Ðộ "Varna" là một chế độ xã hội dựa trên sự phân biệt về chủng tộc, về dòng họ, về tôn giáo hình thành trong quá trình người Ariel chinh phục và thống trị người Draviđa </p><p></p><p>Theo bộ phận Ma-nu, người ta phân biệt rất nhiều chủng tính, tựu trung có thể quy thành bốn chủng tính lớn, sắp xếp theo thứ tự trên dưới như sau: </p><p></p><p><em>1. Chủng tính"Bơ -ra-man" tức là bà la môn, gồm tầng lớp tăng lữ của đạo bà - la - môn. </em></p><p><em></em></p><p><em>2. Chủng tính Kcatrya gồm tầng lớp quí tộc, vương công và vũ sĩ. </em></p><p><em></em></p><p><em>3. Chủng tính Vaicya gồm đại đa số bình dân người Ariel làm nghề nông, nghề thủ công và nghề buôn. </em></p><p><em></em></p><p><em> 4. Chủng tính Cudra gồm đại bộ phận những thổ dân bị người Ariel chinh phục và nô dịch, chủ yếu là người Ðra-vi-đa không được hưởng quyền lời gì, căn bản là những kẻ tôi tớ đi làm thuế,làm mướn. </em></p><p></p><p>Chế độ đẳng cấp Varna dựa trên cơ sở đạo Bà- la-môn. Thực chất của đạo này là một thứ tôn giáo nhằm bào chửa cho tình trạng bất bình đẳng trong xã hội. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">II. VƯƠNG QUỐC MA-GA-ÐA VÀ SỰ THÀNH LẬPVƯƠNG TRIỀU MÔ-RIA </span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">1. Vương quốc Ma-ga-đa và sự xuất hiện đạo phật. </span></strong></p><p></p><p>Vào khỏang nửa đầu thiên niên kỷ VI trước công nguyên, miền Bắc Ấn Ðộ chưa phải là một quốc gia thống nhất, tồn tại mười sáu quốc gia chiếm hữu nô lệ, trong số đó nổi bật lên 2 vương quốc lớn nhât là Magadha và Kosala. </p><p></p><p>Về sau, Magadha nhanh chóng phát triển thành một quốc gia cường thịnh, đã đánh bại nước Kosala mở rộng lãnh thổ Magadha. </p><p></p><p>Vương quốc Magadha trở thành một quốc gia thống nhất miền Bắc Ấn độ, lãnh thổ bao gồm lưu vực của hai con sông Hằng và Sông Ấn. Từ thế kỷ VI trước công nguyên trở đi, do kinh tế phát triển, do áp bức, bóc lột tăng cường, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội Magadha ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn xã hội đó được phản ảnh một phần nào qua phong trào đấu tranh rộng lớn chống chế độ đẳng cấp Vac-na và đạo Ba-la-môn. </p><p></p><p>Vào thời kỳ đó ( khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên) đạo Phật đã ra đời ở Ấn Ðộ. Người sáng lập ra đạo phật là siddharta Gautama, hiệu là Cakya Mu-ni tức thích-ca Mâu-ni, con vua nước Kapilavastu ở miền rừng núi phí nam Hi-ma-lay-a, sinh vào khoảng 563, mất năm 483 trước công nguyên. </p><p></p><p>Theo kinh phật truyền lại thì Gô-ta-ma năm 29 đã rời bỏ cung điện của vua cha ra đi tìm con đường giải thoát và từ đó được gọi là Bouddha tức phật có nghĩa là " người giác ngộ". Sau đó ông đi khắp miền trung du sông Hằng trong hơn 40 năm để truyền bá giáo lý mới của ông, mà về sau người ta gọi là đạo phật Bouddisme. </p><p></p><p>Ngay từ khi đạo phật mới ra đời, số người theo đạo tăng lên rất nhanh, đặc biệt là trong quần chúng dân nghèo bị áp bức. Ðạo Phật được hoan nghênh vì nó tuyên truyền sự "bình đẳng giữa các chúng sinh", Kỳ thật là sự bình đẳng về tinh thần giữa những người dân tự do mà thôi. </p><p>Ðạo Phật là một thứ giáo lý tiêu cực, xa rời thực tế cuộc sống, phủ định đấu tranh giai cấp, do đó mà nó rất hợp với tầng lớp Xa-tơ ri-a đang nắm chính quyền thời bấy giờ. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">2. Sự xâm nhập của người Ba tư và người Hy lạp - Ma-xê-đô-ni. </span></strong></p><p></p><p>Từ cuối thế kỷ thứ VI trước công nguyên, vùng đất đai ở phía tây con sông Ấn đã bị người Ba Tư chinh phục. Vua Ba tư là Darius chinh phục. Do sự xâm nhập của người Ba tư ở miền Tây Bắc Âún Ðộ, mà văn hóa Ba tư là văn hóa Ấn Ðộ càng chịu ảnh hưởng lẫn nhau rõ rệt. Từ giữa thế kỷ IV trước công nguyên trở đi, nước Ma-xê-đô-ni ở bán đảo Hy Lạp đã trở thành một quốc gia hùng mạnh nhất ở phương Tây. Năm 334, vua Ma-xê-đô-ni là Alexandre mang đại quan sang đánh Ba tư, chiếm được miền tiểu Á, Pa-le-xtin và Ai cập. sau khi đã tiêu diệt hoàn toàn quân đội của vua Ðarius, A-lêc-xăng chiếm cứ vùng Lưỡng Hà và toàn bộ Cao nguyên I-ran. Năm 327, quân đội cùa A-lêc-xăng, xâm nhập lưu vực sông Ấn chiếm vương quốc Por. </p><p></p><p>Sau khi đánh bại quân đội Por, quân xâm lược lại chiếm đánh vương quốc Magađa. Trận giao chiến giữa quân Ma-xê-đô-ni và quân Ma-ga-đa đã diễn ra vô cùng ác liệt. Quân của A-lêc-xăng không thể vượt qua sông tiến lên được, Vì họ vấp phải sức chống cự mãnh liệt của người Ma-ga-đa. Cuối cùng họ từ chối không nghe theo lệnh tiến quân của A-lêc-xăng nữa. A-lêc-xăng buộc phải lui quân. </p><p></p><p>Cuộc đông chinh của A-lêc-xăng mang tính chất xâm lược rõ rệt nhưng có một ý nghĩa lịch sử quan trọng. Văn hóa tiên tiến của người Hy Lạp được truyền bá sang Ấn Ðộ. Ngược lại, nền văn hóa độc đáo của Ấn độ cổ đại cũng có ảnh hưởng lớn dối với sự phát triển của nền văn hóa Hy lạp. </p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">3. Sự thành lập vương triều Mô-Ri-A. </span></strong></p><p></p><p> Ðại bộ phận quân đội Ma-xê-đô-nirút khỏi miền Tây bắc Ấn độ không được bao lâu, thì các bộ tộc Ấn độ ở những vùng mà Ma-xê-đô-ni cho rằng đã bình định xong, đều vùng dậy đấu tranh tự giải phóng. Thủ lĩnh của phong trào giải phóng đó là Chandragupta, người sáng lập ra Vương triều Mô-ri-a, một trong những vươn triều lớn mạnh nhất của Âún độ cổ đại. </p><p></p><p>Theo các sử liệu nói trên thì tình hình kinh tế của Ấn độ thời vương triều Mô-ri-a đã phát triển thêm một bước. Ngoài những vùng rừng rậm còn chiếm một phần đất đai khá lớn, những miền các lưu vực các con sông lớn đều được được khai thác thành những khu vực nông nghiệp trú phú. </p><p></p><p>Trên cơ sở nông nghiệp và thủ công nghiệp thành thị phát triển, thương nghiệp lúc này ở Ấn độ cũng phát đạt, đặc biệt ngành mậu dịch đối ngoại. Ấn độ đã có những quan hệ mậu dịch với Trung Quốc, Á Rập và các nước Trung Á, theo đường bộ lẫn đường biển. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">4. Chế độ công xãû nông thôn ở ÂnÚ độ cổ đại </span></strong></p><p></p><p>Ðặc điểm quan trọng trong lịch sử phát triển của xã hội Ấn độ cổ đại là sự phát triển chưa thành thục của những quan hệ chiếm hữu nô lệ đó là tính chất kiên cố của tổ chức công xã nông thôn ở ÂnÚ độ, một hình thái tổ chức kinh tế, xã hội cơ bản của quần chúng dân tự do. </p><p></p><p>Ðặc trưng của chế độ công xãnông thôn ở Ấn độ là sự kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp gia đình làm cho công xã biến thành một đơn vị kinh tế độc lập. Hầu hết sản phẩm làm ra đều nhằm phục vụ trực tiếp cho việc tiêu dùng của công xã, mà không đem đi bán. Mỗi một công xã đều có khả năng tự túc về đại bộ phận các tư liệu tiêu dùng, lương thực cũng như sản phẩm thủ công, do đó liên hệ rất ít với công xã kháchoặc với các thành thị. Ðiều đó đã làm cho những quan hệ hàng hóa, tiền tệ phát triển rất chậm chạp trong nước. </p><p></p><p>Công xã nông thôn Ấn Ðộ không phải là một đơn vị kinh tế độc lập, mà còn là một đơn vị tổ chức xã hội, một đơn vị hiình chính có quyền tự trị. Nhà nước hầu như không hề can thiệp vào nội bộ của công xã, mà công xã cũng không hề quan tâm gì đến vận mệnh của nhà nước. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">III. ÐẾ QUỐC MÔ-RI-ATHỜI ÐẠI ACOKA </span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">1. Chế độ chính trị thời đương triều mô-ri-a. </span></strong></p><p></p><p>Ngay từ trước khi các quốc gia chiếm hữu nô lệ ở lưu vực sông Hằng thống nhất tại thành quốc gia Ma-ga-đa rộng lớn dưới vương triều Mô-ri-a, đại đa số các quốc gia đó thực hành nền quân chủ chuyên chế theo kiểu phương Ðông. Dưới thời đế quốc Mô-ri-a, chế độ chuyên chế đó lại càng phát triển cao hơn </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">2. Thời đại Acoka - Sự truyền bá đạo phật. </span></strong></p><p></p><p>Thời kỳ thịnh vượng nhất của đế quốc Mô-ri-a là tương đương với thời thống trị của vua Acoka: 273-237 tr.c.n., cháu của San-dra-gup-ta. Lịch sử gắng liền sự hùng mạnh của đế quốc Mô-ri-a với tên tuổi của Acoka một trong những ông vua nổi tiếng trong lịch sử Ấn Ðộ cổ đại. Có hơn 30 bả khắc trên đá nói rõ tình hình đế quốc Mo-ri-a dưới đời Acoka; đó là những chiếu chỉ, sắc lệnh của ông khắc trên vách đá, trên côt trụ bằng đá trong các hang động, các chùa chiền. </p><p></p><p>Dưới đời AcoKa, đạo Phật đã được tôn làm quốc giáo. Nhà vua ra sức truyền truyền bá đạo Phật ra nước ngoài. Ở thế kỷ thứ III trước công nguyên, đạo Phật đã được truyền bá rộng rãi ở Xây-lan, Miến-diện, Thái-lan, Mã- lai và In- đô- nê-xi-a. </p><p></p><p>Về sau khoảng thế kỷ đầu của công nguyên, đất nước Ân độ bị chia cắt thành nhiều công quốc phong kiến. Ðạo phật ở Ấn Ðộ lúc này bị đạo Bà La Môn bài xích. Ðề thích ứng với điều kiện lịch sử mới, đạo Bà La Môn từ đó dần dần cải biến thành đạo Hindu tức Ấn Ðộ giáo. Ðạo phật ở Ấn độ dần dần suy yếu, phải nhường địa vị ưu thế cho đạo Hindu. Nhưng ở ngoài biên giới Ấn độ, tại các nước Ðông Á thì đạo phật lại đang trong thời kỳ hưng thịnh. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">3. Sự suy vong của đế quốc Mô-ri-a </span></strong></p><p></p><p>Mặc dầu vua A-xô-ka có những cố gắng lớn để củng cố sự thống nhất quốc gia, đế quốc Mô-ri-a trước sau vẫn không phải là một quốc gia thống nhất vững chắc, mà là một quốc gia liên hiệp nhiều công quốc và nhiều bộ lạc có trình độ phát triển kinh tế, văn hóa rất chênh lệch nhau, không có liên hệ kinh tế xã hội bền chặt. </p><p></p><p>Bởi vậy, ngay sau khi vua A-xô-ka chết, năm 236 trước công nguyên, đế quốc Mô-ri-a bắt đầu suy sụp. Ðến năm 187, vương triều mô-ri-a bị lật đổ. Một vương triều mới, vương triều Shunga, ra đời (187-73 trước công nguyên). </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">E. TRUNG QUỐC </span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">I. XÃ HỘI TRUNG QUỐC THỜI NGUYÊN THUỶ </span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">1. Ðiều kiện thiên nhiên và cư dân ở Trung Quốc thời cổ. </span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p>Nước Trung Quốc vĩ đại ngày nay, dất rộng người đông, về thời thượng cổ, chỉ chiếm một dải dất tương đối hẹp, người thưa, nằm ở vùng hạ lưu hai con sông Hoàng Hà và Trường Giang. Hai con sông này đã giữ một vai trò trọng yếu trong đời sống của người Trung Quốc từ thời xa xưa. Ðặc biệt là sông Hoàng Hà, nước lũ dâng lên cao, nhiều lần làm thay đổi cả dòng sông, gây nên thủy tai khủng khiếp. </p><p></p><p>Nhưng mặt khác, đất phù sa do hai con sông bồi đắp thành một miền đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu, rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. </p><p>Căn cứ vào kết quả các cuộc khai quật khảo cổ do giao sư Bùi Văn Trung, tiến hành trong khoảng từ năm 1927 đến năm 1937, ở vùng Chu-khẩu-điếm, phía tây Nam Bắc Kinh, người ta biết rằng độ 60 vạn năm về trước, trên lãnh thổ Trung Quốc đã có loài người sinh sống và lao động. Ðó là giống người vượn Trung quốc (sinanthropus), cũng còn gọi là người vượn Bắc kinh.</p><p> </p><p><strong><span style="color: Blue">2. Những Truyền thuyết về Hoàng Ðế và Nghiêu, Thuấn, Vũ. </span></strong></p><p></p><p>Vào khoảng cách đây chừng năm hoặc sáu nghìn năm, tổ tiên người Trung Quốc đã biết cải tiến công cụ lao động. </p><p></p><p>Người ta đã phát hiện ra hai nền văn hòa quan trọng vào cuối thời đại đồ đá mới, trên lưu vực Hoàng Hà, nền văn hóa Ngưỡng thiều và nền văn hóa Long Sơn. </p><p></p><p>Hai nền văn hóa trên phản ảnh được tình hình phát triển của sức sản xuất, tình hình sinh hoạt vật chất của người Trung Quốc sống ở giai đoạn cuối của xã hội thị tộc. </p><p></p><p>Những truyền thuyết cổ đại Trung quốc về Tam hoàng, Ngũ đế có nhiều ý nghĩa lịch sử đối với giai đoạn công xã thị tộc này. </p><p></p><p>Tục truyền rằng Hoàng đế, tổ tiên lỗi lạc của nhân dân lưu vực Hoàng Hà. Theo thuyết truyền, rất nhu\iều sáng chế, phát minh quan trọng của Trung Quốc cổ đại đều quy vào Hoàng Ðế, như việc làm nhà cửa, may quần áo, đóng xe, đóng thuyền, trồng dâu, nuôi Tầm, dệt vải. Nuôi tầm lấy tơ là một cống hiến lớn lao của nhân dân lao động Trung Quốc cho nền văn hóa thế giới. Một phát minh quan trọng nữa ở thời Hoàng đế và chữ viết. </p><p></p><p>Sau Hoàng đế, trải qua mấy đời, có ba vị thủ lĩnh kế tiếp nhau đứng đầu liên minh bộ lạc: đó là Nghiêu, Thuấn, Vũ. </p><p></p><p>Thời kỳ Nghiêu, Thuấn, Vũ là thời kỳ tan ra của xã hội thị tộc ở Trung quốc </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">II. SỰ RA ÐỜI NHÀ NƯỚC CHIẾM HỮU NÔ LỆ TRUNG QUỐC. NHÀ HẠ - NHÀ THƯƠNG</span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">1. Sự thành lập nhà Hạ. Sự hưng khởi nhà Thương </span></strong></p><p></p><p>Nhà Hạ thành lập vào khoảng thế kỷ XXI trước công nguyên. Nhà Hạ mở đầu xã hội chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc. </p><p>Thế kỷ XVII trước công nguyên, vua cuối cùng của nhà Hạ là Kiệt cùng với bọn quý tộc nhà Hạ, vựa vào vũ lực, bạo ngược vô đạo, bóc lột nhân dân rất tàn khốc. </p><p></p><p>Thời bấy giờ, có bộ lạc Thương ở hạ lưu Hoàng Hà, dưới sự lãnh đạo của người thủ lĩnh của minh là Thành Thang, đã dần dần lớn mạnh lên, rồi lần lượt đánh bại các bộ lạc liên minh với Hạ, sau đó lại tấn công vua Kiệt nhà Hạ. </p><p></p><p>Khoảng thế kỹ XIV trước công nguyên, vua Thương là Bàn Canh dời đô đến đất Ân (thuộc tỉnh Hà Nam bây giờ). Do đó về sau, nhà Thương vẫn còn gọi là nhà Ân Thương. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">2. Sinh hoạt kinh tê, xã hội, văn hoá đời Thường: </span></strong></p><p></p><p>Khoảng năm 1899, tại huyện An-Dương thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay, người ta đã tìm thấy rất nhiều mai rùa và xương thú có khắc chữ ở di tích Ấn Khư, kinh đô của nhà Ân. Những bản ghichép đó gọi là Văn Lư giáp cốt (có nghĩa là chữ khắc trên xương thú hoặc mai rùa). Qua đó, người ta có thể phán đoán được một cách tương đối chính xác những nét lớn về tình hình sinh hoạt xã hội đời Ân - Thương. </p><p></p><p>Thời Ân - Thương, nông nghiệp trở thành ngành sản xuất chủ yếu trong xã hội. </p><p></p><p>Thời bấy giờ, việc đúc đồ đồng thau đã đạt tới trình độ kỹ thuật cao. </p><p></p><p>Người ta đã thấy sinh hoạt bất bình đẳng giữa các giai cấp trong xã hội chiếm hữu nô lệ thời Thương. Trong mộ của qui tộc, chôn theo rất nhiều đồ tùy táng,, cả nô. Trong mộ nô lệ thì không có gì vì người ta cho rằng nô lệ chết rồi cũng vẫn là nô lệ, chỉ mang theo hai bàn tay trắng để làm việc cho chủ nô quý tộc đã chết. </p><p></p><p>Người thời Thường tin vào sức mạnh của tự nhiên, cho rằng nó có thể đem lại đều lành, điều dữ cho họ. Quí tộc tế trời, đất núi, sông, đặc biệt tế thần sông Hoàng Hà. </p><p></p><p>Tóm lại, những di tích phát hiện ở Ân Khư cho chúng ta biết rằng ở thời Ân - Thương, xã hội Trung Quốc là một Xã hội chiếm hữu nô lệ tương đối phát triển và nền văn hóa Ân - Thương, cũng gọi là văn hóa Ân Khư, là một nên văn hóa đặt cơ sở vững chắt cho sự phát triển của xã hội Trung quốc về sau này. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">III. TÂY CHU </span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">1. Sự hình thành nhà Tây Chu </span></strong></p><p></p><p>Ở phía tây đồng bằng Hoa Bắc rộng lớn, thời bấy giờ tại lưu vực sông Kinh và sông Vị thuộc tỉnh Thiểm-tây ngày nay, co bộ tộc Chu đã sống lâu đời ở đây. Ðó là một vùng cao nguyên có chất đất vàng phì nhiêu, rất thuận lợi cho tộc Chu phát triển nghề nông của mình. </p><p></p><p>Trong lúc bộ tộc Chu đang lớn mạnh không ngừng, thi mâu thuẫn trong nội bộ nhà Ân - Thương ngày càng sâu sắc. Vua cuối cùng của nhà Ân - Thương là Trụ Vương, một tên bạo quân nổi tiếng bóc lột nhân dân rất tàn khốc. </p><p></p><p>Thủ lỉnh người Chu là Chu Văn Vương được sự ủng hộ của bộ tộc mình , thừa cơ nhà Thương suy yếu, phát triển thế lực về phía đông đánh chiếm nhiều đấ đai của nhà Thương. Con của Chu Văn Vương là Chu Vũ Vương tấn công kinh đô nhà Thương. </p><p></p><p>Diệt xong nhà Thương, Chu vũ Vương đóng đô ở Hạo Kinh ( phía Tây thành phố Tây An ngày nay), và dựng lên nhà Chu, trong lịch sử gọi là Tây Chu. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">2. Sự thống trị của nhà Chu: </span></strong></p><p></p><p> Sau khi đông chinh thắng lợi, vua nhà Chu đã thực hành một số biện pháp nhằm tăng cường nền thống trị của mình ở miền Ðông. Trước hết, vua nhà Chu quyết định xây nhiều thành quách ở miền Ðông để tăng cương sức khống chế đối với người Ân. Nhà Chu cho xây dựng Lạc ấp (thuộc Hà Nam ngày nay) theo qui mô lớn. </p><p></p><p>Ðể củng cố nền thống trị của mình, hoà hoãn mâu thuẫn nội bộ, vua nhà Chu đã phân phong cho anh em, họ hàng và công thần làm chư hầu để họ dựng nước và trị dân ở các nơi, hình thành một số chư hầu như nước Lỗ, nước Tấn, nước Yên, nước Tề... là một chế độ thống trị dựa trên cơ sở quan hệ huyết thống của dòng họ, gọi là chế độ tông pháp. </p><p></p><p>+ Về kinh tế: Thời Tây Chu tồn tại chế độ tỉnh điền. Chế độ tỉnh điền là chế đô chiếm hữu và sử dụng ruộng đất đã có từ trước, đến thời Tây chu mới được mở rộng. Ðồng thời đó cũng là một chế độ nghĩa vụ quân sự. </p><p></p><p>+ Về xã hội: xã hội thời Chu những giai cấp bị áp bức bóc lột là nô lệ và nông dân công xã. </p><p></p><p>Quý tộc thời Tây Chu có đủ các đặc quyền, đặc lợi. Lập được chiến công hay có công lao gì khác, thì họ thường được vua nhà Chu hay chư hầu ban thưởng ruộng đất và nô lệ. Quý tộc bóc lột nông dân công xã và và nô lệ rất nặng nề. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">3. Sự suy vong của nhà Tây Chu </span></strong></p><p></p><p>Ðến đời Chu Lê Vương, mâu thuẫn trong nội bộ nhà Chu càng thêm sâu sắc. Kết quả là năm 841 trước công nguyên nhân dân dưới sự lãnh đạo của quý tộc tên là Công Bá Hòa, tấn công cung điện nhà vua, đuổi Lê vương, cử ra một hôi nghị quí tộc tạm thời chấp chính, thay thế vua. Trong lịch sử thời đó gọi là thời "cộng hòa", tồn tại trong 14 năm (841-828 trước công nguyên). </p><p></p><p>Ðến năm 827 trước công nguyên, sau khi Chu Lê Vương chết, con là Tuyên vương khôi phục lại được ngôi vua thì cuộc đấu tranh trong nội bộ nhà vua mới tạm dứt; nhưng chiến tranh lại xảy ra giữa nhà Chu với các tộc ngoài biên cương phía Tây và phía Bắc, chủ yếu là với các tộc, Nghiễm Doãn, Tây, Nhung, làm tiêu hao mất nhiều nhân lực, vật lực trong nhân dân và làm cho mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ nhà Chu lại trở nên gay gắt. </p><p>Tình hình chinh chiến đó làm cho sức sản xuất trong nước bị đình đốn một cách nghiêm trọng; xã hội phân hóa một cách kịch liệt, vàmâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt. </p><p></p><p>Năm 781 trước công nguyên, quân Tây Nhung công hãm Hạo Kinh, thiêu hủy kinh đô nhà Chu, bắt giết U Vương dưới chân núi Ly Sơn. Bọn thân hầu lập thái tử Nghi Câu lên làm vua, hiệu là Chu Bình Vương (771 trước công nguyên). </p><p></p><p>Căn cứ đị Thiểm Tây của nhà Chu đã ở vào tình thế bị Nghiễm Doãn và Tây nhung uy hiếp mạnh, nên năm sau, Chu Bình Vương phải dời đô sang Ðông, đến Lạc- ấp (Lạc dương, tỉnh Hà-nam bây giờ), đem căn cứ địa phía Tây tặng cho một quý tộc, là Tần Tướng Công. </p><p></p><p>Sau khi nhà Chu dời đô sang Ðông thì sử gọi là Ðông Chu. </p><p></p><p>Từ đó lịch sử Trung quốc bước vào thời đại mới: Thời Xuân thu -Chiến quốc. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">IV. THỜI KỲ XUÂN THU - CHIÊN QUỐC </span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">THỜI KỲ XUÂN THU (770-475 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN) </span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p>Từ khi Chu Bình Vương dời đô sang Lạc-ấp năm 770 cho đến năm 475 trước công nguyên là thời kỳ Xuân Thu : </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">1. Sự phát triển của sức sản xuất hiện chế độ tư hữu về ruộng đất:</span> </strong></p><p></p><p>Từ thời Xuân thu trở đi, công cụ sản xuất nói chung, nhất là nông cụ, đều làm bằng sắt.. Việc sử dụng công cụ bằng đất trong sản xuất nông nghiệp không những tạo điều kiện thuận lợi mới cho việc khai khẩn đất hoang, mà tạo điều kiện mới cho việc nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp. Do đó dần dần người ta thấy không cần thiết chia ruộng đất theo định kỳ, chế độ tỉnh điền dần dần tan rã. Chế độ tư hữu về ruộng đất xuất hiện và ngày càng phát triển. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">2. Cục diện Ngũ bá thời Xuân Thu</span>. </strong></p><p></p><p>Ðến thời Xuân thu, nhiều nước chư hầu mượn tiếng ủng hộ địa vị tông chủ của nhà Chu, đề ra khẩu hiệu "tôn vương, bài Dị" để mở rộng thế lực và đất đai, thay nhà Chu chiếm lấy bá quyền. Vì thế các chư hầu gây chiến tranh thôn tính liên miên. Mở đầu thời kỳ các nước lớn tranh nhau bá quyền. Các nước ở miền Sơn -đông thì bị Tề thôn tính; các nước ở miền Tây-bắc thì bị Tần thôn tính; các nước ở miền Giang, Hán, Hoài, thì bị Sở thôn tính. Những nước chưa bị thôn tính cũng rất suy nhược, nhưng chỉ vì chúng ở vào thế hoãn xung giữa các nước các nướcclớn nên tạm thời giữ lại. Vì thế, nếu đầu thời Chu có vào khoảng trên dưới một nghìn nước chư hầu, thì đến thời Xuân thu chỉ còn lại hơn trăm nước, và tương đối lớn thì chỉ có 14 nước: Tần, Tấn, Tề, Sở, Lỗ, Vệ, Yên, Tào, Tống, Trần, Thái, Trịnh, Ngô, Việt, trong đó lớn mạnh nhất là Tề, Tấn, Tần, ở, Tống, về sau có Ngô và Việt. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">3. Ðời sống của nhân dân.</span></strong> </p><p></p><p>Thời kỳ Xuân-thu, các nước lớn không ngừng gây chiến tranh cướp đoạt các nước nhỏ. Ðể thỏa mản tham vọng các nước lớn dùng phương pháp "triều sính" và "minh hội". "Triều sính" là nước lớn cưỡng bức nước nhỏ phải cống nạp sản vật cho mình. "Minh hội" là các nước lớn hội nghị với nhau dể bàn cách giải quyết vấn đề cống nạp của các nước nhỏ. </p><p></p><p>Lúc bấy giơ,ì nhân dân nghèo khổ, đói kém, buộc phải vay nợ của bọn quý tộc, nhà giàu cho vay nặng lãi, nên đời sống rơi vào cảnh cùng cực. Tình hình nước Tề,"tam lão (thường dân)chết đói chết rét"; tình hình nước Tấn, "thấy chết đói đầy đường". Tấn, tề là những nước lớn mà nhân dân còn như thế thì tình cảnh ở các nước nhỏ lại càng bi thảm biết dường nào! </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">THỜI CHIẾN QUỐC (475-221 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN) </span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue"></span></strong></p><p><strong><span style="color: Blue">1. Sự Phát triển kinh tế thời chiến quốc. </span></strong></p><p></p><p>Trong thời chiến Quốc, ngoài cuộc đấu tranh thường xuyên xảy ra giữa các nước, trong từng nước cũng luôn xảy ra những cuộc đấu tranh giữa các bọn quý tộc với nhau để tranh giành đất đai và quyền thống trị nhân dân. Ở nước Tấn, năm 403 trước công nguyên, có ba dòng họ lớn là Hàn, Triều, Ngụy chia nhau đất nước, rồi không bao lâu phế truất vua Tấn. Lúc đó Trung Quốc đã bước vào thời kỳ Chiến Quốc. Bấy giờ chỉ còn lại bảy nước lớn và một số ít nước nhỏ. Trong số bảy nước lớn, thì Tề, Sở, Yên, Tần, đã có từ thời Xuân Thu; Hàn, Triệu, Ngụy, là những nước mới tách ra từ nước Tấn. Bảy nước đó tạo thành cục diện Thất hùng thời Chiến quốc. </p><p></p><p>Thời Chiến quốc, Trung Quốc có những biến đổi lớn lao hơn về mặt kinh tế. Ðặc biệt, nghề luyện sắt và kỹ thuật luyện sắt phát phát triển cao hơn, và đồ dùng bằng sắt được phổ biến rộng rãi hơn so với thời Xuân thu. </p><p></p><p>Ðể đáp ứng nhu cầu phát triển thương nghiệp, các thành thị lớn đều tự chế ra tiền tiền tệ kim loại đã xuất hiện thời Xuân thu, đến thời Chiến quốc đã thịnh hành. Những thương nhân lớn có thế lực về kinh tế, thường có nhiều tham vọng chính trị. Ví như nhà buôn lớn Lã bất Vi đã tung của cải ra để thao túng chiïnh quyền nưới Tần, hay như Mạnh Thường Quân, Quý tộc nước Tề, làm nghề cho vay nặng lãi, đã đưa vào thế lực tiền tài để củng cố quyền chình trị của mình. </p><p></p><p>Thời Chiến quốc,tuy sản xuất nông nghiệp bị chiến tranh phá hoại rất nghiêm trọng, nhưng nhờ việc sử dụng phổ biến nông cụ bằng sắt nên nói chung, công tác thủy lợi và việc canh tác nông nghiệp ở các nước đều có phát triển trong chừng mực nhất định. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">2. Những biến đổi lớn trong thời Chiến quốc:</span> </strong></p><p></p><p>Thời Chiến quốc, chiến tranh còn nhiều hơn, quy mô lớn hơn và tàn khốc hơn thời Xuân thu. </p><p></p><p>Hồi ấy kẻ sĩ là tầng lớp hoạt động sôi nổi nhất về chính trị. Tầng lớp sĩ có tri thức văn hóa, có kinh nghiệm đấu tranh chính trị và thủ đoạn chính trị nhân dân hoặc có tài thuyết khách và tài thao lược nên vua chúa và quý tộc vào thời bấy giờ đã dời họ về làm quan lại, tướng tá,. Mưu sĩ hay "thực khách". </p><p></p><p>Do sự phát triển của sức sản xuất, sự phát triển của kinh tế hàng hóa, do chiến tranh loạn lạc xảy ra liên miên, tổ chức công xã nông thôn (chế độ tỉnh điền) bị phá hoại. Trong thôn xã có sự phân hóa giai cấp mạnh mẽ, một số nhỏ nông dân giàu có trở thành địa chủ, phú nông, đa số nông dân mất ruộng đất, phải đi cấy rẽ, cày thuê, trở thành tá điền, cố nông. Quan hệ sản xuất phong kiến nông nô xuất hiện và dần dần chiếm ưu thế trong nông nghiệp. Nô lệ từ nay thu hẹp trong sản xuất thủ công, hầm mỏ và phục vụ trong nhà. </p><p></p><p>Thời Chiến quốc những sự biến đổi lớn lao về kinh tế, xã hội và chính trị nói trên được phản ảnh trong phong trào "biến pháp", tức là phong trào cải cách được tiến hành ở nhiều nước. </p><p></p><p><strong><span style="color: Blue">3. Cải cách của Thương Ưởng và hưng thịnh của nước Tần. Nhà Tần thống nhất Trung Quốc. </span></strong></p><p></p><p>Trong Thất hùng thời Chiến Quốc, Tần là một nước tương đối lạc hậu. Ðến năm 362 trước công nguyên, Tần Hiếu Công lên ngôi, dùng Thương Ưởng, một nhà chính trị có tài, làm Tể tướng để thực hành cải cách, tích cực làm cho nước giàu, dân mạnh, mưu đồ cạnh tranh với 6 nước miền Ðông. </p><p></p><p>Cải cách Thương Ưởng bị quý tộc nhà Tần phản đối dữ dội. Do Tần Hiếu Công thẳng tay đàn áp mọi sự phản kháng, cải cách Thương Ưởng mới được tiến hành thuận lợi. Cải cách của Thương Ưởng đã đặt cơ sở vật chất cho nước Tần thống nhất Trung Quốc. </p><p></p><p>Sự cường thịnh của nước Tần ngày càng uy hiếp dữ dội 6 nước miền Ðông. </p><p></p><p>Năm 246, trước công nguyên, vua Tần là Doanh Chính lên ngôi. Bây giờ lãnh thổ của nước Tần đã rộng lớn, Tần tự thấy đã có đầy đủ lực lượng để thực hiện âm mưu chinh phục 6 nước. Chỉ trong vòng 10 năm từ năm 230-221 trước công nguyên - nước Tầnnđã lần lượt tiêu diệt 6 nước: Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên và Tề, thống nhất lãnh thổ Trung Quốc, chấm dứt tình trạng hỗn chiến lâu dài thời Xuân thu - Chiến quốc lập ra đế quốc Tần, đế quốc thống nhất đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Trung quốc. </p><p></p><p>Việc nhà Tần thống nhất Trung Quốc là một việc phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội thời bấy giờ, bởi gì chỉ có thống nhất đất nước mới có thể chấm dứt tình trạng hỗn chiến lâu dài, mới có đủ sức mạnh chóng nội xâm, mới tạo điều kiện cho việc mở mang và thống nhất quản lý công trình thủy lợi nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp và công thương nghiệp trên qui mô toàn quốc, đem lại đời sống hòa bình, yên vui cho nhân dân.</p><p></p><p>(Sưu tầm)</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Chị Lan, post: 50367, member: 28779"] [B][COLOR="Blue"]D. ẤN ÐỘ I/ NỀN VĂN MINH SÔNG ẤN VÀ THỜI ÐẠI VÊ-ÐA 1. Ðiều kiện thiên nhiên và cư dân ở Ấn độ thời cổ. [/COLOR][/B] Ấn độ là một đảo lớn nằm ở miền Nam châu Á, hai mặt Ðông Nam và Tây Nam ngó ra Ấn độ dương, phía Bắc có dãy núi Hi-ma-lay-a hùng vĩ án ngữ, khiến cho đất nước Ấn độ ngày xưa hầu như cách biệt với thới giới bên ngoài. Các con sông Ấn (Indus), sông hằng (Gange), sông Bramapoutre phát nguyên từ miền Hi-ma-lay-a, Tây tạng mang nước nguồn về tưới cho cả một vùng đồng bằng rộng lớn ở miền Bắc Ấn độ, tạo điều kiện rất thuận lợi cho sự phát triển của nghề nông. Ấn độ là một nước đất rộng, người đông. Thành phần chủng tộc và ngôn ngữ của cư dân ở Ấn đô hết sức phức tạp. Nhiều học giả cho rằng người Ðravida là dân bản địa xưa nhất, về sau, những bộ lạc người Ariel thuộc ngữ hệ Ấn, Âu Trung Á xâm nhập Ấn độ rồi làm chủ bán đảo này, dồn người Ðravida về phía Nam. Tiếp theo sau là người Hy lạp, người Hung nô, người A rập, người Mông cổ ... lần lược từ phía Tây bắc kéo tới chung sống lâu đời với những giống người đến trước, tạo thành một sự hỗn hợp chủng tộc hết sức phức tạp trong lịch sử Ấn độ. [B][COLOR="Blue"]2. Nền văn minh sông Ấn hay văn minh Harappa và Mohan-jo-Daro. [/COLOR][/B] Cuối thiên nhiên kỷ IV trước công nguyên, ở Ấn độ đã bất đầu sử dụng công cụ bằng kim loại. Những cuộc khai quật khảo cổ ở vùng Hrappa và Mohan-jo, Daro chứng minh rằng từ giữa thiên niên kỷ III đến đầu thiên niên kỷ II trước công nguyên, ở lưu vực sông Ấn, đã xuất hiện một nền văn hóa rực rỡ. Những di tích văn hóa tìm được ở các vùng khai quật chứng tỏ xã hội Ấn độ đã phân chia thành giai cấp và dân cư lúc đó đã biết chế tác đồ dùng bằng đồng, tuy rằng đồ đá hãy còn được dùng khá phổ biến. Ngành sản xuất kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, dùng lưỡi cày bằng đá. Trong nền văn hóa Hrappa, nghệ thuật kiến trúc đã đạt tới trình độ khá cao. Những di chỉ đó cho biết rằng thành phố đã được xây dựng theo một quy hoạch thống nhất, chặt chẽ. Nền văn minh tối cổ này của Ấn Ðộ đứng về mặt thời gian mà nói, cũng không ra đời chậm lắm so với các nền văn minh cổ Ai Cập và Lưỡng Hà. Về mặt nào đó mà nói, đời sống văn hóa của người Dravida lại còn cao hơn cả người Ai Cập và người Lưỡng Hà. [B][COLOR="Blue"]3. Cuộc chinh phục miền Bắc Ấn độ của người Ariel-Thời đại Vê-đa.[/COLOR][/B] Vào khoảng trên dưới 2000 năm trước công nguyên, một số bộ lạc thuộc chủng tộc người Ariel bắt đầu xâm nhập miền tây bắc Ấn độ. Người Ariel hồi đó đang sống dưới chế độ công xã thị tộc mạt kỳ, gồm nhiều bộ lạc du mục. Trước sự xâm lăng của người Ariel, một bộ phận người Draviđa đã phải lánh đến vùng rừng núi phía nam mà sống, một bộ phận khác ở lại thì hầu hết bị người Ariel biến thành nô lệ. Sau một thời kỳ sống chung lâu dài, người chinh phục và kẻ bị chinh phục đã đồng hóa với nhau. Do tiếp thu nền văn hoá cũ của người Draviđa, do học tập được kỹ thuật canh tác của họ, do chiếm cứ được những vùng đất đai màu mỡ, người Ariel bắt đầu chuyển từ đời sống chăn nuôi du mục sang đời sống nông nghiệp định cư. Chế độ công xã nông thôn xuất hiện cùng với sự thiên di của người Ariel sang phía đông, trung tâm văn minh Ấn Ðô cổ đại di chuyển từ lưu vực sông Ấn sang lưu vực Sông Hằng. Trong công xã, kinh tế tiểu nông kết hợp chặt chẻ với thủ công nghiệp gia đình. Mỗi công xã đều tự cấp tự túc, quan hệ trao đổi giữa các công xã rất yếu ớt, lỏng lẽo. Ðó là đặc điểm của nền kinh tế tự nhiên Ấn Ðộ, làm trì trệ sự phát triển của xã hội Ấn độ. Ở đây, tàn dự chế độ công xã tồn tại mãi đến giữa thế kỷ XIX mới bị thủ tiêu. Trong thời kỳ Vê-đa, chế độ nô lệ ở Ấn độ chưa được phát triển lắm. Theo bộ luật Narađa, có trên 15 hạng người nô lệ do 5 nguồn gốc chính sau đây mà ra: - Nô lệ tù binh. - Nô lệ vi phạm tội. - Nô lệ vì nợ, - Nô lệ xuất thân là dân tự do Ariel bị bần cùng hóa - Nô lệ do cha mẹ là nô lệ đẻ ra. [B][COLOR="Blue"]4. Chế độ đẳng cấp Varna và cơ sở tôn giáo của nó: đạo Bà- la -môn [/COLOR][/B] Ở thời kỳ Vê-đa, tại Ấn Ðộ đã xuất hiện một chế đô đẳng cấp đặc biệt, gọi là chế Varna cũng gọi là chế độ " chủng tính" ở một số Chế Ðộ "Varna" là một chế độ xã hội dựa trên sự phân biệt về chủng tộc, về dòng họ, về tôn giáo hình thành trong quá trình người Ariel chinh phục và thống trị người Draviđa Theo bộ phận Ma-nu, người ta phân biệt rất nhiều chủng tính, tựu trung có thể quy thành bốn chủng tính lớn, sắp xếp theo thứ tự trên dưới như sau: [I]1. Chủng tính"Bơ -ra-man" tức là bà la môn, gồm tầng lớp tăng lữ của đạo bà - la - môn. 2. Chủng tính Kcatrya gồm tầng lớp quí tộc, vương công và vũ sĩ. 3. Chủng tính Vaicya gồm đại đa số bình dân người Ariel làm nghề nông, nghề thủ công và nghề buôn. 4. Chủng tính Cudra gồm đại bộ phận những thổ dân bị người Ariel chinh phục và nô dịch, chủ yếu là người Ðra-vi-đa không được hưởng quyền lời gì, căn bản là những kẻ tôi tớ đi làm thuế,làm mướn. [/I] Chế độ đẳng cấp Varna dựa trên cơ sở đạo Bà- la-môn. Thực chất của đạo này là một thứ tôn giáo nhằm bào chửa cho tình trạng bất bình đẳng trong xã hội. [B][COLOR="Blue"]II. VƯƠNG QUỐC MA-GA-ÐA VÀ SỰ THÀNH LẬPVƯƠNG TRIỀU MÔ-RIA 1. Vương quốc Ma-ga-đa và sự xuất hiện đạo phật. [/COLOR][/B] Vào khỏang nửa đầu thiên niên kỷ VI trước công nguyên, miền Bắc Ấn Ðộ chưa phải là một quốc gia thống nhất, tồn tại mười sáu quốc gia chiếm hữu nô lệ, trong số đó nổi bật lên 2 vương quốc lớn nhât là Magadha và Kosala. Về sau, Magadha nhanh chóng phát triển thành một quốc gia cường thịnh, đã đánh bại nước Kosala mở rộng lãnh thổ Magadha. Vương quốc Magadha trở thành một quốc gia thống nhất miền Bắc Ấn độ, lãnh thổ bao gồm lưu vực của hai con sông Hằng và Sông Ấn. Từ thế kỷ VI trước công nguyên trở đi, do kinh tế phát triển, do áp bức, bóc lột tăng cường, mâu thuẫn giai cấp trong xã hội Magadha ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn xã hội đó được phản ảnh một phần nào qua phong trào đấu tranh rộng lớn chống chế độ đẳng cấp Vac-na và đạo Ba-la-môn. Vào thời kỳ đó ( khoảng thế kỷ thứ VI trước công nguyên) đạo Phật đã ra đời ở Ấn Ðộ. Người sáng lập ra đạo phật là siddharta Gautama, hiệu là Cakya Mu-ni tức thích-ca Mâu-ni, con vua nước Kapilavastu ở miền rừng núi phí nam Hi-ma-lay-a, sinh vào khoảng 563, mất năm 483 trước công nguyên. Theo kinh phật truyền lại thì Gô-ta-ma năm 29 đã rời bỏ cung điện của vua cha ra đi tìm con đường giải thoát và từ đó được gọi là Bouddha tức phật có nghĩa là " người giác ngộ". Sau đó ông đi khắp miền trung du sông Hằng trong hơn 40 năm để truyền bá giáo lý mới của ông, mà về sau người ta gọi là đạo phật Bouddisme. Ngay từ khi đạo phật mới ra đời, số người theo đạo tăng lên rất nhanh, đặc biệt là trong quần chúng dân nghèo bị áp bức. Ðạo Phật được hoan nghênh vì nó tuyên truyền sự "bình đẳng giữa các chúng sinh", Kỳ thật là sự bình đẳng về tinh thần giữa những người dân tự do mà thôi. Ðạo Phật là một thứ giáo lý tiêu cực, xa rời thực tế cuộc sống, phủ định đấu tranh giai cấp, do đó mà nó rất hợp với tầng lớp Xa-tơ ri-a đang nắm chính quyền thời bấy giờ. [B][COLOR="Blue"]2. Sự xâm nhập của người Ba tư và người Hy lạp - Ma-xê-đô-ni. [/COLOR][/B] Từ cuối thế kỷ thứ VI trước công nguyên, vùng đất đai ở phía tây con sông Ấn đã bị người Ba Tư chinh phục. Vua Ba tư là Darius chinh phục. Do sự xâm nhập của người Ba tư ở miền Tây Bắc Âún Ðộ, mà văn hóa Ba tư là văn hóa Ấn Ðộ càng chịu ảnh hưởng lẫn nhau rõ rệt. Từ giữa thế kỷ IV trước công nguyên trở đi, nước Ma-xê-đô-ni ở bán đảo Hy Lạp đã trở thành một quốc gia hùng mạnh nhất ở phương Tây. Năm 334, vua Ma-xê-đô-ni là Alexandre mang đại quan sang đánh Ba tư, chiếm được miền tiểu Á, Pa-le-xtin và Ai cập. sau khi đã tiêu diệt hoàn toàn quân đội của vua Ðarius, A-lêc-xăng chiếm cứ vùng Lưỡng Hà và toàn bộ Cao nguyên I-ran. Năm 327, quân đội cùa A-lêc-xăng, xâm nhập lưu vực sông Ấn chiếm vương quốc Por. Sau khi đánh bại quân đội Por, quân xâm lược lại chiếm đánh vương quốc Magađa. Trận giao chiến giữa quân Ma-xê-đô-ni và quân Ma-ga-đa đã diễn ra vô cùng ác liệt. Quân của A-lêc-xăng không thể vượt qua sông tiến lên được, Vì họ vấp phải sức chống cự mãnh liệt của người Ma-ga-đa. Cuối cùng họ từ chối không nghe theo lệnh tiến quân của A-lêc-xăng nữa. A-lêc-xăng buộc phải lui quân. Cuộc đông chinh của A-lêc-xăng mang tính chất xâm lược rõ rệt nhưng có một ý nghĩa lịch sử quan trọng. Văn hóa tiên tiến của người Hy Lạp được truyền bá sang Ấn Ðộ. Ngược lại, nền văn hóa độc đáo của Ấn độ cổ đại cũng có ảnh hưởng lớn dối với sự phát triển của nền văn hóa Hy lạp. [B][COLOR="Blue"] 3. Sự thành lập vương triều Mô-Ri-A. [/COLOR][/B] Ðại bộ phận quân đội Ma-xê-đô-nirút khỏi miền Tây bắc Ấn độ không được bao lâu, thì các bộ tộc Ấn độ ở những vùng mà Ma-xê-đô-ni cho rằng đã bình định xong, đều vùng dậy đấu tranh tự giải phóng. Thủ lĩnh của phong trào giải phóng đó là Chandragupta, người sáng lập ra Vương triều Mô-ri-a, một trong những vươn triều lớn mạnh nhất của Âún độ cổ đại. Theo các sử liệu nói trên thì tình hình kinh tế của Ấn độ thời vương triều Mô-ri-a đã phát triển thêm một bước. Ngoài những vùng rừng rậm còn chiếm một phần đất đai khá lớn, những miền các lưu vực các con sông lớn đều được được khai thác thành những khu vực nông nghiệp trú phú. Trên cơ sở nông nghiệp và thủ công nghiệp thành thị phát triển, thương nghiệp lúc này ở Ấn độ cũng phát đạt, đặc biệt ngành mậu dịch đối ngoại. Ấn độ đã có những quan hệ mậu dịch với Trung Quốc, Á Rập và các nước Trung Á, theo đường bộ lẫn đường biển. [B][COLOR="Blue"]4. Chế độ công xãû nông thôn ở ÂnÚ độ cổ đại [/COLOR][/B] Ðặc điểm quan trọng trong lịch sử phát triển của xã hội Ấn độ cổ đại là sự phát triển chưa thành thục của những quan hệ chiếm hữu nô lệ đó là tính chất kiên cố của tổ chức công xã nông thôn ở ÂnÚ độ, một hình thái tổ chức kinh tế, xã hội cơ bản của quần chúng dân tự do. Ðặc trưng của chế độ công xãnông thôn ở Ấn độ là sự kết hợp chặt chẽ giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp gia đình làm cho công xã biến thành một đơn vị kinh tế độc lập. Hầu hết sản phẩm làm ra đều nhằm phục vụ trực tiếp cho việc tiêu dùng của công xã, mà không đem đi bán. Mỗi một công xã đều có khả năng tự túc về đại bộ phận các tư liệu tiêu dùng, lương thực cũng như sản phẩm thủ công, do đó liên hệ rất ít với công xã kháchoặc với các thành thị. Ðiều đó đã làm cho những quan hệ hàng hóa, tiền tệ phát triển rất chậm chạp trong nước. Công xã nông thôn Ấn Ðộ không phải là một đơn vị kinh tế độc lập, mà còn là một đơn vị tổ chức xã hội, một đơn vị hiình chính có quyền tự trị. Nhà nước hầu như không hề can thiệp vào nội bộ của công xã, mà công xã cũng không hề quan tâm gì đến vận mệnh của nhà nước. [B][COLOR="Blue"]III. ÐẾ QUỐC MÔ-RI-ATHỜI ÐẠI ACOKA 1. Chế độ chính trị thời đương triều mô-ri-a. [/COLOR][/B] Ngay từ trước khi các quốc gia chiếm hữu nô lệ ở lưu vực sông Hằng thống nhất tại thành quốc gia Ma-ga-đa rộng lớn dưới vương triều Mô-ri-a, đại đa số các quốc gia đó thực hành nền quân chủ chuyên chế theo kiểu phương Ðông. Dưới thời đế quốc Mô-ri-a, chế độ chuyên chế đó lại càng phát triển cao hơn [B][COLOR="Blue"]2. Thời đại Acoka - Sự truyền bá đạo phật. [/COLOR][/B] Thời kỳ thịnh vượng nhất của đế quốc Mô-ri-a là tương đương với thời thống trị của vua Acoka: 273-237 tr.c.n., cháu của San-dra-gup-ta. Lịch sử gắng liền sự hùng mạnh của đế quốc Mô-ri-a với tên tuổi của Acoka một trong những ông vua nổi tiếng trong lịch sử Ấn Ðộ cổ đại. Có hơn 30 bả khắc trên đá nói rõ tình hình đế quốc Mo-ri-a dưới đời Acoka; đó là những chiếu chỉ, sắc lệnh của ông khắc trên vách đá, trên côt trụ bằng đá trong các hang động, các chùa chiền. Dưới đời AcoKa, đạo Phật đã được tôn làm quốc giáo. Nhà vua ra sức truyền truyền bá đạo Phật ra nước ngoài. Ở thế kỷ thứ III trước công nguyên, đạo Phật đã được truyền bá rộng rãi ở Xây-lan, Miến-diện, Thái-lan, Mã- lai và In- đô- nê-xi-a. Về sau khoảng thế kỷ đầu của công nguyên, đất nước Ân độ bị chia cắt thành nhiều công quốc phong kiến. Ðạo phật ở Ấn Ðộ lúc này bị đạo Bà La Môn bài xích. Ðề thích ứng với điều kiện lịch sử mới, đạo Bà La Môn từ đó dần dần cải biến thành đạo Hindu tức Ấn Ðộ giáo. Ðạo phật ở Ấn độ dần dần suy yếu, phải nhường địa vị ưu thế cho đạo Hindu. Nhưng ở ngoài biên giới Ấn độ, tại các nước Ðông Á thì đạo phật lại đang trong thời kỳ hưng thịnh. [B][COLOR="Blue"]3. Sự suy vong của đế quốc Mô-ri-a [/COLOR][/B] Mặc dầu vua A-xô-ka có những cố gắng lớn để củng cố sự thống nhất quốc gia, đế quốc Mô-ri-a trước sau vẫn không phải là một quốc gia thống nhất vững chắc, mà là một quốc gia liên hiệp nhiều công quốc và nhiều bộ lạc có trình độ phát triển kinh tế, văn hóa rất chênh lệch nhau, không có liên hệ kinh tế xã hội bền chặt. Bởi vậy, ngay sau khi vua A-xô-ka chết, năm 236 trước công nguyên, đế quốc Mô-ri-a bắt đầu suy sụp. Ðến năm 187, vương triều mô-ri-a bị lật đổ. Một vương triều mới, vương triều Shunga, ra đời (187-73 trước công nguyên). [B][COLOR="Blue"]E. TRUNG QUỐC I. XÃ HỘI TRUNG QUỐC THỜI NGUYÊN THUỶ 1. Ðiều kiện thiên nhiên và cư dân ở Trung Quốc thời cổ. [/COLOR][/B] Nước Trung Quốc vĩ đại ngày nay, dất rộng người đông, về thời thượng cổ, chỉ chiếm một dải dất tương đối hẹp, người thưa, nằm ở vùng hạ lưu hai con sông Hoàng Hà và Trường Giang. Hai con sông này đã giữ một vai trò trọng yếu trong đời sống của người Trung Quốc từ thời xa xưa. Ðặc biệt là sông Hoàng Hà, nước lũ dâng lên cao, nhiều lần làm thay đổi cả dòng sông, gây nên thủy tai khủng khiếp. Nhưng mặt khác, đất phù sa do hai con sông bồi đắp thành một miền đồng bằng rộng lớn, phì nhiêu, rất thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp. Căn cứ vào kết quả các cuộc khai quật khảo cổ do giao sư Bùi Văn Trung, tiến hành trong khoảng từ năm 1927 đến năm 1937, ở vùng Chu-khẩu-điếm, phía tây Nam Bắc Kinh, người ta biết rằng độ 60 vạn năm về trước, trên lãnh thổ Trung Quốc đã có loài người sinh sống và lao động. Ðó là giống người vượn Trung quốc (sinanthropus), cũng còn gọi là người vượn Bắc kinh. [B][COLOR="Blue"]2. Những Truyền thuyết về Hoàng Ðế và Nghiêu, Thuấn, Vũ. [/COLOR][/B] Vào khoảng cách đây chừng năm hoặc sáu nghìn năm, tổ tiên người Trung Quốc đã biết cải tiến công cụ lao động. Người ta đã phát hiện ra hai nền văn hòa quan trọng vào cuối thời đại đồ đá mới, trên lưu vực Hoàng Hà, nền văn hóa Ngưỡng thiều và nền văn hóa Long Sơn. Hai nền văn hóa trên phản ảnh được tình hình phát triển của sức sản xuất, tình hình sinh hoạt vật chất của người Trung Quốc sống ở giai đoạn cuối của xã hội thị tộc. Những truyền thuyết cổ đại Trung quốc về Tam hoàng, Ngũ đế có nhiều ý nghĩa lịch sử đối với giai đoạn công xã thị tộc này. Tục truyền rằng Hoàng đế, tổ tiên lỗi lạc của nhân dân lưu vực Hoàng Hà. Theo thuyết truyền, rất nhu\iều sáng chế, phát minh quan trọng của Trung Quốc cổ đại đều quy vào Hoàng Ðế, như việc làm nhà cửa, may quần áo, đóng xe, đóng thuyền, trồng dâu, nuôi Tầm, dệt vải. Nuôi tầm lấy tơ là một cống hiến lớn lao của nhân dân lao động Trung Quốc cho nền văn hóa thế giới. Một phát minh quan trọng nữa ở thời Hoàng đế và chữ viết. Sau Hoàng đế, trải qua mấy đời, có ba vị thủ lĩnh kế tiếp nhau đứng đầu liên minh bộ lạc: đó là Nghiêu, Thuấn, Vũ. Thời kỳ Nghiêu, Thuấn, Vũ là thời kỳ tan ra của xã hội thị tộc ở Trung quốc [B][COLOR="Blue"]II. SỰ RA ÐỜI NHÀ NƯỚC CHIẾM HỮU NÔ LỆ TRUNG QUỐC. NHÀ HẠ - NHÀ THƯƠNG 1. Sự thành lập nhà Hạ. Sự hưng khởi nhà Thương [/COLOR][/B] Nhà Hạ thành lập vào khoảng thế kỷ XXI trước công nguyên. Nhà Hạ mở đầu xã hội chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc. Thế kỷ XVII trước công nguyên, vua cuối cùng của nhà Hạ là Kiệt cùng với bọn quý tộc nhà Hạ, vựa vào vũ lực, bạo ngược vô đạo, bóc lột nhân dân rất tàn khốc. Thời bấy giờ, có bộ lạc Thương ở hạ lưu Hoàng Hà, dưới sự lãnh đạo của người thủ lĩnh của minh là Thành Thang, đã dần dần lớn mạnh lên, rồi lần lượt đánh bại các bộ lạc liên minh với Hạ, sau đó lại tấn công vua Kiệt nhà Hạ. Khoảng thế kỹ XIV trước công nguyên, vua Thương là Bàn Canh dời đô đến đất Ân (thuộc tỉnh Hà Nam bây giờ). Do đó về sau, nhà Thương vẫn còn gọi là nhà Ân Thương. [B][COLOR="Blue"]2. Sinh hoạt kinh tê, xã hội, văn hoá đời Thường: [/COLOR][/B] Khoảng năm 1899, tại huyện An-Dương thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay, người ta đã tìm thấy rất nhiều mai rùa và xương thú có khắc chữ ở di tích Ấn Khư, kinh đô của nhà Ân. Những bản ghichép đó gọi là Văn Lư giáp cốt (có nghĩa là chữ khắc trên xương thú hoặc mai rùa). Qua đó, người ta có thể phán đoán được một cách tương đối chính xác những nét lớn về tình hình sinh hoạt xã hội đời Ân - Thương. Thời Ân - Thương, nông nghiệp trở thành ngành sản xuất chủ yếu trong xã hội. Thời bấy giờ, việc đúc đồ đồng thau đã đạt tới trình độ kỹ thuật cao. Người ta đã thấy sinh hoạt bất bình đẳng giữa các giai cấp trong xã hội chiếm hữu nô lệ thời Thương. Trong mộ của qui tộc, chôn theo rất nhiều đồ tùy táng,, cả nô. Trong mộ nô lệ thì không có gì vì người ta cho rằng nô lệ chết rồi cũng vẫn là nô lệ, chỉ mang theo hai bàn tay trắng để làm việc cho chủ nô quý tộc đã chết. Người thời Thường tin vào sức mạnh của tự nhiên, cho rằng nó có thể đem lại đều lành, điều dữ cho họ. Quí tộc tế trời, đất núi, sông, đặc biệt tế thần sông Hoàng Hà. Tóm lại, những di tích phát hiện ở Ân Khư cho chúng ta biết rằng ở thời Ân - Thương, xã hội Trung Quốc là một Xã hội chiếm hữu nô lệ tương đối phát triển và nền văn hóa Ân - Thương, cũng gọi là văn hóa Ân Khư, là một nên văn hóa đặt cơ sở vững chắt cho sự phát triển của xã hội Trung quốc về sau này. [B][COLOR="Blue"]III. TÂY CHU 1. Sự hình thành nhà Tây Chu [/COLOR][/B] Ở phía tây đồng bằng Hoa Bắc rộng lớn, thời bấy giờ tại lưu vực sông Kinh và sông Vị thuộc tỉnh Thiểm-tây ngày nay, co bộ tộc Chu đã sống lâu đời ở đây. Ðó là một vùng cao nguyên có chất đất vàng phì nhiêu, rất thuận lợi cho tộc Chu phát triển nghề nông của mình. Trong lúc bộ tộc Chu đang lớn mạnh không ngừng, thi mâu thuẫn trong nội bộ nhà Ân - Thương ngày càng sâu sắc. Vua cuối cùng của nhà Ân - Thương là Trụ Vương, một tên bạo quân nổi tiếng bóc lột nhân dân rất tàn khốc. Thủ lỉnh người Chu là Chu Văn Vương được sự ủng hộ của bộ tộc mình , thừa cơ nhà Thương suy yếu, phát triển thế lực về phía đông đánh chiếm nhiều đấ đai của nhà Thương. Con của Chu Văn Vương là Chu Vũ Vương tấn công kinh đô nhà Thương. Diệt xong nhà Thương, Chu vũ Vương đóng đô ở Hạo Kinh ( phía Tây thành phố Tây An ngày nay), và dựng lên nhà Chu, trong lịch sử gọi là Tây Chu. [B][COLOR="Blue"]2. Sự thống trị của nhà Chu: [/COLOR][/B] Sau khi đông chinh thắng lợi, vua nhà Chu đã thực hành một số biện pháp nhằm tăng cường nền thống trị của mình ở miền Ðông. Trước hết, vua nhà Chu quyết định xây nhiều thành quách ở miền Ðông để tăng cương sức khống chế đối với người Ân. Nhà Chu cho xây dựng Lạc ấp (thuộc Hà Nam ngày nay) theo qui mô lớn. Ðể củng cố nền thống trị của mình, hoà hoãn mâu thuẫn nội bộ, vua nhà Chu đã phân phong cho anh em, họ hàng và công thần làm chư hầu để họ dựng nước và trị dân ở các nơi, hình thành một số chư hầu như nước Lỗ, nước Tấn, nước Yên, nước Tề... là một chế độ thống trị dựa trên cơ sở quan hệ huyết thống của dòng họ, gọi là chế độ tông pháp. + Về kinh tế: Thời Tây Chu tồn tại chế độ tỉnh điền. Chế độ tỉnh điền là chế đô chiếm hữu và sử dụng ruộng đất đã có từ trước, đến thời Tây chu mới được mở rộng. Ðồng thời đó cũng là một chế độ nghĩa vụ quân sự. + Về xã hội: xã hội thời Chu những giai cấp bị áp bức bóc lột là nô lệ và nông dân công xã. Quý tộc thời Tây Chu có đủ các đặc quyền, đặc lợi. Lập được chiến công hay có công lao gì khác, thì họ thường được vua nhà Chu hay chư hầu ban thưởng ruộng đất và nô lệ. Quý tộc bóc lột nông dân công xã và và nô lệ rất nặng nề. [B][COLOR="Blue"]3. Sự suy vong của nhà Tây Chu [/COLOR][/B] Ðến đời Chu Lê Vương, mâu thuẫn trong nội bộ nhà Chu càng thêm sâu sắc. Kết quả là năm 841 trước công nguyên nhân dân dưới sự lãnh đạo của quý tộc tên là Công Bá Hòa, tấn công cung điện nhà vua, đuổi Lê vương, cử ra một hôi nghị quí tộc tạm thời chấp chính, thay thế vua. Trong lịch sử thời đó gọi là thời "cộng hòa", tồn tại trong 14 năm (841-828 trước công nguyên). Ðến năm 827 trước công nguyên, sau khi Chu Lê Vương chết, con là Tuyên vương khôi phục lại được ngôi vua thì cuộc đấu tranh trong nội bộ nhà vua mới tạm dứt; nhưng chiến tranh lại xảy ra giữa nhà Chu với các tộc ngoài biên cương phía Tây và phía Bắc, chủ yếu là với các tộc, Nghiễm Doãn, Tây, Nhung, làm tiêu hao mất nhiều nhân lực, vật lực trong nhân dân và làm cho mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ nhà Chu lại trở nên gay gắt. Tình hình chinh chiến đó làm cho sức sản xuất trong nước bị đình đốn một cách nghiêm trọng; xã hội phân hóa một cách kịch liệt, vàmâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt. Năm 781 trước công nguyên, quân Tây Nhung công hãm Hạo Kinh, thiêu hủy kinh đô nhà Chu, bắt giết U Vương dưới chân núi Ly Sơn. Bọn thân hầu lập thái tử Nghi Câu lên làm vua, hiệu là Chu Bình Vương (771 trước công nguyên). Căn cứ đị Thiểm Tây của nhà Chu đã ở vào tình thế bị Nghiễm Doãn và Tây nhung uy hiếp mạnh, nên năm sau, Chu Bình Vương phải dời đô sang Ðông, đến Lạc- ấp (Lạc dương, tỉnh Hà-nam bây giờ), đem căn cứ địa phía Tây tặng cho một quý tộc, là Tần Tướng Công. Sau khi nhà Chu dời đô sang Ðông thì sử gọi là Ðông Chu. Từ đó lịch sử Trung quốc bước vào thời đại mới: Thời Xuân thu -Chiến quốc. [B][COLOR="Blue"]IV. THỜI KỲ XUÂN THU - CHIÊN QUỐC THỜI KỲ XUÂN THU (770-475 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN) [/COLOR][/B] Từ khi Chu Bình Vương dời đô sang Lạc-ấp năm 770 cho đến năm 475 trước công nguyên là thời kỳ Xuân Thu : [B][COLOR="Blue"]1. Sự phát triển của sức sản xuất hiện chế độ tư hữu về ruộng đất:[/COLOR] [/B] Từ thời Xuân thu trở đi, công cụ sản xuất nói chung, nhất là nông cụ, đều làm bằng sắt.. Việc sử dụng công cụ bằng đất trong sản xuất nông nghiệp không những tạo điều kiện thuận lợi mới cho việc khai khẩn đất hoang, mà tạo điều kiện mới cho việc nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp. Do đó dần dần người ta thấy không cần thiết chia ruộng đất theo định kỳ, chế độ tỉnh điền dần dần tan rã. Chế độ tư hữu về ruộng đất xuất hiện và ngày càng phát triển. [B][COLOR="Blue"]2. Cục diện Ngũ bá thời Xuân Thu[/COLOR]. [/B] Ðến thời Xuân thu, nhiều nước chư hầu mượn tiếng ủng hộ địa vị tông chủ của nhà Chu, đề ra khẩu hiệu "tôn vương, bài Dị" để mở rộng thế lực và đất đai, thay nhà Chu chiếm lấy bá quyền. Vì thế các chư hầu gây chiến tranh thôn tính liên miên. Mở đầu thời kỳ các nước lớn tranh nhau bá quyền. Các nước ở miền Sơn -đông thì bị Tề thôn tính; các nước ở miền Tây-bắc thì bị Tần thôn tính; các nước ở miền Giang, Hán, Hoài, thì bị Sở thôn tính. Những nước chưa bị thôn tính cũng rất suy nhược, nhưng chỉ vì chúng ở vào thế hoãn xung giữa các nước các nướcclớn nên tạm thời giữ lại. Vì thế, nếu đầu thời Chu có vào khoảng trên dưới một nghìn nước chư hầu, thì đến thời Xuân thu chỉ còn lại hơn trăm nước, và tương đối lớn thì chỉ có 14 nước: Tần, Tấn, Tề, Sở, Lỗ, Vệ, Yên, Tào, Tống, Trần, Thái, Trịnh, Ngô, Việt, trong đó lớn mạnh nhất là Tề, Tấn, Tần, ở, Tống, về sau có Ngô và Việt. [B][COLOR="Blue"]3. Ðời sống của nhân dân.[/COLOR][/B] Thời kỳ Xuân-thu, các nước lớn không ngừng gây chiến tranh cướp đoạt các nước nhỏ. Ðể thỏa mản tham vọng các nước lớn dùng phương pháp "triều sính" và "minh hội". "Triều sính" là nước lớn cưỡng bức nước nhỏ phải cống nạp sản vật cho mình. "Minh hội" là các nước lớn hội nghị với nhau dể bàn cách giải quyết vấn đề cống nạp của các nước nhỏ. Lúc bấy giơ,ì nhân dân nghèo khổ, đói kém, buộc phải vay nợ của bọn quý tộc, nhà giàu cho vay nặng lãi, nên đời sống rơi vào cảnh cùng cực. Tình hình nước Tề,"tam lão (thường dân)chết đói chết rét"; tình hình nước Tấn, "thấy chết đói đầy đường". Tấn, tề là những nước lớn mà nhân dân còn như thế thì tình cảnh ở các nước nhỏ lại càng bi thảm biết dường nào! [B][COLOR="Blue"]THỜI CHIẾN QUỐC (475-221 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN) [/COLOR][/B] [B][COLOR="Blue"]1. Sự Phát triển kinh tế thời chiến quốc. [/COLOR][/B] Trong thời chiến Quốc, ngoài cuộc đấu tranh thường xuyên xảy ra giữa các nước, trong từng nước cũng luôn xảy ra những cuộc đấu tranh giữa các bọn quý tộc với nhau để tranh giành đất đai và quyền thống trị nhân dân. Ở nước Tấn, năm 403 trước công nguyên, có ba dòng họ lớn là Hàn, Triều, Ngụy chia nhau đất nước, rồi không bao lâu phế truất vua Tấn. Lúc đó Trung Quốc đã bước vào thời kỳ Chiến Quốc. Bấy giờ chỉ còn lại bảy nước lớn và một số ít nước nhỏ. Trong số bảy nước lớn, thì Tề, Sở, Yên, Tần, đã có từ thời Xuân Thu; Hàn, Triệu, Ngụy, là những nước mới tách ra từ nước Tấn. Bảy nước đó tạo thành cục diện Thất hùng thời Chiến quốc. Thời Chiến quốc, Trung Quốc có những biến đổi lớn lao hơn về mặt kinh tế. Ðặc biệt, nghề luyện sắt và kỹ thuật luyện sắt phát phát triển cao hơn, và đồ dùng bằng sắt được phổ biến rộng rãi hơn so với thời Xuân thu. Ðể đáp ứng nhu cầu phát triển thương nghiệp, các thành thị lớn đều tự chế ra tiền tiền tệ kim loại đã xuất hiện thời Xuân thu, đến thời Chiến quốc đã thịnh hành. Những thương nhân lớn có thế lực về kinh tế, thường có nhiều tham vọng chính trị. Ví như nhà buôn lớn Lã bất Vi đã tung của cải ra để thao túng chiïnh quyền nưới Tần, hay như Mạnh Thường Quân, Quý tộc nước Tề, làm nghề cho vay nặng lãi, đã đưa vào thế lực tiền tài để củng cố quyền chình trị của mình. Thời Chiến quốc,tuy sản xuất nông nghiệp bị chiến tranh phá hoại rất nghiêm trọng, nhưng nhờ việc sử dụng phổ biến nông cụ bằng sắt nên nói chung, công tác thủy lợi và việc canh tác nông nghiệp ở các nước đều có phát triển trong chừng mực nhất định. [B][COLOR="Blue"]2. Những biến đổi lớn trong thời Chiến quốc:[/COLOR] [/B] Thời Chiến quốc, chiến tranh còn nhiều hơn, quy mô lớn hơn và tàn khốc hơn thời Xuân thu. Hồi ấy kẻ sĩ là tầng lớp hoạt động sôi nổi nhất về chính trị. Tầng lớp sĩ có tri thức văn hóa, có kinh nghiệm đấu tranh chính trị và thủ đoạn chính trị nhân dân hoặc có tài thuyết khách và tài thao lược nên vua chúa và quý tộc vào thời bấy giờ đã dời họ về làm quan lại, tướng tá,. Mưu sĩ hay "thực khách". Do sự phát triển của sức sản xuất, sự phát triển của kinh tế hàng hóa, do chiến tranh loạn lạc xảy ra liên miên, tổ chức công xã nông thôn (chế độ tỉnh điền) bị phá hoại. Trong thôn xã có sự phân hóa giai cấp mạnh mẽ, một số nhỏ nông dân giàu có trở thành địa chủ, phú nông, đa số nông dân mất ruộng đất, phải đi cấy rẽ, cày thuê, trở thành tá điền, cố nông. Quan hệ sản xuất phong kiến nông nô xuất hiện và dần dần chiếm ưu thế trong nông nghiệp. Nô lệ từ nay thu hẹp trong sản xuất thủ công, hầm mỏ và phục vụ trong nhà. Thời Chiến quốc những sự biến đổi lớn lao về kinh tế, xã hội và chính trị nói trên được phản ảnh trong phong trào "biến pháp", tức là phong trào cải cách được tiến hành ở nhiều nước. [B][COLOR="Blue"]3. Cải cách của Thương Ưởng và hưng thịnh của nước Tần. Nhà Tần thống nhất Trung Quốc. [/COLOR][/B] Trong Thất hùng thời Chiến Quốc, Tần là một nước tương đối lạc hậu. Ðến năm 362 trước công nguyên, Tần Hiếu Công lên ngôi, dùng Thương Ưởng, một nhà chính trị có tài, làm Tể tướng để thực hành cải cách, tích cực làm cho nước giàu, dân mạnh, mưu đồ cạnh tranh với 6 nước miền Ðông. Cải cách Thương Ưởng bị quý tộc nhà Tần phản đối dữ dội. Do Tần Hiếu Công thẳng tay đàn áp mọi sự phản kháng, cải cách Thương Ưởng mới được tiến hành thuận lợi. Cải cách của Thương Ưởng đã đặt cơ sở vật chất cho nước Tần thống nhất Trung Quốc. Sự cường thịnh của nước Tần ngày càng uy hiếp dữ dội 6 nước miền Ðông. Năm 246, trước công nguyên, vua Tần là Doanh Chính lên ngôi. Bây giờ lãnh thổ của nước Tần đã rộng lớn, Tần tự thấy đã có đầy đủ lực lượng để thực hiện âm mưu chinh phục 6 nước. Chỉ trong vòng 10 năm từ năm 230-221 trước công nguyên - nước Tầnnđã lần lượt tiêu diệt 6 nước: Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên và Tề, thống nhất lãnh thổ Trung Quốc, chấm dứt tình trạng hỗn chiến lâu dài thời Xuân thu - Chiến quốc lập ra đế quốc Tần, đế quốc thống nhất đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Trung quốc. Việc nhà Tần thống nhất Trung Quốc là một việc phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội thời bấy giờ, bởi gì chỉ có thống nhất đất nước mới có thể chấm dứt tình trạng hỗn chiến lâu dài, mới có đủ sức mạnh chóng nội xâm, mới tạo điều kiện cho việc mở mang và thống nhất quản lý công trình thủy lợi nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp và công thương nghiệp trên qui mô toàn quốc, đem lại đời sống hòa bình, yên vui cho nhân dân. (Sưu tầm) [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cổ Đại ( Nguyên thủy - Thế kỷ V )
Lịch sử chiếm hữu nô lệ phương Đông cổ đại
Top