Lịch sử chế độ công xã nguyên thuỷ trên thế giới

Chị Lan

New member
LỊCH SỬ CHẾ ÐỘ CÔNG XÃ NGUYÊN THỦY TRÊN THẾ GIỚI
I. SỰ XUẤT HIỆN CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI

1.Tác dụng của lao động trong quá trình biến hóa từ vượn đến người


Căn cứ vào những thành tựu nghiên cứu của các ngành địa chất học, cổ sinh vật học và khảo cổ học, chúng ta biết rằng ở thời đại tối cổ, trên trái đất chưa có loài người. Sự xuất hiện loài người trên trái đất là, do sự tiến hóa của các giống động vật từ thấp lên cao. Bản thân loài người là một giống động vật cao cấp nhất. Chân lý ấy mãi đến thế kỷ XIX mới được nhà sinh vật học người Pháp Lamarck phát hiện ra.

Tiếp theo đó, ở Anh lại có nhà sinh vật học nổi tiếng Darwin ông khẳng định rằng: người là do một loài vượn cổ biến hóa thành. Tổ tiên của loài người là một loài vượn ngày xưa đã sớm tuyệt chủng. Tác phẩm naỳ lúc mới ra đời bị nhiều người công kích kịch liệt. Lamarck và Darwin đã vạch ra một cách đúng đắn nguồn gốc loài người vẫn chưa giải quýêt một cách thỏa đáng vấn đề vươn tiến lên người như thế nào? Bởi vậy phải đợi đến F.Ăng-ghen, chúng ta mới có được câu trả lới.

Ăng-ghen đã nêu cho chúng ta thấy động lực chân chính của sự biến hóa từ vượn đến người là lao động. Ông khẳng định: chính lao động đã sáng tạo ra bản thân con người.

2. Những bằng chứng khoa học về nguồn gốc của loài người

Quá trình từ vượn tiến lên người phát sinh từ lúc nào? Ở nơi nào? Ðối với vấn đề này, các nhà nhân loại học và khảo cổ học chưa đi đến một kết luận thật dứt khoát, nhưng theo sự suy đoán chung thì như sau:
Ba,bốn triệu năm về trước, ở miền rừng nhiệt đới châu Á và châu Phi, đã từng sinh sống một loài vượn cổ gọi là driopithèque, tổ tiên chung của loài người và loài vượn. Việc phát hiện ra xương hóa thạch của vượn driopithèque đã chứng minh một cách hùng hồn giả thuyết khoa học của Ða-uyn về nguồn gốc loài người là từ một loài vượn cổ mà ra, bởi vì lần đầu tiên nó cho ta một khái niệm cụ thể về hình dáng thực của loài vượn cổ, tổ tiên của loài người. Nhưng việc có ý nghĩa khoa học lớn hơn và gây hứng thú nhiều hơn đối với vấn đề tìm hiểu nguồn gốc loài người là việc phát hiện ở Nam Phi di cốt của một loài vượn cổ, gần với người hơn bất cứ loài vượn hình ngườinào màkhoa học đã biết đến, gọi là vượn Phương Nam (Australopithèque). Ðặc điểm chủ yếu của loài vượn cổ này đã biết đi hai chân theo tư thế thẳng đứng hoặc gần thẳng đứng, và đã biết dùng hai tay làm những động tác cầm nắm, vì loài vượn cao cấp này đã chuyển từ cuộc sống leo trèo trên cây đến cuộc sống trên mặt đất, và đang trong quá trình tách khỏi giới động vật.

Các nhà khảo cổ học đã tiến hành khai quật, và tìm thấy ngày càng nhiều xương hóa thạch của nhiều giống loài vượn, tổ tiên trực tiếp của người hiện nay: người vượn Ja-va, người vượn Bắc-Kinh, người Heidelberg, người Néanderthal, người Cro-Magnon, người Sơn Ðỉnh Ðộng, v.v...

II. BẦY NGƯỜI NGUYÊN THỦY VÀ SỰ XUẤT HIỆN CHẾ ÐỘ THỊ TỘC

1.Bầy người nguyên thủy ở thời đại đồ đa cũ sơ kỳ


Việc tìm được những di cốt hóa thạch của người Pithécanthropus cũng gọi là người vượn Ja-va phát triển cao hơn loài vượn Phương Nam là một thành tựu lớn của nền khoa học cuối thế kỷ XIX. Người vượn Ja-va, được coi là người nguyên thủy cổ nhất mà người ta được biết, là do một bác sĩ người Hà Lan tên là (E.Dubois) phát hiện, trên đảo Ja-va (Inđonesia) vào những năm 1891- 1893.

Giống người vượn trung gian kế tiếp người Pithécanthropus là người Sinanthropus cũng gọi là người vượn Trung Quốc hay người vượn Bắc Kinh do nhà khảo cổ học người Trung Quốc Bùi Văn Trung phát hiện từ năm 1921 ở vùng Chu-khẩu-điếm, phía tây nam Bắc Kinh.

Người Heiđelberg được phát hiện năm 1907 ở vùng Heiđelberg (Tây Ðức) cũng là một giống người vượn gần gũi với người Bắc Kinh và là một trong những giống người xưa nhất sống ở lục địa Châu Âu.

Ở thời kỳ bầy người nguyên thủy, công cụ lao động tiêu biểu là những hòn đá cuội được ghè đẽo qua loa, hình dáng rất thô kệch, những mảnh tước tách từ hạch đá, những chiếc rìu tay hình bầu dục hoặc hình hạnh nhân. Kỹ thuật chế tác công cụ rất thô sơ. Năng suất lao động rất thấp kém. Nạn đói thường xuyên đe dọa.

2. Sự xuất hiện người kiểu hiện đại và sự hình thành xã hội thị tộc mẫu hệ ở thời đại đồ đá cũ hậu kỳ

Thời kỳ bầy người nguyên thuỷ tương đương với thời đại đồ đá cũ sơ kỳ, thời sinh sống của các giống người vượn Heiđelberg, Sinanthropus Néanđerthaal. Bước sang thời đại đồ đá cũ hậu kỳ thì có thể nói quá trình biến hóa từ vượn đến người đã kết thúc. Lúc bấy giờ đã xuất hiện người kiểu hiện đại-cũng gọi là người khôn ngoan hay người homo-sapien - hoàn tòan giống với người ở thời đại chúng tavề cấu tạo cơ thể củng như về hình dáng bên ngoài.

Thời kỳ xuất hiện người kiểu hiện đại cũng là thời kỳ bắt đầu hình thành các chủng tộc do những điều kiện thiên nhiên của cuộc sống của con người trong thời đại nguyên thuỷ và do sự cư trú phân tán của họ trên trái đất tạo nên.

Qua sự nghiên cưú của các nhà nhân loại học ,người ta phân biệt ba chủng tộc lớn:

Ðại chủng tộc Australo-Negoit hay đại chủng Xích đạo ,ví như những người da đen châu Phi ,những người thổ dân châu Ðại dương

Ðại chủng tộc Ơrôpêoit hay đại chủng Âu-Á , ví như các dân tộc ở châu Âu, Bắc phi, Tiền Á, Bắc Ấn...

Ðại chủng tộc Mongoloit hay đại chủng Á-Mỹ, ví như các dân tộc ở Trung Á, Bắc Á, Ðông Á và Nam Á,thổ dân châu Mỹ người In-đi-an.

Sau hậu ky thời đại đồ đá cũ, loài người đã tiến thêm một bước dài hơn. Những di tích khảo cổ học thuộc thời kỳ này chứng tỏ một trạng thái phát triển mạnh mẽ về mọi mặt: kỹ thuật sản xuất, sinh hoạt kinh tế, tổ chức xã hội và hình thái ý thức.

Lúc này do yêu cầu phát triển của sức sản xuất, bầy người nguyên thủy với mối quan hệ lỏng lẻo, không bền vững cuả nó được thay thế bằng tổ chức xã hội chặt chẽ hơn, ổn định hơn: tổ chức công xã thị tộc ra đời. Công xã thị tộc là một tập đoàn lớn hơn, đông hơn bầy người nguyên thủy, có thể gồm vài chục đến vài trăm người, sống thành từng gia đình, gồm lớp cha mẹ và con cái, anh chị em ruột thịt. Nhiều thị tộc có quan hệ dòng máu xa gần hợp thành một bộ lạc.

III. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ÐỘ THỊ TỘC MẪU HỆ Ở THỜI KỲ ÐỒ ÐÁ MỚI.

1. Sự phát triển của công cụ lao động và sự xuất hiện nghề chăn nuôi và nghề nông nguyên thuỷ


Sang thời đại đồ đá mới (khoảng 6000 năm trước công nguyên), con người hoàn toàn sống trong những điều kiện khí hậu, động vật và thực vật của thời hiện đại. Bên cạnh các công cụ đồ đá ghè đẽo của thời đại trước, công cụ lao động tiêu biểu cho thời đại này là với kỹ thuật mài nhẵn. Ngoài ra, kỹ thuật khoan lỗ và cưa cũng đã có . Thời đại đồ đá mới cũng được đánh dấu bằng sự xuất hiện hai ngành tiểu công nghệ đầu tiên của loài người là nghề làm đồ gốm nghề dệt vải. Bên cạnh các nghề săn bắn, đánh cá và hái lượm, người thời đại đồ đá mới bắt đầu biết và nông nghiệp dùng cuốc. Ðiều này càng củng cố thêm sự và nữ đã có từ thời đại đồ đá cũ . Săn bắn và chăn nuôi là công việc của người đàn ông. Người đàn bà lo việc hái lượm ,trồng trọt, chăm nom công việc gia đình, trong đó có việc làm đồ gốm và dệt vải .

2. Sự phát triển của chế độ công xã thị tộc mẫu hệ


Chế độ mẫu quyền là một giai đoạn phát triển lịch sử mà tất cả các dân tộc trên thế giới đều đã kinh qua. Nó đã tồn tại trong một thời gian rất dài . (khoảng từ 6 .000 đến 4.000 năm trước công nguyên ) . Người ta thường phân chia chế độ mẫu quyền thành hai thời kỳ khác nhau: và. Chế độ mẫu quyền tảo kỳ tồn tại từ hậu kỳ thời đại đồ đá cũ đến sơ kỳ thời đại đồ đá mới ,dựa trên kinh tế và nguyên thủy . Chế độ mẫu quyền phát triển tồn tại ở trung kỳ thời đại đồ đá mới.Lúc này người ta đã biết chăn nuôi gia súc và đã tiến tới nông nghiệp dùng cuốc. Chính nông nghiệp đã xác lập địa vị và vai trò trọng yếu của người đàn bà trong nền sản xuất xã hội lúc bấy giờ.

3. Hinh thái ý thức của xã hội nguyên thủy

Hình thái ý thức đầu tiên của loài người có thê ø nói là ngôn ngữ. Trên đây, chúng ta đã nói tư duy và ngôn ngữ sinh ra và phát triển gắn liền với việc tiến hành lao động tập thể

Tôn giáo cũng là một hình thái ý thức nảy sinh dưới chế độ công xã nguyên thủy, vào hậu kỳ thời đại đồ đá cũ. Lúc ấy, lao động sản xuất còn ở trình độ rất thấp kém. Con người cảm thấy mình bất lực trước thiên nhiên, sinh lòng mê tín thần linh, ma quỷ. Ðó chính là nguồn gốc và cơ sở của tôn giáo

Nghệ thuật cũng là một hình thái ý thức xã hội nảy sinh ở thời đại nguyên thủy, vào hậu kỳ thời đại đồ đá cũ. Nguồn gốc chung của nghệ thuật nguyên thủy là thực tiển lao động sản xuất của con người. Nó là hình thức biểu hiện nhận thức, tình cảm và tư tưởng của con người qua thực tiễn lao động, chứ không phải hoàn toàn về mục đích thẩm mỹ, vì nghệ thuật mà có sáng tác nghệ thuật. Nghệ thuật thời đó chỉ là do yêu cầu của đời sống thực tế mà có. Mục đích của nó là nhằm phục vụ sản xuất. Hội họa, điêu khắc, âm nhạc, ca hát, nhảy múa, trang sức, v.v...đều gắn chặt với sinh hoạt tập thể của mọi thành viên trong thị tộc.

IV. SỰ TAN RÃ CỦA XÃ HỘI NGUYÊN THỦY VÀ SỰ HÌNH THÀNH XÃ HỘI CÓ GIAI CẤP

1. Sự xuất hiện đồ kim loại. Sự phát triển của nghề chăn nuôi và nông nghiệp, của thủ công nghiệp và thương nghiệp


Trong suốt một thời gian rất dài, công cụ lao động của loài người chủ yếu là đồ đá. Công cụ đồ đá dù mỗi ngày một cải tiến, song cũng không đem lại năng suất lao động cao được. Về sau người ta phát hiện ra được kim loại. Công cụ làm bằng kim loại, lúc đầu là đồng nguyên chất, về sau là đồng thau, đem lại một năng suất không cao hơn hẳn so với công cụ đồ đá.

Công cụ đồ đá đồng xuất hiện vào khoảng đầu niên kỷ IV trước công nguyên. Nhưng nó không loại trừ công cụ đồ đá, mà ngược lại, công cụ đồ đá mới vẫn tiếp tục phát triển. Vì thế, người ta cũng gọi thời kỳ này là thời kỳ đá, đồng. Hầu hết các bộ lạc châu Á, châu Âu và Bắc Phi đều có trải qua thời kỳ đá, đồng.

Công cụ bằng sắt, xuất hiện và phát trển tương đối muộn, vào cuối thiên niên kỷ II, đầu thiên niên kỷ I trước công nguyên. Sắt có ưu thế rất lớn so với đồng.Sắt rất sẵn, người ta tìm thấy sắt ở nhiều nơi, sắt lại rất cứng, nếu thời kỳ đồ đồng thau chưa hoàn toàn loại trừ đồ đá, thì thời kỳ đồ sắt đã hoàn toàn loại trừ đồ đá và tiến tới loại trừ cả đồ đồng trong lĩnh vực công cụ sản xuất

Từ cuối thời kỳ đồ đồng bước sang thời kỳ đồ sắt, đã diễn ra sự phân công xã hội lớn lần thứ hai giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp.

Việc trao đổi sản phẩm giữa các bộ lạc chăn nuôi, nông nghiệp và thủ công nghiệp đã trở nên thường xuyên và đều đặn. Nền sản xuất để trao đổi đã ra đời thì đồng thời thương nghiệp cũng xuất hiện, không những trong nội bộ thị tộc và bộ lạc mà cả với bên ngoài nữa.

Do sự phát triển của thủ công nghiệp và thương nghiệp, những thành thị cổ đại, trung tâm của bộ lạc hoặc của liên minh bộ lạc, nơi tập trung sản xuất thủ công nghiệp và thương nghiệp, bắt đầu xuất hiện và đối lập với nông dân.Bấy giờ loài người đã đứng trước ngưỡng cửa của thời đại văn minh, thời đại xã hội phân chia thành giai cấp và nhà nước ra đời.

2. Sự chuyển biến từ chế độ công xã thị tộc mẫu hệ sang chế độ công xã thi tộc phụ hệ


Như trên đây đã nói, chế độ mẫu hệ chỉ tồn tại trên cơ sở một trình độ phát triển kinh tế và xã hội còn thấp kém. Sự phát triển cao hơn của nền sản xuất xã hội ở thời đại đồ kim loại đã đem lại những biến đổi mới trong xã hội và thay đổi địa vị của người phụ nữ.

Việc này xảy ra trước tiên ở các bộ lạc chăn nuôi. Việc chăn nuôi phát triển đã làm tăng thêm của cải cho gia đình và cho thị tộc, đời sống do đó được cải thiện nhiều hơn trước. Từ săn bắn sang chăn nuôi, công việc vẫn do đàn ông đảm nhiệm. So với kinh tế người đàn ông thì lúc này kinh tế của người đàn bà trở nên kém quan trọng. Người đàn ông bắt đầu có nhận thức về sự mâu thuẫn giữa địa vị thấp kém của mình với công lao ngày càng lớn của mình trong gia đình và thị tộc. Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, chỉ cần xóa bỏ huyết tộc theo họ mẹ và thừa kế mẹ,ü xác lập huyết tộc theo họ cha và quyền thừa kế cha. Chế độ mẫu quyền dần dần chuyển thành chế độ phụ quyền.

Chế độ hôn nhân đối mẫu đã chuyển sang chế độ gia đình một vợ một chồng. Quá trình hình thành gia đình một vợ một chồng lại gắn liền với quá trình phát sinh chế độ tư hữu, với quá trình phân hoá xã hội thành giai cấp.

3. Sự phát sinh chế độ nô lệ. Sự xuất hiện chế độ tư hưũ

Như đã nói trên, dưới chế độ cộng sản nguyên thủy, không có sự bóc lột, sự thống trị, sự nô dịch giữa người này hay tập đoàn này đối với người khác hay tập đoàn khác trong xã hội. Sở dĩ như thế là vì của cải là thuộc sở hưũ tập thể của thị tộc, bộ lạc, không ai nảy ra tư tưởng bóc lột người khác.

Bước sang thời kỳ xuất hiện đồ kim loại, do điều kiện sản xuất đã tiến bộ hơn, năng suất lao động trong các ngành cao hơn, lao động của mỗi người không những có thể đảm bảo được những nhu cầu tối thiểu cho đời sống của bản thân và con cái, mà còn có thể sản xuất dội hơn một ít nữa, có thể làm ra được một số sản phẩm thặng dư. Do đó ma có thể nảy sinh hiện tượng người bóc lột người tức là sự chiếm đoạt sản phẩm thặng dư do người khác làm ra. Từ đó người ta bắt đầu nghĩ đến cách bóc lột sức lao động của những tù binh bị bắt trong chiến tranh, họ đã biến thành nô lệ của thị tộc. Như vậy là chế độ nô lệ đã xuất hiện. Ðó là hình thức áp bức bốc lột đầu tiên giữa người với người, đồng thời đó cũng là một bước tiến lớn của lịch sử, vì sự boúc lột lao động của nô lệ có tác dụng đẩy mạnh sự tích lũy của cải cần cho sự phát triển cao hơn của nền sản xuất xã hội.

4. Sự hình thành xã hội có giai cấp - Sự xuất hiện nhà nước


Sự tích lũy của cải tư hữu ngày càng nhiều dưới hình thức ruộng tư, súc vật, hàng hóa hay tiền tệ làm cho sự chênh lệch về tài sản và về địa vị xã hội giữa các gia đình phụ hệ trong cùng một thị tộc hay giữa các thị tộc trong cùng một bộ lạc ngày càng rõ rệt. Dần dần xã hội thị tộc phân hóa thành lớp những người giàu và lớp những kẻ nghèo

Giai cấp xuất hiện thì mâu thuẫn giai cấp phát sinh và không ngừng phát triển ngày càng sâu sắc. Ðến một lúc nào đó, mâu thuận giai cấp không thể diều hòa được nữa thì giai cấp quý tộc giàu có đặt ra bộ máy nhà nước pháp làm công cụ thống trị để đàng áp sự phản kháng của nô lệ và dân nghèo.

Nhà nước xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử vào khoảng cuối thiên niên kỷ IV đầu thiên niên kỷ thứ III trước công nguyên. Ðó là những nhà nước cổ đại ở Ai Cập, ở Lưỡng Hà, ở Trung Quốc, ở Ấn Ðộ, v.v...
Nhìn chung mà nói, hình thái nhà nước xuất hiên đầu tiên là nhà nước chiếm hữu nô lệ, vì chế độ chiếm hữu nô lệ là hình thức bóc lột giai cấp đơn sơ nhất, thô bạo nhất. Trên cơ sở hình thái kinh tế - xã hội đó, loài người đã xây dựng một nền văn minh cổ đại rực rỡ.

(Sưu tầm)
 
chế độ chiếm hữu nô lệ chỉ có ở phương Tây, hai đế quốc Hy Lạp và La Mã là điển hình nhất. riêng ở TQ và VN thì không có chế độ này.
nếu ai phản đối thì mình sẽ giải thích sau.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top