Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Nhân Vật Lịch Sử
Lê Văn Duyệt-Người có số phận kỳ lạ
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Bút Nghiên" data-source="post: 16192" data-attributes="member: 699"><p><strong>IV. Tả quân với 2 trọng án thời nhà Nguyễn</strong></p><p></p><p>Trong dân gian râm ran truyền miệng rằng vào những ngày cuối đời, lúc thần hồn đã dần mê muội, miệng LVD thường nhắc đến tên 2 người: Nguyễn Văn Thành & Tống thị, chừng như trong ông vẫn còn day dứt về cái chết của 2 người này. </p><p></p><p>Dựa theo sách Đại Nam chính biên liệt truyện, xin lần lượt kể sơ qua cả 2 vụ việc: </p><p></p><p><strong>4. 1 Với vụ án Nguyễn Văn Thành </strong></p><p><strong></strong></p><p>Vào năm 1799, Nguyễn Văn Thành được làm Tiết chế, chỉ huy trận đánh vào thành Quy Nhơn do quân Tây Sơn đang nắm giữ. </p><p></p><p>Sách trên ghi: " Thành cùng Duyệt, cắm cờ trên bành voi để chỉ huy các tướng Tính Thành thích uống rượu. Lúc sắp vào trận, Thành lấy be rót uống, nhân thể rót mời Duyệt. Duyệt không uống, Thành nói: "Hôm nay trời rét, uống rượu cho thêm khí lực. Duyệt cười mà nói rằng: " Người nào nhút nhát mới phải mượn rượu để tăng khí lực. Trước mắt ta, nào có ai đáng mặt giỏi trận mạc để cùng đối địch, vậy cần gì phải dùng đến rượu?" </p><p></p><p>Thành nghe vậy thì thẹn và cũng kể từ đó, bắt đầu để bụng nuôi giận đối với Duyệt... " </p><p>Theo sách Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn của Phạm Khắc Hòe,nguyên Đổng lývăn phòng của vua Bảo Đại, do có điều kiện tiếp xúc với nhiều sử liệu trong cung, nên ông đã kể lại chuyện như sau: </p><p></p><p>"Thành cậy mình nhiều tuổi, văn võ song toàn nên thường tỏ ra xem thường Duyệt, vì Duyệt vốn là một hoạn hoan, lại thiếu học. Còn Duyệt thì cho rằng Thành, nơi chiến trường kém dũng mãnh mà hay lên mặt đàn anh, nên trong thâm tâm rất ghét Thành... " </p><p>Ông Phạm Khắc Hòe còn kể thêm, tuy họ ghét nhau nhưng vì Gia Long khéo dàn xếp nên hai "mãnh hổ" tạm sống chung rừng. </p><p></p><p>Mãi đến cuối năm 1815, Nguyễn Văn Tuyên, con Thành có làm bài thơ gửi cho bạn với lời lẽ hơi ngông cuồng, ý nghĩa khá mù mờ, trích 2 câu cuối: </p><p></p><p>"Sơn tể phen này dù gặp gỡ, </p><p>Giúp nhau xoay đỗi hội cơ này" </p><p></p><p>Không ngờ có người đầy tớ tên Hiệu lấy đưa cho Nguyễn Hữu Nghi xem, Hữu Nghi vốn có thù oán với Thành bèn xui tên Hiệu đi tố cáo với Duyệt. </p><p></p><p>Nhân cơ hội để ra đòn hiểm, Duyệt liền đem dâng lên vua với lời cáo buộc thơ có ý "mưu phản" để bắt giam Tuyên, rồi ngầm ra lệnh tra tấn phạm nhân rất dữ, nên con Thành đành nhận mình có ý đồ mưu phản... . </p><p></p><p>Thế là những phe cánh của Duyệt hùa nhau tố cáo loạn xị, khiến Thành phải chạy theo níu áo Gia Long kêu khóc: " Thần theo Bệ hạ từ nhỏ đến nay không có tôi gì, lẽ nào Bệ hạ ngồi yên để cho họ bày chuyện hại thần". </p><p></p><p>Nhà vua rứt áo bỏ đi, ra lệnh cấm không cho Thành vào chầu nữa... </p><p></p><p>Rồi Nguyễn Văn Thành phải uống thuốc độc tự tử và các con ông này tuy được Gia Long tha cho, nhưng đến khi Minh Mạng lên ngôi thì đều bị ghép vào án chết !... </p><p></p><p><strong>4. 2 Với vụ án Tống thị Quyên </strong></p><p></p><p>Năm Minh Mạng thứ năm (1824),có người bí mật tố cáo rằng Mỹ Đường thông dâm với mẹ ruột là Tống thị, vợ Thái tử Cảnh. </p><p></p><p>Lê văn Duyệt đem vụ việc này tâu lên rồi cũng chính ông được lệnh bắt Tống thị dìm nước cho chết , còn Mỹ Đường thì phải giao trả hết ấn tín & dây thao , đồng thời bị giáng xuống làm thứ dân , con trai con gái chỉ được biên chép phụ ở phía sau sổ tôn thất ... </p><p></p><p>Đây thực sự là một bi kịch không nhỏ ở chốn cung đình nhà Nguyễn. </p><p></p><p>Tuy không có bằng chứng nhưng qua cách hành xử của vua Minh Mạng (con dòng thứ) đối với dòng chánh, đáng lẽ ra họ phải được nối ngôi, thì mới thấy nhà vua đã tìm mọi cách để triệt hạ, trù dập con cháu Hoàng tử Cảnh như thế nào. </p><p></p><p>Xin trích theo sử nhà Nguyễn: </p><p></p><p>Năm Minh Mạng thứ bảy (1826) , Mỹ Thùy lại bị quân lính ở đạo Dực Chẩn kiện , sắp bị đưa cho đình thần nghị tội thì Mỹ Thùy bị bệnh mà mất , lúc ấy chưa có con cái gì. Vua cho lấy con trưởng của Mỹ Đường là Lệ Chung , tập phong làm Ứng Hòa Hầu để lo việc phụng thờ Anh Duệ Hoàng Thái Tử (tức Hoàng tử Cảnh ) ... </p><p></p><p>Tưởng bi kịch đến đó là hết, nào dè đến năm Minh Mạng thứ mười bảy (1836), vì sợ con cái của Lệ Chung nhờ cha mà hưởng phúc ấm , nên triều thần lại tiếp tục nghị tội , buộc con trai con gái của Lệ Chung là Lệ Ngân , Thị Văn, Thị Dao đều phải giáng làm thứ nhân . </p><p></p><p>Mãi đến năm Tự Đức thứ hai (1848), khi Mỹ Đường bị bệnh mất, dòng dõi của Hoàng tử Cảnh mới tạm yên ở phận dân thường </p><p></p><p><strong>Người soạn lạm bàn </strong></p><p></p><p>Qua nội dung hai vụ án trên, tôi thật sự băn khoăn vì sao một con người chánh trực, hết lòng ủng hộ dòng chánh; thế mà một hôm nghe ai đó tố cáo, rồi vội vàng tâu vua, người mà trong thâm tâm ông không hề ưa. </p><p></p><p>Để rồi chẳng có một cuộc điều tra hoặc một phiên xét xử nào, ông dễ dàng nhận lệnh, vội vàng "dìm" chết đi một con người; phải chăng cũng tức là ông đoạn tuyệt hẳn một chánh kiến, một phe phái mà ông đã từng tán đồng và ủng hộ?... </p><p></p><p>Bởi gian kế khiến ông lầm, hay chính vì miếng đỉnh chung mà ông chấp nhận thỏa hiệp?... </p><p></p><p>Còn với vụ án Nguyễn Văn Thành, nguyên là tổng Trấn Bắc Thành, chẳng qua nhân chuyện hai "mãnh hổ " không thể chung rừng, vua nhà Nguyễn ngầm ra tay "Điểu tận cung tàng"(chim bay cao hết, cung tốt vất bỏ), vì lo sợ công thần nắm giữ binh quyền quá lớn, dễ gây họa cho con cháu của nhà vua. </p><p></p><p>Nhân đây, ta cũng nên biết Nguyễn Văn Thành có thể ỷ mình là công thần nên đã có lời nói, làm đôi ba chuyện đối với nhà vua hơi quá mức; nên sau này Gia Long có đưa ra những lỗi này, để đình thần ghép thêm tội cho bề tôi thân thiết xưa. </p><p></p><p>Nhưng sâu xa hơn cả, chính là vì ông Thành làm như không biết ý vua đã quyết truyền ngôi cho Hoàng tử Đởm, tức vua Minh Mạng sau này; nên hễ mở miệng ra là cổ xúy cho dòng chính, rồi còn dám rủ rê các quan tụ tập ở nhà riêng, bàn chuyện xin vua lập Hoàng tôn Đán, tức con Thái tử Cảnh, lên ngối ngôi; thì bảo sao ông không bị dổn ép vào sát chân tường cho được. </p><p></p><p>Sử nhà Nguyễn ghi chỉ vì mấy câu "mời rượu" giữa 2 ông khiến nảy sinh hiềm khích nên mới có vụ án này; đấy là sử quan muốn che giấu thâm ý của nhà vua. </p><p></p><p>Tuy vậy, từ mấy câu "mời rượu" ta thấy gì? (Duyệt cười mà nói rằng: " Người nào nhút nhát mới phải mượn rượu để tăng khí lực. Trước mắt ta, nào có ai đáng mặt giỏi trận mạc để cùng đối địch, vậy cần gì phải dùng đến rượu). Rõ ràng Duyệt rất uất ức vì không được nhận lãnh cờ "tiết chế" "(quyền chỉ huy cao nhất), nên mới có mấy câu xấc xược, tỏ ý xem thường vị chỉ huy của mình. </p><p></p><p>Thâm sâu hơn, nó còn cho ta thấy trước sự cám dỗ quyền lực, ngay cả con người có nhiều đức tính tốt như Duyệt... cũng dễ dàng bị nó quyến dụ để rồi tình đồng chí, đồng đội, đồng cam khổ ngày nào phải nhanh chóng nhợt nhạt, úa phai... </p><p></p><p></p><p><strong>IV. Tạm kết bài</strong></p><p></p><p>Bản thân vốn là một cậu bé ít học, ham chơi; nhờ cơ may, nhờ thời thế mà thi thố bản lĩnh. </p><p></p><p>Là một người bị hoạn bẩm sinh, nhưng không vì thế mà mặc cảm, ông chỉ biết cống hiến hết tài năng, hết sức mình nên nhanh chóng trở thành đại tướng, mang ấn công hầu, làm "vương" một cõi, vua quan trong ngoài và cả lân bang đều phải nể trọng ... </p><p></p><p>Cả khi ông mất rồi, mộ bị san phẳng, bị xiềng xích ... Ấy vậy mà, người ta vẫn lén lút thờ cúng & hình ảnh ông luôn là vị thần hoàng hiển linh trong lòng dân tộc Việt lẫn Hoa . </p><p>Chắc có nhiều lý do, nhưng theo tôi, ai biết quên túi riêng để lo cho chuyện chung, nhất là làm sao cho dân hưởng được cuộc sống yên ổn, có được cơ hội để làm ra manh áo, chén cơm... thì sẽ được tôn Thần ! </p><p></p><p>Và biết đâu, nếu như triều đình Nhà Nguyễn có cái nhìn cởi mở, chính sách cai trị khôn khéo trong ngoài... như ông; thì rất có thể Việt Nam đã sớm trở thành một nước tiến bộ, giàu mạnh ngay từ buổi ấy. </p><p></p><p>Ngẫm lại, LVD thật vô cùng xứng đáng làm tấm gương để mọi người soi rọi rồi biết nói ít, làm nhiều; không vì lợi ích riêng mà quên dân, quên nước ... </p><p></p><p>------------------------------- </p><p>Tư liệu kèm theo bài : </p><p></p><p><strong><em>1. Gia Định: </em></strong></p><p></p><p>Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, vào năm Mậu Dần (1698) chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập phủ Gia Định, thời kỳ 1790-1802 còn là kinh Gia Định. Năm Nhâm Tuất (1802) vua Gia Long đổi thành trấn Gia Định; đến năm Mậu Thìn (1808) đổi ra thành Gia Định gồm năm trấn là Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên. </p><p></p><p>Năm 1832, sau khi Tả Quân Lê Văn Duyệt từ trần, chế độ Tổng Trấn Gia Định mới bị bãi bỏ. vua Minh Mạng đổi tên là thành Phiên An, năm trấn chia thành sáu tỉnh Phiên An, Biên Hòa Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Năm 1835, tỉnh Phiên An đổi tên là tỉnh Gia Định (tên gọi Nam kỳ lục tỉnh có từ lúc đó) </p><p></p><p><strong><em>2. Khu Đền thờ &Lăng mộ Tả quân: </em></strong></p><p></p><p>Nhà bia được xây dựng như một ngôi điện nhỏ, tường gạch, mái lợp ngói âm dương. Văn bia do Hoàng Cao Khải viết năm Giáp Ngọ 1894. Nội dung bia ca tụng công đức Lê Văn Duyệt đối với triều đình và nhân dân. </p><p></p><p>Phần mộ gồm hai ngôi mộ: Tả quân và vợ ông, bà Đỗ Thị Phận. Hai ngôi mộ đặt song song và được cấu tạo giống nhau, có hình dạng như nửa quả trứng ngỗng xẻ theo chiều dọc, úp trên bệ hình chữ nhật. Trước mộ có một sân nhỏ để làm lễ. Bao quanh mộ là một bức tường bằng đá ong hình chữ nhật, thông ra tận sân đốt nhang đèn. </p><p></p><p>Cách khu lăng mộ một khoảng sân rộng đến khu vực Thượng công linhmiếu, nơi diễn ra các sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân trong việc thờ cúng Lê Văn Duyệt... </p><p></p><p><strong><em>3. Những chuyện li kì trước khi Lê Văn Duyệt qua đời : </em></strong></p><p></p><p>3. 1.Bộ Đại Nam chính biên liệt truyện (sơ tập) đã dành hẳn cả hai quyển 22 và 23 để chép chuyện Lê Văn Duyệt. Thật đặc biệt là đoạn cuối của quyển 23 đã chép một số chuyện li kì xãy ra trước lúc Lê Văn Duyệt qua đời : </p><p></p><p>"Trước khi Tả quân bị bệnh, thành gia định không hề có gió lớn vậy mà cán cờ trong thành bỗng nhưng bị gãy . Hơn một tháng sau (lê văn ) Duyệt đi tuần ỏ biên cảnh, vừa ra ngoài thành thì con voi ông đang cởi tự nhiên phục xuống đất rồi rống rầm lên, đánh mấy nó không chịu đứng dậy, ông bèn phải dùng ngựa mà đi . (Lê văn)Duyệt lấy làm lạ... </p><p></p><p>Một hôm (Lê văn)Duyệt chuẩn bị cấp thưởng cho tướng sĩ, ông sai người nhà đem tiền để sẵn ra đây, chẵng dè vừa chợp mắt được một lúc thì tiền đã không cánh mà bay . Ông ngờ là có kẻ trộm nên ra lệnh tìm bắt rất gấp, bỗng ông thấy trên nóc nhà mình có người đang ngồi giữ đống tiền , thoạt trong giống như mô đất , bèn sai người bắt thang trèo lên bắt, nhưng lên đến nơi thì người giữ tiền đã biến mất mà đống tiền thì vẫn còn y nguyên . </p><p></p><p>Hôm khác ,có ông già vai đeo bầu ăn mặc ra vẻ dân quê, đến nói với người canh cửa : </p><p></p><p>-Hãy vào báo với lê tướng quân ,rằng có ta là cố nhân đến . </p><p></p><p>Người canh cửa lấy làm lạ,chạy vào báo với (Lê văn)Duyệt. Ông liền cho người ra . Đến bờ sông Bến Nghé thấy ông già ấy đang rửa bầu và nói rằng : </p><p></p><p>-Ta muốn đón tướng quân của mày đi tu tiên, nhưng mà tướng quân của mày không thể đi tu tiên được ... </p><p></p><p>Nói rồi thì phất phớ bay đi không biết về đâu, người canh cửa về báo lại . (Lê văn )Duyệt nói: </p><p></p><p>-Tiên thật à hay là ma muốn nhát ta đấy. Vài ngày sau Duyệt bị bệnh nhẹ rồi mất... </p><p></p><p>3. 2 Trích trong Sài Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển : </p><p></p><p>Về ngày quy thần của Lê Tả quân, ít người biết rành. Quyển Điều cổ hạkim thi tập của Nguyễn Liên Phong, soạn năm 1915, trang 27, ghi rằng: </p><p></p><p>"Ngài (Lê Văn Duyệt), tuy đau sơ sịa, song biết mình đại mạng dĩ định, bèn trối với Đỗ phu nhơn, nhưng cùng các tướng sĩ bộ hạ thì trối sơ vài lời vậy thôi. </p><p></p><p>Bước qua ngày ba mươi, tháng Bảy năm Nhâm Thìn (1832) ước chừng hai giờ khuya (giờ Sửu); ngài tắt hơi, thọ bảy mươi, hiện nay ngày Mồng một tháng Tám là ngày kỵ. </p><p></p><p>Lúc tắt hơi, thì bốn phía Xóm Chợ Đũi và nội làng Xuân Hòa, các quân lính đều ngó thấy sáng rực một đường dài lớn như cây lụa điều từ trong dinh bay xẹt ra, bay chậm chậm rồi phăng phăng bay lên hoài, trực chỉ mặt trời lặn hồi lâu biến mất. " </p><p></p><p>Người soạn bài này cũng rất lấy làm lạ là, đối với người Việt gốc Hoa, trong tâm linh, họ xem ông là một vị "phò mã", người theo đạo Cao Đài xem ông là một "tiên ông", còn người Việt xem ông là một vị Thần hoàng. </p><p></p><p>Càng lạ hơn nữa là sử sách chính thống của triều Nguyễn đã dành trọn 2 tập để nói về ông, rồi còn ghi luôn những câu chuyện nhuốm màu thần bí như vừa ghi trên. </p><p></p><p>Suy ngẫm, nếu không có những công trạng ấy, nhân cách ấy thì không thể nào được vậy... </p><p></p><p>4. Khi bài đã soạn xong, tôi mới được đọc quyển Lê Văn Duyệt của Hoàng Lại Giang, Nxb VHTT năm 1999; trong đó có nhiều trang viết về vụ án Tống Thị Quyên. </p><p></p><p>Có đoạn cho biết lúc Minh Mạng còn là một vị hoàng tử, ông ta đã sàm sỡ với người chị dâu xinh đẹp, đức hạnh vừa kể trên nên bị một cái tát tai. Vì vậy "bây giờ ta là Hoàng đế, ta sẽ trị nó theo cách ta muốn. Cho vào cũi và đìm xuống nước". </p><p></p><p>Ở trang 273, tác giả cũng cho biết ông Duyệt có dâng sớ xin vua Minh Mạng tha chết cho Tống Thị Quyên, vì đấy chỉ là tin đồn thôi. Thế nhưng: </p><p></p><p>"... nhà vua nổi giận, cho hủy sớ tâu và quyết theo ý mình. </p><p></p><p>Lê Văn Duyệt cho rằng không vì cái hận tát tai kia thì may ra Minh Mạng còn nghe mình. </p><p></p><p>Sau đó, mỗi lần ra kinh thành, bao giờ Lê Văn Duyệt cũng ghé qua phía tây nam kinh thành, trên ngọn dồi Không tên, tìm tới một nấm đất thấp mọc đầy một thứ hoa màu tím thanh khiết. Dân trong vùng gọi đó là hoa chung thủy. Lặng kẽ, Duyệt nhổ từng cây cỏ dại và đốt cho người đàn bà oan khuất này nén hương. </p><p></p><p>Mỗi lần đi như vậy trở về, lão Cơ Điều (người nô bộc thân tín) lại thấy Lê Văn Duyệt hai má đầm đìa nước mắt!... ". </p><p></p><p>Tôi không biết ông Giang dựa vào sử liệu nào để ghi như trên và cũng không thấy ông nhắc việc chính ông Duyệt là người tâu vua chuyện loạn luân và cũng là người thi hành lệnh dìm chết người vương phi góa bụa này. </p><p></p><p>Cũng như sự việc rạn nứt giữa ông Duyệt và Thành, theo tôi tác giả đã cố ý che bớt trách nhiệm của Tả quân trong cái chết của ông Thành rất nhiều. </p><p></p><p>Tác giả viết như thế này: Vụ án Tuyên, con trai Nguyễn Văn Thành, lại do Lê Văn Duyệt phụ trách. Bị đòn tra tấn nặng, Thuyên đã nhận liều là có ý mưu phản. Nghe Thuyên nhận tội, Duyệt trầm ngâm, ông không vui, cũng không buồn. Dường như có điều gì gờn gợn... </p><p></p><p>Thế rồi : "... Sau cái chết bằng thuốc độc của Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt thấy như mình có tội. Nỗi ân hận giày vò ông... . Thuyên có thể dại dột, xốc nổi; còn Thành, một đại thần tự thưở hàn vi của Thế tổ như thế làm sao có thể phản nghịch được mà Thế tổ nỡ lòng... Lê Văn Duyệt tự vấn mình giữa ngọn đèn khuya. "(tr. 84-85) </p><p>Có thể vì tác giả quá yêu mến, kính trọng nhân vật lịch sử họ Lê, nên cố gắng làm cho tấm gương thêm "tròn trịa" chăng? </p><p></p><p><strong><em>Theo Bùi Thụy Đào Nguyên</em></strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Bút Nghiên, post: 16192, member: 699"] [B]IV. Tả quân với 2 trọng án thời nhà Nguyễn[/B] Trong dân gian râm ran truyền miệng rằng vào những ngày cuối đời, lúc thần hồn đã dần mê muội, miệng LVD thường nhắc đến tên 2 người: Nguyễn Văn Thành & Tống thị, chừng như trong ông vẫn còn day dứt về cái chết của 2 người này. Dựa theo sách Đại Nam chính biên liệt truyện, xin lần lượt kể sơ qua cả 2 vụ việc: [B]4. 1 Với vụ án Nguyễn Văn Thành [/B] Vào năm 1799, Nguyễn Văn Thành được làm Tiết chế, chỉ huy trận đánh vào thành Quy Nhơn do quân Tây Sơn đang nắm giữ. Sách trên ghi: " Thành cùng Duyệt, cắm cờ trên bành voi để chỉ huy các tướng Tính Thành thích uống rượu. Lúc sắp vào trận, Thành lấy be rót uống, nhân thể rót mời Duyệt. Duyệt không uống, Thành nói: "Hôm nay trời rét, uống rượu cho thêm khí lực. Duyệt cười mà nói rằng: " Người nào nhút nhát mới phải mượn rượu để tăng khí lực. Trước mắt ta, nào có ai đáng mặt giỏi trận mạc để cùng đối địch, vậy cần gì phải dùng đến rượu?" Thành nghe vậy thì thẹn và cũng kể từ đó, bắt đầu để bụng nuôi giận đối với Duyệt... " Theo sách Kể chuyện vua quan nhà Nguyễn của Phạm Khắc Hòe,nguyên Đổng lývăn phòng của vua Bảo Đại, do có điều kiện tiếp xúc với nhiều sử liệu trong cung, nên ông đã kể lại chuyện như sau: "Thành cậy mình nhiều tuổi, văn võ song toàn nên thường tỏ ra xem thường Duyệt, vì Duyệt vốn là một hoạn hoan, lại thiếu học. Còn Duyệt thì cho rằng Thành, nơi chiến trường kém dũng mãnh mà hay lên mặt đàn anh, nên trong thâm tâm rất ghét Thành... " Ông Phạm Khắc Hòe còn kể thêm, tuy họ ghét nhau nhưng vì Gia Long khéo dàn xếp nên hai "mãnh hổ" tạm sống chung rừng. Mãi đến cuối năm 1815, Nguyễn Văn Tuyên, con Thành có làm bài thơ gửi cho bạn với lời lẽ hơi ngông cuồng, ý nghĩa khá mù mờ, trích 2 câu cuối: "Sơn tể phen này dù gặp gỡ, Giúp nhau xoay đỗi hội cơ này" Không ngờ có người đầy tớ tên Hiệu lấy đưa cho Nguyễn Hữu Nghi xem, Hữu Nghi vốn có thù oán với Thành bèn xui tên Hiệu đi tố cáo với Duyệt. Nhân cơ hội để ra đòn hiểm, Duyệt liền đem dâng lên vua với lời cáo buộc thơ có ý "mưu phản" để bắt giam Tuyên, rồi ngầm ra lệnh tra tấn phạm nhân rất dữ, nên con Thành đành nhận mình có ý đồ mưu phản... . Thế là những phe cánh của Duyệt hùa nhau tố cáo loạn xị, khiến Thành phải chạy theo níu áo Gia Long kêu khóc: " Thần theo Bệ hạ từ nhỏ đến nay không có tôi gì, lẽ nào Bệ hạ ngồi yên để cho họ bày chuyện hại thần". Nhà vua rứt áo bỏ đi, ra lệnh cấm không cho Thành vào chầu nữa... Rồi Nguyễn Văn Thành phải uống thuốc độc tự tử và các con ông này tuy được Gia Long tha cho, nhưng đến khi Minh Mạng lên ngôi thì đều bị ghép vào án chết !... [B]4. 2 Với vụ án Tống thị Quyên [/B] Năm Minh Mạng thứ năm (1824),có người bí mật tố cáo rằng Mỹ Đường thông dâm với mẹ ruột là Tống thị, vợ Thái tử Cảnh. Lê văn Duyệt đem vụ việc này tâu lên rồi cũng chính ông được lệnh bắt Tống thị dìm nước cho chết , còn Mỹ Đường thì phải giao trả hết ấn tín & dây thao , đồng thời bị giáng xuống làm thứ dân , con trai con gái chỉ được biên chép phụ ở phía sau sổ tôn thất ... Đây thực sự là một bi kịch không nhỏ ở chốn cung đình nhà Nguyễn. Tuy không có bằng chứng nhưng qua cách hành xử của vua Minh Mạng (con dòng thứ) đối với dòng chánh, đáng lẽ ra họ phải được nối ngôi, thì mới thấy nhà vua đã tìm mọi cách để triệt hạ, trù dập con cháu Hoàng tử Cảnh như thế nào. Xin trích theo sử nhà Nguyễn: Năm Minh Mạng thứ bảy (1826) , Mỹ Thùy lại bị quân lính ở đạo Dực Chẩn kiện , sắp bị đưa cho đình thần nghị tội thì Mỹ Thùy bị bệnh mà mất , lúc ấy chưa có con cái gì. Vua cho lấy con trưởng của Mỹ Đường là Lệ Chung , tập phong làm Ứng Hòa Hầu để lo việc phụng thờ Anh Duệ Hoàng Thái Tử (tức Hoàng tử Cảnh ) ... Tưởng bi kịch đến đó là hết, nào dè đến năm Minh Mạng thứ mười bảy (1836), vì sợ con cái của Lệ Chung nhờ cha mà hưởng phúc ấm , nên triều thần lại tiếp tục nghị tội , buộc con trai con gái của Lệ Chung là Lệ Ngân , Thị Văn, Thị Dao đều phải giáng làm thứ nhân . Mãi đến năm Tự Đức thứ hai (1848), khi Mỹ Đường bị bệnh mất, dòng dõi của Hoàng tử Cảnh mới tạm yên ở phận dân thường [B]Người soạn lạm bàn [/B] Qua nội dung hai vụ án trên, tôi thật sự băn khoăn vì sao một con người chánh trực, hết lòng ủng hộ dòng chánh; thế mà một hôm nghe ai đó tố cáo, rồi vội vàng tâu vua, người mà trong thâm tâm ông không hề ưa. Để rồi chẳng có một cuộc điều tra hoặc một phiên xét xử nào, ông dễ dàng nhận lệnh, vội vàng "dìm" chết đi một con người; phải chăng cũng tức là ông đoạn tuyệt hẳn một chánh kiến, một phe phái mà ông đã từng tán đồng và ủng hộ?... Bởi gian kế khiến ông lầm, hay chính vì miếng đỉnh chung mà ông chấp nhận thỏa hiệp?... Còn với vụ án Nguyễn Văn Thành, nguyên là tổng Trấn Bắc Thành, chẳng qua nhân chuyện hai "mãnh hổ " không thể chung rừng, vua nhà Nguyễn ngầm ra tay "Điểu tận cung tàng"(chim bay cao hết, cung tốt vất bỏ), vì lo sợ công thần nắm giữ binh quyền quá lớn, dễ gây họa cho con cháu của nhà vua. Nhân đây, ta cũng nên biết Nguyễn Văn Thành có thể ỷ mình là công thần nên đã có lời nói, làm đôi ba chuyện đối với nhà vua hơi quá mức; nên sau này Gia Long có đưa ra những lỗi này, để đình thần ghép thêm tội cho bề tôi thân thiết xưa. Nhưng sâu xa hơn cả, chính là vì ông Thành làm như không biết ý vua đã quyết truyền ngôi cho Hoàng tử Đởm, tức vua Minh Mạng sau này; nên hễ mở miệng ra là cổ xúy cho dòng chính, rồi còn dám rủ rê các quan tụ tập ở nhà riêng, bàn chuyện xin vua lập Hoàng tôn Đán, tức con Thái tử Cảnh, lên ngối ngôi; thì bảo sao ông không bị dổn ép vào sát chân tường cho được. Sử nhà Nguyễn ghi chỉ vì mấy câu "mời rượu" giữa 2 ông khiến nảy sinh hiềm khích nên mới có vụ án này; đấy là sử quan muốn che giấu thâm ý của nhà vua. Tuy vậy, từ mấy câu "mời rượu" ta thấy gì? (Duyệt cười mà nói rằng: " Người nào nhút nhát mới phải mượn rượu để tăng khí lực. Trước mắt ta, nào có ai đáng mặt giỏi trận mạc để cùng đối địch, vậy cần gì phải dùng đến rượu). Rõ ràng Duyệt rất uất ức vì không được nhận lãnh cờ "tiết chế" "(quyền chỉ huy cao nhất), nên mới có mấy câu xấc xược, tỏ ý xem thường vị chỉ huy của mình. Thâm sâu hơn, nó còn cho ta thấy trước sự cám dỗ quyền lực, ngay cả con người có nhiều đức tính tốt như Duyệt... cũng dễ dàng bị nó quyến dụ để rồi tình đồng chí, đồng đội, đồng cam khổ ngày nào phải nhanh chóng nhợt nhạt, úa phai... [B]IV. Tạm kết bài[/B] Bản thân vốn là một cậu bé ít học, ham chơi; nhờ cơ may, nhờ thời thế mà thi thố bản lĩnh. Là một người bị hoạn bẩm sinh, nhưng không vì thế mà mặc cảm, ông chỉ biết cống hiến hết tài năng, hết sức mình nên nhanh chóng trở thành đại tướng, mang ấn công hầu, làm "vương" một cõi, vua quan trong ngoài và cả lân bang đều phải nể trọng ... Cả khi ông mất rồi, mộ bị san phẳng, bị xiềng xích ... Ấy vậy mà, người ta vẫn lén lút thờ cúng & hình ảnh ông luôn là vị thần hoàng hiển linh trong lòng dân tộc Việt lẫn Hoa . Chắc có nhiều lý do, nhưng theo tôi, ai biết quên túi riêng để lo cho chuyện chung, nhất là làm sao cho dân hưởng được cuộc sống yên ổn, có được cơ hội để làm ra manh áo, chén cơm... thì sẽ được tôn Thần ! Và biết đâu, nếu như triều đình Nhà Nguyễn có cái nhìn cởi mở, chính sách cai trị khôn khéo trong ngoài... như ông; thì rất có thể Việt Nam đã sớm trở thành một nước tiến bộ, giàu mạnh ngay từ buổi ấy. Ngẫm lại, LVD thật vô cùng xứng đáng làm tấm gương để mọi người soi rọi rồi biết nói ít, làm nhiều; không vì lợi ích riêng mà quên dân, quên nước ... ------------------------------- Tư liệu kèm theo bài : [B][I]1. Gia Định: [/I][/B] Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, vào năm Mậu Dần (1698) chúa Nguyễn Phúc Chu cho lập phủ Gia Định, thời kỳ 1790-1802 còn là kinh Gia Định. Năm Nhâm Tuất (1802) vua Gia Long đổi thành trấn Gia Định; đến năm Mậu Thìn (1808) đổi ra thành Gia Định gồm năm trấn là Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Thanh, Hà Tiên. Năm 1832, sau khi Tả Quân Lê Văn Duyệt từ trần, chế độ Tổng Trấn Gia Định mới bị bãi bỏ. vua Minh Mạng đổi tên là thành Phiên An, năm trấn chia thành sáu tỉnh Phiên An, Biên Hòa Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Năm 1835, tỉnh Phiên An đổi tên là tỉnh Gia Định (tên gọi Nam kỳ lục tỉnh có từ lúc đó) [B][I]2. Khu Đền thờ &Lăng mộ Tả quân: [/I][/B] Nhà bia được xây dựng như một ngôi điện nhỏ, tường gạch, mái lợp ngói âm dương. Văn bia do Hoàng Cao Khải viết năm Giáp Ngọ 1894. Nội dung bia ca tụng công đức Lê Văn Duyệt đối với triều đình và nhân dân. Phần mộ gồm hai ngôi mộ: Tả quân và vợ ông, bà Đỗ Thị Phận. Hai ngôi mộ đặt song song và được cấu tạo giống nhau, có hình dạng như nửa quả trứng ngỗng xẻ theo chiều dọc, úp trên bệ hình chữ nhật. Trước mộ có một sân nhỏ để làm lễ. Bao quanh mộ là một bức tường bằng đá ong hình chữ nhật, thông ra tận sân đốt nhang đèn. Cách khu lăng mộ một khoảng sân rộng đến khu vực Thượng công linhmiếu, nơi diễn ra các sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân trong việc thờ cúng Lê Văn Duyệt... [B][I]3. Những chuyện li kì trước khi Lê Văn Duyệt qua đời : [/I][/B] 3. 1.Bộ Đại Nam chính biên liệt truyện (sơ tập) đã dành hẳn cả hai quyển 22 và 23 để chép chuyện Lê Văn Duyệt. Thật đặc biệt là đoạn cuối của quyển 23 đã chép một số chuyện li kì xãy ra trước lúc Lê Văn Duyệt qua đời : "Trước khi Tả quân bị bệnh, thành gia định không hề có gió lớn vậy mà cán cờ trong thành bỗng nhưng bị gãy . Hơn một tháng sau (lê văn ) Duyệt đi tuần ỏ biên cảnh, vừa ra ngoài thành thì con voi ông đang cởi tự nhiên phục xuống đất rồi rống rầm lên, đánh mấy nó không chịu đứng dậy, ông bèn phải dùng ngựa mà đi . (Lê văn)Duyệt lấy làm lạ... Một hôm (Lê văn)Duyệt chuẩn bị cấp thưởng cho tướng sĩ, ông sai người nhà đem tiền để sẵn ra đây, chẵng dè vừa chợp mắt được một lúc thì tiền đã không cánh mà bay . Ông ngờ là có kẻ trộm nên ra lệnh tìm bắt rất gấp, bỗng ông thấy trên nóc nhà mình có người đang ngồi giữ đống tiền , thoạt trong giống như mô đất , bèn sai người bắt thang trèo lên bắt, nhưng lên đến nơi thì người giữ tiền đã biến mất mà đống tiền thì vẫn còn y nguyên . Hôm khác ,có ông già vai đeo bầu ăn mặc ra vẻ dân quê, đến nói với người canh cửa : -Hãy vào báo với lê tướng quân ,rằng có ta là cố nhân đến . Người canh cửa lấy làm lạ,chạy vào báo với (Lê văn)Duyệt. Ông liền cho người ra . Đến bờ sông Bến Nghé thấy ông già ấy đang rửa bầu và nói rằng : -Ta muốn đón tướng quân của mày đi tu tiên, nhưng mà tướng quân của mày không thể đi tu tiên được ... Nói rồi thì phất phớ bay đi không biết về đâu, người canh cửa về báo lại . (Lê văn )Duyệt nói: -Tiên thật à hay là ma muốn nhát ta đấy. Vài ngày sau Duyệt bị bệnh nhẹ rồi mất... 3. 2 Trích trong Sài Gòn năm xưa của Vương Hồng Sển : Về ngày quy thần của Lê Tả quân, ít người biết rành. Quyển Điều cổ hạkim thi tập của Nguyễn Liên Phong, soạn năm 1915, trang 27, ghi rằng: "Ngài (Lê Văn Duyệt), tuy đau sơ sịa, song biết mình đại mạng dĩ định, bèn trối với Đỗ phu nhơn, nhưng cùng các tướng sĩ bộ hạ thì trối sơ vài lời vậy thôi. Bước qua ngày ba mươi, tháng Bảy năm Nhâm Thìn (1832) ước chừng hai giờ khuya (giờ Sửu); ngài tắt hơi, thọ bảy mươi, hiện nay ngày Mồng một tháng Tám là ngày kỵ. Lúc tắt hơi, thì bốn phía Xóm Chợ Đũi và nội làng Xuân Hòa, các quân lính đều ngó thấy sáng rực một đường dài lớn như cây lụa điều từ trong dinh bay xẹt ra, bay chậm chậm rồi phăng phăng bay lên hoài, trực chỉ mặt trời lặn hồi lâu biến mất. " Người soạn bài này cũng rất lấy làm lạ là, đối với người Việt gốc Hoa, trong tâm linh, họ xem ông là một vị "phò mã", người theo đạo Cao Đài xem ông là một "tiên ông", còn người Việt xem ông là một vị Thần hoàng. Càng lạ hơn nữa là sử sách chính thống của triều Nguyễn đã dành trọn 2 tập để nói về ông, rồi còn ghi luôn những câu chuyện nhuốm màu thần bí như vừa ghi trên. Suy ngẫm, nếu không có những công trạng ấy, nhân cách ấy thì không thể nào được vậy... 4. Khi bài đã soạn xong, tôi mới được đọc quyển Lê Văn Duyệt của Hoàng Lại Giang, Nxb VHTT năm 1999; trong đó có nhiều trang viết về vụ án Tống Thị Quyên. Có đoạn cho biết lúc Minh Mạng còn là một vị hoàng tử, ông ta đã sàm sỡ với người chị dâu xinh đẹp, đức hạnh vừa kể trên nên bị một cái tát tai. Vì vậy "bây giờ ta là Hoàng đế, ta sẽ trị nó theo cách ta muốn. Cho vào cũi và đìm xuống nước". Ở trang 273, tác giả cũng cho biết ông Duyệt có dâng sớ xin vua Minh Mạng tha chết cho Tống Thị Quyên, vì đấy chỉ là tin đồn thôi. Thế nhưng: "... nhà vua nổi giận, cho hủy sớ tâu và quyết theo ý mình. Lê Văn Duyệt cho rằng không vì cái hận tát tai kia thì may ra Minh Mạng còn nghe mình. Sau đó, mỗi lần ra kinh thành, bao giờ Lê Văn Duyệt cũng ghé qua phía tây nam kinh thành, trên ngọn dồi Không tên, tìm tới một nấm đất thấp mọc đầy một thứ hoa màu tím thanh khiết. Dân trong vùng gọi đó là hoa chung thủy. Lặng kẽ, Duyệt nhổ từng cây cỏ dại và đốt cho người đàn bà oan khuất này nén hương. Mỗi lần đi như vậy trở về, lão Cơ Điều (người nô bộc thân tín) lại thấy Lê Văn Duyệt hai má đầm đìa nước mắt!... ". Tôi không biết ông Giang dựa vào sử liệu nào để ghi như trên và cũng không thấy ông nhắc việc chính ông Duyệt là người tâu vua chuyện loạn luân và cũng là người thi hành lệnh dìm chết người vương phi góa bụa này. Cũng như sự việc rạn nứt giữa ông Duyệt và Thành, theo tôi tác giả đã cố ý che bớt trách nhiệm của Tả quân trong cái chết của ông Thành rất nhiều. Tác giả viết như thế này: Vụ án Tuyên, con trai Nguyễn Văn Thành, lại do Lê Văn Duyệt phụ trách. Bị đòn tra tấn nặng, Thuyên đã nhận liều là có ý mưu phản. Nghe Thuyên nhận tội, Duyệt trầm ngâm, ông không vui, cũng không buồn. Dường như có điều gì gờn gợn... Thế rồi : "... Sau cái chết bằng thuốc độc của Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt thấy như mình có tội. Nỗi ân hận giày vò ông... . Thuyên có thể dại dột, xốc nổi; còn Thành, một đại thần tự thưở hàn vi của Thế tổ như thế làm sao có thể phản nghịch được mà Thế tổ nỡ lòng... Lê Văn Duyệt tự vấn mình giữa ngọn đèn khuya. "(tr. 84-85) Có thể vì tác giả quá yêu mến, kính trọng nhân vật lịch sử họ Lê, nên cố gắng làm cho tấm gương thêm "tròn trịa" chăng? [B][I]Theo Bùi Thụy Đào Nguyên[/I][/B] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Nhân Vật Lịch Sử
Lê Văn Duyệt-Người có số phận kỳ lạ
Top