• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Lê Hoàn và bối cảnh định đô Thănh Long

ngan trang

New member
Lê Hoàn và bối cảnh định đô Thănh Long
Nguồn : quansuvn.net
LỜI NHÀ XUẤT BẢN

Trong lịch sử, Lê Hoàn không chỉ là một vị hoàng đê’ có những đóng góp kiệt xuân trong sự nghiệp chống ngoại xâm, giữ gìn và củng cố nền độc lập dân tộc mà còn có nhiều công lao trong sự nghiệp ngoại giao, xây dựng và kiên tạo đất nước Đại Cồ Việt hùng mạnh thì Tiền Lê. Chính bối cảnh đó là điều kiện giúp Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long năm 1010, mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên phát triển rực rỡ của văn hóa Thăng Long - Đại Việt.

Cuốn sách Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn là kết quả của quá trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học do Hội Sử học Hà Nội tổ chức. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, theo đề xuất của Hội Sử học Hà Nội, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Nội, Văn phòng Ban chỉ đạo kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội tổ chức Hội thảo khoa học cùng tên, nội dung cuộc hội thảo được tổ chức hiệu đính biên tập thành sách. Cuốn sách góp phần làm sáng rõ hơn thân thế và những đóng góp nổi bật của anh hùng dân tộc Lê Hoàn vào tiến trình lịch sử đất nước nói chung à trong việc định đô Thăng Long sau này của Lý Công Uẩn nói riêng.

Năm 2005, nhân dịp kỷ niệm 995 năm Thăng Long - Hà Nội; 1.000 năm ngày mất của anh hùng dân tộc Lê Hoàn, Nhà xuất bảl Hà Nội trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc cuốn sách. Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn; và hy vọng rằng, cuốn sách sẽ giúp bạn đọc, nhất là thêm hệ trẻ, biệt và tự hào về những cống hiến của các bậc tiền nhân để chúng ta có một Thủ đô anh hùng, “Thành phố” vì hòa bình “ như ngày hôm nay.

NHÀ XUẤT BẢN HÀ NỘI
PHÁT BIỂU CỦA ĐỒNG CHÍ NGÔ THỊ THANH HẰNG
79.gif

TẠI HỘI THẢO KHOA HỌC
“BỐI CẢNH ĐỊNH ĐÔ THĂNG LONG
VÀ SỰ NGHIỆP CỦA LÊ HOÀN”

Trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam nói chung, của Thăng Long - Hà Nội nói riêng, Lê Hoàn có vị trí đặc biệt. ông không chỉ là người kế tục xứng đáng các vị anh hùng Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc bằng vũ công Bạch Đằng oanh liệt, mà còn thể hiện trên những thành tựu của sự nghiệp ngoại giao, xây dựng phát triển đất nước.

Triều đại Lê Hoàn đã chuẩn bị cho sự xuất hiện và chắp cánh cho tài năng, nhân cách của Lý Công Uẩn - vị vua sáng nghiệp triều Lý, xây nền kinh đô Thăng Long, chuẩn bị cho kỷ nguyên phát triển rực rỡ của văn hoá Thăng Long - Đại Việt.

Năm 2005, kỷ niệm trọng thể 995 năm Thăng Long - Hà Nội càng có ý nghĩa hơn khi chúng ta trang trọng kỷ niệm 1000 năm ngày mất vị vua anh hùng bằng hội thảo khoa học “Bồi cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn”. Đó là thể hiện tinh thần khoa học, đạo lý, nhân cách sống của thế học hôm nay với các bậc Tiền nhân đã bảo vệ, xây dựng non sông yêu quý của chúng ta.

Thành ủy, ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội trân trọng và đánh giá cao sáng kiến của Sở Văn hóa - Thông tin, Hội Sử học Hà Nội, Văn phòng Ban chỉ đạo kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long đã phối hợp tổ chức Hội thảo khoa học này. Chúng tôi trân trọng cảm ơn các nhà khoa học đã dành thời gian, tâm huyết, tình cảm của mình tìm hiểu và nghiên cứu về bối cảnh định đô Thăng Long, về sự nghiệp của Lê Hoàn, về quốc gia Đại Cồ Việt.

Nhân dịp này, lãnh đạo Thành phố một lần nữa trân trọng đề nghị các nhà khoa học lịch sử, xã hội và nhân văn tích cực, chủ động hơn nữa trong việc đề xuất những kiến nghị, những giải pháp khoa học của mình vào việc thực hiện chương trình kỷ niệm Ngàn năm Thăng Long, vào công cuộc xây dựng Thủ đô yêu dấu của chúng ta ngày một hiện đại, văn minh, xứng đáng là Thủ đô Anh hùng, “Thành phố vì hoà bình”. Lãnh đạo, nhân dân Thủ đô luôn trân trọng, lắng nghe, tiếp thu những đóng góp của các nhà khoa học, coi đó là một vinh dự, trách nhiệm, là tiềm lực quan trọng không thể thiếu được của quá trình hoạch định chính sách xây dựng, quản lý, phát triển Thủ đô hôm nay và mai sau.

Chúc sức khoẻ các vị đại biểu, chúc Hội thảo “Bồi cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn” thành công tốt đẹp.

Trân trọng cảm ơn các đồng chí!
 
BỐI CẢNH ĐỊNH ĐÔ THĂNG LONG
VÀ SỰ NGHIỆP CỦA LÊ HOÀN
PGS.TS. Nguyễn Quang Ngọc
79.gif

(Tổng thuật các báo cáo tham gia Hội thảo khoa học Kỷ niệm 1.000 năm ngày mất của Lê Hoàn).


Cách đây vừa tròn 1.000 năm, trÁi tim vĩ đại của người anh hùng dân tộc Lê Hoàn ngừng đập. ông ra đi dường như rất vội, không kịp mang theo gì cho riêng mình, kể cả thuỵ hiệu, miếu hiệu, để đến nỗi nghìn năm sau các lớp cháu con vẫn nghĩ như ông vừa mới đi xa, vẫn còn đang trong chuyến “đại hành”.

Ngô Sĩ Liên, nhà sử học lỗi lạc đời Lê cuối thế kỷ XV viết sách Đại Việt sử ký toàn thư đã nhận xét rất đúng rằng, ông: “đánh đâu được đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di bắt giữ sứ thần, đánh lui quân Triệu Tống để bẻ cái mưu tất thắng của vua tôi bọn họ, có thể gọi là bậc anh hùng nhất đời vậy”. ông “trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước thanh bình, Bắc Nam vô sự”, đặt cơ sở nền tảng cho bước phát triển nhảy vọt của quốc gia Đại Cồ Việt đầu thế kỷ XI. Ông là vị hoàng đế có những đóng góp kiệt xuất vào tiến trình lịch sử đất nước.

Đúng 1000 năm ngày ông ra đi, cả nước và thành phố Hà Nội nhộn nhịp triển khai các hoạt động kỷ niệm 995 năm Thăng Long- Hà Nội, trực tiếp chuẩn bị cho đại kỷ niệm Thủ đô 1.000 năm tuổi. Chúng ta không thể không tưởng nhớ công lao của ông, tuy không trực tiếp nhưng cũng góp phần rất quan trọng cho sự hình thành thiên tài Lý Công Uẩn, cho sự xuất hiện vương triều Lý và công cuộc định đô Thăng Long.

Trên tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, Sở Văn hoá - Thông tin, Văn phòng Ban chỉ đạo kỷ niệm nghìn năm Thăng Long và Hội Sử học Hà Nội, được sự chỉ đạo của Thành ủy, ủy ban nhân dân thành phố, tổ chức cuộc Hội thảo khoa học Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn. Từ bối cảnh lịch sử chung và yêu cầu đặt ra cho đất nước Đại Cồ Việt hồi cuối thế kỷ X, đầu thế kỷ XI, trên cơ sở những thành tựu mới của sử học, chúng ta có dịp ngồi lại cùng đánh giá những thành tựu mà Lê Hoàn và nhà Tiền Lê cống hiến cho sự phát triển của đất nước ở giai đoạn bản lề này và thông qua đó nhìn nhận rõ hơn đóng góp của ông và vương triều ông cho công cuộc định đô Thăng Long.

Tuy thời gian chuẩn bị cho cuộc hội thảo có phần gấp gáp nhưng được sự hưởng ứng rất nhiệt tình của các nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau, cuối cùng chúng tôi đã tập hợp được 32 báo cáo khoa học tham gia Hội thảo. Đội ngũ tác giả tham gia Hội thảo lần này, bên cạnh các nhà khoa học, các chuyên gia lão thành là một số lượng đông đảo các cán bộ giảng dạy và nghiên cứu trẻ, đặc biệt trong đó có nhiều chuyên gia nữ. Tất cả các báo cáo dù trực tiếp hay gián tiếp, dù nghiên cứu một khía cạnh hay đánh giá tổng thể đều góp phần làm sáng rõ hơn thân thế, sự nghiệp người anh hùng dân tộc Lê Hoàn và những đóng góp nổi bật của ông vào tiến trình lịch sử đất nước nói chung và trong công cuộc định đô Thăng Long nói riêng.


79.gif
Chủ tịch Hội Sử học Hà Nội, Trưởng ban Tổ chức hội thảo.
I. VỀ QUÊ HƯƠNG, GIA THẾ, CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA LÊ HOÀN

Năm 1981, tỉnh Thanh Hoá tổ chức hội thảo khoa học Lê Hoàn và 1000 năm chiến thắng giặc Tống xâm lược. Trong Hội thảo này, nhiều vấn đề chung về thế kỷ X, về quê hương, thân thế, sự nghiệp của Lê Hoàn được đặt ra và bước đầu đã được giải quyết.

Hơn hai chục năm sau, trải qua một chặng đường đổi mới của sử học, nhiều vấn đề xung quanh quê hương, gia thế, cuộc đời và sự nghiệp của Lê Hoàn đều được đào sâu thêm và nhìn nhận lại theo chiều hướng thoáng rộng hơn.

PGS, TS. Trần Bá Chí trước đây từng viết bài rất công phu về quê hương, dòng dõi Lê Đại Hành khẳng định ông người Ái Châu (tức Thanh Hoá), thì bây giờ xem ra lại muốn nói lại rằng ông sinh ra ở quê gốc động Hoa Lư, xã Trường Yên, nay thuộc tỉnh Ninh Bình.

Mai Khánh (Bảo tàng Hà Nam) sau khi điểm lại cả 4 thuyết về quê hương của Lê Hoàn là Trường Châu (Ninh Bình), Ái Châu (Thanh Hoá), Bảo Thái, Thanh Liêm (Hà Nam) và quê nội Hà Nam, quê ngoại Thanh Hoá đã có ý nghiêng về Trường Châu nhưng cho rằng Trường Châu rộng hơn Trường Yên, Ninh Bình. Tư liệu xác nhận Lê Hoàn ở Trường Châu là Đại Việt sử lược, một bộ sử gần với đương đại nhất.

TS. Vũ Văn Quân dựa theo Đại Việt sử ký hoàn thư chép năm 990 Tống Cảo đến Hoa Lư qua trạm Nại Chinh ở Trường Châu, mà Nại Chinh (nay thuộc đất Hà Nam). Vậy thì Trường châu cũng bao gồm cả đất Hà Nam. Nguồn tư liệu ở Thanh Liêm, Hà Nam mà tác giả Mai Khánh cung cấp là rất phong phú và dường như cũng gợi ra khả năng nơi đây là quê hương Lê Hoàn.

Cùng với Mai Khánh, TS. Phan Phương Thảo, Tống Văn Lợi cũng tiến hành khảo sát khá kỹ Lưỡng khu vực Liêm Cần, khai thác và giới thiệu khá nhiều thông tin quý, cũng nêu ra vấn đề quê hương Lê Hoàn, nhưng lại tập trung giới thiệu vị trí quân sự của vùng đất Liêm Cần và xác định đây là căn cứ quân sự buổi đầu của Lê Hoàn.

Không giống các nhà nghiên cứu trẻ, GS. Trần Quốc Vượng khẳng định một cách dút khoát quê hương Lê Hoàn là Ninh Thái, Thanh Liêm, Hà Nam và theo ông, xứ Thanh chỉ có thể là quê ngoại hay quê bố nuôi Lê Hoàn. Bản báo cáo mang tên Hà Nam quê tôi đã đặt lại một vấn đề hết sức cơ bản cần phải được thảo luận nghiêm túc.

PGS. Hà Đình Đức (trường Đại học Khoa học Tự nhiên) trong bài Lê Đại Hành, vị vua khai sáng nhà Tiền Lê lại nói một cách hiển nhiên rằng Lê Hoàn là người làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân tỉnh Thanh Hoá. Nhiều tác giả khác dựa theo kết quả của các công trình nghiên cứu trước đây, cũng vẫn mặc nhiên thừa nhận Lê Hoàn quê ở Thanh Hoá.

Thế là vấn đề quê hương Lê Hoàn, vấn đề được Ngô Thì Sĩ đặt ra từ năm 1.800, được thảo luận đi, thảo luận lại dưới thời Nguyễn, cho mãi đến đầu thế kỷ XXI mà vẫn chưa đưa ra được giải pháp cuối cùng. Tuy nhiên, điều dễ dàng có thể nhận thấy là cả ba nơi Thanh Hoá, Hà Nam, Ninh Bình đều gắn bó chặt chẽ với tuổi thơ, cuộc đời và sự nghiệp của Lê Hoàn.

Có một vấn đề đặt ra cho chính cuộc hội thảo này là chúng ta kỷ niệm 1.000 năm ngày mất của Lê Hoàn hay Lê Đại Hành? Gọi thẳng tên cụ là Lê Hoàn thì e không phải phép mà gọi là Lê Đại Hành thì thật cũng không hay.

Ngày xưa thiên tử lúc mới qua đời, khi chưa mai táng trong sơn lăng thì gọi là Đại Hành hoàng đế, đến khi lăng tẩm đã yên rồi thì mới đặt tên thuỵ và không gọi là Đại Hành nữa. Bài viết của PGS. Lê Văn Lan chủ yếu khảo về nguyên do của cái tên dùng lạm và vì lý do gì mà nó được dùng tạm đến cả nghìn năm, thậm chí còn trở thành tên đặt cho một đường phố Thủ đô.
Góp phần làm rõ hơn thân thế và sự nghiệp của Lê Hoàn còn có bài viết của các tác giả: TS. Nguyễn Thị Phương Chi, Đinh Thị Thuỳ Hiên, Ngô Vũ Hải Hằng và Phạm Đức Anh. TS. Nguyễn Thị Phương Chi (Viện Sử học) không trực tiếp viết về Lê Hoàn mà đi sâu nghiên cứu khẳng định vai trò và công lao của Thái hậu Dương Vân Nga đối với đất nước Đại Cồ Việt hồi đầu thế kỷ X, thông qua đó làm sáng rõ hơn phẩm chất và nhân cách của Lê Hoàn.

Đinh Thị Thuỳ Hiên (trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) thông qua các nguồn tư liệu thư tịch và nhất là các nguồn tư liệu điều tra điền dã ở Hà Nội và Nam Định đã đưa ra được hình ảnh đáng tin cậy về bức chân dung vị Đại tướng quân Phạm Cự Lạng. Cái đích của bài viết này cũng là thông qua việc đánh giá cao về tài năng và cống hiến của Phạm Cự Lạng để hiểu rõ hơn về đạo đức, nhân cách và đặc biệt là tài dùng người của Lê Hoàn.

Vấn đề đặt ra là sử sách ngày xưa đã đánh giá về Lê Hoàn như thế nào? Phạm Đức Anh (trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) đã tập hợp và phân tích các lời bình của sử gia phong kiến từ Trần cho đến Nguyễn về cuộc đời và sự nghiệp của Lê Hoàn.

Phải nói ngay rằng lấy chuẩn mực Nho giáo để đánh giá một con người như Lê Hoàn thì chắc chắn sẽ không tránh khỏi thiên lệch (nhất là những quan niệm phong kiến về đạo đức và lối sống). Một con người bị các sử gia phong kiến định tội là trÁi lẽ cương thường, trÁi đạo nhân luân mà khi nói đến công lao và sự nghiệp của ông lại không tiếc lời ngợi ca ông là “bậc anh hùng nhất đời”, “tiếng tăm lừng lẫy… Thành thử ông vẫn là người anh hùng dân tộc vĩ đại và đích thực ngay trong mắt các nhà sử học mang nặng tư tưởng phong kiến bảo thủ.

GS. Đinh Xuân Lâm bày tỏ thái độ ủng hộ một công bố gần đây trong tạp chí Xưa và nay về vai trò của Định quốc công Nguyễn Bặc, đã nêu một kinh nghiệm đánh giá nhân cách và hành động của một nhân vật lịch sử. Theo GS. Đinh Xuân Lâm, phải đánh giá công lao to lớn của Lê Hoàn trong chống ngoại xâm, nhưng không thể vì muốn đề cao Lê Hoàn mà vu cáo Nguyễn Bắc là phản nghịch, tư thông với giặc.

Sự nghiệp của Lê Hoàn không chỉ được ghi tạc trong sử sách mà đặc biệt được đề cao trong dân gian. Ngô Vũ Hải Hằng (Viện Sử học) mới chỉ sơ bộ thống kê hệ thống di tích thờ Lê Hoàn ở một số tỉnh, thành phố cũng cho thấy có đến 36 nơi thờ Lê Hoàn, trong đó 12 nơi thờ riêng, 24 phối thờ với các vị thần khác. Những nơi tập trung nhiều đền thờ Lê Hoàn nhất là Ninh Bình, Thái Bình, Nam Định... Nội dung thờ cúng chủ yếu ở các di tích này là ghi nhớ công lao, sự nghiệp của Lê Hoàn gắn với mỗi vùng đất cụ thể.

Để giúp cho người quan tâm có thể tìm hiểu thân thế và sự nghiệp của Lê Hoàn một cách thuận tiện, Nguyễn Hoài Phương (trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) đã dựa vào các nguồn chính sử để biên tập Biên niên sự kiện Lê Hoàn gồm 56 sự kiện.
 
II. VỀ SỰ NGHIỆP CHỐNG NGOẠI XÂM BẢO VỆ NỀN
ĐỘC LẬP DÂN TỘC

Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất là cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc đầu tiên ở kỷ nguyên Đại Việt mà kẻ thù của chúng ta là một triều đại cường thịnh của một quốc gia phong kiến lớn nhất châu á đương thời. Lê Hoàn là linh hồn, là hiện thân của chiến công kỳ vĩ này của dân tộc và đây cũng là cống hiến kiệt xuất nhất của Anh hùng dân tộc Lê Hoàn.

Thế nhưng ghi chép về cuộc kháng chiến chống Tống của Lê Hoàn cả sử Trung Quốc và Việt Nam đều có nhiều mâu thuẫn nên có nhiều phương án lý giải khác nhau. Tuy nhiên hầu hết các ý kiến đều cho quân ta đã bố trí lực lượng chặn địch theo hai hướng thuỷ bộ: Quân thuỷ ở cửa sông Bạch Đằng (Hải Phòng) và quân bộ ở vùng Chi Lăng (Lạng Sơn). Gần đây các nhà nghiên cứu từ chỗ hoài nghi con đường tiến quân của quân Tống qua Lạng Sơn đã xác định cả hai đường thuỷ bộ của quân Tống đi liền nhau, hỗ trợ cho nhau, đều qua vùng Quảng Ninh, Hải Phòng và hội quân ở khu vực Lục Đầu Giang. Vì thế chiến trường chính của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần thứ nhất phải diễn ra ở vùng Đông Bắc.

PGS, TS. Trần Bá Chí là người đầu tiên phác dựng về diễn biến của cuộc kháng chiến theo hướng trên trong luận án Tiến sĩ năm 1991, trong cuốn Cuộc kháng chiên chống Tống lần thứ nhất năm 1992 và báo cáo lần này cũng vẫn triển khai sâu thêm theo hướng đó.

THS Nguyễn Hữu Tâm (Viện Sử học) chăm chú khai thác các nguồn thư tịch cổ Trung Quốc như Tục tư trị thông giám trường biên, Tống sử, Văn hiến thông khảo, Độc sử phương dư kỷ yếu... và đi đến nhận xét sử liệu do chính các sử gia Trung Quốc ghi chép khá thống nhất về đại thắng mùa xuân năm 981 của quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn diễn ra trên sông Bạch Đằng.

Bổ sung thêm cho nguồn tài liệu thư tịch, báo cáo của Ngô Đăng Lợi (Hội Sử học Hải Phòng) giới thiệu một hệ thống các di tích có liên quan đến Lê Hoàn và chiến thắng Bạch Đằng năm 981 ở trên địa bàn các huyện Thuỷ Nguyên, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Kiến Thuỵ.

Trong quá trình chỉ đạo kháng chiến, Lê Hoàn đã từng chọn khu vực xã An Lạc huyện Chí Linh tỉnh Hải Dương làm đại bản doanh trong một thời gian. Đây là một phát hiện có giá trị của PGS Nguyễn Minh Tường (Viện Sử học), đã được trình bày và tìm được sự nhất trí trong Hội thảo khoa học tổ chức tại thành phố Hải Dương đầu năm 2002.

Báo cáo Đại bản doanh của vua Lê Đại Hành trong trận Bạch Đằng năm 981 gửi đến Hội thảo hôm nay là tổng hợp của toàn bộ quá trình sưu tầm, nghiên cứu và thảo luận trên.

PGS, TS. Nguyễn Quang Ngọc (Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển) dựa trên tất cả các nguồn tư liệu thư tịch cổ Trung Quốc, Việt Nam, tư liệu điều tra khảo sát thực địa để hình dung diễn biến của cuộc kháng chiến chống Tống năm 981 theo một lô gích mới, trong đó nhấn mạnh thắng lợi của trận phản công đánh tan quân Tống ở Lục Đầu Giang đã dẫn đến trận tổng công kích trên toàn tuyến sông Bạch Đằng, quyết định thắng lợi của toàn bộ cuộc kháng chiến.

Đại tá TS. Lê Đình Sĩ sau khi phê phán và phân tích các nguồn sử.liệu đã đi đến kết luận: Chiến thắng Bạch Đằng ngày 28 tháng 4 năm 981 là bất ngờ lớn nhất đối với nhà Tống và là đòn quyết định, làm sụp đổ hoàn toàn tinh thần và ý chí của chúng, buộc nhà Tống phải rút quân, chấm dứt chiến tranh.

Về nội dung trình bày báo cáo này có nhiều nét gần với báo cáo của PGS, TS. Nguyễn Quang Ngọc, tuy nhiên quan niệm về diễn biến chiến trận hai báo cáo lại có nhiều điểm không giống nhau. PGS, TS. Nguyễn Quang Ngọc tin rằng có một trận ở cửa biển Bạch Đằng quân ta bị rơi vào tình thế bất lợi, rồi sau đó mới rút kinh nghiệm đánh bại quân Tống ở Lục Đầu Giang và tiến lên đánh tan quân Tống ở sông Bạch Đằng. TS. Lê Đình Sĩ trÁi lại cho rằng chỉ có một trận Bạch Đằng, Lê Hoàn tổ chức khiêu chiến kéo nhanh quân Tống vào trận địa mai phục của ta trên khúc sông hiểm yếu và tiêu diệt chúng.

Trong số các tác giả viết về kháng chiến chống Tống, chỉ còn nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc là vẫn giữ ý kiến cho rằng các đạo quân Tống tiến vào nước ta, có hai đạo tiến theo đường Cao Bằng, Lạng Sơn và Đại La mới là nơi hội sư đầu tiên của các mũi tiến quân.

Chắc chắn vấn đề cuộc kháng chiến chống Tống của Lê Hoàn còn phải được nghiên cứu dầy công thêm, nhưng đến hội thảo lần này diễn tiến của cuộc kháng chiến đã được trình bày mạch lạc hơn, một số vấn đề cơ bản của cuộc kháng chiến đã được giới nghiên cứu xích lại gần nhau hơn. Đó phải được coi là một bước tiến của sử học.
 
III. VỀ SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ KIẾN TẠO ĐẤT NƯỚC
ĐẠI CỒ VIỆT

Không chỉ có những cống hiến kiệt xuất trong sự nghiệp chống ngoại xâm, Lê Hoàn là người anh hùng cái thế có những đóng góp hết sức to lớn trên nhiều lĩnh vực khác nhau. TS. Hà Mạnh Khoa (Viện Sử học) thông qua các nguồn tư liệu thư tịch và nhất là tư liệu khảo sát thực địa, tác giả trình bày khá cụ thể công việc tổ chức đào sông từ Đồng Cổ đến Bà Hoà và khẳng đằng giao thông thuỷ nội địa đầu tiên của đất nước mà nó là mạch máu nối liền trung tâm đất nước với mọi miền xa xôi, triều đình với dân chúng, tăng thêm các cơ sở thống nhất đất nước, phát triển kinh tế, vãn hoá, một mẫu mực của sự kết hợp kinh tế với quốc phòng.

Hà Duy Biển (Viện Lịch sử quân sự Việt Nam) trong báo cáo Lê Hoàn và quá trình lãnh thổ về phía nam của cộng đồng dân tộc Việt Nam thời kỳ quốc gia tự chủ cho biết Lê Hoàn là người đặc biệt quan tâm đến vùng đất phía nam. Ông nhiều lần đích thân cầm quân đánh dẹp sự nổi dậy của các thế lực cát cứ và xâm lấn, không chỉ bảo vệ vững chắc miền biên giới, mà còn trực tiếp chuẩn bị cho quá trình Nam tiến của người Việt, mở rộng thêm cương giới lãnh thổ của quốc gia Đại Việt. Gắn liền với biên cương lãnh thổ là vấn đề ngoại giao. Lê Hoàn không chỉ là nhà ngoại giao xuất sắc vào bậc nhất trong lịch sử Việt Nam mà còn là người mở đầu truyền thống ngoại giao Đại Việt. Có lẽ vì thế mà có đến 3 báo cáo đề cập đến vấn đề này.

PGS, TS. Phạm Xuân Hằng (trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn) trong báo cáo Lê Hoàn và buổi đầu của nền ngoại giao độc lập Đại Cồ Việt đã lý giải khá kỹ Lê Hoàn là người mở đầu và xác lập những nguyên tắc cơ bản của nền ngoại giao Đại Cồ Việt - Đại Việt. Nhà Tống là triều đại phong kiến hùng mạnh nhất châu á đương thời mang nặng tư tưởng bành trướng đã phải từng bước thừa nhận sức mạnh, thế và lực của quốc gia độc lập Đại Cồ Việt, đã phong cho Lê Hoàn các tước vị cao như Giao Chỉ quận vương, Nam Bình vương, sứ thần Tống đã từng làm thơ tôn Lê Hoàn không khác vua Tống.

PGS, TS. Trần Thị Băng Thanh với báo cáo Lê Hoàn và một giai đoạn mới trong cuộc bang giao với nhà Tống chủ yếu là theo Đại Việt sử ký toàn thư và An Nam chí lược nhận xét:

“Lê Hoàn là nhà cầm quân đại tài đồng thời cũng là một nhà ngoại giao “sừng sỏ”. Lê Hoàn nhìn nhận rất rõ những vấn đề nào thuộc về nguyên tắc, tuyệt đối không thể nhượng bộ, nhưng điều nào thứ yếu, không thuộc nguyên tắc thì thậm chí hào phóng chấp nhận.”

Morita Kentaro là nghiên cứu sinh Nhật Bản đang làm việc tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn cũng kịp gửi đến Hội thảo báo cáo mang tên Nhà Tống đánh giá ba vị vua Đại Cồ Việt thế nào?. Theo tác giả thì thời Tống là một giai đoạn có nhiều biến đổi lớn trong lịch sử quan hệ Việt - Trung, mà thời kỳ Đại Cồ Việt từ Đinh Bộ Lệnh qua Lê Hoàn đến Lý Công Uẩn là thời kỳ mở đầu vô cùng quan trọng. Tác giả đã khai thác khá triệt để các nguồn thư tịch cổ Trung Quốc để tìm hiểu những đánh giá của nhà Tống về 3 vị vua kể trên.

Riêng đối với Lê Hoàn, tác giả tin rằng đây là một vị vua có quan hệ gắn liền với nhà Tống, đặc biệt là Tống Thái Tông và để lại một nguồn tư liệu phong phú và đặc sắc hơn cả. Nhà Tống đã phong cho Lê Hoàn các tước vị cao tương đương với Lý Công Uẩn, ngang bằng với vua Nam Hán và vượt Đinh Bộ Lĩnh. Đây là sự công nhận Đại Cồ Việt là một chính quyền độc lập.
PGS. Bùi Duy Tân (trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn) người sớm phát hiện bài thơ Nam quốc sơn hà, một kiệt lác văn chương, cũng đồng thời là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam ta không phải của Lý Thường Kiệt. Bài thư này lần đầu tiên xuất hiện trong cuộc kháng chiến chống Tống của Lê Hoàn. Cùng với Nam quốc sơn hà, bài thơ Quốc lộ (vận nước) là bài thư viết về những vấn đề chính trị xã hội hiện hành của đất nước, giầu sắc thái chính luận, thể hiện tuyệt vời tư tưởng thái bình muôn thuở của cộng đồng Đại Cồ Việt thời Lê Hoàn.

Hai bài thư là hai kiệt tác văn chương bổ sung cho nhau, hoàn thiện Tuyên ngôn độc lập, Tuyên ngôn hoà bình đầu tiên của dân tộc, chính là cột mốc khai sáng văn học dân tộc.

Lê Hoàn với Phật giáo và văn hoá - văn học Phật giáo thời Lê Hoàn là bài viết của PGS, TS. Nguyễn Hữu Sơn (Viện Văn học). Theo tác giả Lê Hoàn sống vào giai đoạn giao thời, cả đất nước đang chuẩn bị tâm thế cho cuộc dời đô, xác định vững vàng chủ quyền dân tộc, bản lĩnh văn hoá và tạo đà cho một quá trình phát triển mới, ông thực tin và trọng dụng giới thiền sư, xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với tầng lớp tri thức tinh hoa của đất nước. Giới thiền sư cũng không phụ lòng trông đợi của ông, đã cùng bày mưu tính kế, góp phần đánh đuổi giặc ngoại xâm, mở mang bờ cõi, phát triển nền văn hoá-văn học dân tộc.

PGS, TSKH. Nguyễn Hải Kế (trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn) tổng hợp những cống hiến chủ yếu của Lê Hoàn, khẳng định ông không chỉ là người chèo lÁi con thuyền quốc gia Đại Cồ Việt khi vận nước lâm nguy mà chính là người tổ chức, phát huy và khơi mở nhiều truyền thống quý báu của văn hoá dân tộc. Lê Hoàn là tiêu điểm của sự mở đầu tuyệt vời hàng loạt những truyền thống cao quý của dân tộc.
 
IV. LÊ HOÀN, NHÀ TIỀN LÊ VÀ BỐI CẢNH ĐỊNH ĐÔ
THĂNG LONG


Thật ra đây là Hội thảo khoa học kỷ niệm 1.000 năm ngày mất anh hùng dân tộc Lê Hoàn nên hầu hết các báo cáo đều tập trung vào cuộc đời và sự nghiệp của ông. Bối cảnh định đô Thăng Long là một vấn đề rất lớn, cần có một cuộc Hội thảo riêng. Vì thế Hội thảo của chúng ta hôm nay không đặt vấn đề bối cảnh định đô thành một nội dung độc lập, đầy đủ và toàn diện mà chỉ thông qua những đóng góp trực tiếp hay gián tiếp của Lê Hoàn và nhà Tiền Lê vào công cuộc định đô để nhìn nhận về bối cảnh định đô mà thôi.

Năm 1.009, Lê Long Đĩnh chết, Lý Công Uẩn được suy tôn làm vua, lập ra vương triều Lý và không đầy một năm sau, ông quyết định dời đô từ Hoa Lơ ra Thăng Long. Công việc dời đô là công việc vô cùng trọng đại không thể chỉ được chuẩn bị gấp gáp trong vài tháng, càng không thể là sản phẩm của 4 năm tàn tạ và đổ sụp của nhà Tiền Lê sau khi Lê Hoàn qua đời, mà chắc chắn nó đã được chuẩn bị cơ bản từ những năm trước đó.

PGS, TSKH. Nguyễn Hải Kế nghiên cứu các vùng đất và danh hiệu Lê Hoàn phong cho các con, cùng một loạt các hoạt động chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội khác đã nhận thấy sự lơu tâm đặc biệt của Lê Hoàn đến vùng trung tâm châu thổ sông Hồng và cho rằng đấy là sự chuẩn bị địa bàn trực tiếp để hơn 10 năm sau đó Lý Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư về Đại La.
Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc mặc dù chỉ bàn về cuộc kháng chiến chống Tống nhưng lại muốn đi xa hơn khẳng định vị trí chiến lược của khu vực Đại La, coi đó là cơ sở để Lý Công Uẩn định đô Thăng Long.

PGS. Hà Đình Đức tổng kết “Lê Đại Hành đã có công lớn đánh đuổi xâm lược nhà Tống giành lại độc lập cho đất nước, chinh phục Chiêm Thành để giữ yên bờ cõi. Ông còn có nhiều công trong cải cách hành chính, củng cố quân đội, mở mang phát triển nông nghiệp, bảo tồn và phát huy vốn văn hoá dân tộc”.
TS. Nguyễn Doãn Tuân (Sở Văn hoá - Thông tin Hà Nội giới thiệu 3 di tích thờ Lê Hoàn trên địa bàn Hà Nội đã được Bộ Văn hoá - Thông tin xếp hạng di tích cấp quốc gia vào các năm 1992, 1994 là đình Phú Diễn, đình Hoa Xá và Minh Ngự Lâu. Cả 3 di tích đều nằm bên bờ sông Nhuệ, thuộc huyện Thanh Trì và đều có quan hệ mật thiết với cuộc hành quân đánh chặn quân Tống, bảo vệ khu vực Đại La năm 981. Các di tích này góp phần xác nhận vị trí của khu vực sông Nhuệ, Thanh Trì trong sự nghiệp của Lê Hoàn.

Vũ Đường Luân viện Việt Nam học và Khoa học phát triển) thông qua các nguồn tư liệu thư lịch cổ, tư liệu khảo cổ học và nhất là tư liệu khảo sát thực tế, các di tích thờ cúng, các truyền thuyết dân gian có liên quan đến Lê Hoàn và nhà Tiền Lê để nhận diện rõ thêm vị thế quan trọng của vùng đất Đại La trong toàn bộ hệ thống chính sách của nhà Tiền Lê. Theo tác giả, đây cũng chính là tiền để cho quyết định dời đô của Lý Công Uẩn.

PGS, TS. Tống Trung Tín (Viện Khảo cổ học) dựa trên những phát hiện mới về khảo cổ học trong những năm gần đây, đặc biệt là các cuộc khai quật ở Hoa Lư và Thăng Long do chính tác giả chủ trì, đã tìm ra mối quan hệ khăng khít giữa kinh đô Hoa Lư của nhà Đinh - Tiền Lê với kinh đô Thăng Long của nhà Lý.

TS. Vũ Văn Quân (trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn) cho người đọc một hình dung tổng thể mà tương đối cụ thể về những cố gắng phi thường của nhà Tiền Lê trong việc xác lập phạm vi đất nước quản lý chặt chẽ các địa phương, thông qua các biện pháp hành chính và kiên quyết trấn áp các hoạt động chống đối. Những nỗ lực đó đã củng cố ý thức của người Việt về chủ quyền lãnh thổ quốc gia, tăng cường khả năng và hiệu quả về tố chức và quản lý đất nước, tạo tiền đề giúp Lý Công Uẩn vững tin dời đô từ Hoa Lư ra Đại La.

Nguyễn Ngọc Phúc (Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn) nghiên cứu về vai trò cũng như ảnh hưởng của Phật giáo đối với xã hội Đại Cồ Việt thời Tiền Lê. Nhiều vị đại sư danh tiếng như Khuông Việt, Pháp Thuận, Vạn Hạnh. . . đã được Lê Hoàn rất mực tin cậy và trở thành cố vấn cao cấp cho ông trong mọi việc quốc gía đại sự.

Trong số các bậc đại sư đó, thiền sư Vạn Hạnh có vai trò hết sức đặc biệt đối với nhà Tiền Lê. Ông nuôi dạy Lý Công Uẩn từ bé và tiến cử Lý Công Uẩn với Lê Hoàn. Năm 1005, Lê Hoàn mất, nhà Tiền Lê tan rã, Vạn Hạnh tìm mọi cách vận động, tạo cơ hội cho Lý Công Uẩn lên ngôi, lập ra vương triều Lý. Sự nghiệp xây dựng vương triều Lý, định đô Thăng Long của Lý Công Uẩn có bàn tay sắp đặt của thiền sư Vạn Hạnh và cả sự đóng góp dù không trực tiếp của Lê Hoàn.

TS. Nguyễn Văn Kim (trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn) muốn nhìn nhận và đánh giá thế kỷ thứ X như một bước ngoặt của lịch sử Việt Nam trong mối tương quan với môi trường chính trị, văn hoá khu vực Đông á. Tác giả cho rằng ý thức dân tộc và hành trình giành độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi, bao trùm toàn bộ lịch sử Việt Nam thếkỷ X. Tinh thần và ý chí mãnh liệt về chủ quyền dân tộc là động lực mạnh mẽ phục hưng đất nước, đưa Đại Việt nhanh chóng trở thành một quốc gia cường thịnh ở Đông Nam á. Đấy cũng chính là tiền đề, bối cảnh chung của công cuộc định đô Thăng Long.

Trên đây chỉ là đôi nét tóm lược những công trình khoa học vốn rất công phu và sâu sắc của các nhà khoa học, trong đó có nhiều chuyên gia đầu ngành chuyên tâm nghiên cứu về thế kỷ thứ X. Người được phân công làm tổng thuật thật sự hoang mang vì lượng sức mình không thể lĩnh hội hết được những ý tứ cao sâu trong hơn ba chục bài viết về một sự nghiệp vĩ đại đã đi cùng đất nước nghìn năm và mãi mãi được tôn vinh cùng đất nước.

Tuy không phải tất cả các ý kiến đã hoàn toàn thống nhất, không phải tất cả các vấn đề đặt ra đã được giải quyết trong Hội thảo, nhưng Hội thảo khoa học Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn thực sự là một bước tiến trong quá trình nghiên cứu về Lê Hoàn, nhà Tiền Lê, thế kỷ X và bối cảnh định đô Thăng Long, phản ánh được những thành tựu mới của sử học Việt Nam.

Đây không chỉ là tấm lòng của các lớp cháu con đối với công lao và sự nghiệp của người Anh hùng dân tộc Lê Hoàn nhân dịp kỷ niệm 1.000 năm ngày mất của ông, mà còn là một đóng góp khoa học thiết thực trong dịp kỷ niệm 995 năm, hướng tới kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.
 
Phần một

QUÊ HƯƠNG, GIA THẾ, CUỘC ĐỜI
VÀ SỰ NGHIỆP CỦA LÊ HOÀN

GÓP THÊM TƯ LIỆU NGHIÊN CỨU VỀ LÊ HOÀN
Mai Khánh
Bảo tàng tỉnh Hà Nam.


Trước nay đã có nhiều nhà nghiên cứu viết bài về Lê Hoàn. Cũng đã có một số Hội nghị khoa học tập trung nhiều nhà khoa học hội thảo về thế kỷ X nói chung và thân thế, sự nghiệp của Lê Hoàn nói riêng. Trong tiểu luận này chúng tôi mong muốn đóng góp một số tư liệu, nhất là cung cấp những tư liệu điền dã, truyền thuyết sưu tầm ở địa phương có mối liên quan mật thiết, gắn bó với Lê Hoàn.

1. Về quê hương Lê Hoàn

Khảo sát tài liệu thư tịch, đặc biệt là của các sử gia thời phong kiến và của các nhà nghiên cứu về sau, chúng tôi thấy quê hương Lê Hoàn có mấy thuyết như sau:

1.1 Lê Hoàn quê ở Trường Châu

Ý kiến này được thể hiện trong cuốn Việt sử lược mà nhiều nhà sử học cho rằng ra đời vào thời Trần (thế kỷ XIV) là sự tóm lược cuốn Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu hoàn thành năm 1272, nay đã thất truyền. Theo Việt sử lược: “Đại Hành vương huý là Hoàn, họ Lê người Trường Châu, cha là Mịch, mẹ họ Đặng, khi xưa có mang nằm mộng thấy trong bụng có cánh hoa sen, bỗng chốc kết thành hạt, hÁi lấy chia cho mọi người ăn, khi tỉnh dậy không hiểu duyên cớ ra sao” (1). Ở một đoạn khác, Việt sử lược cho biết: “Năm ất Tỵ hiệu ứng Thiên năm thứ 11 ( 1.005 ) vua mất ở điện Trường Xuân, gọi là Đại Hành vương, nhân lấy làm miếu hiệu, ở ngôi 27 năm, thọ 65 tuổi cải nguyên ba lần, an táng ở Đức Lăng, tại Trường Châu” (2).

Trường Châu ở thế kỷ X là đất Ninh Bình ngày nay. Chúng tôi không đi sâu tìm hiểu cương vực của nó. Vấn đề ở đây là Trường Châu được Việt sử lược nêu ra lần đầu tiên là quê gốc của Lê Hoàn và cho biết cha tên là Mịch, mẹ họ Đặng. Các nhà viết sử về sau ít người theo thuyết Lê Hoàn quê ở Trường Châu.

1.2. Lê Hoàn quê ở Ái Châu (Ái Châu tức tỉnh Thanh Hoá ngày nay).

Thuyết Lê Hoàn quê ở Ái Châu số người ủng hộ nhiều hơn. Sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên soạn xong năm 1.479 nêu ra sớm nhất: “Vua họ Lê, huý là Hoàn, người Ái Châu... cha sinh ra vua là Mịch, mẹ là Đặng Thị”. Sách còn nói đến việc chiêm bao kỳ lạ của Đặng Thị khi mang thai, ngày tháng năm vua ra đời rồi sau khi cha mẹ mất sớm Lê Hoàn được viên quan sát họ Lê ở châu ấy nuôi làm con nuôi (3).


(1) Việt sử lược, Trần Quốc Vượng phiên dịch chú giải: Nxb Văn Sử Địa. N. 1960, trg.53-54.
(2) Việt sử lược. Sđđ, trg.60
(3) Ngô Sỹ Liên: Đại Việt sử ký toàn thư. T.1. Nxb Khoa học xã hội: N.1972, trg. 166.
 
Đồng ý với Ngô Sỹ Liên, Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí (1) cũng cho rằng Lê Hoàn người ở Ái Châu.

Một số nhà nghiên cứu về sau, có lẽ dựa vào các sách trên cũng đồng tình với nhận định quê Lê Hoàn ở Ái Châu, chẳng hạn như các tác giả của sách Các triều đại Việt Nam nhưng đưa ra một chi tiết: mẹ Lê Hoàn là Đặng Thị Sen chứ không gọi là Đặng Thị và nêu địa danh cụ thể: Lê Hoàn sinh năm 941 ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hoá (2).

1.3. Lê Hoàn quê ở Hà Nam

Thuyết này khoảng 15 năm trở lại đây mới gây được sự chú ý, nhờ việc so sánh đối chiếu các thư tịch cũ và đặc biệt là việc công bố những tư liệu khảo sát, điền dã, sưu tầm ở địa phương. Đã có một số nhà sử học ở Viện sử học Việt Nam, Khoa Lịch sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn) nêu nghi ngờ những ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư, đồng thời mạnh dạn đưa ra nhận định: Lê Hoàn quê ở Hà Nam.

Nhưng ngay các sử gia dưới thời phong kiến như Ngô Thì Sỹ - tác giả Đại Việt sử ký tiền biên in năm Canh Thìn niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8 (1.800) cũng đã đính chính: “xét thấy Lê Đại Hành là người làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm, chứ không phải người Ái Châu. Sử cũ chép nhầm” (3).

Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, phần ghi về lăng mộ ở huyện Thanh Liêm chép: “Mộ tổ Lê Đại Hành ở bên miếu xã Ninh Thái, huyện Thanh Liêm. Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sỹ chép Lê Đại Hành người xã Báo Thái, huyện Thanh Liêm (Bảo Thái tức Ninh Thái)” (4).

Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim - một cuốn sử sinh thời được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trọng (5) cũng khẳng định:

“Lê Hoàn là người làng Bảo Thái huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam bây giờ, làm quan Thập đạo tướng nhà Đinh” (6). Bảo Thái là tên xã từ thời Tây Sơn trở về trước, đời Nguyễn đổi gọi là Ninh Thái, nay là thôn Bảo Thái, còn gọi là thôn Cõi thuộc xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Đặc biệt Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố, sau khi điểm lại một số nhận định của các cuốn sử cũ đã nêu quan điểm:

“Khâm đình Việt sử (tức Khâm định Việt sử thông giám cương mục (của Quốc sử quán triều Nguyễn - M.KH) chép Lê Hoàn là người xã Bảo Thái, huyện Thanh Liêm, Hà Nam (Khâm định Việt sử, làm vào năm 1.856 đến 1.884). Ngự chế Việt sử tổng vịnh (Q. 1 , tờ 21 a) theo Đại Việt sử ký toàn thư chép là người Ái Châu (Việt sử tổng vịnh làm vào năm 1.874 đến 1.877), thế thì nên theo quyển nào là phải? Thanh Liêm là nguyên quán của cha mẹ. Ái Châu là chỗ ở của cha nuôi, mỗi quyển chép theo một nghĩa” (7).


(1) Phan Huy Chú : Lịch triều hiến chương loại chí, T.1 Nxb Khoa học xã hội, N.1992, trg.191
(2) Quỳnh Cư. Đỗ Đức Hùng: Các triều đại việt Nam. Nxb Thanh niên, H.1999. trg.72.
(3) Ngô Thì Sỹ: Đại việt sử ký nền biên, Nxb Khoa học xã hội, N.1997. trg. 166.
(4) Đại Nam nhât thống chí. T.2. Nxb Thuận Hoá. Huế. 1992. trg. 207.
(5) Lê Thị Kim Dung: Bác Hồ đọc sách sử. T/c Xưa & Nam số 62, IV- 1.999 .
(6) Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược, N. 1928. trg. 72.
(7) Ứng Hoè Nguyễn Văn Tố: Đại Nam dật sử (sử ta so lưới sử Tàu). Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. N. 1997. trg. 235.
Ông còn giải thích: “Chỗ này sử Khâm định chép: “Lê quan sát Ái Châu". Toàn thư chép là “Bản châu" có Lê quan sát. Ta không nên vin chữ “bản châu” ấy mà cho Lê Hoàn cũng là người Ái Châu. “Bản châu’ nghĩa là châu mình tức là làng Bảo Thái của Lê Hoàn. ông Lê quan sát là người đồng sự với Lê Hoàn mà làm quan sát Châu Ái” (1).

Sử cũ cũng nhắc tới Trần Bình Trọng quê ở xã Liêm Cần ngày nay là hậu duệ của Lê Hoàn. Vị danh tướng thời Trần này được ban quốc tính vì có nhiều công trạng, đặc biệt là hy sinh trên dòng sông Thiên Mạc để bảo vệ vua quan nhà Trần rút về Thiên Trường trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai ( 1.285 ).

1.4. Thuyết trung dung

Có lẽ để dung hoà giữa hai loại ý kiến Lê Hoàn quê ở Thanh Hoá và Lê Hoàn quê ở Hà Nam hoặc vì một lý do nào đó mà có một số nhà nghiên cứu đã đưa ra ý kiến nhận định Lê Hoàn có liên quan đến cả hai địa phương. Các tác giả Lịch sử Hà Nam Ninh (tập I) đã nhận định: “Lê Hoàn quê nội ở Thanh Liêm (Hà Nam Ninh), quê ngoại ở Kẻ Sập (Thanh Hoá), Tuy sinh ở đất Ái Châu nhưng ông chỉ sống ở đấy hơn 10 năm, sau trở về Thanh Liêm”. Trong chú thích, dựa theo truyền thuyết, các lác giả cho biết ông nội Lê Hoàn là Lê Lộc, cha là Lê Hiền kết duyên với một cô gái nghèo ở Kẻ Sập (Thanh Hoá) tên là Đặng Thị (2).

Một nhà sử học khác cũng có ý kiến tương tự, cho rằng Lê Hoàn “là đứa trẻ mồ côi ở làng Kẻ Sập - quê ngoại, chàng trai nghèo ở miền Bảo Thái quê nội” (3).

Lại có một cách nói nước đôi, chẳng hạn: “...Vua sáng lập nhà Tiền Lê. Chính quê có thuyết nói là ở huyện Thanh Liêm (Hà Nam), có tài liệu lại khẳng định ở làng Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá” (4).

Điểm lại những ý kiến nêu trên từ xưa tới nay chắc rằng chưa đầy đủ, chúng tôi cho rằng vấn đề quê hương Lê Hoàn còn cần phải tiếp tục nghiên cứu. Tuy nhiên tầm vóc và đóng góp cho lịch sử dân tộc đâu có phụ thuộc vào việc ông sinh ra ở đâu Vả chăng một con người chỉ có một quê hương hay hai, ba quê hương cũng là chuyện thường tình. Chỉ khi viết tiểu sử một nhân vật lịch sử thì vấn đề quê quán và nhất là sự tác động, ảnh hưởng của gia đình, môi trường, quê hương mới đặt ra một cách đúng mức. Chính vì vậy, chúng tôi để ngỏ quê quán của Lệ Hoàn để mong đợi các bậc học giả cho ý kiến.

2. Tư liệu khảo sát và sưu tầm tại địa phương

Với ý muốn đóng góp thêm nguồn tư liệu cho việc nghiên cứu về Lê Hoàn chúng tôi đã tổ chức khảo sát điền dã, sưu tầm tư liệu, nhất là truyền thuyết, địa danh, trọng tâm là ở xã Liêm Cần và vùng phụ cận (huyện Thanh Liêm).

(1) Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố: Đại Nam dật sử ( sử ta so với sử Tàu), Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, N. 1997. trg. 236.
(2) Lịch sử Hà Nam Ninh, t.1. Phòng thông sử UBND tỉnh Hà Nam Ninh xuất bản. NĐ. 1988, trg. 85.
(3) Lê Văn Lan: Có một giai đoạn văn hoá Hoa Lư, in trong: Thế kỷ X-những vấn đề lịch sử (Nxb Khoa học xã hội. N. 1984. trg. 287.
(4) Từ điển văn hoá Việt Nam (phần Nhân vật chí), Nxb Văn hoá-Thông tin. N. 1993: trg 208.
 
2.1. Di tích và văn học dân gian

Từ lâu trong nhân dân xã Liêm Cần và vùng phụ cận đã lưu truyền một bài vè dài nói về Đinh bộ Lĩnh, trong đó có câu:

Về sau lại gặp Lê Hoàn
Quê vùng Bảo Thái, ngoài ngàn Thanh Liêm

Bảo Thái là tên cũ của xã Liêm Cần ngày nay, thuộc huyện Thanh Liêm tỉnh Hà Nam. Địa danh Bảo Thái có từ rất xưa. Truyền thuyết dân gian và tư liệu khảo sát đã cho thấy nơi đây vào thế kỷ X còn là vùng rừng núi và đầm lầy rậm rạp, lắm hổ, lắm trăn, lắm muông thú, nay còn lưu lại địa danh Động Xá, Vân Lâm, Vực Thôn.

Chứng tích qua địa danh và thực địa liên quan đến Lê Hoàn trên đất xã Liêm Cần và các xã lân cận còn lại khá đậm đặc. Ở xã Liêm Cần còn khu đền Lăng ở phía tây núi Lăng - di tích đã được xếp hạng cấp quốc gia.

Trước kia có ba ngôi đền: đền Thượng thờ Đinh Tiên Hoàng, tương truyền đền xây dựng từ khi Đinh Tiên Hoàng còn tại vị nên gọi là sinh từ, do vua cho lập khi về thăm quê Thập đạo tướng quân Lê Hoàn. Đền Trung thờ Lê Hoàn và hai con ông là Long Việt và Long Đĩnh. Hai ngôi đền trên đã bị phá huỷ trong chiến tranh. Đền Hạ thờ công đồng tứ vị hoàng đế (Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lê Trung Tông, Lê Ngọa Triều) và tam vị đại vương nguyễn Minh, Thiên Cương và Nhữ Hoàng Đê) đều là người địa phương theo Lê Hoàn phò nghiệp lớn.

Khu đền Lăng gần chân núi Bảo Cái còn gọi là núi Cõi, một trong những ngọn núi đất, cùng với núi Lăng, núi Vực, núi Đò, núi Bông. Núi Bảo Cái cao khoảng 63m, dài gần 500m xung quanh có các núi thấp án ngữ. Núi Đò bên bờ sông Hương Kiều, nơi Lê Hoàn xem duyệt thuỷ quân và bộ binh. Núi Tăng, núi Bông án ngữ mất trước giàn thề (sẽ nói ở dưới), núi Vực chắn mặt sau. Giữa núi Lăng có khu đất bằng phẳng, tương truyền là nền nhà cũ của ông Lê Lộc cũng là nơi Lê Hoàn khi đã khôn lớn trở về quê nhà dựng trường dạy học.

Cách núi Bảo Cái không xa còn khoảnh đất có tên là Mả Dấu, còn gọi là Hòn Ngọc hay Hàm Rồng - nơi đặt mộ cụ Lê Lộc ông nội Lê Hoàn, dân gian truyền do hổ táng, mối đùn mà thành. Nay địa phương đã xây thành lăng mộ cụ Lê Lộc.

Dưới chân núi Bảo Cái còn khu đất dân vẫn gọi là giàn thề, xưa kia là một vầng đất đá rộng. Các cụ già cao tuổi cho biết: đây là nơi xưa kia Lê Hoàn cùng các tướng sĩ như ông Nguyễn Minh, ông Thiên Cương, bà Nhữ Hoàng Đế cho đắp lên làm đàn tế trời đất, thề một lòng một dạ sống chết có nhau để giúp nước.

Phương ngôn ở các xã Liêm Cần, Liêm Túc, Liêm Sơn (Thanh Liêm) cũng nói về việc này: “Giàn thề Bảo Cái vạn đại đế vương”. Quanh khu vực đền Lăng còn có các thửa đất mang tên Đồng Đò - nơi Lê Hoàn đóng đại bản doanh khi dấy nghĩa để theo Đinh Bộ Lĩnh, trại Nhuế gần đấy là nơi đại quân của Lê Hoàn đóng giữ. Đất Lẫm Đông và Lẫm Đoài là hai kho binh lương của Lê Hoàn. Cánh đồng Mã Trực là trại ngựa và thả ngựa. Cánh đồng Cửa Hồ nơi Lê Hoàn và tướng sĩ thường rửa gươm, mài gươm trước và sau mỗi trận đánh.

Đất Vườn Già trong thôn Cõi là nơi nuôi dưỡng những binh sĩ già yếu của Lê Hoàn. Nơi đây có đường Xứ Vương, Lê Hoàn thường đi dạo. Thềm Lều, tương truyền ông Lê Lộc tổ phụ Lê Hoàn dựng lều trông đó. Còn khoảnh đất rộng ba mẫu, có tên “Kỳ Tự” là đất vua Đinh cấp cho làng làm hương hỏa cho mình.
Hai xã Thanh Bình, Thanh Lưu lân cận với xã Liêm Cần cũng lưu nhiều dấu tích liên quan đến khởi nghiệp của Lê Hoàn.

Phần lớn xã Thanh Bình xưa kia thuộc địa phận xã Bảo Thái Các ông như Thủ Cồng, giữ cồng trận cho Lê Hoàn, ông Cà Nô người dân tộc thiểu số vào sinh ra tử với Lê Hoàn được dân Thanh Bình thờ làm Thành hoàng.

Tại xã Thanh Lưu có ngôi đình ở thôn Cẩm Du thời Lê Hoàn và hai ông Quang Minh, Huyền Minh đã theo Lê Hoàn giúp Đinh Bộ Lĩnh. Ở đây còn dấu tích căn cứ luyện quân của Lê Hoàn và hai ông ở Thung Bằng trong núi Con Voi (Tượng Sơn).

Truyền thuyết và địa danh còn phản ánh sự quan tâm của Lê Hoàn và triều đình Tiền Lê đối với dân xã Bảo Thái (Liêm Cần nay). Ngoài việc cho lập sinh từ vua Lê Đại Hành trên nền nhà cũ xưa kia Lê Hoàn dạy học, triều đình còn cấp cho dân vàng bạc để tậu ruộng lấy hoa lợi làm hương hoả và dựng đền thờ. Triều đình cũng trả ơn cho dân sở tại bằng việc cấp cho mỗi đinh 1 mẫu 2 sào ruộng để cày cấy (tới 700 mẫu). Ruộng hương hoả của khu đền Lăng có 12 mẫu, ngoài ra có 6 sào dành cho việc sắm ba cây đình liêu vào dịp hội đám long trọng và đất gọi là vườn tịch để chi phí cho tế lễ.

Sau nhiều năm sưu tầm bền bỉ, ông Bùi Văn Cường - hội viên Hội văn nghệ dân gian Việt Nam đã phát hiện được một tác phẩm văn học dân gian cổ bằng chữ Nôm dài gần 10.000 câu lục bát nói về thời Đinh - Tiền Lê, trên địa bàn văn hoá Liễu Đôi gồm nhiều xã của huyện Thanh Liêm (Liêm Cần, Liêm Túc, Liêm Thuận, Liêm Sơn, Thanh Lưu, Thanh Bình. . . ).

Tác phẩm kể về nguồn gốc, lai lịch của Lê Hoàn. con đường đi đến sự nghiệp rạng rỡ, oanh liệt của ông và các nhân vật liên quan, nổi bật là Dương Vân Nga. Đáng lưu ý là tác phẩm này còn bổ sung thêm các địa danh trong thời gian Lê Hoàn lập căn cứ luyện quân trong vùng và ở Bảo Thái, chẳng hạn như Hàm Rồng, Sông Cùng, Đồng Chấu... đặc biệt là nói đến cánh đồng Mả Rút. “Rút” có nghĩa là rút lui, rút quân. Qua tác phẩm chúng ta biết thêm nhiều điều khá tỉ mỉ về sự kiện này (1).
 
2.2. Ngọc phả và thư của các nhà khoa bảng

Ngọc phả

Tư liệu Hán văn tại đền Lăng gồm nhiều loại: văn tế, câu đối đại tự chữ khắc trên thượng lương, bài vị, văn chương, ở đây chúng tôi giới thiệu bản ngọc phả ba vị hoàng đế thời Tiền Lê được lưu giữ tại đền. Tuy nhiên vì khuôn khổ bài viết nên chúng tôi chỉ trích dẫn đoạn đáng lưu ý (2).

“ở nước ta trên mảnh đất xã Trường Yên Thượng (3). vùng Hoa Lư, thời xưa có ông Lê Lộc, lấy vợ người cùng xã tên là Cao Thị Chương, ông bà sinh được một người con trai tên là Hiền. Khi ấy cảnh nhà nghèo thiếu, hàng ngày ăn uống chẳng đủ, từng đã trải qua vài năm mất mùa mọi người đói khát, cả phủ Trường Yên trộm cướp nổi lên như ong vỡ tổ. ông than vãn: “Đã nghèo hèn thế này lại còn gặp cảnh loạn ly thì sao có thể sống được, thôi đành dời đi nơi khác kiếm chốn đất lành cơ trú vậy”.

Thế rồi vợ chồng gồng gánh gia tài, một buồm trăng gió, non nước bốn bề, bình bồng lặn lội ra đi. Một ngày kia đi tới xã Bảo Thái, tổng Hoà Ngãi, huyện Thanh Liêm (4), phủ Lý Nhân, đạo Sơn Nam bây giờ là nơi ở của bà ngoại thì dừng lại. Tại đây có ngôi chùa cổ, lâu ngày đầy vẻ hoang lương, trong vùng đất sơn thuỷ hữu tình, dân cơ no đủ, chưa có sơ trụ trì, vợ chồng ông nói với phụ lão sở tại xin ở lại lo tu sửa tượng phật, cầu Phật chứng ban cho phúc lộc.


(1) Tác phẩm khuyết danh. căn cứ vào nội dung người sưu tầm đặt tên là Hoàn vương ca tích.
(2) Bản dịch ngọc phả của Dương Văn Vượng.
(3) Nay là thôn Yên Thượng xã Trường Yên. huyện Hoa Lư. tỉnh Ninh Bình.
(4) Huyện Thanh Liêm tên huyện có từ đời Trần. lúc đầu chữ Thanh có nghĩa là xanh. sau đổi Thanh là trong.
Thế rồi vợ chồng ông dựng một ngôi nhà cỏ dưới chân núi để ở. Từ lúc an cư, ông Lê Lộc trở thành vị ngư phủ, từ xã Ứng Liêm (1) về đến nơi ở hết thảy các phép bắt cá trong vùng ngòi lạch đều quy tụ về nơi ông cả.

Bỗng nhiên từ đâu có con hổ trắng đến bên nhà rồi thường qua lại như có ý xin ăn, ông lấy cơm cá cho án, dần dần hổ coi ông có tình như người nuôi chó, không hề có ý hại người phá của. Ông liền coi hổ như con nuôi và đặt tên cho hổ là Sơn Trưởng”.

Tiếp theo bản ngọc phả nói đến một hôm mưa gió ông đi đổ đó hổ nhầm nên tát chết ông. Hổ hối hận vác xác ông đến phía bắc núi Bảo Thái mai táng rồi bỏ đi nơi khác.

Ngọc phả chép tiếp: “Con ông là Hiền đau xót không dứt, ba năm tang chế xong, Lê Hiền về quê cũ lấy người xã Trường Yên Hạ (2)tên là Đặng Thị Khiết làm vợ, chuyên tâm làm việc phúc thiện được mọi người tôn kính. Làm ăn là thế, nhưng đến năm ông ngoài 60 tuổi, Đặng Thị gần 40 tuổi mà vẫn chưa có con nối dõi. Một chiều lúc hoàng hôn vừa xuống, Đặng Thị mơ thấy cưỡi rồng lên trời ôm được vầng thái dương mang về, rồi Đặng Thị có mang, tới ngày 10 tháng Giêng năm Tân Sửu (941) sinh ra một trai mặt mũi khôi ngô, tinh thần sáng suốt, cha mẹ mừng quýnh nghĩ là ông trời ban cho ơn huệ, đất phúc đến tuần hưng thịnh bèn đặt tên là Hoàn.

Ngày qua tháng lại, khi lên bảy tuổi chẳng may vận nhà gặp cơn nguy biến không lường trước được, ông tự nhiên không bệnh mà qua đời, bà cũng tiếp theo từ giã cõi trần. Từ đó gia kế cùng quẫn, Lê Hoàn phải tìm đến nương nhờ ông quan sát sứ họ Lê ở Bản châu.

Năm 11 tuổi Lê Hoàn tìm thầy đến học rồi trở thành văn chương võ nghệ tinh thục, bạn bè bằng vai ai cũng sợ phục . Năm 6 tuổi Lê Hoàn trở về Bảo Thái thăm lại mộ ông nội rồi ở lại luôn dạy dỗ trẻ em trong xã học hành. Tám năm trôi qua, Lê Hoàn nghe Đinh công đại khởi nghĩa quân ở động Hoa Lư, bèn tìm đến đi theo, từ đó chúa tôi cùng đồng lòng hợp sức, đánh đông dẹp bắc, không mấy mà dẹp xong 12 sứ quân.

Thiên hạ thái bình, Đinh công lên ngôi ở thành Hoa Lư, xưng hiệu là Đại thắng minh hoàng đế, phong thưởng uý lạo cho các công thần, ông Hoàn được phong là Thập đạo tướng quân. Ông vâng mệnh lạy tạ dưới bệ xin về thăm viếng phần mộ tiên tổ. Được vua chuẩn y, ông bèn về tế lễ gia tiên tại hai xã Thượng Hạ Trường Yên, rồi về Bảo Thái thăm mộ ông Lê Lộc, cho dân dựng một ngôi sinh từ tại nơi nam trước ngồi dạy học và cho dân vàng bạc khuyên mua ao ruộng để phục vụ việc nhang khói sau này”.

Phần cuối của bản ngọc phả kể sự việc Lê Hoàn trở về triều đình, rồi chín năm sau Đinh Tiên Hoàng và con là Đinh Liễn bị Đỗ Thích sát hại, Đinh Toàn lên ngôi, Dương hậu trông coi chính sự. Lúc giặc Tống tới xâm lấn Thái hậu đem long bào khoác vào người Lê Hoàn khuyên ông đem quân đánh giặc . Thắng trận ông lên ngôi hoàng đế, lấy hiệu là Đại Hành, ở ngôi được 24 năm thì Lê Hoàn băng, con trai thứ ba là Long Việt nối ngôi? ban 50 đạo sắc cho phép các nơi dựng đền thờ vua. Dân Bảo Thái cũng tới kinh rước sắc về thờ.

Trung Tông ở ngôi ba ngày thì bị con thứ năm của vua là Long Đĩnh con cùng mẹ giết chết đoạt ngôi. Long Đĩnh tàn ác đặt ra nhiều thứ thuế phiền nhiễu nhân dân, lại ham mê tửu sắc. Ở ngôi được 4 năm thì Long Đĩnh mất, Lý Công Uẩn người Cổ Pháp kế vị và dời đô ra Thăng Long, rồi chiếu cho xã Bảo Thái phụng sự ba vị hoàng đế triều Lê là Thượng đẳng thần. Ngọc phả cũng quy định lệ kiêng huý Lê Hoàn, Lê Long Việt, Lê Long Đĩnh đặt ra lễ nghi long các ngày sinh ngày hoá của ba vua.

Cuối cùng của ngọc phả là dòng lạc khoản: “Ngày tết tháng mùa đông niên hiệu Hồng Phúc năm đầu ( 1.572 )”. Hàn lâm viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn.

Ngày 18 tháng 11 niên hiệu Vĩnh Hựu 2 (1.736) Quản giám bách thần tri điện Hùng Lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền chép lại.


(1) Nay là thôn ứng Liêm, xã Thanh Hà. huyện Thanh Liêm. tỉnh Hà Nam.
(2) Nay là thôn Yên Hạ. xã Trường Yên. huyện Hoa Lư. tỉnh Ninh Bình.
 
Các bài thơ

Bản ngọc phả trên là bản gốc, cùng với các tư liệu Hán văn được lưu giữ ở đền Lăng, chúng tôi còn sưu tầm được 5 bài thơ của các nhà khoa bảng đề vịnh khi đến thăm di tích (1).

Chúng tôi xin giới thiệu hai bài (bản dịch thơ):

Bài thứ nhất của Lê Tung:

Ngôi mộ hổ táng họ Lê
Sông hồ ngàn dặm tới nơi đây
Thấp thoáng tường rêu dưới bóng cây
Khe nước núi Bông đi đổ đó
Táng trên non bắc hổ mang thây
Điềm lành sinh cháu ra làm tướng
ngôi đế nhiều mưu việc khó thay
Sách nói ba đời (còn rõ rệt
Thì ra bốn mặt thiếu cao dầy.

Bài thứ hai của Bạch Đông Ôn:

Qua miếu thờ vua Lê đề thơ
Đất ẩm trời thanh cây cỏ tối
Đầu xuân dến Thái tới thăm chơi
Nền xưa dạy học nay còn thấy
Nhà cũ ông bà trước mắt coi
Sự nghiệp cứu dân bia còn chữ
Anh hùng giữ nước tiếng trên đời
Văn công võ lược thiên triều kính
Khói lạnh tường xiên nắng xế soi.


2.3. Lê Hoàn cày tịch điền ở Đọi Sơn

Nhà vua mở nghiệp nhà Tiền Lê cũng là vị vua mở đầu cho lễ tịch điền nhằm khuyến khích sản xuất nông nghiệp dưới chế độ phong kiến Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư đã ghi chép sự việc trên như sau: Đinh Hợi năm thứ 8 (987) mùa xuân vua bắt đầu cày ruộng tịch điền ở núi Đọi, được một chĩnh nhỏ vàng, lại cày ở núi Bàn Hải được một chĩnh nhỏ bạc, vì thế đặt tên là ruộng kim ngân” (2). Đại Nam nhân thống chí cũng ghi: “ở xã Đọi Sơn, đông nam huyện Duy Tiên, Lê Đại Hành cày ruộng tịch điền, ở đây bắt được một lọ vàng cốm nên gọi là kim điền”.


(1) Thơ của các nhà khoa bảng :
- Lê Tung người xã An Cừ nay thuộc xã Liêm Thuận, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. đỗ Hoàng giáp năm 1484.
- Bạch Đông Ôn, người xã Lam Hạ, nay thuộc phường Quang Trung. thị xã Phủ Lý. tỉnh Hà Nam, đỗ Hoàng giáp năm 1835.
- Phạm Đình Kính. người xã Vĩnh Lại. huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. - đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1.710.
- Vũ Huy Trác, người xã Lộc Điền. huyện Nghĩa Hưng. tỉnh Nam Định. đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1.772.
- Khiếu Năng Tĩnh, người xã Chân Mỹ. huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân năm 1880.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư, T.1. Sđd. Nxb Khoa học xã hội. N. 1997 - trg.137.
Núi Đọi thì đã rõ, còn núi Bàn Hải chưa xác minh được, chúng tôi ngờ rằng cũng trên đất Hà Nam. Thời gian đã xa nhưng truyền thuyết và địa danh còn ghi nhớ sự kiện này. Theo nhân dân địa phương nhà vua cày ruộng ở cánh đồng nằm sát chân núi phía tây. Ngay trên cánh đồng này có dấu vết một nền nhà vuông vắn rộng 6 sào, cao hơn các ruộng xung quanh 0,3m gọi là nhà Hiến, là nơi dâng của ngon vật lạ khi vua về cày ruộng.

Cách nhà Hiến 200m về phía đông nam còn dấu vết một nền nhà vuông nữa rộng khoảng 3 mẫu, cao hơn xung quanh 4,4m dân địa phương vẫn gọi là Dinh ngoài. Cách Dinh ngoài 50m về phía đông gọi là Dinh trong, nằm sát chân núi. Chỗ này cũng rộng khoảng 3 mẫu, dấu vết một nền nhà vẫn còn, khi nhân dân đào giếng đã bắt gặp nhiều mảnh gốm cổ, ở giữa Dinh trong và Dinh ngoài có một nơi được gọi là Tàu ngựa, là chỗ nhốt ngựa của nhà vua.

3. Kết luận

Nguồn sử liệu cả vật thể và phi vật thể về Lê Hoàn trên đất Hà Nam, đặc biệt ở xã Liêm Cần và các xã lân cận của huyện Thanh Liêm thật phong phú, dồi dào. Chúng tôi chưa được biết nơi nào có trữ lượng như thế. Điều này không phải là ngẫu nhiên, nó chứng tỏ Lê Hoàn có mối liên quan mật thiết với vùng đất này, đã in đậm dấu ấn trong tâm thức dân gian. Đặc biệt là truyền thuyết khá đậm đặc, tất nhiên là truyền thuyết có giới hạn của nó, không hoàn toàn là sử liệu sát thực. Song vẫn chứa đựng phản ánh một phần lịch sử nhất định.

Sử cũ cũng như các nhà sử học ngày nay cũng đã dành cho việc xác định quê hương Lê Hoàn một sự quan tâm với bốn thuyết chúng tôi đã dẫn ra ở trên. Song chúng tôi muốn lưu ý đến sự ghi chép trong bản ngọc phả, ở đây cho thấy quê gốc của Lê Hoàn là ở Trường Yên tức Trường Châu có phạm vi rộng hơn (theo Việt sử lược).

Còn Bảo Thái, Thanh Liêm, Hà Nam là nơi ông nội Lê Hoàn đến sinh cơ lập nghiệp và mất ở đó. Cha Lê Hoàn là Lê Hiền, mẹ là Đặng Thị Khiết, không phải là Mịch hay Đặng Thị như ghi chép của một số sách sử cũ. Một chi tiết đáng chú ý là Lê Hoàn làm con nuôi vị quan sát sứ họ Lê khi ông Lê Hiền và bà Đặng Thị Khiết mất ở quê gốc, tức Trường Yên Thượng.

Ngọc phả không nhắc gì đến việc Lê Hiền lấy vợ ở Ái Châu hoặc Lê Hoàn di cư cùng mẹ đến Ái Châu. Vậy theo ngọc phả thì vị cha nuôi của Lê Hoàn làm quan ở Trường Châu. Nêu lên sự lưu ý này không có nghĩa chúng tôi hoàn toàn tin ở ngọc phả, mà chỉ muốn đề xuất ý kiến để tham khảo.

Lê Hoàn, theo chính sử, ông sinh ngày 15 tháng 7, mùa thu , năm Tân Sửu (941 ), mất vào mùa xuân, tháng 3 năm 1.005. Cuộc đời Lê Hoàn cho đến nay vẫn còn bao phủ lớp sương huyền thoại về quê quán, gia đình.

Sử biên niên cho biết, Lê Hoàn là một võ tướng lừng vào sinh ra tử, góp nhiều công sức cho sự nghiệp dẹp loạn 12 sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh. Đến năm 30 tuổi (năm 971 ) do có nhiều quân công, ông được Đinh Tiên Hoàng phong làm Thập đạo tướng quân, thống lĩnh toàn bộ lực lượng quân sự trong cả nước. Bên cạnh đó, Lê Hoàn đã đóng góp rất nhiều vào công cuộc bảo vệ chủ quyền, phá Tống bình Chiêm. ổn định đất nước trong thế kỷ X-thế kỷ bản lề của quốc gia Đại Việt.

Đánh giá về sự nghiệp quân sự của Lê Hoàn, Đại Việt sử ký toàn thư có ba lời bình:

“Vua trừ nội gian mà lấy được nước, đuổi giặc ngoài để yên dân, trong nước thanh bình, bắc nam vô sự”.

Lời bình thứ hai của sử gia Lê Văn Hưu:

“Lê Đại Hành giết Đinh Điền, bắt Nguyễn Bặc, tóm Quân Biện, Phụng Huân dễ như lùa trẻ con, như sai nô lệ, chưa đầy vài năm mà bờ cõi định yên, công đánh dẹp chiến thắng dẫu là nhà Hán, nhà Đường cũng không hơn được. Có người hỏi: Đại Hành với Lý Thái Tổ ai hơn? Thưa rằng: kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nước Việt ta, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn”.

Và lời bình thứ ba của sử thần Ngô Sĩ Liên:

“Vua đánh đâu được đấy, chém vua Chiêm Thành để rửa cái nhục phiên di bắt giữ sứ thần, ra oai với người Tống thì Lý Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ hơn” (1).

Những lời bình sử của các sử gia phong kiến là những lời đánh giá sự nghiệp quân sự hiển hách của Lê Hoàn. Bài viết này muốn góp thêm một ý kiến về bước khởi đầu sự nghiệp quân sự của Lê Hoàn qua khảo sát vùng đất Liêm Cần (Thanh Liêm - Hà Nam).

1. Vài nét về vùng đất Liêm Cần

Cách thị xã Phủ Lý 15km về phía nam, theo đường 21 về Nam Định. đến ngã tư phố Động rẽ phải sẽ đến xã Liêm Cần, thuộc huyện Thanh Liêm, Hà Nam.

Xã Liêm Cần hiện có 9 thôn là thôn Nhất, thôn Nhị, thôn Tam, thôn Tứ. thôn Ngũ, thôn Vực, thôn Cõi, thôn Nhuế và thôn Đò. Đầu thế kỷ XX, phạm vi hành chính của xã Liêm Cần thuộc hai xã là Động Xá và Ninh Thái. Xã Động Xá thuộc tổng Động Xá, gồm 6 thôn là Nhất Giáp, Nhị Giáp, Tam Giáp, Tứ Giáp, Ngũ Giáp và Yên Tử. Xã Ninh Thái thuộc tổng Hoà Ngải có bốn thôn là Cõi Thôn, Vực Thôn, Bến Thôn và Nhuế Thôn (2). Đầu thế kỷ XIX, xã Động Xá thuộc tổng Động Xá, Ninh Thái thuộc tổng Hương Ngải. Cả Động Xá và Ninh Thái đều thuộc huyện Thanh Liêm phủ Lỵ Nhân, trấn Sơn Nam Thượng (3).



79.gif
Khoa Lịch sử, Trường Đại học KHXH&NV. Đại học Quốc gia Hà Nội.
(**) Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển. Đại học Quốc gia Hà Nội.
(1).Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb Khoa học xã hội, N. 1.993. T.1 . tr.220.
(2) Vũ Thị Linh Hương. Nguyễn Văn Nguyên. Philippe Papin: Địa danh là tài liệu lưu trưc về làng xã Bắc Kỳ. N. 1999, tr.312-313. Về địa danh Bến Thôn. tại địa phương hiện nay không có đìa danh này và trước kia cũng vậy Chúng tôi cho rằng có lẽ Bến Thôn ghi trong văn bản chính là Đò Thôn trên thực địa ngày nay.
(3) Các tổng trấn xã danh bị lãm (Tên làng xã Việt Nam dầu thế kỷ XIX thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra), Nxb Khoa học xã hội, N. 1.981 . tr.55.
 
Về địa danh Bảo Thái, do có lệnh kiêng huý Từ nghi Thái phi Nguyễn Thị Ngọc Bảo, vợ Trịnh Kiểm, mẹ Trịnh Tùng nên “Bảo Thái” được đổi thành “Ninh Thái”. Liêm Cần là vùng đất cổ của Thanh Liêm. Tại chùa thôn Tứ còn có một bệ đá thờ niên đại 1.364 - điều này phản ánh tại Liêm Cần sớm có cộng đồng cư dân sinh sống với một đời sống mang đậm ánh hưởng Phật giáo.

Về quê hương Lê Hoàn, các nguồn tài liệu đều chép không thống nhất nhau:

Đại Việt sử lược chép: “Huý là Hoàn, người Trường châu, cha là Mịch, mẹ họ Đặng” (1). An nam chí lược của Lê Tắc thời Trần, mục Lê nhị thế gia chép: “Lê Hoàn, người Ái Châu, có chí lược, được lòng quân sĩ” (Ái Châu nhân, hữu chí lược, đắc sĩ tâm) (2).

Cùng chia sẻ quan niệm Lê Hoàn người Ái Châu (Thanh Hóa ngày nay), Đai Việt sử ký toàn thư chép: “họ Lê, tên huý là Hoàn, người Ái Châu” (3).

Nhưng nhiều nguồn tài liệu có chép khác. Ngô Thì Sĩ trong Việt sử tiêu án chép Lê Hoàn là người xã Bảo Thái huyện Thanh Liêm. Đại nam nhất thống chí , mục tinht Hà Nội có chép “mộ tổ Lê Đại Hình ở bên miếu xã Ninh Thái huyện Thanh Liêm”.

Đại Việt sử ký tiền biên trong phần chính văn chép: “vua họ Lê, tên huý là Hoàn, ở ngôi 24 năm, thọ 65 tuổi”. Nhưng cũng chính tài liệu trên, trong phần cước chú ghi là “Xét thấy Lê Đại Hành là người làng Bảo Thái, huyện Thanh Liêm chứ không phải người Ái Châu. Sử cũ chép lầm” (4).

Bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn vào những năm cuối thế kỷ XIX, trong phần cước chú cũng ghi là Lê Hoàn người Bảo Thái. Thậm chí, sang đến đầu thế kỷ XX, Ngô Vi Liễn khi soạn bộ Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ cũng có nhắc đến lăng vua Lê Đại Hành “ở trên đồi Bảo Cái, cây cối um tùm, phong cảnh trông rất đẹp” (5).

Sự không thống nhất trong các nguồn thông tin thật khó có thể giải đáp: Vậy, Bảo Thái - Ninh Thái xưa, Liêm Cần nay có quan hệ như thế nào với Lê Hoàn? Trong đợt khảo sát điền dã tại xã Liêm Cần nay - Bảo Thái xưa, bước đầu chúng tôi có một số ý kiến như sau:

2. Những dấu tích của Lê Hoàn trên vùng đất Liêm Cần

Ngọc phả ba vị hoàng đế thời Tiền Lê lưu tại đền Lăng (hay là miếu Ninh Thái trong ghi chép của Đại Nam nhất thống chí hiện do ông Hà Văn Lang lưu giữ cho biết ông nội Lê Hoàn tên là Lê Lộc vốn là người Trường Yên Thượng, lấy vợ là người cùng xã tên là Cao Thị Hương. Gặp cảnh loạn ly, hai người bèn rời bỏ quê hương đến làng Bảo Thái sinh sống. Tại đây, ông Lê Lộc lấy nghề đánh bắt cá làm kế mưu sinh. Ông Lê Lộc có nuôi một con hổ trắng đặt tên là Sơn Trưởng và giao cho nó trông coi các bẫy cá mà ông đặt dọc theo các con nước. Một buổi tối ông ra thăm đó, Sơn Trưởng tưởng là người trộm cá bèn lao tới cắn chết. Khi nhận ra chủ nuôi, hổ liền cõng xác ông đến phía bắc núi Bảo Cái rồi bỏ đi nơi khác. Nơi hổ để xác ông Lê Lộc được gọi là Mả Dấu hay Mả Hổ Táng.


(1). Đại Việt sử lược. Nxb Văn Sử Địa. N. 1 960 tr.53
(2). Lê Tắc: An Nam chí lược. Viện đại học Huế 1961, tr.193[/]
(3). Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd T.1 , tr.220
(4). Đại Việt sử ký tiền biên. Nxb Khoa học xã hội. N. 1997, tr. 166.
(5). Ngô Vi Liễn: Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc kỳ. Nxb Văn hoá thông tin. N.1999. tr.599.
 
Sử thần Lê Tung thế kỷ XV có bài thơ vịnh rằng:

Lê gia hổ táng mộ
(Ngôi mộ hổ táng họ Lê)

Sông hồ ngàn dặm tới nơi đây
Thấp thoáng tường rêu dưới bóng cây
Khe nước núi Bông đi đổ đó
Táng trên non bắc hổ mang thây
Điềm lành sinh cháu ra làm tướng
ngôi đế nhiều mưu việc khó thay
Sách nói ba đời (còn rõ rệt
Thì ra bốn mặt thiếu cao dầy.
(Khắc trên bia mộ Lê Lộc ở núi Bảo Cái)

Mả Dấu hay Mả Hổ Táng hiện nay là một gò đất cao. Nhân dân trong vùng gọi là hòn Ngọc. Mộ Lê Lộc hướng vé phía nam bên trái là núi Lăng, bên phải là núi Bông, đằng sau là núi Bảo Cái. Ngôi mộ đó được coi là “đắc địa”, vì nó ở thế “tiền án Long Cung, hậu thuỳ Bảo Cái” (đường Long Cung làm án che, núi Bảo Cái làm gối).

Con Lê Lộc là Lê Hiền (Đại Việt sử học, Đại Việt sử ký toàn thư đều chép là Mịch) sau ba năm để tang cha liền trở về quê cũ lấy người Trường Yên Hạ là Đặng Thị Khiết làm vợ. Các nguồn tài liệu chính sử đều cho biết mẹ Lê Hoàn là Đặng Thị. Hai người lấy nhau đã lâu nhưng vẫn chưa có con. Khi ông Lê Hiền đã 60 tuổi, Đặng Thị 40 tuổi thì một buổi chiều Đặng Thị nằm mơ thấy cưỡi rồng lên trời ôm được vầng thái dương mang về, rồi từ đấy bà có thai. (Đại Việt sử học, Đại Việt sử ký toàn thư đều chép là mẹ vua khi có thai thì nằm mộng thấy trong bụng sinh hoa sen, bỗng chốc kết thành hạt, bà hái lấy chia cho mọi người cùng ăn).

Về ngày sinh của Lê Hoàn, ngọc phả cho biết vua sinh ngày 19 tháng Giêng năm Tân Sửu (941) . Nhưng hai bộ sử quan trọng là Đại Việt sử học, Đại Việt sử ký toàn thư đều chép là vua sinh ngày 15 tháng 7. Tuy nhiên Đại Việt sử lược chép Lê Hoàn sinh năm đầu niên hiệu Thiên Phúc (936), là năm Bính Thân. Đại Việt sử ký toàn thư chép vua sinh năm 941.

Đến năm Lê Hoàn 7 tuổi thì bố mẹ nối nhau qua đời. Lê Hoàn được ông quan sát họ Lê nhận làm con nuôi vì “cùng họ nên nhận là con nuôi” (1).

Trong thời gian làm con nuôi, Lê Hoàn được viên quan họ Lê “sớm chiều chăm sóc dậy dỗ không khác gì con đẻ” (2). Lê Hoàn theo thầy học văn chương võ nghệ tinh thông bè bạn bằng vai ai cũng nể phục” (3). Ngọc phả cho biết đến năm 16 tuổi, Hoàn trở lại Bảo Thái thăm quê rồi ở lại luôn đó, dạy dỗ trẻ con trong xã học hành.

Tại Bảo Thái, Lê Hoàn cùng với Nguyễn Minh là người cùng xã kết bạn với nhau, tụ tập trai tráng cùng học văn luyện võ. Tương truyền hai ông mở lớp học chữ tại lưng chừng núi Lăng là nền nhà cũ trước đây của ông Lê Lộc, học võ tại một bãi đất rộng (ngày nay ở cạnh trường tiểu học Liêm Cần) có tên gọi là Dàn Thề. Trên núi Lăng hiện có ba di tích: trên đỉnh núi là sinh từ của Đinh Tiên Hoàng, giữa núi là sinh từ của Lê Hoàn, và ở dưới chân núi là đền Lăng.

Về nhân vật Nguyễn Minh, ngọc phả Nguyễn Minh và nàng Nhữ Hoàng Đê (4) cho biết bố mẹ Nguyễn Minh là Nguyễn Hạnh và Trần Thị Mỹ, người vùng Phật Tích - Bắc Ninh. ông Nguyễn Hạnh và bà Trần Thị Mỹ đi đến Bảo Thái sinh sống, hai người xin với dân sở tại cho ở chùa Dương Quang (còn gọi là chùa Vực).

Thần phả cho biết Nguyễn Minh là tiên đồng đầu thai xuống, dân gian thì giải thích ông là con thầy chùa. Chùa Dương Quang là nơi ông ra đời, và hiện nay đó cũng là nơi thờ ông. Lớn lên, Nguyễn Minh theo thầy văn ôn võ luyện. Đến năm 16 tuổi bố mẹ nối nhau qua đời, để mưu sinh ông phải vào rừng kiếm củi. Đến năm 20 tuổi, Nguyễn Minh chiêu mộ quân lính, chuẩn bị lương thảo, bảo vệ nhân dân và xóm làng, ngầm nuôi chí lớn.

Sự gặp gỡ giữa Lê Hoàn và Nguyễn Minh là sự gặp gỡ giữa những thanh niên cùng chí hướng trong buổi loạn lạc. Kể từ đó, Lê Hoàn và Nguyễn Minh cùng nhau tập hợp trai tráng, tập luyện võ nghệ bảo vệ làng xóm, chờ thời cơ nổi dậy.


(1) Đại Việt sử ký toàn thư .Sđd T. 1 tr. 220.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd. T.1. tr.220.
(3) Ngọc phả ba vị hoàng đế thời Tiền Lê. Tài liệu do ông Hà Văn Lang cung cấp cấp.
(4) Tư liệu do ông Hà Văn Lang cung cấp.
 
3. Vị trí quân sự của Liêm Cần

Tại địa phương còn lưu giữ nhiều truyền thuyết về buổi đầu tập hợp lực lượng của Lê Hoàn và Nguyễn Minh. Buổi đầu, khi lực lượng còn mỏng, Lê Hoàn và Nguyễn Minh mở lớp học chữ trên nền nhà cũ của Lê Lộc ở núi Lăng. Cạnh đó có một khu đất rộng khoảng hai mẫu, bằng phẳng. Đó là nơi luyện tập võ nghệ của ngha quân được gọi là Dàn Thề. Dường vào và ra Dàn Thề chỉ có duy nhất một lối đi. Đó là con đường chạy men theo chân núi Bảo Cái để đi vào, đảm bảo sự bí mật cho một lực lượng nghĩa quân còn yếu.

Khi lực lượng đã khá trưởng thành, cần có một căn cứ vững chắc, Lê Hoàn và Nguyễn Minh lựa chọn trại Nhuế làm nơi đóng quân.

Thôn Nhuế hiện nay là một trong chín thôn của xã Liêm Cần và nằm khá biệt lập so với các thôn khác, bốn bề là cánh đồng lúa. Hiện nay chỉ có một con đường vào nối thôn Nhuế với các thôn khác trong xã. Từ xa nhìn vào, thôn Nhuế giống thư một ốc đảo giữa biển. Thôn Nhuế có diện tích khoảng 12 mẫu với 46 hộ gia đình. Ở đây, khi nhân dân địa phương làm nhà đã tìm thấy nhiều mảnh gốm vỡ. Tại đây còn lưu giữ khá nhiều dấu ấn của nghĩa quân Lê Hoàn - Nguyễn Minh trong buổi đầu dựng nghiệp.

Truyền thuyết dân gian kể lại rằng vợ Nguyễn Minh là bà Nhữ Đê. Tương truyền, khi Nguyễn Minh đi tìm bạn đồng chí có đi qua Tốt Khê (nay là xã Thanh Hải, Thanh Liêm) thì gặp bà Nhữ Đê đang cắt cỏ và hát rằng:

Tay cầm bán nguyệt thênh thang
Trăm cây ngàn cỏ lại hàng tay ta

Cảm phục người con gái giỏi đối đáp, ông Nguyễn Minh liền kết bạn trăm năm (1). Bà Nhữ Đê là con gái của ông Nhữ Khâm - một hào phú người Thanh Khê (nay là Thanh Hải, Thanh Liêm, Hà Nam). Trong buổi đầu còn thiếu thốn, ông Nhữ Khâm đã cung cấp lương thực, tiền bạc cho nghĩa quân hoạt động. Nghĩa quân xây dựng căn cứ tại trại Nhuế, lương thực một phần được ông Nhữ Khâm cung cấp, một phần do nghĩa quân tự túc lấy.

Lương thực và vũ khí của nghĩa quân được cất giấu tại xứ Lẫm Đông (cất quân lương) và Lẫm Đoài (cất vũ khí) (2) (nay thuộc thôn Vực). Trại Nhuế có bốn cổng với đường vào, đường ra khá kín đáo. Đường vào (hay còn gọi là cửa Đông) nay là xứ đồng Đông hiện là một đường bờ mương nhỏ.

Đường ra còn có tên gọi là cửa Nam (nay là xứ Nam Biên) nối trại Nhuế với khu vực Thanh Khê, An Hoà. . . Người dân trại Nhuế gọi đường ra là đường ra công (đường ra quân vì công có nghĩa là quân). Cửa Bắc ngày nay có tên là xứ đồng Bắc, cửa Tây nay là xứ Tây Hạ Đoài. Tuy có bốn cửa nhưng trong thực tế chỉ có một đường vào và một đường ra là đường cửa Đông (đường vào) và đường xứ Nam Biên (đường ra).


(1) Về mô típ trên. tại làng Đông Sàng, Đường Lâm. thuộc Sơn Tây, nay là Hà Tây. truyền thuyết bà Ngô Thị Ngọc Diệu. vợ chúa Trịnh cũng được nhân dận kể giống như mô típ bà Như Đê. Tại thôn Hậu xã Dục Tú, Đông Anh, Hà Nội, truyền thuyết về bà phi họ Đỗ vợ Ngô Quyền cũng giống như vậy.
(2) Do ông Nguyễn Văn Biểu, 70 tuổi thôn Cõi cung cấp.
 
Bên trong trại Nhuế, nghĩa quân xây dựng một lực kỵ binh mạnh. Tại đây có các địa danh như hồ Quần Ngựa (1), ao Tắm Ngựa (2), xứ Mã Thực và xứ Mã Trực. Người dân trong thôn kể lại rằng ngựa sau khi được tập luyện (quần ngựa) thì được đưa về ao Tắm Ngựa để tắm rửa cho sạch sẽ, sau đó đưa ra xứ Mã Thực để ngựa ăn cỏ, cuối cùng đưa về trại để trực, sẵn sàng chiến đấu (xứ Mã Trực).

Bên cạnh lực lượng kỵ binh, Lê Hoàn và Nguyễn Minh còn xây dựng một lực lượng thuỷ quân khá mạnh. Chỗ tập luyện thuỷ quân ở bến Sạch thuộc đoạn sông Hương Kiều chảy qua làng Đò . . . Theo đoạn sông Hương Kiều có thể ngược vào Trường Yên, động Hoa Lư.

Những dấu ấn hoạt động của nghĩa quân Lê Hoàn - Nguyễn Minh tại đây đã đi vào trong đời sống nhân dân. Tại đây lưu truyền nhiều câu ca như:

Nửa đêm nghe trống động trời
Ấy làng trại Nhuế đồ xôi nấu chè.

Nhân dân giải thích đó là người dân chuẩn bị lương thực cho quân đi đánh trận. Hay có câu ca như “Quân trại Nhuế, đế làng Đò” được nhân dân giải thích là khi hàn vi thì Lê Hoàn ở trại Nhuế, đến khi ông lên làm vua thì thuyền vua đầu tiên dừng lại khi về thăm quê là ở làng Đò. Dấu ấn của hai địa danh trên phản ánh hoạt động quân sự của Lê Hoàn trên vùng đất Liêm Cần ngày nay.

Thanh thế của nghĩa quân khá mạnh, nhiều lần bị các lực lượng quân sự khác tấn công. Truyền thuyết dân gian còn ghi lại nhiều câu chuyện về việc Lê Hoàn đã anh dũng chiến đấu để bảo vệ làng xóm, lực lượng.

Chuyện kể rằng, có một lần Lê Hoàn đi ra ngoài doanh trại thì bị phục kích. Những người đi cùng ông đã chiến đấu hết sức anh dũng nhưng người ít, thế cô trong khi quân địch lại đông gấp bội. Trong lúc nguy cấp bỗng có ba con hổ từ trong rừng đi ra giải vây cho Lê Hoàn. Tuy quân địch rút lui nhưng một con hổ bị thương và đã chết. Lê Hoàn sai an táng con hổ, chỗ chôn hổ sau được gọi là mả ông Kềnh. Khu vực Lê Hoàn bị phục kích dự đoán là gần rừng vì làng Vực, làng Ngũ, thôn Cõi có câu ca:

Đi qua cửa Kềnh mà lên (sang) đồng rừng.

Hay có một lần khác, trại Nhuế bị tấn công, lực lượng bị thương vong rất nhiều. Trước tình hình đó Lê Hoàn cho quân rút khi trại Nhuế. Nơi binh sĩ chết trận được gọi là Mả Rút. Có nhiều cách giải thích khác nhau của người dân địa phương về địa danh này. Có người cho rằng gọi là Mả Rút vì những nghĩa quân bị chết và chôn trong lúc rút lui nên gọi là Mả Rút. Cũng có cách giải thích khác là khi bị chết, người ta chôn kèm theo một sợi dây để sau này tìm cho tiện. . .

Cùng tồn tại song song với lực lượng nghĩa quân của Lê Hoàn, ở Động Xá cũng tồn tại một lực lượng nghĩa quân khác của anh em Nguyễn Điền, Nguyễn Bang. Người dân địa phương có câu ca:

Thanh Liêm Động Xá, Bái Đoài
Ứng sinh thanh thế tướng tài nổi lên.

nhằm nói đến hai lực lượng quân sự tại Thanh Liêm, một của Lê Hoàn - Nguyễn Minh ở trại Nhuế, một của Đinh Điền - Đinh Bang ở Động Xá. Về hai nhân vật Đinh Điền, Đinh Bang, ngọc phả ba vị thần Động Xá cho biết có một gia đình họ Nguyễn sinh đôi được hai người con tên là Nguyễn Điền và Nguyễn Bang. Hai anh em họ Nguyễn cũng chiêu tập trai tráng trong vùng tổ chức thành một lực lượng quân sự riêng, đại bản doanh của Nguyễn Điền - Nguyễn Bang đặt ở thôn Tam.

Tại đây vẫn còn một số địa danh như đường cổng Chói (chốt Cõi), dọc Ó, bờ Luỹ, thềm Điếm... tương truyền là nơi đóng quân, luyện tập võ nghệ của lực lượng quân sự Động Xá. Khi lực lượng đã lớn mạnh, hai anh em họ Nguyễn theo lời chiêu dụ của Nguyễn Bặc đã đem quân bản bộ theo về với Đinh Bộ Lĩnh ở động Hoa Lư.

Do đánh giặc có công nên hai anh em Nguyễn Điền, Nguyễn Bang được mang họ vua, từ đó có tên là Đinh Điền và Đinh Bang. Đinh Điền được phong là Đại tư đồ Bình chương sự, Đinh Bang được phong là Thống lĩnh tướng quân. Về chức quan của Đinh Điền, Đại Việt sử ký toàn thư cho biết ông làm chức Ngoại giáp.


(1) Hiện nay ở trước nhà ông Nguyễn Văn Ngoan vẫn còn địa danh hò Quần Ngựa nhưng diện tích hồ còn rất nhỏ.
(2) ở trước cửa nhà bà Cư.
 
Nghe tin Đinh công đại khởi nghĩa binh ở Hoa Lư, Lê Hoàn cũng đem quân bản bộ theo về. Từ đó vua tôi dộng lòng đánh dẹp mười hai sứ quân. Khởi nghĩa thành công, Lê Hoàn được phong Thập đạo tướng quân, Nguyễn Minh là Thập đạo phó tướng quân, cùng với Lê Hoàn chăm lo về binh lực, quân sự. . .

Năm 979, trong triều đình nhà Đinh xảy ra loạn Đỗ Thích. Đỗ Thích làm chức Chi hậu nội nhân, một tối nằm mơ thấy nuốt sao vào bụng nên ngầm có ý mưu phản. Nhân sự bất cẩn của Đinh Bộ Lĩnh, Đỗ Thích giết hai cha con họ Đinh. Bọn Định quốc công Nguyễn Bặc bắt được Đỗ Thích đem giết, rồi quần thần cùng nhau đón Vệ vương Đinh Toàn mới 6 tuổi lên ngôi vua.

Đinh Toàn còn nhỏ nối ngôi, Lê Hoàn bèn “quyền nhiếp chính sự trong nước, xưng là Phó vương. Nguyễn Bặc, Đinh Điền thấy vua [chỉ Lê Hoàn] sẽ bất lợi cho ấu chúa bèn cùng khởi binh đánh” (1). Nhưng Lê Hoàn đã kịp thời chỉnh đốn quân lữ, đánh nhau với Điền, Bắc ở Tây Đô. Đinh Điền, Nguyễn Bác thua chạy nhưng lại đem thuỷ quân ra đánh tiếp. Lê Hoàn nhân theo chiều gió phóng hoả đất thuyền của Đinh Điền và Nguyễn Bắc. Trong trận này Lê Hoàn bắt được Nguyễn Bắc, chém chết Đinh Điền tại trận (2). . .

Tuy nhiên, thần phả ba vị thần ở Động Xá cho rằng sau khi Lê Hoàn tự xưng là Phó vương đã không được sự đồng tình của Đinh Điền, Phạm Thạp, Nguyễn Bặc . . . nên Đinh Điền và Đinh Bang đã bỏ triều đình, đi về vùng Hải Dương và đi tu ở chùa Tuấn Kiệt. Nhà Tống thấy Đại Cồ Việt vua nhỏ nối ngôi nên có ý định chiếm nước ta. Trước tình hình đó, Lê Hoàn được sự ủng hộ của tướng lĩnh và quân sĩ bèn lên ngôi vua, chuẩn bị lực lượng kháng Tống.

Chính sử Việt Nam chép về sự kiện này đều thống nhất với nhau. Đại Việt sử ký toàn thư chép:

“Khi [triều đình] đang bàn kế hoạch xuất quân, Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, nói với mọi người rằng: “Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho? Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn?”. Quân sĩ đều hô “vạn tuế”.
Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi hoàng đế" (3).

Tuy nhiên trong nhiều nguồn tài liệu khác nhau như ngọc phả hay Đại Việt sử ký tiền biên đều chép khác, cụ thể là như sau:

“Hoàn một mình nắm giữ quân đội được ra vào nơi cung cấm. Thái hậu thấy liền yêu mến rồi tư tình với Lê Hoàn, cho ở ngôi nhiếp chính làm công việc như Chu công” (4). Ngọc phả ba vị hoàng đế thời Tiền Lê cũng cho biết Lê Hoàn tự xưng là Phó vương, thường hay tự ý ra vào cung cấm, liền tư thông với Dương Thái hậu.

Những sự kiện trên dù chính sử hay dân gian có chép hoặc lưu truyền có khác nhau nhưng nó đã phản ánh mối quan hệ mật thiết của Lê Hoàn với Dương Thái hậu. Việc Lê Hoàn lên ngôi là thuận lòng người, phù hợp với hoàn cảnh đất nước ta trước nguy cơ bị xâm lược cần một người đủ tài năng, đức độ chèo chống. Sự kiện Thái hậu Dương Vân Nga đem áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, khuyên ông lên ngôi là một quyết định sáng suốt, đã đặt quyền lợi quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích gia đình. Hy sinh quyền lợi của con để đất nước được độc lập tránh được nạn ngoại xâm.

Với quyết định sáng suất tại một thời điểm đầy biến động của đất nước, một đội ngũ quan lại, cố vấn, tướng lĩnh (tiêu biểu là Dương Thái hậu, Phạm Cự Lạng, Hồng Hiến. . . ), được sự ủng hộ của quân sĩ. . . , Lê Hoàn đã lên ngôi tôn, cùng với bộ chỉ huy trên dưới đồng lòng đã làm nên chiến thắng vang dội năm 981.

Đền Lăng hiện nay thờ tất cả các vị anh hùng trong thế kỷ X của Liêm Cần. Bàn thờ bên ngoài thờ Nguyễn Minh, bà Nhữ Hoàng Đê và Thiên Càng. Bài vị trong cung gồm bài vị của Đinh Tiên Hoàng (Tế dương khai cơ sáng nghiệp nhân thánh anh vũ cao minh Đinh Tiên Hoàng thượng thánh đức quang minh thông hoàng đế thần vị), bài vị của Lê Hoàn (Khâm văn thống vũ nhân đức anh triết tri nhuệ Lê Đại Hành hoàng đê), bài vị của Lê Trung Tông (Trung Tông hoàng hiển ứng tá thánh hậu đức uy linh hoàng đế thần vị), và bài vị của Lê Ngoạ Triều (Ngoạ Triều hoàng quang công hựu thánh uy linh hoàng đế thần vị).

(1) Đại Việt sử lược. Sđd, tr.54.
(2) Đại Việt sử lược. Sđd, tr.2 15.
(3) Đại Việt sử ký toàn thư. Sđd. T.1 , tr.217.
(4) Đại Việt sử ký tiền biên. Nxb Khoa học xã hội: N.1997, tr.159.
 
Khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua có ra lệnh cho dân Bảo Thái thờ ba vị vua Tiền Lê là Lê Hoàn, Lê Trung Tông và Lê Ngoạ Triều, phong làm thượng đẳng thần, bốn mùa cúng tế (1).

Ngọc phả ghi rõ lệnh kiêng huý, cấm nói tên Hoàn, Việt, Đĩnh. Việc thờ cúng trước đây được quy định rõ ràng “phàm các tiết lễ xuân thu ngày sinh hoặc ngày kỵ đã có quốc tế Vua Đại Hành sinh ngày 10 tháng Giêng, hoá ngày 6 tháng 10. Trung Tông sinh ngày 8 tháng 3, hoá ngày 15 tháng 3 , Ngoạ Triều sinh ngày 15 tháng 2, hoá ngày 21 tháng 10 Các ngày sinh trên đặt lễ chay, dưới đặt lễ tam sinh xôi rượu và ca hát ba ngày, các ngày hoá lễ như ngày sinh nhưng không có ca hát” (2). phong tục này được kéo dài đến trước Cách mạng tháng Tám.

Cuộc đời binh nghiệp của Lê Đại Hành được lịch sử ghi nhận. Đôi câu đối ghi trên cổng đền Lăng cho thấy sự nghiệp quân sự của Lê Hoàn trong thế kỷ X:

Thái bình vạn thắng Cồ Việt quốc
Thiên Thuận Tiền Lê khởi Nam bang
Phạt Tống bình Chiêm quang Việt sử
Quy lai thập nhị sứ anh hùng.

Liêm Cần nay - Bảo Thái xưa là nơi đã ghi lại dấu ấn thời kỳ hoạt động quân sự buổi đầu của Lê Hoàn. Đây chính là một cơ sở quan trọng trong cuộc đời binh nghiệp của ông. Những thông tin trong sử cũ cùng với nguồn tư liệu điền dã cho thấy Liêm Cần có một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp của Lê Hoàn. Đó không chỉ là đất khởi nghiệp mà còn là quê hương của ông. Tại đây còn lưu giữ những dấu ấn văn hoá vật thể (Mả Dấu - mộ ông nội Lê Hoàn, đền Lăng - thờ ba vị vua triều Tiền Lê, những địa danh...) và phi vật thể (truyền thuyết, ngọc phả...) về Lê Hoàn. Và Đại Việt sử lược, bộ sử gần nhất với thế kỷ X đã ghi một thông tin đáng chú ý:

Lê Hoàn người Trường Châu. Trường Châu không chỉ gồm Ninh Bình ngày nay mà còn bao gồm cả một phần hoặc cả tỉnh Hà Nam bây giờ.
BINNINSKINQUNS1.jpg

BINNINSKINQUNS2.jpg

(1) Nhân dân địa phương còn cho biết mối quan hệ giữa Lê Hoàn và Lý Công Uẩn như sau: Lê Hoàn cùng với Dương Thái hậu có chung một người con gái là Thị Phất Ngân. Lê Thị phất Ngân được gả cho Lý Công Uẩn. Tuy nhiên điều này vẫn cần được xác minh thêm. (Tư liệu do ông Hà Văn Langcung cấp)
(2) Ngọc phả ba vị hoàng đế thời Tiền Lê.
 
HÀ NAM QUÊ TÔI
GS. Trần Quốc vượng
Khoa Lịch sử. Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội- Đại học Quốc gia.

Hà Nam không phải là nơi “chôn rau cắt rốn” của tôi - tôi sinh ra trên đất đầu núi Kinh Môn một tối mùa Đông buốt giá và rơi vào định mệnh “ngọn lửa đầu non”.

Hà Nam cũng không phải là nơi tôi “trở thành chính mình”, thành Trần Quốc Vượng. Quyền năng trên cao và dưới trần đã quy giản cái không gian văn hoá của tôi là vùng trời - đất Đại học Quốc gia Hà Nội, học ở đấy, rồi dạy ở đấy, đến nay đã gần 50 năm tròn.

Tô Hoài bảo: mỗi nhà văn, nhà nghiên cứu dều có một vùng đất làm ăn, lấy tư liệu, đi đi lại lại, để từ cái riêng suy ngẫm ra một cái gì chung của Đất nước. Với các bạn tôi, Từ Chi chẳng hạn, đó là xứ Mường, Đoàn Giỏi, Sơn Nam là “đất rừng phương Nam - U Minh thượng, hạ”...

Tôi là kẻ phiêu lãng, lãng du Bắc - Trung - Nam, viết tiểu ký, tạp lục nhăng nhít, và nói như Vương Hồng Sến, “hơn nửa đời hư”, song nghiệm ra vẫn còn chút gì luyến lưu, đọng lại ở Cổ Loa thời tam thập, ở Hội An thời “tri thiên mệnh” và đặc biệt ở Hà Nội, cái cối xay của con gà què quanh quẩn...

Hà Nam là một góc rất khác trong tâm thức tôi. Đấy là một phức Quê Cha - Đất Mẹ để hồi niệm, nhung nhớ “những ngày thơ ấu’, “những ngày kháng chiến 9 năm” tản cư đánh giặc và, khi mái tóc đã nhuốm màu sương khói mùa thu, khi Văn Cao “ngước mắt về phương Thăng Long thành cao đứng, khi chiều chiều, Dân gian quê tôi” “ra đứng cổng chùa” “trông lên Hà Nội” thì tôi, theo quy trình “đường trở về”, từ mảnh đất núi Nùng, sông Tô thi thoảng vời trông về Quê Mẹ Quê Cha mà không sao ngăn nổi “ruột đau chín chiều’? Biết làm sao được, với những va đập tâm linh, ảnh xạ và nội tâm hoá những va đập của cuộc đời, phần nhiều là vô thức.

Tôi viết mấy dòng này trong thâm tâm là để trả nghĩa Quê Hương. Có ai đã nói rằng: Bất hạnh thay cho những ai không có quê hương để mà yêu mà quý, để mà tưởng hồi và nhung nhớ? Đã hàng mấy chục năm, tôi tiếng rằng đã “tắt lửa lòng”, không sao tìm lại được, ngoài nhạc ngoài thơ, con “đường về làng tôi xa xôi lắm, cách con sông và mấy lá đò”, với “bóng cau bên thềm”, với “ vàng bướm bên áo”, với “qua lá cành, ánh trăng lên dịu dàng”, với cây gạo, cây đa bến cũ...

May thay, tôi, dù muộn đã hoá giải lòng mình, hoá giải nhiều khúc mắc, để tìm lại một thiên đường tưởng dường như đã mất dưới trần gian và còn kịp trở về với sông Châu - núi Đọi trước khi xa mãi, không phải để “ôn nghèo nhớ khổ” để “vùng lên” mà là để “ôn cố nhi tri tân” mà lắng dịu tâm hồn...

01 . Ông tôi, một nhà Nho cuối mùa, ham vui hơn là hám danh, khi về hưu, về già đã trồng nhãn Hưng Yên suốt dọc con đường từ làng Lê lên chùa Đọi rồi thỉnh thoảng chống gậy “thanh nhàn lên đỉnh núi cao, đá mừng mạc khách, động chàm chủ nhân, lâng lâng chẳng chút bụi trần, bâng khuâng núi Thiểm non Thần chi đây, am Tiên, cảnh Bụt xinh thay, đường mây thăm thẳm, thang mây bước vào”. ông bước vào, bạn rượu bạn trà cùng sơ cụ giữa giường mây để hoà điệu cùng tâm thức Việt Nam “Nho-phật-lão hòa đồng”, để hồi tưởng những sự kiện lịch sử xảy ra quanh núi, trên núi, vua Tiền Lê cày ruộng tịch điền, vua Hậu Lý dựng tháp, dựng bia mở hội chùa nô nức gần xa. . .

Ruộng Lê hoa cỏ ngạt ngào
Rêu in tháp Lý bia cao chưa mòn

Cụ Tam Nguyên Yên Đổ bậc đàn anh đồng quận với ông tôi còn để lại hai bài thư nôm Chơi núi Long Đọi, Nhớ cảnh chùa Đọi cùng hai bài thư chữ Hán Vọng Đọi Sơn, ức Long Đọi Sơn . . .

Đội Điệp là danh sơn: Điệp là núi Trâu Vàng kim Ngưu), Đọi là cả một đội Rồng (Long Đội). Với con người, có mặt quanh núi Đọi từ thời Đông Sơn, mộ quan tài hình thuyền trên dưới hai nghìn năm trước. Núi đã được thiêng hoá rồi với Tiền Lê - Lý - Hậu Lê, núi Đọi đã trở thành “Nam thiên đệ tam động “ (xem đại Nam nhất thống) cho ông tôi ứng xử với núi Đọi, vừa kính trọng, vừa thân mật. Ông giúp nhà chùa trồng cây quanh vườn chùa, quanh sườn núi. ông cho xây sẵn một sinh phần, khi mất con cháu chôn cất ông, đầu hướng về đỉnh núi, chân khua nhẹ nước sông Châu. Ông lấy tên hiệu là Châu Thần (Kẻ bầy tôi ở sông Châu).

Chống gậy đứng đầu non, ông trò chuyện cùng non - nước:

…Núi này kể mấy muôn Xuân?
Hoàng vương đế bá mấy lần lại qua?...

Sử đáp chắc chắn: Lại qua nơi này, có vua Lê Đại Hành quê Ninh Thái - Thanh Liêm, có vua Lý Nhân Tông sùng Phật, có vua Lê Thánh Tông sùng Nho, có cả mấy bá tước nhà Mạc vì dân vì nước mà dựng lại bia cổ, sửa lại chùa khiến cho sau đời Lý năm trăm năm một nơi thắng cảnh trong chốn tùng lâm lại được mới mẻ” (xem Văn bia chùa Đọi, mặt sau bia Lý). Ông tôi hỏi núi:

Hỏi: Sao núi vẫn chưa già?
Núi cười: cuộc thế vui mà mảng chơi!
 
Tôi rất thích cái thi tứ núi cười (chân Núi Đọi có 9 hàm rồng mở miệng). Núi Đọi cười, vì núi cũng như người, như ông cháu tôi, ham vui, mảng chơi cùng trần thế?

Dù ham vui, cũng có lúc tôi tỉnh, tìm sách đọc, hỏi bạn địa chất Trần Đình Nhân về Tuổi Núi. Anh trả lời: Vào nguyên đại Trung sinh, cuối kỷ Trias, cách ngày nay khoảng 200 triệu năm !

Núi hai trăm triệu tuổi vẫn là núi non!

Có tạo sơnở hai rìa sông Nhị mà giới địa học gọi là “đứt gẫy sông Hồng”, mà cũng có sụt lún ở phần giữa bán bình nguyên Trung sinh mà phần còn lại chính là những núi đồi sa phiến thạch hay đá hỗn hợp, như Đọi, Điệp, Kẻ Non và dải đồi núi đất Thanh Liêm, cho tới tận những núi An Lão, Chương Sơn mạn Bình Lục, ý Yên, Vụ Bản. . .
02. Giới địa - văn hoá học ngày nay - mà tôi là một thành viên chầu rìa bên lề mép - xếp Hà Nam quê tôi, quê hương cụ Tam nguyên Yên Đổ, cụ nghè Châu Cầu Bùi Dị, cụ Kép Trà, cụ Cử Kiến, cụ cử Văn Ấp, cụ tú Trần. . . vào Ô trũng tứ giác nước: sông Hồng (Đông) - sông Đáy (Tây), sông Châu (Bắc) - sông Vị Hoàng (Nam). . .

Đấy là một vùng châu thổ tích tụ trũng phù sa mới xen đồi sót, một cái trũng vừa tự nhiên vừa nhân vi, bao quanh bởi đê sông Châu, sông Hồng, sông Đáy, sông Nam Định. . . Đấy là vùng sinh thái đồng chiêm trũng điển hình ngày trước nơi con người đất Việt trời Nam, Sơn Nam “sống ngâm da, chết ngâm xương” xưa kia (ô 29 trong bản đồ cảnh quan châu thổ sông Hồng tỉ lệ 1:100.000), nơi có những đàn bà hay lam, hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng” theo chữ của cụ Hoàng và Nguyễn Khuyến, vùng cụ Kép Trà gọi là đồng cò trắng . . .

03. Ông tôi ở cuối mùa quân chủ - Nho thích hỏi Núi; tôi ở đầu mùa dân chủ - mác xít thích hỏi Người. Hỏi người và học - hỏi - hiểu - hành qua khảo cổ các sản phẩm văn hoá của con người.

03.1 . Con người và những sản phẩm văn hoá của nó thì đầu tiên đã tìm thấy dọc dài những hang động của hai bên dải núi đá vôi 99 ngọn chạy dài từ Tản Viên - Viên Nam trở xuống Gia Viễn, Ninh Bình, sườn Tây (Hoà bình) đậm đặc hơn, sườn Đông (Hà Tây - Hà Nam) rải rác hơn, song đều là một nền văn hóa thung lũng Hoà Bình - Bắc Sơn, tuổi vạn năm đầu thời cách mạng Đá Mới của những dân cư Đen - Vàng tiền Việt Mường. Nếu được phép, tôi sẽ khuyến nghị lãnh đạo Hà Nam ký hợp đồng mời các nhà khoa học về vài năm, xuôi thuyền dọc sông Đáy, thăm thú các hang động dọc dài Kim Bảng - Ba Sao - Bồng Lạng - Chi Nê cùng các thung mơ, vườn cà phê tại các đồn điền Le Breton, Borel, Đỗ Đình Thiện cũ . . . Tôi đoán chắc với 3 mùa điền dã trước một dự án tiền khả thi về xí nghiệp xi măng Bút Sơn như thế, Hà Nam sẽ có một sưu tập rất quý về thời đồ đá của cư dân sinh sống ở rìa tây nam châu thổ sông Châu - Đáy, Nhuệ - Hồng . . .

03.2. Vùng ven núi ven đồi sót Kim cảng, Thanh Liêm, Duy Tiên-bình Lục và cả trung tâm Nam Xang (Xương) - Lý Nhân đã trở thành một vùng văn hoá Đông Sơn miền trũng từ trước sau hai ngàn năm cách ngày nay. Ai cũng đã biết những phát hiện nổi tiếng về trống đồng Ngọc Lũ, núi Đọi, Yên Bắc, Bạch Thượng, Vũ Bị. . .

Trống Ngọc Lũ Hà Nam đã trở thành biểu tượng của Văn hiến Việt Nam đặt giữa tòa lâu đài Liên Hiệp quốc ở New York Hoa Kỳ. Trớ trêu thay, một phiên bản ít triệu đồng của nó cho đến nay không hề có mặt ở thị xã Hà Nam, ở núi Đọi cho con cháu Hà Nam thi thoảng đến xem và học hỏi cha ông.

Tiết kiệm ư? Tôi nghĩ, chỉ cần chống tham nhũng ở một địa phương nào đó một năm thôi, thu hồi lại tài sản xã hội chủ nghĩa bị lũ mọt dân làm thất thoát, theo tôi, cũng thừa sức làm nhà truyền thống miền chiêm trũng Sơn Nam ở thị xã, ở núi Đọi với một phức trống - thạp đồng đúc lại. Và những quan tài hình thuyền với đồ đồng, đồ sơn, cả một chiếc cày chìa vôi Thanh Sơn-Châu Sơn (đều thuộc Kim Bảng) đủ sức hấp dẫn hàng vạn ngàn du khách, nhà du khảo trong ngoài nước.

Có điều ngành Văn hoá-du lịch Hà Nam chưa biết “làm ăn” hay chưa được bật đèn xanh để phát triển đó thôi ? Ai đời, cho đến nay, Đọi Sơn hà vùng di tích phát hiện được nhiều sọ cổ chủ nhân văn minh Đông Sơn- Âu Lạc - Việt cổ nguyên vẹn nhất của cả nước, với quan tài gỗ hình thuyền được định niên đại C14 chính xác nhất (> 2000 năm BP +/- Ax) mà vẫn còn đang “xếp xó, ở rìa toà nhà mới của bảo tàng Lịch sử Quốc gia Hà Nội?
 
04. Tôi không phải là một dân kẻ quê Châu Giang - núi Đọi để nói vơ vào cho quê hương tôi, để cố tìm ra là quê tôi cũng có một ông Vua: Vua anh hùng Lê Hoàn thắng giặc xâm lược Tống. Từ đầu thập kỷ 1980, khi Thanh Hoá giương ngọn cờ Ba Nhất, người ta đổ xô vào xứ Thanh ca ngợi; xứ Thanh đã có Lệ Hải bà vương (Bà Triệu), có vua Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn rồi vua Nguyễn nữa. . . mà người ta còn “nỡ lòng” đưa cả Tiền Lê Đại Hành hoàng đế cho lấy xứ Thanh làm quê hương? Ngay khi đó - khi có mỗi một tỉnh Hà - Nam - Ninh, tôi đã nói ở “Hội thảo khoa học về quê hương Lê Hoàn” (1982) rằng: “Nói xứ Thanh là quê ngoại Lê Hoàn hay là quê bố nuôi Lê Hoàn thì tạm nghe được. Còn quý vị nào nói xứ Thanh là quê hương Lê Hoàn thì xin hãy dè chừng…”

Tôi nói vậy, không vì nổi trội lên ở trong tôi khi đó một tình cảm địa phương chủ nghĩa (tuy, nói cho cùng, cái cảm thức địa phương rồi sa đà vào địa phương chủ nghĩa thì bao giờ cũng có thật, ngay cả ở thời Cộng hoà Dân chủ Việt Nam) mà là một cảm thức khác, tạm gọi là KHOA HỌC.

Mà khoa học thì cần trước hết sự khách quan.

Khách quan, là ở Ninh Thái - Bảo Thái Thanh Liêm có cả một khu mộ tổ Lê Hoàn, có đền thờ Tổ, có nhiều di tích hữu thể khác liên quan mật thiết đến nhà Tiền Lê (xem bài của Nguyễn Minh Tường và nhiều người khác trên tạp chí Sông Châu).

05. Tôi chỉ xin nhấn mạnh 01 điểm:

05.1. Trần bình Trọng - tức Bảo Nghĩa vương là người gốc họ Lê, ở quê nay là xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm, dòng dõi Lê Đại Hành, được vua Trần tin yêu, ban quốc tính và phong Bảo Nghĩa hầu, người “quyết tử” ở khúc sông Thiên Mạc (= 01 đoạn sông Châu chảy qua vùng Mạc Xá Châu Giang . . . ) với lời nói bất tử:

“Ta thà làm quỷ nước Nam chứ
không thèm làm vương xứ Bắc…”

05.2. Huống chi, Lê Đại Hành, còn về Đọi Sơn cày ruộng tịch điền!

05.3 . Ở Thanh Liêm, cái “trũng” này còn đọng biết bao huyền tích mà đa phần gắn bó với thân phận của nhà Tiền Lê. Đó là “văn hoá Liễu Đôi”, là bản trường ca “Hoàn vương sự tích” mà Bùi Văn Cường - Nguyễn Tế Nhị, cặp bài trùng tác giả Văn hoá Liễu Đôi vừa tìm thấy và vừa được giải thưởng lớn của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam. Đó là phần văn hoá vô thể của không gian văn hoá Lê Đại Hành tại Hà Nam.

06. Nếu có ai hỏi tôi về một nét bản sắc khác của tiểu vùng văn hoá Hà Nam là gì, chắc chắn tôi sẽ dẫn ra Đền nàng Mỵ Ê ở Lý Nhân; cái nhân cách của người cung phi xứ Chăm pa đó đã được nâng cao lên thành nhân cách cao cả trong sạch của phụ nữ nói chung và được “thiêng hoá” khi dân gian Hà Nam lập đền thờ và cho đến nay vẫn phụng thờ.

Nhân cách plụ nữ lại được bi kịch hoá một lần nữa trong câu chuyện Vợ chàng Trương hàm ẩn một triết lý dân gian rất tuyệt vời “Là bóng hay là hình?”- người đàn bà Việt đã tự phân đôi mình thành cặp vợ chồng quấn quít nhau như hình với bóng, trong khi đó ở tầng dưới của câu chuyện là cái dại khờ ghen tuông vớ vẩn gây chết người của người đàn ông Việt Nam. Câu chuyện của Người thiếu phụ Nam Xang (La jeune dam de Nam Xang) từ lâu đã được thạc sĩ ngôn ngữ học Phạm Duy Khiêm kể lại bằng tiếng Pháp và được dịch lại bằng tiếng Anh, từ đó hội nhập vào dòng nhân văn của nền văn chương thế giới.

Câu chuyện này cũng đã được dựng thành phim ở Pháp. Mà đó rốt cùng là văn hoá dân gian vô thể, được hữu thể hoá bằng ngôi miếu Vợ chàng Trương hiện vẫn còn được giữ gìn và tôn tạo bên bờ sông Châu ở huyện Lý Nhân - không xa đền Mỵ Ê. Hai ngôi đền này xuất lộ bản sắc, tâm thức dân gian Sơn Nam Hà Nam tôll vinh Người ph!I nữ mà triết gia Gu-ê-the của nước Đức châu âu khái quát lên thành Nguồn vô tận nữ tinh (L’etemel féminin). Đấy cũng là nét phản ánh nguyên lý Nữ - nguyên lý Mẹ của nền Văn hoá việt Nam.

07. Tôi cũng còn muốn tâm sự nhiều điều nữa, khác cùng bạn đọc về tính cách và bản sắc văn hoá Hà Nam - Sơn Nam. Ví dụ về công nghệ truyền thống : Biệt tài thợ đấu xứ Nam đào mò dưới nước những khuôn đất vuông vắn lớn đặng vượt thổ, tôn nền, làm nhà cao ráo giữa vùng lầy trũng, kèm luôn theo đó là bản sắc AO và hệ sinh thái AO rất đặc sắc của người Việt châu thổ Sơn Nam. Không có AO Sơn Nam làm sao nảy sinh cả một nền văn hoá múa rối nước mang hoàn toàn bản sắc Việt Nam?

Lại một ví dụ khác mà tôi đã đem chất vấn nhà văn Chu Văn thời Hà - Nam - Ninh còn là một: Vì sao đất Nam Hạ - Nam Hà - Hà Nam - Nam Định lại nảy sinh những nhân cách văn học lớn:
- Cụ Tam nguyên Yên Đổ, Cụ Tam nguyên Vị Xuyên rồi - Tú Xương của thời cận đại và ngay sau đó là những Nam Cao, Nguyễn Bính cùng Vũ Tú Nam, Vũ Cao, Văn Cao. . . của một thùa chưa xa? Tôi đã và sẽ dùng lý thuyết Địa - văn hoá để cắt nghĩa những hiện tượng đặc sắc này.
 
TÊN LÊ ĐẠI HÀNH ĐẶT CHO MỘT ĐƯỜNG PHỐ Ở HÀ NỘI, VÌ SAO?

PGS. Lê Văn Lan
Viện Sử học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.


Hà Nội ta có một đường phố (và một ngõ phố) mang tên Lê Đại Hành.

Theo cụ Nguyễn Vinh Phúc, phố Lê Đại Hành dài 450 mét, chạy trên phần đất của hai thôn Hậu Phong Vân và Long Hồ, thuộc tổng Tả Nghiêm, huyện Thọ Xương ngày xưa. Tới giữa thế kỷ XIX hai thôn này hợp lại thành thôn Vân Hồ, thuộc tổng Kim Liên (là tên mới đổi, cũng vào lúc này, của tổng Tả Nghiêm). Còn ngõ Lê Đại Hành thì nối đường phố này với phố Thái Phiên, xưa thuộc khu vực đàn Nam Giao đời Lê. Chứng cứ ngôi nhà bia có tấm bia “Nam Giao điện bi ký” (khắc năm 1679), trước năm 1926 (là năm người Pháp mở đường qua khu vực này, phá nhà bia, đem bia về đặt ở khu Bảo tàng Lịch sử bây giờ) thì bia và nhà bia vẫn ở chỗ đó.

Chúng tôi muốn trình bày đôi điều về tên gọi Lê Đại Hành được đặt cho con đường và ngõ phố vừa giới thiệu qua ở đây.

Vẫn theo cụ Nguyễn Vinh Phúc thì ở thời Pháp thuộc, chỗ này là “phố Hoàng Cao Khải”. Tên Lê Đại Hành được thay cho tên Hoàng Cao Khải, từ sau Cách mạng tháng Tám. Và nguyên uỷ của tên Lê Đại Hành, là (nguyên văn, sách Phố và đường Hà Nội, Nxb. Giao thông vận tải, N. 2004, tr. 336) như sau: “Đại Hành được coi là miếu hiệu của Lê Hoàn”.

Vì sao, trước hai chữ “miếu hiệu’ lại có ba chữ “được coi là”?

Mọi người đều biết: miếu hiệu - tên để thờ ở Thái miếu hoặc thuỵ hiệu - tên đẹp - của các bậc vua chúa ngày xưa, thường chỉ có (tức: ra đời, được đặt định) vào lúc kết thúc thời gian “quàn” (có thể nhanh chóng hoặc lâu dài, thậm chí dài đến cả năm trường) cái thân xác đã băng hà của các vị ấy ở toà điện thiêng nơi Cấm Thành. Chẳng hạn như vua Lê Thánh Tông, băng hà ngày 30 tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1497) nhưng đến ngày 24 tháng Chạp năm ấy, mới có việc-như chép trong Đại Việt sử ký toàn thư “dâng tôn hiệu cho Đại Hành hoàng đế là: Sùng Thiên Quảng Vận Cao Minh Quang Chính Chí Đức Đại Công Thánh Vãn Thần Vũ Đạt Hiếu, Thuần Hoàng Đế, miếu hiệu là: Thánh Tông”, để rồi đến cuối xuân năm sau (Mậu Ngọ-1498) tháng Ba ngày 8, đưa quan tài về Lam Kinh, an táng vào ngày 28 tháng ấy !

Trong đoạn sử bút vừa được dẫn nguyên văn, có mấy chữ đáng chú ý, là: “dâng tôn hiệu cho Đại Hành hoàng đế”. Tức thị, lúc được “dâng tôn hiệu” (vào ngày 24 tháng Chạp, cuối năm Đinh Tỵ) thì lúc ấy (tức thị: từ ngày 30 tháng Giêng đầu năm chính thức băng hà, cho đến khi ấy) trong thời gian được quàn ở cung Bảo Quang, tên để gọi Lê Thánh Tông (không phải là Thánh Tông mà) là Đại Hành?

Sử thần nổi tiếng ở thế kỷ XIII là Lê Văn Hưu đã có lời giải thích rõ ràng về cái tên “Đại Hành” này: “Thiên tử và hoàng hậu, khi mới băng, chưa chôn vào sơn lăng, thì gọi là Đại Hành hoàng đế, Đại Hành hoàng hậu. Đến khi lăng tẩm đã yên, thì họp bầy tôi, bàn xem đức hạnh hay hay dở, để đặt thuỵ hiệu, không gọi là Đại Hành nữa”. Như vậy, rõ ra một quy luật nhân xưng, của và cho các đấng bậc trưởng thượng ngày xưa, rằng: Đại Hành chỉ là một cái tên dùng tạm, trong lúc các vị đã băng hà mà chưa được an táng, thế thôi.

Vậy thì, Lê Hoàn, mất năm 1005, đến nay đã là đúng được một nghìn (1.000) năm, cớ sao lại vẫn cứ phải mang cái tên tạm thời là Lê Đại Hành mãi thế Lại vẫn chính là Lê Văn Hưu ở thế kỷ XIII đã có lời giải thích như sau: “Lê Đại Hành thì (lại khác người mà) lấy Đại Hành làm thuỵ hiệu để truyền mãi đến nay là cớ làm sao?. Vì: Ngọa Triều là con bất tiếu, lại không có bề tôi Nho học, để giúp đỡ mà bàn về phép đặt thuỵ hiệu, cho nên thành ra là thế!”.

Như vậy, theo Lê Văn Hưu, có hai nguyên nhân khiến Lê Hoàn vẫn cứ mãi phải mang cái tên đặt tạm lúc mới mất. Về nguyên nhân “không có bề tôi Nho học giúp đỡ mà bàn về phép đặt thuỵ hiệu”: Khi nhấn mạnh điều này, vị Bảng nhãn khoa thi Nho học năm 1 247 Lê Văn Hưu, hẳn là muốn thiên về việc quảng bá cho đạo Nho, ở giữa một triều đại sùng Phật là nhà Trần đương thời, hơn là muốn chê trách sự thể không đủ trình độ tri thức ở thời Tiền Lê.
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top