Lào từ năm 1945 đến năm 1975
- Tuyên bố độc lập:
+ Giữa tháng 8 - 1945, Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện. Nắm thời cơ thuận lợi, ngày 23 - 8 - 1945, nhân dân Lào nổi dậy và thành lập chính quyền cách mạng ở nhiều nơi.
+ Ngày 12 - 10 - 1945, nhân dân thủ đô Viêng Chăn khởi nghĩa giành chính quyền, chính phủ Lào ra mắt quốc dân và trịnh trọng tuyên bố trước thế giới nền độc lập của nước Lào.
- Giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp ( 1946 - 1954 ):
+ Tháng 3 - 1946, thực dân Pháp trở lại tái chiếm Lào. Nhân dân Lào một lần nữa phải cầm súng kháng chiến bảo vệ nền độc lập của mình.
+ Từ năm 1947, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương và sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Lào ngày càng phát triển, lực lượng cách mạng ngày càng trưởng thành:
• Các chiến khu lần lượt được thành lập ở Tây Lào, Thượng Lào và Đông Bắc Lào.
• Ngày 20 - 1 - 1949, quân giải phóng nhân dân Lào Lát-xa-vông được thành lập do Cay-xỏn Phôm-vi-hẳn chỉ huy.
• Ngày 13 - 8 - 1950, Mặt trận Lào tự do và Chính phủ kháng chiến Lào do Hoàng thân Xu-pha-nu-vông đứng đầu thành lập.
+ Trong những năm 1953 - 1954, quân dân Lào đã phối hợp cùng với quân tình nguyện Việt Nam mở các chiến dịch Trung Lào, Hạ Lào ( 1953 ), Thượng Lào ( 1954 ),... giành thắng lợi to lớn. Những cuộc tấn công này đã phối hợp chặt chẽ với chiến trường Việt Nam, đặc biệt là chiến dịch Điện Biên Phủ ( 1954 ), góp phần vào chiến thắng chung của nhân dân ba nước Đông Dương.
+ Tháng 7 - 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết. Hiệp định đã thừa nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Lào, công nhân địa vị hợp pháp của lực lượng kháng chiến Lào.
- Giai đoạn kháng chiến chống Mĩ ( 1954 - 1975 ):
+ Ngay sau khi hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương vừa kí kết, Mĩ đã lập tức hất cẳng Pháp, âm mưu biến Lào thành nước thuộc địa kiểu mới. Từ đây, nhân dân Lào lại phải cầm súng chống kẻ thù mới là đế quốc Mĩ.
+ Thông qua viện trợ kinh tế và quân sự, đế quốc Mĩ đã dựng lên chính quyền, quân đội tay sai và nắm quyền chi phối mọi mặt ở Lào. Giữa năm 1955, Mĩ điều khiển quân đội tay sai Viêng Chăn tấn công vào hai tỉnh tập kết của lực lượng các mạng Lào ở Sầm Nưa và Phôngxali; tiến hành càn quét, đàn áp lực lượng kháng chiến cũ ở khắp các tỉnh trong nước, mở cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ ở Lào.
+ Ngày 22 - 3 - 1955, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào thì cuộc đấu tranh của nhân dân Lào diễn ra trên cả ba mặt trận: quân sự - chính trị - ngoại giao, đã đánh bại các cuộc tấn công quân sự của Mĩ và tay sai, giải phóng thêm nhiều vùng rộng lớn ở Thượng Lào, Trung Lào và Hạ Lào. Đến đầu những năm 60 đã giải phóng 2/3 lãnh thổ, hơn 1/3 dân số cả nước.
+ Từ giữa năm 1964, Mĩ bắt đầu sử dụng không quân ném bom tàn phá dã man các vùng giải phóng, phái hàng ngàn cố vấn quân sự Mĩ sang trực tiếp điều khiển cuộc chiến tranh và đưa nhiều đơn vị lính thuê Thái Lan sang tham chiến ở Lào. Cũng từ đó, cuộc chiến tranh xâm lược của Mĩ ở Lào chính thức chuyển sang hình thái Chiến tranh đặc biệt và từ năm 1969 được nâng thành Chiến tranh đặc biệt tăng cường, sau khi Ních-xơn trúng cử lên làm Tổng thống Mĩ. Mĩ đã ném 3 triệu tấn bom xuống Lào ( tính trung bình mỗi người dân Lào phải chịu đựng 1 tấn bom ), và liên tiếp mở những cuộc hành quân lớn nhằm đánh chiếm vùng giải phóng, tiêu diệt lực lượng cách mạng. Tuy nhiên, nhân dân Lào đã từng bước đánh bại các kế hoạch chiến tranh của Mĩ và lực lượng phái hữu.
+ Tháng 2 - 1973, Hiệp định Viêng Chăn về lập lại hòa bình và thực hiện hòa hợp dân tộc ở Lào được kí kết giữa mặt trận Lào yêu nước và phái hữu Viêng Chăn. Chính phủ Liên hiệp dân tộc lâm thời và Hội đồng Quốc gia chính trị liên hiệp được thành lập.
+ Mùa xuân năm 1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân dân Việt Nam thắng lợi đã cổ vũ và tạo điều kiện cho cách mạng Lào tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Từ tháng 5 đến tháng 12 - 1975, quân dân Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng đã nổi dậy giành chính quyền trong cả nước.
+ Ngày 2 - 12 - 1975, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào chính thức thành lập. Từ đó, nước Lào bước sang thời kì mới - xây dựng đất nước và phát triển kinh tế - xã hội.
ST