Kỹ thuật sơ cấp cứu vết thương

  • Thread starter Thread starter Samurai
  • Ngày gửi Ngày gửi

Samurai

New member
Xu
0
Hai điều ghi nhớ:

1. Tất cả vết thương đều nhiễm trùng: Vi trùng xâm nhập vào vết thương, có thể gây ra những hậu quả tai hại. Vì vậy tất cả những vết thương đều phải được săn sóc dù chỉ là một vết thương nhỏ.
2. Vi trùng sinh sản rất nhanh: Vì thế các vết thương cần phải được săn sóc ngay càng sớm càng tốt.

cam-mau-300x300.jpg


Như vậy, sự săn sóc đầu tiên của người cứu thương có tầm mức quan trọng cho việc bình phục vết thương sau này.

Sự vô trùng: là tình trạng của một vật mà trên đó không có vi trùng. Thí dụ: dụng cụ y khoa đã được khử trùng bằng lò hấp. Người cứu thương khó thực hiện việc băng bó trong điều kiện hoàn toàn vô trùng. Tuy nhiên, càng sạch chừng nào càng tốt chừng nấy.

Sự khử trùng: là các phương pháp giết vi trùng. Vi trùng xâm nhập vào vết thương, thông thường bị tiêu diệt bằng các hóa chất gọi là chất sát trùng. Công hiệu của chất này hoàn hảo khi nào vết thương đã được rửa sạch cẩn thận.

Hành động của người cứu thương sẽ tùy thuộc vào vết thương nặng hay nhẹ. Vết thương nhẹ là những vết thương trầy trụa, hay xây xát ngoài da. Ngoài ra các vết thương khác được xem là nặng.

Cách săn sóc một vết thương:


  • Chuẩn bị vật dụng.
  • Rửa sạch hai tay.
  • Khử trùng dụng cụ.
  • Săn sóc vết thương.
  • Săn sóc vết thương do phỏng

Người cứu thương phải thành thạo cách săn sóc một vết thương nhẹ, vì họ thường gặp nhất trong các tai nạn thường ngày.

1. 1 tấm vải dầy (cạnh 50x50cm) để trải ra khi làm việc cho sạch sẽ.

2. Gạc 5x10cm đựng trong hộp hay trong bao kín đã khử trùng.

3. Bông gòn thấm nước cắt thành từng ô để sẵn trong hộp kim khí đã khử trùng.

4. Bông gòn không thấm nước đã khử trùng và còn nguyên trong bao, khi cần dùng sẽ cắt theo ý muốn.

5. Một hộp kim khí đựng dụng cụ: 1 kéo đầu tròn, 2 kẹp.

6. Thuốc sát trùng để rửa vết thương:

7. Xà phòng nước.

8. Dung dịch Dakin hay nước ôxy già, hai loại này rất dễ bay hơi.

9. Thuốc đỏ.

10. Cồn 90 độ (chỉ dùng để khử trùng dụng cụ)

11. Băng keo dài bề ngang 2cm, hay băng cá nhân loại ở thân băng có sẵn thuốc sát trùng.

12. Vài cuộn băng: chiều ngang 5,7 hay 10cm.

13. Kim băng.

Cắt ngắn móng tay. Dùng bàn chải và xà phòng chà xát từ bàn tay đến khủy tay trong 10 phút rồi rửa sạch với nước và không được lau tay. Xoa hai tay với cồn 90 độ và để khô.

Chỉ có 2 cách khử trùng tuyệt đối dụng cụ: đó là chưng và hấp khô dùng trong phẩu thuật. Tuy cách chỉ dưới đây không khử trùng tuyệt đối, nhưng cũng đủ dùng trong lúc cấp cứu: nấu sôi, đốt nóng, hay nhúng vào cồn.

1. Đun sôi: phải đun sôi khoảng 20 phút.

2. Đốt nóng: để dụng cụ vào trong một cái mâm kim loại (hay nắp hộp) với một ít cồn 90 độ rồi châm lửa. Chờ cho nguội lại rồi mới sử dụng.

3. Nhúng dụng cụ và ngâm thường xuyên trong cồn 90 độ.


1. Rửa vết thương từ trong ra ngoài, và chung quanh vết thương bằng thuốc sát trùng.

2. Cạo, cắt tóc, hay lông cho thật sạch.

3. Lấy ngoại vật thấy rõ ra.

4. Cắt bỏ da lòng thòng bằng kéo.

5. Nếu vết thương chảy máu, ta đắp gạc có tẩm ôxy già.

6. Khi vết thương đã sạch và khô, ta bôi thuốc sát trùng. Tránh dùng hỗn hợp nhiều loại thuốc, có thể gây phản ứng, nguy hiểm.

7. Nếu có thể được, nên để trần vết thương. Những vết thương xây xát chút ít không nên băng lại. Ta chỉ băng vết thương bị chảy máu hay rỉ nước.

8. Băng vết thương bằng cách đắp gạc rồi dùng băng keo dán lại. Nếu vết thương chảy máu hay cần che chở đầy đủ, ta đắp thêm một lớp bông gòn thấm nước rồi một lớp bông không thấm nước sau đó băng lại.

9. Thay băng: Cách 3 hay 4 ngày ta thay băng một lần. Nếu vết thương chảy máu hay làm mủ, mỗi ngày ta thay băng 1 hay 2 lần. Lúc mở băng nên cẩn thận: nên thấm ôxy già hay Dakin trước rồi mới gỡ miếng gạc ra khỏi vết thương.

10. Phải xem chừng vết thương: nếu vài hôm sau có dấu hiệu làm độc (đỏ, sưng, nhức, nóng) ta phải mời Y sĩ đến.

Vết thương nặng là những vết thương:


  • Rộng (cần khâu lại).
  • Sâu (xuyên qua da thịt)..
  • Dính ngoại vật (đất, cát, mảnh kim loại…).
  • Bầm dập (mô bị dập nát là chỗ cho vi trùng sinh sống).
  • Phức tạp (gãy xương, xuất huyết).
  • Làm độc.
  • Ở nơi nguy hiểm (mặt, ngón tay, xoang).

Cấp cứu khi đứng trước một vết thương nặng: Người cứu thương không được sờ mó vào vết thương nặng. Hành động của họ là tóm tắt trong ba công việc: Bao bọc, làm phiếu, tải thương. Chỉ có y sĩ mới có thẩm quyền săn sóc vết thương nặng.

1. Bao bọc vết thương bằng vải thưa vô trùng, nếu có, hay vải sạch – Thực dụng nhất là băng cá nhân, băng này được làm sẵn để cấp cứu, (ngoài ra người cứu thương cần lưu ý để ngăn chận xuất huyết động mạch trầm trọng hay bó im xương gãy)

2. Cài 1 tấm phiếu vào áo nạn nhân trong đó ghi tên họ nạn nhân, tính chất, giờ và độ khẩn của vết thương.

3. Di chuyển ngay nạn nhân đến bệnh viện gần nhất, không được chần chờ, vì họ có thể chết vì kích xúc (chock) hay nhiễm trùng.

Người cứu thương phải biết hành động khi gặp trường hợp vết thương ở ngực hay ở bụng.


I. Vết thương ngực:

Nạn nhân bị vết thương ở trước ngực hay lưng có thể chết vì ngưng thở nếu người ta để đầu thấp. Sau khi băng kín vết thương, nạn nhân được tải thương theo tư thế nửa nằm, nửa ngồi hay nằm nghiêng về phía vết thương, đầu cao (xem phần thế nằm của nạn nhân)..

Nếu vết thương thủng phổi (không khí ở phổi thoát ra bằng vết thương), ta phải bịt chỗ thủng ngay, bằng cách dùng nhiều miếng gạc (compresse) phủ vải hay nylon ở ngoài rồi dùng băng keo hay băng 3 đuôi giữ chặt. Nếu không có vật dụng ta có thể dùng khăn tay hay bàn tay giữ chặt lại.


II. Vết thương ở bụng:

Nếu lòi ruột ra ngoài, không nên tìm cách nhét vào. Bao bọc bằng vải sạch (không nên dùng compresse). Lúc tải thương để đầu nạn nhân thấp, chân co lên.

Nếu dao vật nhọn, còn nằm tại chỗ, ta nên để nguyên, không được tìm cách lấy ra.

NÊN NHỚ: Vết thương ở ngực và bụng thường hay gây ra nội xuất huyết.

Bỏng do nhiều nguyên-nhân:


  • Sức nóng (vật rắn, lỏng hay hơi rất nóng hoặc do sự bốc cháy).
  • Ánh nắng mặt trời.
  • Hóa chất (A-xít, ba-dờ…).
  • Điện.
  • Tia ngoại tuyến.

Những sự cọ sát như mang giày chật cũng tạo ra những vết thương như bỏng.

Thế nào là bỏng nặng: Một vết bỏng là nặng nếu: rộng lớn, hoặc sâu.

Một vết bỏng dù nhỏ cũng được coi là nặng:


  • Khi ở vài nơi trên cơ-thể: nhiễm độc ở mông trẻ em, ở bàn tay những chỗ nếp gấp, ở mặt, hoặc ngộp thở dần dần bởi hít phải khí nóng làm cháy đường hô-hấp.
  • Khi bị bẩn.
  • Khi nạn-nhân yếu: Trẻ em, người già, người bệnh kinh niên (nghiện rượu, tiểu đường,…)

Người ta phân biệt 3 độ bỏng như sau:


  • Bỏng độ 1: da bị đỏ, bị phỏng nắng.
  • Bỏng độ 2: da nổi lên một hay nhiều bong bóng nước.
  • Bỏng độ 3: da bị cháy hay gây tổn-thương tới lớp mỡ, thần kinh, bắp thịt, mạch máu hay xương.

Bỏng độ 2 và 3 được kể là những vết thương. Sự nguy-hiểm là vì nhiễm độc. Vết bỏng nào cũng sạch (không có vi trùng) lúc xảy ra, nhưng sẽ bị nhiễm trùng rất nhanh nếu ta không cẩn thận. Người cứu thương không nên bôi thuốc hay pommade vào vết bỏng.

Hậu quả toàn thể: đó là bỏng sẽ gây ra tình trạng sốc. Đối với người cứu-thương đầu tiên phải tránh làm tình trạng này trầm trọng hơn.

Nạn nhân thường khát nước. Nếu họ không bị vết thương khác, hay ói mửa, người cứu thương có thể cho họ uống một ít nước ấm hay nước đường. Rượu tuyệt đối cấm.

Cấp cứu người bị bỏng

Người cứu thương phải phân biệt:

Bỏng thường (nhẹ) có thể trị tại chỗ.
Bỏng nặng: phải mang vào bệnh viện.

1) Bỏng nhẹ

a) Vết bỏng độ 1 và nhỏ, thí dụ: vết đỏ vì nắng trên một diện tích nhỏ. Ta rắc bột khử trùng (Talc stérile) và nên canh chừng nạn-nhân trong 24 giờ đồng hồ.

b) Vết-thương bỏng độ 2 rất nhỏ: bằng một đồng bạc chì, bỏng bởi đầu thuốc lá, vì đi giày chật.

Vết bỏng dễ bị nhiễm trùng nếu ta làm bể mộng nước (bong bóng nước), ta nên bôi thuốc đỏ lên bong bóng nước và xung quanh, rồi dùng compresse vô trùng đắp lên.

Nếu bong bóng nước đã bể, ta chữa như vết thương thường: rữa tay sạch, bôi thuốc đỏ, cắt những chỗ da cháy, bôi thuốc đỏ, đắp compresse rồi dán băng keo để tránh đụng chạm và làm bẩn vết thương.

Sau 48 giờ, tháo băng ra, bôi thuốc đỏ và để trần vết thương.

Nếu có dấu hiệu làm độc ta phải mời y sĩ.

2) Bỏng nặng

Người cứu-thương hành động như đứng trước vết thương nặng:


  • Băng vô trùng, nếu được, hoặc bao bọc nạn nhân bằng vải sạch.
  • Khi di chuyển đến bệnh viện: quấn chăn, để nằm dài, đầu thấp.
  • Khi nạn nhân chưa được quấn chăn, không nên sờ mó vào trên chỗ bị phỏng.

Nếu quần áo cháy: cuốn nạn nhân bằng chăn hay lăn dưới đất. Tránh dùng bình cứu hỏa.

Chỉ nên cởi quần áo nạn nhân trong hai trường hợp:


  • Quần áo đang thấm nước sôi (dội nước lạnh ngay, chỉ trong trường hợp này người ta không được cởi lớp vải cuối cùng, lớp tiếp xúc với da).
  • Quần áo hay quần áo lót bằng sợi tổng hợp tiếp tục cháy âm ỉ (nhiều khi không có ngọn lửa).

Những chỗ hở: bàn tay bàn chân bị bỏng nước sôi; đổ nước lạnh ngay.

Lưu ý: không bao được đổ nước lên chất hóa chất cháy (xăng, dầu hỏa, rượu) ta dập tắt bằng cát hay bình chữa lửa (cẩn thận tránh xịt vào mặt nạn nhân hay người khác)

3) Bỏng do hóa chất


  • Bỏng A-xít (acide sulfuric, clorhyric, nitric…): Rửa bằng nước xà bông (savon) hay nước pha bicarbonate de soude (1 muỗng biacarbonate de soude trong 1 lít nước)
  • Phỏng Ba-dờ (soude, potasse, vôi sống): ta rửa bằng nước dấm.

Nói chung: dội ngay thật nhiều nước, băng vô trùng di chuyển ngay đến bệnh viện gần nhất.

Khi hóa chất văng vào mắt: rửa ngay bằng dòng nước cho chảy ngay vào mắt (được giữ cho mở ra) rồi đưa đến bác sĩ chuyên khoa mắt hay bệnh-viện.


Từ nhiều nguồn trên Internet
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
Xin lỗi vì sự lộn xộn, bài này lẽ ra phải nằm trước bài vừa rồi ^^



Vết thương là sự cắt đứt hay dập rách da và tổ chức dưới da hoặc các tổ chức khác của cơ thể.


Vết thương có thể là vết thương kín hoặc vết thương hở.


  • Vết thương kín (vết thương bên trong) là loại vết thương để cho máu thoát ra ngoài hệ thống tuần hoàn nhưng không chảy ra khỏi cơ thể. Loại này bao gồm: bầm tím, tụ máu dưới da hoặc có thể không có dấu tích ở bên ngoài.
  • Vết thương hở (vết thương bên ngoài) là loại vết thương để cho máu chảy ra khỏi cơ thể. Loại này bao gồm: các vết trích rạch, vết thương đâm xuyên hoặc thậm chí là vết trượt sây sát trên da.
  • Trên thực tế có nhiều vết thương vừa là vết thương kín vừa là vết thương hở.

Mục đích chính của việc cấp cứu và chăm sóc cấp cứu một vết thương là:


  • Cầm máu hoặc khống chế sự chảy máu
  • Phòng hoặc điều trị sốc
  • Duy trì các chức năng sinh tồn (giúp nạn nhân thở và lưu thông tuần hoàn)
  • Tránh các biến chứng (đặc biệt là giảm nguy cơ nhiễm KHUẨN)

ejtu1.jpg


Cần nắm rõ các nguyên tắc cơ bản trong cứu thương để xử lý tình huống một cách kịp thời và chính xác

Nếu vết thương chảy nhiều máu phải tiến hành xứ trí cầm máu ngay.


1.1. Vết thương nhỏ:

1.1.1. Ðối với vết thương bể mặt nhỏ

Vết thương bề mặt nhỏ là vết thương chỉ làm tổn thương những lớp bề mặt của da nên chỉ cần rửa loại vết thương này bằng nước chín hoặc nước máy nếu biết chắc chắn rằng nước máy này đảm bảo chất lượng vệ sinh.

Nếu vết thương quá bẩn phải rửa bằng nước xà phòng.

- Khi rửa vết thương phải:


  • Rửa tay kỹ trước khi bắt đầu
  • Nếu phải dùng dụng cụ như cái kẹp, cái nhíp để gắp những hạt sạn, sỏi… ra khỏi vết thương thì phải đun sôi dụng cụ ít nhất là 5 phút.
  • Sau khi rửa vết thương, nếu có điều kiện thì dùng dung dịch sát khuẩn để sát khuẩn xung quanh vết thương rồi dùng gạc vô khuẩn đặt lên trên vết thương, sau đó dùng băng dính hoặc băng cuộn băng lại. Nếu không có điều kiện thì gấp một miếng vải càng sạch càng tốt để đặt lên trên vết thương (Lưu ý để mắặt có mép gấp ra ngoài) rồi cũng dùng băng đính hoặc băng cuộn băng lại.
  • Nếu vết thương ở tay hoặc chân thì luôn nâng cao vết thương bằng dây đeo hoặc gối kê.

1.1.2. Ðối với vết thương bề mặt rộng và sâu hơn

Ðể vết thương liền nhanh hơn thì có thể đóng kín hoặc khâu vết thương lại. Nhưng chỉ đóng kín miệng một vết thương bề mặt sâu và rộng trong những điều kiện sau đây:


  • Vết thương xảy ra chưa quá 12 giờ.
  • Ðảm bảo chắc chắn rằng vết thương không còn đất cát hoặc dị vật ẩn náu trong đó.
  • Không có khả năng tìm được cán bộ y tế chuyên khoa hoặc chuyên môn ca hơn và cũng không thể chuyển nạn nhân tới bệnh viện được.

Các phương pháp đóng kín miệng vết thương:


  • Phương pháp dùng băng dính: phương pháp này áp dụng cho những vết thương mà mép vết thương gần sát nhau.
  • Khi dùng băng dính để đóng kín vết thương nên cắt băng dính và dán băng dính như hình vẽ (cắt băng dính thành hình con bướm).


1.2. Vết thương lớn.



  • Ðối với vết thương lớn sau khi xử trí cầm máu có thể rửa xung quanh vết thương bằng dung dịch sát khuẩn hoặc bằng nước sôi.
  • Chỉ lấy dị vật hoặc bụi bẩn ra khỏi vết thương khi có thể lấy ra dễ dàng. Không được thăm dò vết thương.
  • Sau đó băng bó vết thương rồi chuyển ngay nạn nhân tới cơ sở điều trị càng sớm càng tốt.
  • Trong khi chờ đợi và trên đường vận chuyển phải theo dõi sát nạn nhân. Giữ nạn nhân ở tư thế đúng, phòng chống và xử trí ngay nếu sốc xảy ra.
  • Chú ý: nếu có thể nên cố định vết thương vào phần không bị tổn thương của cơ thể và nâng cao vết thương, ví dụ: treo tay bị thương vào ngực, cố định chân bị tổn thương vào chân lành.

xolq2.jpg



Một vết thương sâu ở thành bụng là rất nguy hiểm không phải chỉ vì sự chảy máu ngoài mà còn vì những cơ quan bên trong cơ thể bị thủng, rách hoặc gây chảy máu trong và nhiễm khuẩn. Một phần của ruột có thể bị lòi ra khỏi thành bụng.


2.1. Dấu hiệu và triệu chứng.


  • Đau khắp ổ bụng
  • Chảy máu từ vết thương ở vùng bụng
  • Có thể nhìn thấy một phần của ruột hoặc một phần ruột đang lòi ra khỏi vết thương
  • Nạn nhân có thể bị nôn
  • Có thế có dấu hiệu và triệu chứng của sốc.


2.2. Xử trí cấp cứu.

2.2.1. Mục đích:

Hạn chế nhiễm khuẩn và khống chế chảy máu, trong khi xử trí tránh để ruột bị lòi ra ngoài: Thu xếp chuyển ngay nạn nhân tới bệnh viện.

2.2.2. Hành động

a) Trường hợp ruột chưa bị lòi ra ngoài


  • Khống chế sự chảy máu bằng cách ép thận trọng các mép vết thương với nhau.
  • Ðặt nạn nhân ở tư thế nửa nằm nửa ngồi chống 2 chân để tránh hở vết thương và giảm áp lực lên vùng bị thương. Dùng gối đệm hoặc quần áo gấp lại để đỡ vai, đầu và dưới khoeo chân.
  • Ðặt một miếng gạc trùm lên vết thương rồi dùng băng cuộn hoặc băng dính băng vết thương lại.
  • Nếu nạn nhân bất tỉnh nhưng vẫn thở bình thường thì đặt nạn nhân ở tư thế hồi phục có gối hoặc đệm đỡ vùng bụng.
  • Nếu nạn nhân ngừng thở ngừng tim thì tiến hành hồi sức hô hấp tuần hoàn ngay.
  • Phòng chống và xử trí sốc (xem phần cấp cứu và chăm sóc sốc).
  • Chú ý: Không cho nạn nhân ăn uống bất cứ một thứ gì.
  • Kiểm tra tần số hô hấp và mạch 10 phút/lần. Phát hiện kịp thời dấu hiệu chảy máu trong.
  • Nếu nạn nhân ho hoặc nôn thì dùng tay áp nhẹ lên vùng vết thủng để tránh ruột bị lòi ra ngoài.
  • Chuyển nạn nhân tới bệnh viện ngay. Phải coi đây là một cấp cứu ưu tiên. Trong quá trình vận chuyển phải tiếp tục theo dõi sát và xử trí những diễn biến xảy ra.

b) Trong trường hợp một phần ruột bị lòi ra ngoài


  • Khống chế sự chảy máu nhưng tránh dùng áp lực ép trực tiếp mạnh quá.
  • Không chạm vào vết thương, không được đẩy ruột vào trong.
  • Ðặt một miếng gạc nhỏ hoặc vải tẩm nước muối hoặc nước muối ăn tự pha trùm lên vết thương rồi băng lỏng lại. Phải thường xuyên làm ẩm vết thương bằng dung dịch này. Cách pha dung dịch nước muối: cho 1 thìa cà phê muối ăn vào 1 lít nước chín. Hoặc có thể dùng vành khăn hay một cái bát đã luộc để nguội để úp lên vùng bị thương rồi dùng băng cuộn băng lại.
  • Nếu nạn nhân ho hoặc nôn thì cũng dùng tay áp lên vết thương để tránh ruột bị lòi thêm ra ngoài.
  • Ðặt nạn nhân nằm và tiến hành chăm sóc cấp cứu như trường hợp ruột không bị lòi ra ngoài.



Vết thương ngực có nhiều hình thức khác nhau từ những vết thương do dao đâm tới những vết thương do tai nạn bởi những máy móc công nghiệp nặng hoặc do bị bánh xe đè qua trong tai nạn giao thông.


  • Vết thương đâm xuyên
  • Vết thương giập lồng ngực
  • Vết thương có mảng sườn di động.


3.1. Sơ cứu vết thương đâm xuyên.

Vết thương đâm xuyên thường do dao đâm, hoặc những vật cứng nhọn đâm vào hoặc do đạn bắn hoặc do xương sườn bị ép ra phía ngoài da để cho không khí tràn vào khoang ngực. Những vết thương này có thể trở nên phức tạp và phát triển thành vết thương ngực hở.

Trong vết thương này, phổi bên bị thương bị xẹp ngay cả khi phổi đó không bị thủng và không còn khả năng hít khí vào… Hơn nữa khi xương sườn nâng lên lúc bệnh nhân thở vào làm cho không khí bên ngoài bị hút vào khoang lồng ngực qua vết thương sẽ chèn ép bên phổi lành dẫn đến tình trạng hô hấp không có hiệu quả và ngạt có thể xảy ra.

3.1.1. Dấu hiệu và triệu chứng


  • Ðau trong ngực
  • Khó thở, thở nông vì có không khí trong lồng ngực
  • Tím tái môi, đầu chi và da biểu thị sự bắt đầu của ngạt
  • Ho ra máu đỏ tươi có lẫn bọt nếu phổi bị tổn thương
  • Có thể nghe thấy tiểng thở “phì phò” ở miệng vết thương khi nạn nhân thở.
  • Có bọt màu hồng ở miệng vết thủng khi thở ra.
  • Dấu hiệu và triệu chứng của sốc.

3.1.2. Xử trí cấp cứu: trường hợp không có dị tật

a) Mục đích: Làm dễ thở bằng cách làm kín ngay vết thương, thu xếp chuyển ngay nạn nhân tới bệnh viện.

b) Hành động:


  • Ngay lập tức dùng bàn tay bịt kín miệng vết thương
  • Đặt nạn nhân ở tư thế nửa nằm ngửa ngồi nghiêng về phía bên phổi bị thương để bên phổi lành hoạt động được thuận lợi. Dùng gối hoặc đệm hay quần áo gấp lại để ở lưng và đầu.
  • Nhẹ nhàng dặt một miếng gạc vô khuẩn hoặc vải sạch lên trên miệng vết thương.
  • Phủ lên trên miếng gạc hoặc miếng vải một miếng giấy bóng.
  • Dùng băng dính dán các mép của miếng giấy bóng vào da.
  • Dùng băng cuộn băng ép lại
  • Nếu vết thương có lỗ vào và lỗ ra thì phải kiểm tra và có thể phải băng kín cả 2 vết thương.
  • Nếu nạn nhân vẫn thở bình thường nhưng bị bất tỉnh thì đặt nạn nhân ở tư thế hồi phục, bên phổi lành ở phía trên.
  • Phòng chống và xử trí xốc (xem bài cấp cứu sốc).
  • Kiểm ra tần số mạch nhịp thở và mức độ tỉnh táo 10 phút/lần. Phát hiện kịp thời dấu hiệu chảy máu trong.
  • Chuyển nạn nhân tới ngay bệnh viện. Phải coi đây là một cấp cứu ưu tiên. Trong khi vận chuyển vẫn phải theo dõi sát nạn nhân, giữ nạn nhân ở tư thế đúng và xử trí những diễn biến xảy ra.

Trường hợp vẫn còn dị vật


  • Không được rút dị vật ra.
  • Bịt kín vết thương bằng cách ép mép vết thương sát với dị vật.
  • Ðặt gạc hoặc miếng vải xung quanh dị vật.
  • Ðặt một vành khăn lên trên vết thương sau đó băng kín lại như vết thương không có dị vật.
  • Chăm sóc và theo dõi tiếp theo như đã nêu ở trên.


3.2. Sơ cứu vết thương giập lồng ngực.


  • Băng bó vết thương bề mặt nếu có.
  • Băng ép tay bên bị thương hoặc cả 2 tay nếu cả hai lồng ngực đều bị tổn thương vào ngực nạn nhân (khi băng để nguyên cả áo). Băng ép chặt vừa đủ (thắt nút khi thở ra). Nhưng nếu các xương sườn gãy thì không được băng ép chặt quá vì có thể làm đầu xương sườn chọc vào phổi.
  • Ðặt nạn nhân nằm tư thế như trường hợp bị vết thương đâm xuyên.
  • Phòng chống và xử trí sốc nếu xảy ra (xem bài cấp cứu sốc).
  • Chuyển ngay nạn nhân tới bệnh viện.


3.3. Sơ cứu vết thương có mảng sườn di dộng.


  • Vấn đề chính của vết thương ngực có gãy nhiều xương sườn là làm nạn nhân rất khó thở và đau. Hơn nữa đầu của các xương sườn gãy có thể làm thủng hoặc rách màng phổi và phổi và gây nên tràn khí dưới da và tràn khí màng phổi gây chèn ép phổi và nếu các xương sườn gãy liền nhau và gãy thành nhiều mảnh thì sẽ tạo thành mảng sườn di động và gây nên “hô hấp đảo ngược”. Mảng sườn này di động ngược chiều với phần còn lại của thành ngực làm cho hô hấp không hữu hiệu và gây nên xẹp bên phổi tổn thương.
  • Mảng sườn di động vào trong khi thở vào và ra ngoài khi thở ra.
  • Phần còn lại của thành ngực di động ra ngoài khi thở vào và vào trong khi thở ra.
  • Khi gặp một nạn nhân bị vết thương thành ngực có mảng sườn di động ta phải nhanh chóng cố định thành ngực nạn nhân.

Cách cố định:


  • Áp một vật chắc như một tấm vải gấp lại (hoặc dùng một gói nhỏ) lên trên phần bị tổn thương của thành ngực rồi dùng băng cuộn băng chặt lại.
  • Hoặc buộc tay nạn nhân vào ngực.
  • Hoặc dùng băng dính to bản giữ mảng sườn di động vào phần còn lại của thành ngực.

Với sự cố định này sẽ giúp nạn nhân tự thở dễ dàng, và hô hấp sẽ hữu hiệu hơn.

Sau khi cố định đặt nạn nhân nằm tư thế nào mà nạn nhân cảm thấy thoải mái nhất. Thường là đặt nạn nhân nằm tư thế nửa nằm nửa ngồi, nghiêng về bên bị tổn thương dùng gối hoặc đệm để ở đầu và lưng.

Ðề phòng và xử trí sốc và nhanh chóng chuyển nạn nhân tới bệnh viện.

Trong khi chờ đợi và trên đường vận chuyển phải theo dõi sát nạn nhân, xử trí và chăm sóc kịp thời những diễn biến xảy ra.


olwx3.jpg




Chấn thương ở đầu là chấn thương thường gặp do các nguyên nhân:

Tai nạn lao động, giao thông, sinh hoạt hoặc do hỏa khí gây tổn thương rất phức tạp, đa dạng. Trong bài này chỉ đề cập vấn đề sơ cứu vết thương rách da đầu và vết thương vỡ sọ.


4.1. Dấu hiệu và triệu chứng


  • Rách da đầu gây chảy nhiều máu.
  • Có thể thấy não phòi ra ngoài.
  • Nạn nhân tỉnh táo hoặc nửa tỉnh nửa mê hoặc hôn mê.
  • Có thể có rối loạn hô hấp, khó thở, xuất tiết nhiều đờm dãi…


4.2. Xử trí cấp cứu.

4.2.1. Trường hợp rách da đầu gây chảy nhiều máu


  • Ép chặt 2 mép vết thương lại với nhau để cầm máu sơ bộ.
  • Cắt tóc xung quanh vết thương
  • Ðặt gạc hoặc bông vô khuẩn lên trên vết thương rồi dùng băng cuộn băng ép lại. Nếu có điều kiện thì dùng kẹp agraf để bấm 2 mép vết thương lại với nhau sau đó băng lại.
  • Chuyển nạn nhân đến cơ sở y tế để xử trí tiếp..

4.2.2. Trường hợp vỡ xương sọ có não phòi ra ngoài

Không được bôi lên não bất kỳ thứ thuốc gì
Phủ lên phần não phòi ra một miếng gạc vô khuẩn.
Nếu có điều kiện thì đặt một vành khăn xung quanh tổ chức não phòi ra rồi dùng băng cuộn băng lại.
Nếu không dùng vành khăn thì chỉ được băng lỏng để tránh gây chèn ép não.

Chú ý:




  • Nếu nạn nhân không tỉnh táo, lơ mơ hoặc mê man thì cần chuyển ngay nạn nhân tới bệnh viện.
  • Nếu nạn nhân có xuất tiết đờm dãi thì phải hút sạch đờm dãi, làm thông đường hô hấp.
  • Ðặt nạn nhân nầm tư thế thoải mái an toàn. Nếu tình trạng nạn nhân cho phép thì nên đặt nạn nhân ở tư thế đầu cao, đầu nghiêng về bên lành.
  • Theo dõi sát tình trạng nạn nhân 10 phút/1ần.


Theo baohiem24h
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top