Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Lý luận & Phê bình Văn học
Kinh thi
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="_vTiens_" data-source="post: 53117" data-attributes="member: 49658"><p><strong>Giới Thiệu Kinh Thi III</strong></p><p></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><strong><span style="color: darkblue">Văn Chương Kinh Thi</span></strong></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">Khổng tử đã hạ những lời phê bình Kinh Thi như sau: </span> <span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">“Bất học Thi, vô dĩ ngôn” (nghĩa là: chẳng học Thi thì nói không thông - Luận ngữ, Quý thị) </span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">“Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi, viết: tư vô tà” (nghĩa là: Thi có ba trăm thiên, nhưng chỉ một lời có thể trùm được là: không nghĩ bậy - Luận ngữ, Vi chính) </span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">“Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khã dĩ quần, khả dĩ oán, nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa thức ư điểu thú thảo mộc chi danh” (nghĩa là: Xem Thi có thể phấn khởi được ý chí, xem xét được việc hay dở, hòa hợp được với mọi người, bày tỏ được nỗi sầu oán, gần thì học việc thờ cha, xa thì học việc thờ vua, lại biết được nhiều tên chim, muông, cỏ, cây - Luận ngữ, Dương Hóa). </span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">Khổng tử đã khen Kinh Thi về cả hai phương diện: luân lý và văn chương. Xem những lời trên đây, ta biết Kinh Thi có một giá trị không nhỏ. </span> <span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">Muốn thưởng thức văn chương Kinh Thi, ta phải xét về từ và ý của các thiên trong tác phẩm đó. Mà đã nói đến Thi, tức là phải nghĩ tới nhạc, vậy trước hết ta phải xét qua cú cách và âm điệu các thiên trong Kinh Thi, rồi tiếp theo đó, ta sẽ tìm hiểu nội dung của những thiên ấy. </span> <span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">Như chúng ta đã biết, Kinh Thi gồm có 305 thiên, nhưng số chương trong các thiên không theo một luật nhất định: thơ Sô ngu (Trâu) có 2 chương, thơ Tang nhu có đến 16 chương. Số câu trong mỗi chương cũng thế: thơ Cam đường mỗi chương có 3 câu, thơ Hán dịch mỗi chương có 12 câu. Số chữ trong mỗi câu cũng không đều: có câu 3 chữ như: Giang hữu chữ, Chi tử quy (Thiệu nam, Giang hữu tự); có câu 5 chữ như: Thùy vị tước vô giác, hà dĩ xuyên ngã ốc? (Thiệu nam, Hành lộ); câu có 6 chữ như: Ngã cô chước bỉ kim lôi (Chu nam, Quyển nhĩ); có câu có 7 chữ như: Giao giao hoàng điểu chỉ vu tang (Tần phong, Hoàng điểu); có câu có 8 chữ như: Thập nguyệt tất suất nhập ngã sàng hạ (Bân phong, Thất nguyệt); có câu có 9 chữ như: Huýnh chước bỉ hành lạo ấp bỉ chú tư (Đại nhã, Huỳnh chước). Tuy vậy các thiên trong Kinh Thi phần nhiều làm theo thể 4 chữ. </span> <span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">Những bài trong Kinh Thi có cả cước vận và yêu vận, cách gieo vần rất rộng rãi tự do, không bị gò bó trong một khuôn khổ hẹp hòi, theo một định luật nghiêm khắc. Cũng như ca dao Việt nam, Kinh Thi có nhiều phức từ và điệp ngữ rất hay (1) . Nhờ thế nên văn chương Kinh Thi đã giữ được cái âm điệu uyển chuyển tự nhiên, diễn tả dễ dàng ấn tượng của tác giả và có sức truyền cảm rất mạnh (2) . Tuy nhiên, muốn hiểu thấu triệt Kinh Thi, người ta phải nghiên cứu văn pháp và từ ngữ đời Chu. Bởi vậy, từ trước đến nay, giữa các nhà chú giải Kinh Thi thường có sự bất đồng ý kiến (3) . </span> <span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">Nếu đem Kinh Thi ra phân tích, ta có thể tìm thấy trong tác phẩm ấy có những lối văn sau đây: </span> <span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">1. Tế tự </span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">2. Chúc tụng </span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">3. Yến ẩm </span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">4. Phúng thích </span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">5. Tự sự </span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">6. Trữ tình </span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">Các thiên Nhã, Tụng phần nhiều làm theo ba lối văn tế tự, chúc tụng và yến ẩm. Các thiên Quốc phong phần nhiều làm theo lối phúng thích, tự sự và trữ tình. Xét về phương diện kỹ thuật, phần Quốc phong tiến bộ hơn hai phần Nhã, Tụng. Bởi vậy người ta thường thích đọc Quốc phong. </span> <span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'">Kinh Thi là một tác phẩm phản ảnh được thời đại của nó vì qua tác phẩm ấy, ta có thể biết được phong tục tập quán, tình trạng xã hội và chế độ chính trị của các nước chư hầu ở Trung Quốc ngày xưa. Ngoài những bài tả tình luyến ái giữa trai gái (4) , tình chung thủy giữa vợ chồng (5) , cảnh sinh hoạt của nông dân (6) . Kinh Thi còn có những bài tả nỗi thống hận của dân chúng đối với vua quan thời đó nữa (7) . Vì thế nên Tưởng Tổ Di đã xem Kinh Thi là một khảo chứng phẩm về nông nghệ thời cổ (8) , Hồ Thích cũng đã dùng Kinh Thi để nghiên cứu trạng huống xã hội Trung Quốc trong giai đoạn mà Hồ gọi là “thời kỳ thai nghén triết học” (9) .</span> <span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><strong><em>Chú thích:</em></strong></span> <span style="font-family: 'Arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em>(1) Ở thiên Vật sắc trong sách Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp có nêu những điệp ngữ trong Kinh Thi như: chước chước, tả vẻ tươi thắm của hoa đào; y y tả vẻ mềm mại thướt tha của cây liễu; cào cào tả ánh sáng hồng trong sáng lúc bình minh; tiêu tiêu, tả cảnh mưa rơi, tuyết xuống; gié gié tượng thanh âm của chim; yêu yêu thương thanh âm của giun dế, v.v... </em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em>(2) Hậu thế thi thể, giai uyên nguyên ư Thi Kinh (nghĩa là: Các thể cách thi ca đời sau đều bắt nguồn ở Kinh Thi. – Kê Triết, Trung Quốc thi từ diễn tiến sử, Hương cảng, Khai nguyên thư điếm tái bản, 1956, trang 7) </em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em>(3) Ta hãy lấy thiên Quan thư làm thí dụ. Các nhà chú thích Kinh Thi mỗi người có một nhận xét riêng về thiên này. Theo Thi tự, Quan thư nói về cái đức của hậu phi. Chu Hy, trong Thi tập truyện, cũng cho rằng thiên Quan thư do cung nhân nhà Chu làm ra để ca tụng bà Thái Tự, vợ của Chu Văn Vương. Nhưng Trương Siêu, La Bí và Vương Ứng Lân lại chủ trương khác hẳn. Theo Trương Siêu, trong Tiểu thanh ý phú, thì tác giả thiên Quan thư là Tất công, La Bí, trong Lộ sử, bảo rằng Bạo công làm ra thiên ấy, và cho Bạo công cũng như Tất công đều là người đời Chu Khang Vương (1078 – 1053 trước T.L). Vương Ứng Lân, trong Khốn học kỷ văn, thừa nhận thiên Quan thư là tác phẩm của một vị thi sĩ đời Chu Tuyên Vương (827 – 782 trước TL). Trương, La, Vương đều xem thiên Quan thư là thơ phúng thích. Trong Độc phong ngẫu chí, Thôi Thuật đã bàn về thiên Quan thư như thế này: “Nãi quân tử tự cầu lương phối, nhi tha nhân đại tả kỳ ai lạc chi tình nhĩ” (nghĩa là: Đó là kẻ khác thay lời người quân tử để tả cái tình vui buồn trong lúc mơ tưởng một người vợ hiền). Gần đây, có thuyết cho thiên Quan thư là thơ mừng tân hôn, đó cũng không phải là một kiến giải bất hợp lý. (Xem Tưởng Bá Tiềm, Tiêu Tần văn học tuyển, Đài bắc, Chính trung thư cục ấn hành, 1953, trang 7) </em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em>Trên đây là nói về đại ý của một thiên, còn như đi sâu vào chi tiết của từng thiên thì các nhà chú thích Kinh Thi lại càng có nhiều điểm bất đồng và mâu thuẫn nhau nữa. </em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em>(4) Thiên Quan thư tả tình luyến ai tư niệm rất thân thiết giữa người quân tử và một người thục nữ; thiên Giáo đồng tả lời thiếu nữ tự kể chuyện mình vì thương nhớ người yêu mà bỏ ngủ quên ăn; thiên Tương Trọng nữ tả nỗi lòng u ẩn của một cô gái đa tình: phần thì luyến ai người yêu, phần lại lo sợ cha mẹ, anh em, họ hàng can thiệp vào mối tình thầm vụng của mình, v.v... </em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em>(5) Thiên Bá hề và thiên Quân tử vu dịch tả người chinh phụ nhớ chồng mà biếng điểm trang. </em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em>(6) Các thiên Thất nguyệt, Phủ điều, Phong niên, Lương tỷ, v.v... đều tả cảnh sinh hoạt của nông dân rất tường tận. </em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em>(7) Trong thiên Phạt đàn, tác giả mạt sát những kẻ ngồi không mà hưởng, chẳng làm mà ăn (tố xan); trong thiên Thạc thử, tác giả gọi ngay kẻ bạo tàn ra mà nguyền rủa và quyết bỏ đi nơi khác, không ở với kẻ ấy nữa. </em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em>(8) Xem Tưởng Tổ Di, Thi ca văn học toàn yếu đã dẫn, trang 38) </em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em></em></span></p><p><span style="font-family: 'Arial'"><em>(9) Xem Hồ Thích, Trung Quốc triết học sử đại cương, quyển thượng, in lần thứ 10, Thượng hải, Thương vụ ấn thư quán, 1924, trang 35-42.</em></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="_vTiens_, post: 53117, member: 49658"] [b]Giới Thiệu Kinh Thi III[/b] [FONT=Arial][B][COLOR=darkblue]Văn Chương Kinh Thi[/COLOR][/B] Khổng tử đã hạ những lời phê bình Kinh Thi như sau: [/FONT] [FONT=Arial] “Bất học Thi, vô dĩ ngôn” (nghĩa là: chẳng học Thi thì nói không thông - Luận ngữ, Quý thị) “Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi, viết: tư vô tà” (nghĩa là: Thi có ba trăm thiên, nhưng chỉ một lời có thể trùm được là: không nghĩ bậy - Luận ngữ, Vi chính) “Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khã dĩ quần, khả dĩ oán, nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa thức ư điểu thú thảo mộc chi danh” (nghĩa là: Xem Thi có thể phấn khởi được ý chí, xem xét được việc hay dở, hòa hợp được với mọi người, bày tỏ được nỗi sầu oán, gần thì học việc thờ cha, xa thì học việc thờ vua, lại biết được nhiều tên chim, muông, cỏ, cây - Luận ngữ, Dương Hóa). Khổng tử đã khen Kinh Thi về cả hai phương diện: luân lý và văn chương. Xem những lời trên đây, ta biết Kinh Thi có một giá trị không nhỏ. [/FONT] [FONT=Arial] Muốn thưởng thức văn chương Kinh Thi, ta phải xét về từ và ý của các thiên trong tác phẩm đó. Mà đã nói đến Thi, tức là phải nghĩ tới nhạc, vậy trước hết ta phải xét qua cú cách và âm điệu các thiên trong Kinh Thi, rồi tiếp theo đó, ta sẽ tìm hiểu nội dung của những thiên ấy. [/FONT] [FONT=Arial] Như chúng ta đã biết, Kinh Thi gồm có 305 thiên, nhưng số chương trong các thiên không theo một luật nhất định: thơ Sô ngu (Trâu) có 2 chương, thơ Tang nhu có đến 16 chương. Số câu trong mỗi chương cũng thế: thơ Cam đường mỗi chương có 3 câu, thơ Hán dịch mỗi chương có 12 câu. Số chữ trong mỗi câu cũng không đều: có câu 3 chữ như: Giang hữu chữ, Chi tử quy (Thiệu nam, Giang hữu tự); có câu 5 chữ như: Thùy vị tước vô giác, hà dĩ xuyên ngã ốc? (Thiệu nam, Hành lộ); câu có 6 chữ như: Ngã cô chước bỉ kim lôi (Chu nam, Quyển nhĩ); có câu có 7 chữ như: Giao giao hoàng điểu chỉ vu tang (Tần phong, Hoàng điểu); có câu có 8 chữ như: Thập nguyệt tất suất nhập ngã sàng hạ (Bân phong, Thất nguyệt); có câu có 9 chữ như: Huýnh chước bỉ hành lạo ấp bỉ chú tư (Đại nhã, Huỳnh chước). Tuy vậy các thiên trong Kinh Thi phần nhiều làm theo thể 4 chữ. [/FONT] [FONT=Arial] Những bài trong Kinh Thi có cả cước vận và yêu vận, cách gieo vần rất rộng rãi tự do, không bị gò bó trong một khuôn khổ hẹp hòi, theo một định luật nghiêm khắc. Cũng như ca dao Việt nam, Kinh Thi có nhiều phức từ và điệp ngữ rất hay (1) . Nhờ thế nên văn chương Kinh Thi đã giữ được cái âm điệu uyển chuyển tự nhiên, diễn tả dễ dàng ấn tượng của tác giả và có sức truyền cảm rất mạnh (2) . Tuy nhiên, muốn hiểu thấu triệt Kinh Thi, người ta phải nghiên cứu văn pháp và từ ngữ đời Chu. Bởi vậy, từ trước đến nay, giữa các nhà chú giải Kinh Thi thường có sự bất đồng ý kiến (3) . [/FONT] [FONT=Arial] Nếu đem Kinh Thi ra phân tích, ta có thể tìm thấy trong tác phẩm ấy có những lối văn sau đây: [/FONT] [FONT=Arial] 1. Tế tự 2. Chúc tụng 3. Yến ẩm 4. Phúng thích 5. Tự sự 6. Trữ tình Các thiên Nhã, Tụng phần nhiều làm theo ba lối văn tế tự, chúc tụng và yến ẩm. Các thiên Quốc phong phần nhiều làm theo lối phúng thích, tự sự và trữ tình. Xét về phương diện kỹ thuật, phần Quốc phong tiến bộ hơn hai phần Nhã, Tụng. Bởi vậy người ta thường thích đọc Quốc phong. [/FONT] [FONT=Arial] Kinh Thi là một tác phẩm phản ảnh được thời đại của nó vì qua tác phẩm ấy, ta có thể biết được phong tục tập quán, tình trạng xã hội và chế độ chính trị của các nước chư hầu ở Trung Quốc ngày xưa. Ngoài những bài tả tình luyến ái giữa trai gái (4) , tình chung thủy giữa vợ chồng (5) , cảnh sinh hoạt của nông dân (6) . Kinh Thi còn có những bài tả nỗi thống hận của dân chúng đối với vua quan thời đó nữa (7) . Vì thế nên Tưởng Tổ Di đã xem Kinh Thi là một khảo chứng phẩm về nông nghệ thời cổ (8) , Hồ Thích cũng đã dùng Kinh Thi để nghiên cứu trạng huống xã hội Trung Quốc trong giai đoạn mà Hồ gọi là “thời kỳ thai nghén triết học” (9) .[/FONT] [FONT=Arial] [B][I]Chú thích:[/I][/B][/FONT] [FONT=Arial][I] (1) Ở thiên Vật sắc trong sách Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp có nêu những điệp ngữ trong Kinh Thi như: chước chước, tả vẻ tươi thắm của hoa đào; y y tả vẻ mềm mại thướt tha của cây liễu; cào cào tả ánh sáng hồng trong sáng lúc bình minh; tiêu tiêu, tả cảnh mưa rơi, tuyết xuống; gié gié tượng thanh âm của chim; yêu yêu thương thanh âm của giun dế, v.v... (2) Hậu thế thi thể, giai uyên nguyên ư Thi Kinh (nghĩa là: Các thể cách thi ca đời sau đều bắt nguồn ở Kinh Thi. – Kê Triết, Trung Quốc thi từ diễn tiến sử, Hương cảng, Khai nguyên thư điếm tái bản, 1956, trang 7) (3) Ta hãy lấy thiên Quan thư làm thí dụ. Các nhà chú thích Kinh Thi mỗi người có một nhận xét riêng về thiên này. Theo Thi tự, Quan thư nói về cái đức của hậu phi. Chu Hy, trong Thi tập truyện, cũng cho rằng thiên Quan thư do cung nhân nhà Chu làm ra để ca tụng bà Thái Tự, vợ của Chu Văn Vương. Nhưng Trương Siêu, La Bí và Vương Ứng Lân lại chủ trương khác hẳn. Theo Trương Siêu, trong Tiểu thanh ý phú, thì tác giả thiên Quan thư là Tất công, La Bí, trong Lộ sử, bảo rằng Bạo công làm ra thiên ấy, và cho Bạo công cũng như Tất công đều là người đời Chu Khang Vương (1078 – 1053 trước T.L). Vương Ứng Lân, trong Khốn học kỷ văn, thừa nhận thiên Quan thư là tác phẩm của một vị thi sĩ đời Chu Tuyên Vương (827 – 782 trước TL). Trương, La, Vương đều xem thiên Quan thư là thơ phúng thích. Trong Độc phong ngẫu chí, Thôi Thuật đã bàn về thiên Quan thư như thế này: “Nãi quân tử tự cầu lương phối, nhi tha nhân đại tả kỳ ai lạc chi tình nhĩ” (nghĩa là: Đó là kẻ khác thay lời người quân tử để tả cái tình vui buồn trong lúc mơ tưởng một người vợ hiền). Gần đây, có thuyết cho thiên Quan thư là thơ mừng tân hôn, đó cũng không phải là một kiến giải bất hợp lý. (Xem Tưởng Bá Tiềm, Tiêu Tần văn học tuyển, Đài bắc, Chính trung thư cục ấn hành, 1953, trang 7) Trên đây là nói về đại ý của một thiên, còn như đi sâu vào chi tiết của từng thiên thì các nhà chú thích Kinh Thi lại càng có nhiều điểm bất đồng và mâu thuẫn nhau nữa. (4) Thiên Quan thư tả tình luyến ai tư niệm rất thân thiết giữa người quân tử và một người thục nữ; thiên Giáo đồng tả lời thiếu nữ tự kể chuyện mình vì thương nhớ người yêu mà bỏ ngủ quên ăn; thiên Tương Trọng nữ tả nỗi lòng u ẩn của một cô gái đa tình: phần thì luyến ai người yêu, phần lại lo sợ cha mẹ, anh em, họ hàng can thiệp vào mối tình thầm vụng của mình, v.v... (5) Thiên Bá hề và thiên Quân tử vu dịch tả người chinh phụ nhớ chồng mà biếng điểm trang. (6) Các thiên Thất nguyệt, Phủ điều, Phong niên, Lương tỷ, v.v... đều tả cảnh sinh hoạt của nông dân rất tường tận. (7) Trong thiên Phạt đàn, tác giả mạt sát những kẻ ngồi không mà hưởng, chẳng làm mà ăn (tố xan); trong thiên Thạc thử, tác giả gọi ngay kẻ bạo tàn ra mà nguyền rủa và quyết bỏ đi nơi khác, không ở với kẻ ấy nữa. (8) Xem Tưởng Tổ Di, Thi ca văn học toàn yếu đã dẫn, trang 38) (9) Xem Hồ Thích, Trung Quốc triết học sử đại cương, quyển thượng, in lần thứ 10, Thượng hải, Thương vụ ấn thư quán, 1924, trang 35-42.[/I][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Lý luận & Phê bình Văn học
Kinh thi
Top