KINH THI
GIỚI THIỆU KINH THI I.
I. Nguồn Gốc Kinh Thi
Kinh Thi là một bộ sách gồm có những câu ca dao rất cổ của Trung Hoa. Ngày xưa, Thiên tử cứ năm năm đi tuần thú một lần và ra lệnh cho quan Thái sư hiến dâng ca dao để xem phong tục của dân. Thiên Nghệ văn chí trong Hán thư có chép: "Cổ hữu thái thi chi quan, vương giả sở dĩ quan phong tục, tri đắc thất." (nghĩa là: Xưa có chức quan phụ trách việc di nhặt ca dao; bậc vương giả lấy đó mà xem xét phong tục, biết được sự đắc thất về chính trị).
Trong Thi tập truyện, Chu Hy cũng luận về Quốc phong như thế này: "Quốc giả, chư hầu sở phong chi vực, nhi phong giả, dân tục ca dao chi thi dã. Vị chi phong giả, dĩ kỳ bị thượng chi hóa dĩ hữu ngôn, nhi kỳ hựu túc dĩ cảm nhân, như vật nhân phong chi đọng dĩ hữu thanh, nhi kỳ thanh hựu túc dĩ động vật dã. Thị dĩ chư hầu thái chi dĩ cống ư Thiên tử, Thiên tử thụ chi nhi liệt ư nhạc quan, ư dĩ khảo kỳ tục thượng chi mỹ ác, nhi tri kỳ chính trị chi đắc thất yên." (nghĩa là: Quốc là chỉ lĩnh vực phong cho chư hầu; phong là gọi chung các bài thi ca trong dân gian. Gọi rằng phong là chỉ lời dân phát ra bởi chịu sự cảm hóa của người trên, mà lời ấy lại đủ để cảm người, như vật nhân có gió mà động và phát ra tiếng, rồi tiếng ấy trở lại làm rung động vật. Bởi thế nên chư hầu nhặt những thi ca ấy để hiến dâng Thiên tử, Thiên tử tiếp nhận và liệt vào nhạc quan, lấy đó để xét phong tục tốt xấu, biết việc chính trị nên hư).
Theo mấy lời dẫn trên thì những bài ca dao trong Kinh Thi đã được các nhà cầm quyền ở Trung Quốc ngày xưa sưu tập trước đời Khổng Tử. Nguyên nhan đề sách ấy là Thi chứ không có chữ Kinh; người sau thêm vào chữ Kinh là vì cho rằng sách đó đã được Khổng tử san định. Nhưng Khổng tử thật có san định Kinh Thi hay không? Đó là một vấn đề mà chúng ta phải đưa ra thảo luận.
Thiên Khổng tử thế gia trong Sử ký của Tư-mã Thiên có chép: "Tam bách ngũ thiên, Khổng tử giai huyền ca chi, dĩ cầu hợp Thiều, Vũ, Nhã, Tụng chi âm." (nghĩa là: Khổng tử đã đem ba trăm lẻ năm thiên trong Kinh Thi ra mà đàn ca để cho hợp với âm thanh của Thiều, Vũ, Nhã, Tụng). Thiên Tử hãn trong Luận ngữ cũng có dẫn lời Khổng tử: "Ngô tự Vệ phản Lỗ, nhiên hậu nhạc chính, Nhã Tụng các đắc kỳ sở." (nghĩa là: Ta từ nước Vệ trở về nước Lỗ, nhiên hậu nhạc mới được chỉnh đốn lại, Nhã Tụng được đặt đúng chỗ).
Thế là Khổng tử đã từng nghiên cứu âm nhạc và đem thi ca phổ thành nhạc khúc. Việc Khổng tử san định Kinh Thi cũng có thấy chép trong thiên Khổng tử thế gia sách Sử ký: "Cổ giả Thi tam thiên dư thiên, cập chí Khổng tử, khứ kỳ trùng, thủ khả thi ư lễ nghĩa, thượng thái Tiết, Hậu Tắc, trung thuật Ân Chu chi thịnh, chí U Lệ chi khuyết... tam bách ngũ thiên." (nghĩa là: Ngày xưa, Thi có hơn ba ngàn thiên, Khổng tử san khứ phần trùng phúc, chỉ lấy những thiên hợp với lễ nghĩa, trước nhặt các bài từ đời Tiết, Hậu Tắc, kế đến các bài thuật sự hưng thịnh đời Ân, Chu, sau là các bài nói về sự khuyết điểm của U vương và Lệ vương.. gồm có ba trăm lẻ năm thiên). Thiên Nghệ văn chí trong Hán thư cũng có đề cập việc Khổng tử san định Kinh Thi: "Khổng tử thuần thủ Chu thi, thượng thái Ân, hạ thủ Lỗ, phàm tam bách ngũ thiên." (nghĩa là: Khổng tử chọn lấy thi ca đời Chu, từ những bài cảu nước Ân đến những bài của nước Lỗ, pàm ba trăm lẻ năm thiên). Lục Đức Minh trong Kinh điển thích văn cũng viết: "Khổng tử tối tiên san lục, ký thủ Chu, thượng kiêm Thương tụng, phàm tam bách thập nhất thiên." (nghĩa là: Khổng tử san lục Kinh Thi, trước hết chọn lấy những bài về đời Chu, lại lấy cả những bài Thương tụng, phàm ba trăm mười một thiên).
Người ta thường vin vào các thuyết trên này để cho rằng Khổng tử có san định Kinh Thi, tuy nhiên có một số học giả như Khổng Dĩnh Đạt, Trịnh Tiều, Chu Hy, Chu Di Tôn, Thôi Thuật,..v.v.., vẫn còn hoài nghi việc đó, là vì Khổng tử không bao giờ nói đến việc mình san định Kinh Thi. Vả lại, xưa kia, Thi có hơn ba ngàn thiên, nhưng Khổng tử chỉ chọn lấy ba trăm lẻ năm thiên, tức là bỏ đi chín phần mười, thì chẳng khác gì đã phá hoại một kho tàng văn học phong phú cổ thời vậy. Hơn nữa, Sử ký của Tư-mã Thiên tuy có nói đến việc Khổng tử san Thi nhưng đồng thời cũng cho ta biết rằng: Trong thời Khổng tử, thi ca xưa bị tàn khuyết rất nhiều. Vì thế cho nên trong Độc phong ngẫu chí, Thôi Thuật đã biện minh việc Khổng Tử san Thi như sau: "Khổng tử san thi, thục ngôn chi? Khổng tử vị thường tự ngôn chi dã, Sử ký ngôn chi nhĩ. Khổng tử viết: "Trịnh thanh dâm", thị Trịnh đa dâm thi dã. Khổng tử viết: "Tụng thi tam bách", thị Thi chi hữu tam bách, Khổng tử vị thường san dã. Học giả bất tín Khổng tử sở tự ngôn, nhi tín tha nhân chi ngôn, thậm hỹ kỳ khá quái dã!" (nghĩa là: Ai bảo Khổng tử có san định Kinh Thi? Việc đó thấy chép trong Sử ký chứ Khổng tử chưa khi nào nói đến. Khổng tử nói: "Tiếng nước Trịnh dâm", ấy là nước Trịnh có nhiều thi ca dâm dật. Khổng tử nói: "Đọc thi ba trăm thiên", ấy là Thi chỉ có ba trăm thiên chứ Khổng tử chưa từng san định. Học giả không tin lời Khổng tử mà tin lời người khác, thật là điều rất quái gở!)
Căn cứ vào những lời biện luận trên, chúng ta có thể tin rằng: Những bài thi ca xưa đến đời Khổng tử bị tàn khuyết rất nhiều, chỉ còn lại chừng hơn ba trăm thiên. Nếu Khổng tử có chính lý Kinh Thi, cũng chỉ bỏ bởt những câu, những chữ tối nghĩa hoặc rườm rà, chứ không phải chọn lấy một phần mười như Tư-mã Thiên đã nói.
Nội Dung Kinh Thi
Kinh Thi gồm có ba trăm mười một thiên. Trong số đó, chỉ có ba trăm lẻ năm thiên là đầy đủ, còn sáu thiên kia có đề mục nhưng không có lời. Sáu thiên ấy là: Nam cai, Bạch hoa, Hoa thử, Do canh, Sùng khâu và Do nghi. Có thuyết cho rằng lời thơ của sáu thiên đó bị vong thất bởi ngọn lửa nhà Tần. Nhưng theo Trịnh Tiều, trong Thi biện vọng, sáu thiên ấy vốn không có lời, chỉ có nhạc.
Về đời Hán, có bốn bản Kinh Thi xuất hiện (1) nhưng còn truyền đến nay là bản của Mao công (tức Mao Hanh và Mao Trương). Mao Thi (2) gồm có ba phần như sau:
A- Quốc Phong: Quốc phong là những bài ca dao của dân các nước chư hầu, đã được nhạc quan sưu tập. Quốc phong có 160 thiên, chia làm 15 quyển, mỗi quyển một nước, gồm có:
1. Chính phong: Chu Nam và Thiệu Nam
2. Biến phong: Bội phong, Dung phong, Vệ phong, Vương phong, Trịnh phong, Tề phong, Ngụy phong, Đường phong, Tần phong, Cối phong, Tào phong, Bân phong.
B- Nhã: Nhã nghĩa là chính đính, gồm những bìa hát ở nơi triều đình. Nhã chia ra làm hai phần:
1. Tiểu nhã: những bài dùng trong những trường hợp không quan trọng lắm như các buổi yến tiệc (74 thiên).
2. Đại nhã: những bài dùng trong những trường hợp quan trọng như khi Thiên tử họp các vua chư hầu hoắc tế ở miếu đường (31 thiên)
C- Tụng: Tụng nghĩa là ngợi khen, gồm những bài ca tụng các vua đời trước và dùng để hát ở chốn miếu đường. Tụng có tất cả 40 thiên, chia làm:
1. Chu tụng, 31 thiên
2. Lỗ tụng, 4 thiên.
3. Thương tụng, 5 thiên.
Trong Kinh Thi có lục nghĩa là: Phong, Nhã, Tụng, phú, tỷ, hứng. Thien Xuân quan trong Chu lễ chép: “Thái sư giáo lục thi: viết Phong, viết phú, viết tỷ, viết hứng, viết Nhã, viết Tụng” (nghĩa là: Quan Thái sư dạy sáu thi là: Phong, phú, tỷ, hứng, Nhã, Tụng). Phong, Nhã, Tung là trỏ bộ phận của âm nhạc, còn phú, tỷ, hứng tức là thể của Phong, Nhã, Tụng.
Chu Hy cho rằng đại để Phong là thi ca trong dân gian, Nhã là thi ca của triều đình, Tụng là thi ca dùng nơi tông miếu (3). Theo sự nhận xét của Trịnh Khang-thành thì: Phong là nói về di hóa của thánh hiền; Nhã nghĩa là chính, tức là những lời chính đính khả dĩ làm khuôn phép cho đời sau; Tụng nghĩa là tụng đọc hoặc bao dung để khen ngợi cái đức rộng lớn của tiên vương (4). Lương Khải Siêu đã bàn về vấn đề ấy với một quan niệm mới mẻ: Phong chỉ có thể đem ra ngâm đọc chứ không hát được, Nhã là những bài hát rất phổ thông về đời Chu, Tụng vốn nghĩa là dung (dung mạo) cho nên có thể đem ra hát và múa theo âm điệu ấy; nếu xét theo văn thể đời nay thì Phong là dân ca, Nhã là ca từ trong Nhạc phủ, Tụng là kịch bản (5). Nhưng Trình Đại Xương và Cố Viêm Vũ đã ngờ rằng ngày xưa không có danh từ quốc phong, hai chữ này do người sau hiểu sự đặt ra (6) .
Ba thể phú, tỷ, hứng là nói về kỹ thuật làm thơ. Chỉ rõ tên nói rõ việc, ấy là thể phú. Thấy việc hư hỏng đương thời mà không dám nói rõ, phải dùng phép so sánh kín đáo để phúng thích, ấy là thể tỷ. Mượn vật để nói nên lời là thể hứng. Sự bất đồng giữa tỷ và hứng do ở điểm này: thể tỷ chỉ lấy vật để làm tỷ dụ, chứ không nói rõ ý chính, thể hứng thì trước hết dùng phép tỷ dụ rồi tiếp theo đó lại nói rõ ý chính ra.
Thế là nội dung Kinh Thi gồm có ba phần lớn (Phong, Nhã, Tụng) và ba thể (phú, tỷ, hứng) mà cổ nhân đã gọi là sáu nghĩa của Kinh Thi. Riêng về Phong, Nhã, Tụng tuy có những định nghĩa khác nhau, tùy theo quan điểm của mỗi học giả, nhưng ta phải thừa nhận cách phân loại trong Mao Thi là tương đối hợp lý.
Chú thích:
(1) Đời Hán sơ, ngoài Mao-công, còn có ba nhà chú giải Kinh Thi là Thần Bồi, người nước Lỗ; Viên Cố Sinh, người nước Tề; Hàn Anh, người nước Yên. Bản của Thân Bồi gọi là Lỗ Thi, bản của Viên Cố Sinh gọi là Tề Thi, bản của Hàn Anh gọi là Hàn Thi. Ba bản này là kim văn, còn bản của Mao-công là cổ văn. Sau, Tề Thi mất về đời Ngụy, Lỗ Thi mất về đời Tấn, Hàn Thi mất về đời Ngũ đại, chỉ có Mao Thi còn truyền đến ngày nay.
(2) Truyện Nho lâm trong Sử ký chỉ nói đến ba nhà truyền Kinh Thi đời Hán sơ là Thân Bồi, Viên Cố Sinh và Hàn Anh, chứ không đề cập Mao công. Thiên Nghệ văn chí trong Hán thư mới kể đến Mao Thi và Mao Thi cổ huấn truyện (Mao Thi do Lưu Hâm phát kiến, Hán chí phần nhiều căn cứ vào thiên Thất lược của Lưu Hâm), nhưng không chép rõ tên thật của Mao-công và cũng không phân biệt Tiểu Mao-công và Đại Mao-công. Những tên Đại Mao công (Mao Hanh) và Tiểu Mao công (Mao Trường) thấy chép trong Thi phổ của Trịnh Huyền. Bản Mao Thi còn truyền đến nay, do Trịnh Huyền tien và Khổng Dĩnh Đạt sơ, nguyên là sách Mao Thi cổ huấn truyện đã kể trong Hán thư. Trong Thi kinh thông luận, Bì Tích Thụy lại ngờ rằng họ Mao chưa từng chú giải Kinh Thi, vì nếu việc ấy có thật thì cớ sao tác giả bộ Sử ký không nói tới. Đời Thanh, Trần Hoán có soạn bộ Thi Mao thị truyện sớ 30 quyển, đã xiển phát được vi ngôn đại nghĩa của cổ nhân và chú thích khá đầy đủ.
(3), (4), (5), (6) Xem Tưởng Tổ Di, Thi ca văn học toàn yếu, Đài bắc, Chính trung thư cục ấn hành, 1953, trang 30.