MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Đã từ bao đời nay, làng quê Việt Nam đã góp phần nuôi dưỡng đời sống tâm hồn dân tộc. Những làng quê với bờ tre xanh, cánh đồng thơm hương lúa, cánh cò trắng dập dờn, rồi những ngày lễ hội, phiên chợ tết, đêm hội chèo …Tất cả như còn đây nếp sinh hoạt văn hóa ngày qua. Người nông dân sông cuộc sống bình dị, vất vả một nắng hai sương, họn làn nhũng người lao động cần mẫn khiêm tốn trong sinh hoạt đời thường, và khi quê hương bị xâm lược họ chính là những nghĩa quân dũng cảm bảo vệ quê hương đất nước.Bầu trời quê hương trong sáng, giếng nước gốc đa thanh bình, hương bưởi hương cau man mác trong đêm, câu hát câu ca đậm sắc trữ tình…tất cả đã góp phần giữ gìn sự thanh khiết trong trẻo của miền đất quê hương .
Và khi viết về quê hương, nhiều nhà văn nhà thơ đã lấy đề tài thôn quê làm đề tài chính trong các tác phẩm của mình. Đặc biệt là trong phong trào thơ mới Trong phong trào Thơ mới (1932- 1941), Nguyễn Bính nổi lên như một
ngôi sao sáng. Ông đóng một vai trò hết sức to lớn trong phong trào Thơ mới. Cùng với một số nhà thơ tiêu biểu khác như: Anh Thơ, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ…, Nguyễn Bính đã tạo nên một dòng thơ đồng quê mượt mà và trữ tình. Đề tài sáng tác chủ yếu của Nguyễn Bính đó là chốn thôn quê. Trong thơ ông luôn ngập tràn những hình ảnh của chốn thôn quê chòm xóm, những tình cảm chân chất nồng ấm của những người dân quê hồn hậu. Bởi vậy mà đã có người gọi Nguyễn Bính là nhà thơ chân quê; nhà thơ của tình quê, hồn quê; thi sĩ của đồng quê.
Vậy việc chọn đề tài “không gian thôn quê” trong thơ Nguyễn Bính có tầm quan trọng to lớn đối với việc nghi ên cứu thơ Nguyễn Bính. Nó giúp ta thấy được những cái hay, cái đẹp trong hồn thơ Nguyễn Bính. Đồng thời, ta có thể thấy được những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của thơ ông. Qua đó, ta đánh giá được chính xác hơn đóng góp và vai trò của Nguyễn Bính trong nền thơ ca nước nhà.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là nhũng yếu tố thuộc về phạm trù không gian thôn quê trong thơ Nguyễn Bính
Phạm vi nghiên cứu là những bài thơ nằm trong các tập thơ chính của Nguyễn Binhd như : Lỡ bước sang ngang, Tâm hồn tôi, Hương cố nhân, Người con gái ở lầu hoa …
Và một số tài liệu có liên quan
III. Lịch sữ đề tài nghiên cứu
Nguyễn Bính là một hiện tượng khá tiêu biểu và độc đáo trong phong trào thơ mới nên đã có rất nhiều nhà nghiên cứu nhà phê bình và lí luận văn học
nghiên cứu về con người và thơ Nguyễn Bính. Trong đó có nhiều công trình
nghiên cứu đạt được những thành quả và giá trị nhất định. Nguyễn Bính sáng tác chủ yếu về đề tài làng quê nên những công trình nghiên cứu, những bài viết của các nhà nghiên cứu dù ở khía cạnh này hay khía cạnh khác, ít hay nhiều cũng đều đề cập tới vấn đề không gian thôn quê trong thơ Nguyễn Bính.
Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, xuất bản năm 1942 của nhà phê bình văn
học nổi tiếng Hoài Thanh đã đưa ra nhận định rằng: Nguyễn Bính vẫn còn giữ
được bản chất nhà quê nhiều lắm. Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà
quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự
nhiên của ta và những tính tình đơn giản của dân quê là những tính tình căn bản của ta [3, tr.371] Rõ ràng, chỉ với một câu nhận xét ngắn gọn mà Hoài Thanh đã làm bật lên được cái hồn thơ của Nguyễn Bính. Cái hồn thơ của người nhà quê.
Trong bài viết Đóng góp của thơ Nguyễn Bính đăng trên báo Giáo viên
nhân dân, số đặc biệt, tháng 7/1969 của Vũ Quần Ph ương, đã đưa ra những nhận định khá sâu sắc và toàn diện về hồn thơ Nguyễn Bính.
Vũ Quần Phương đã làm rõ hơn một bước về thơ Nguyễn Bính. Đó là hồn
của làng mạc quê hương, vườn cau mái rạ.[2.,tr.235] Nguyễn Bính ca ngợi vẻ
đẹp chân quê hết mực với cảm xúc yêu thương của một con người xa quê. Ông
miêu tả quê hương thật sắc xảo và tinh tế. Đẹp và trong sáng cả cảnh quê lẫn tình quê. Và duy chỉ có Nguyễn Bính là có thể làm như vậy: ông là nhà thơ của tình yêu thương nơi thôn xóm, tình yêu của những đêm hội làng. Nguyễn Bính hiểu sâu sắc tâm l. của những trai làng gái làng thời ấy, có những nét tâm l. gợi l ên dáng dấp sinh hoạt của một thời. Nông thôn ta tr ước cách mạng khác xa nông thôn ngày nay nhưng lại gần gũi với nông thôn Việt Nam xa xưa. Đời sống như ngưng đọng lại sau luỹ tre xanh. Tâm tình con người được quy định bằng nền kinh tế tiểu nông khép kín. Những cô giá chăn tằm dệt vải chỉ đi từ khung cửi đến nương dâu và cô gái lái đò thì cũng chỉ quen với một khúc sông một cái bến. Chỉ đêm hội làng là dịp tụ hội của trai thôn nọ gái thôn kia. Những mối t ình quê nảy nở bao nhiêu vui buồn mơ ước, nhớ mong, đau khổ xôn xao l ên nhưng vẫn xôn xao trong sự tĩnh lặng cố hữu của quê hương. Ngòi bút Nguyễn Bính có biệt tài diễn tả những mối tình quê thơ và mộng ấy. [2, tr.236]
Vũ Quần Phương đã phân tích thơ Nguyễn Bính ở cả góc độ thi pháp. Thi
pháp thơ Nguyễn Bính mang đậm tính dân gian bởi nh à thơ sáng tác phần lớn
những tác phẩm của mình bằng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc cùng với những ngôn ngữ rất trong sáng, mộc mạc của người nhà quê.
Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức trong cuốn Nguyễn Bính thi sĩ của đồng quê
do Nxb Giáo Dục xuất bản năm 1995 đã nhìn nhận thơ Nguyễn Bính một cách rất sâu sắc và toàn diện hơn. Ông đã chỉ ra cho chúng ta thấy được hình ảnh của một vùng quê ngập tràn trong thơ Nguyễn Bính. Và đó là một vùng quê có thật trong tâm trí nhà thơ: đó là hình ảnh của thôn Vân. Quê mẹ là vùng đất của nhiều trái cây và nhiều loài hoa: hoa lan nhiều loại, hoa huệ, hoa cúc, hoa tử tiêu, hoa hồng quế…Mặt nước và ao ngòi, luôn có hoa sen, hoa súng, hoa ấu và hoa trang…Những vòng bờ ao um tùm những cây dâu quả thẫm, chen những gốc cam yên, sắn, ổi, táo, chay, nhãn, vải… Trước cửa nhà thấp thoáng những giàn đỗ ván, giàn nho, giàn thiên lý hoa vàng riêng bi ệt. [2, tr.133]
Rồi đến cả những tình cảm của người nơi ấy, từ tình cảm gia đình, láng
giềng đến tình cảm nam nữ cũng mộc mạc, giản dị và rất chân quê.
Qua trên ta có thể nhận thấy rằng những công tr ình nghiên cứu về Nguyễn
Bính rất phong phú, dù nhìn nhận ở góc độ nào đi chăng nữa thì các nhà nghiên
cứu đều đồng nhất ở một điểm: Nguyễn Bính là nhà thơ của chốn thôn quê. Thơ Nguyễn Bính quê từ nội dung đến hình thức biểu hiện, ông sử dụng những chất liệu dân gian đưa vào trong thơ một cách độc đáo. Nguyễn Bính l à như vậy bởi ông luôn là một người nhà quê, ông yêu quê và luôn mang trong mình một hoài niệm về quê hương, về cái chân quê.
Đề tài không gian thôn quê trong thơ Nguyễn Bính mặc dù đã được nhiều
nhà nghiên cứu đi vào tìm hiểu với nhiều mức độ khác nhau song nó vẫn luôn là
một đề tài thú vị và hấp dẫn đối với những ai yêu thích hồn thơ Nguyễn Bính
IV. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã thực hiện một số bước và phương
pháp nghiên cứu khoa học sau: Sưu tầm tài liệu, phương pháp phân tích- tổng hợp,phương pháp diễn dịch- quy nạp và so sánh
V. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo thì phần nội dung chính của đề tài này gồm có hai chương chính sau :
Chương I : Khái quát chung
Chương II : Những biểu hiện của không gian thôn quê trong thơ Nguyễn Bính
NỘI DUNG
Chương I : Khái quát chung
1.1. Thi sĩ Nguyễn Bính – đời và thơ
.1.1. Cuộc đời và con người
1.2. “Không gian thôn quê” trong phong trào Thơ mới
Thơ mới là một cuộc cách tân rộng lớn với sự bùng nổ và sáng tạo có hiệu quả của một thế hệ các nhà thơ có tài năng: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử… những tên tuổi đã đi vào lịch sử thơ ca dân tộc với khuôn mặt tươi sáng và giọng điệu mới mẻ. Nhìn chung các nhà thơ mới đều có một xu hướng chung đó là hoài cổ, hoài niệm về những giá trị, những nét đẹp cổ xưa của dân tộc. Và đấy chính là không gian thôn quê .
Các nhà thơ mới đã hòa vào dòng chảy tâm hồn ấy của đồng bào mình. Và
hơn nữa, đối với các nhà thơ mới trở về làng quê, là trở về với cội nguồn, với dân tộc. Làng quê cũng là nơi mà các nhà thơ mới đã từng sống và gắn bó. Ruộng đồng, vườn ao dường như đã là một phần máu thịt trong họ cho nên làng quê trong tâm hồn các thi sĩ luôn hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng cũng như sự vất vả nhọc nhằn của nó. Nó trở thành nguồn thi hứng cho các thi nhân
Vậy nên trong thời kỳ này có rất nhiều câu thơ hay viết về quê hương của
các nhà thơ Mới. Xuân Diệu, một người được coi là nhà thơ Tây nhất những vẫn có những câu thơ man mác về phong vị xóm thôn quê kiểng:
Trăng ở đó; đất vườn thêu bóng lá
Trời trên kia vàng mạ, sáng như băng.
( Hoa đêm)
Huy Cận cũng ngây ngất với hương thơm mộc mạc của hoa dại, rơm khô,
lòng xao xuyến tưởng như cảnh quê của bao đời:
Một buổi trưa không biết ở thời nào
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao
Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ.
( Đi giữa đường thơm)
Hàn Mặc Tử gợi vẻ đẹp vừa thực vừa ảo của l àng quê vào lúc đúng mùa
xuân đẹp đẽ nhất, rực rỡ nhất:
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
( Mùa xuân chín)
Và đặc biệt, một dòng chảy về chốn thôn quê mạnh mẽ và rộng lớn trong
phong trào thơ mới với những tên tuổi như: Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn
Cừ, Bàng Bá Lân…
Anh Thơ viết hẳn một tập thơ Bức tranh quê, thi nhân đã khắc họa được
những hình ảnh thật quen thuộc, dân dã:
Hoa mướp rụng từng đóa vàng rải rác
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay
…Và nhè nhẹ trong tơ trăng phơ phất
Khóm tre xanh lướt gió uốn cung đàn.
Còn Đoàn Văn Cừ lại chú ý tới những sắc màu tươi thắm của chốn thôn
quê:
Ngày ửng hồng sau màn sương gấm mỏng
Nắng dát vàng trên bãi cỏ non xanh
Dịp cầu xa long bóng nước long lanh
Đàn cò trắng dăng hàng bay phấp phới,
( Đám cưới mùa xuân)
Bàng Bá Lân đã lưu giữ được trong thơ những hình ảnh ở đâu mà chẳng có
trên khắp nước non này:
Quán cũ nằm lười trong sóng nắng
Bà hàng thưa khách ngả thiu thiu
Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm
Đứng lặng trong mây một cánh diều…
( Trưa hè)
Dù rất yêu mến các làng quê, dù ngòi bút thi nhân rất tài hoa, dù đã dựng
được những hình ảnh sinh động về làng quê nhưng cả Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ,
Bàng Bá Lân đều chỉ mới tả được cảnh quê. Và dường như điều đó chưa đủ nói
lên một hoài niệm lớn lao về chốn thôn quê.
Còn với Nguyễn Bính, ông cũng tả cảnh quê, trong thơ ông có số những
hình ảnh vô cùng quen thuộc: hàng cau và giàn trầu, dậu mùng tơi xanh rờn,
những ao muống vạt cần, những con đò, những bến bãi, rồi bờ sông có hoa cải
vàng nở… Song nếu chỉ có vậy thì Nguyễn Bính cũng không thể nào được coi là nhà thơ của đồng quê. Điều quan trọng là ông đã gửi được vào những vần thơ
cuộc sống, tâm hồn mình, những am hiểu sâu sắc của mình về làng quê, cho nên
phong cảnh làng quê hằng ngày vốn quen thuộc qua những dòng thơ của Nguyễn Bính đã trở lên có hương, có sắc, có linh hồn và trở nên vô cùng thân thiết. Có thể nói, không chỉ tả cảnh quê mà còn gợi được một cách thấm thía cái
hồn quê, cái chân quê. Và đó là một trong những đóng góp lớn của Nguyễn Bính đối với phong trào thơ mới. Ông đã tạo ra một xu hướng mạnh mẽ trong phong trào thơ mới, hay nói cách khác, chính ông đ ã tìm ra một mảnh đất nương náu cho tâm hồn các thi nhân trong cơn gió bụi kinh thành
Chương II : Những biểu hiện của không gian thôn quê trong thơ Nguyễn
Bính
2.1. Cảnh vật – con người thôn quê
Nguyễn Bính sinh ra và lớn lên ở một miền quê đói nghèo nhưng cũng chính là một miền quê nằm trong cái nôi văn hóa của n ền văn minh châu thổ Sông Hồng, Nguyễn Bính đã được sớm đắm mình trong không gian thôn dã, hấp thụ được những giá trị văn hóa dân gian, dân tộc n ơi xóm làng. Quê hương đã nhuộm thắm tâm hồn thi sĩ, ấn định bản sắc chính của một phong cách thơ chân quê.
Nguyễn Bính yêu quê hương mình một cách kỳ lạ, quê hương là hình ảnh không bao giờ vắng bóng trong thơ ông. Cảnh quê hương trong thơ Nguyễn Bính rất đẹp, rất thơ mộng nhưng cũng mang hồn “chân quê” sâu sắc .
Thơ viết về cảnh quê của Nguyễn Bính không hiện thực mà lãng mạn, ông
ít miêu tả số phận cay đắng, những cảnh nhọc nhằn c ơ cực mà hình ảnh làng quê trong thơ ông thường tươi sáng, thơ mộng:
Sáng giăng chia nửa vườn chè
Một gian nhà cỏ đi về có nhau.
( Thời trước)
Nhà thơ có những câu thơ thật đẹp, thật hay về một nông thôn yên vui, no
ấm, thanh bình:
Thủa ấy làm sao thật thái bình
Trai hiền với bạn gái đồng trinh
Đời say men rượu thơm hoa rụng
Tràn những thơ ngây ngập cảnh đồng.
( Hoa với rượu)
Không phải vô cớ mà Nguyễn Bính lại viết về quê hương mình với những
câu thơ trong sáng và đẹp đẽ đến như vậy khi làng quê của ông là một ngôi làng
nghèo đói vùng chiêm trũng quanh năm trắng nước trắng trời. Kí ức sâu sắc nhất của Nguyễn Bính về cảnh thôn qu ê có lẽ đó là thôn Vân, quê mẹ của ông, nơi mà ông đã từng gắn bó phần lớn cuộc đời tuổi th ơ của mình ở đó. Và thực tế, trong thơ ông, những câu trong sáng nhất là viết về thôn Vân:
Thôn Vân có biếc có hồng
Hồng trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều
Đê cao có đất thả diều
Trời cao lắm lắm có nhiều chim bay
Quả lành trĩu nặng từng cây
Sen đầy ao cá, cá đầy ao sen
Hiu hiu gió quạt trăng đèn
Với dăm trẻ nhỏ thả thuyền ta chơi
Ăn gỏi cá, đánh cờ người
Thần tiên riêng một góc trời thôn Vân.
( Anh về quê cũ)
Đây là những hình ảnh có thật của thôn Vân. Quê mẹ Nguyễn Bính là vùng
đất của nhiều cây trái và nhiều loài hoa: hoa lan, hoa huệ, hoa cúc, hoa tử tiêu,
hoa hồng… Mặt nước và ao ngòi, luôn có hoa sen, hoa súng, hoa ấu và hoa
trang… Những vòng bờ ao um tùm những cây dâu thẫm quả, chen những gốc
cam yên, sắn, ổi, táo, chay, nhãn, vải, dừa, cũng không thiếu. Trước nhà thấp
thoáng những giàn đỗ biển, giàn nho, giàn thiên lý hoa vàng riêng biệt. Thiên nhiên ấy đã góp phần tạo nên màu sắc cho thơ viết về làng quê của Nguyễn Bính.Với những chất liệu khác nhau nh ưng về hiệu quả, thi ca Nguyễn Bính đã nói được ước vọng sâu xa của những người nông dân lam lũ ước mong về một cuộc sống tốt đẹp hơn, hòa đồng với thiên nhiên cảnh vật làng quê tươi thắm. Nguyễn Bính có những chất liệu thi ca ri êng của mình: cánh bướm và dậu
mồng tơi, mưa xuân bay và làng quê vào hội, giàn trầu không và hàng cau liên
phòng, con đê làng và sự hẹn hò chờ đợi, rồi những cô gái làng đang ở độ tuổi
yêu đương: cô hái mơ, cô lái đò, cô hàng xóm,..mỗi người một dáng vẻ, một tâm tư. Nguyễn Bính đã tạo nên khuôn mặt làng quê của riêng mình, nhưng rồi cũng là hình ảnh chung của nhiều làng quê Việt Nam, nhất là ở xứ Bắc. Nguyễn Bính có tài dựng lên cái hồn của Việt Nam nông nghiệp, một chất thơ đồng nội chân thực hồn hậu:
Nhà tôi có một vườn dâu
Có giàn đỗ ván, có ao cấy cần
Hoa đỗ ván nở mùa xuân
Lứa dâu tháng tháng, lứa cần năm năm.
( Nhà tôi)
Viết về cảnh quê qua các mùa trong năm, Nguyễn Bính không nói tới mùa đông, có lẽ vì mùa đông tàn tạ quá, không hợp với tâm hồn yêu đời, yêu cảnh sắc thôn quê của thi sĩ. Nguyễn Bính có viết về mùa thu (“Thu rơi từng cành cây bàng cuối thu”(Bắt gặp cuối thu)); về mùa hè (Trưa hè) về cảnh cuối xuân sang hạ (Cuối tháng ba). Nhưng có lẽ gợi cảm nhất, đẹp đẽ nhất, đầy sức sống nhất của cảnh quê trong thơ Nguyễn Bính là hàng loạt bài thơ về mùa xuân như : Thơ xuân, Xuân về, Mưa xuân, Mùa xuân xanh, Vườn xuân…Mùa xuân đã tới làng mạc bừng lên bao sắc màu tươi tắn, mọi vật nảy nở, sinh sôi, người người như trẻ lại :
Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong
(Xuân về)
Ở một gốc độ khác, trong miền ký ức của Nguyễn Bính đối với làng quê luôn hiện lên hình ảnh cái mảnh vườn quê. Với nhà thơ mảnh vườn là “biểu tượng và là ám ảnh của nông thôn trong thơ” vườn không chỉ là biểu tượng của thôn quê mà là biểu tượng của cả dân tộc Việt Nam. Trong mắt của người dân quê hình ảnh đầu tiên động lại vào tâm hồn khi nhìn ra thế giới là mảnh vườn nhà, mảnh vườn là những gì cổ sơ, thiêng liêng của người nhà quê. Chính vì vậy, trong thơ Nguyễn Bính hình ảnh mảnh vườn cứ trở đi trở lại với bao định nghĩa:
Vườn nhà, vườn dâu,vườn ai,vườn trầu, vườn cam…
Hình ảnh vườn trong thơ Nguyễn Bính được sử dụng với nhiều . nghĩa
khác nhau. Chẳng hạn như hình ảnh vườn có nghĩa là nhà:
Em ơi, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
( Lỡ bước sang ngang)
Hay vườn cũng có nghĩa là hình ảnh quê hương yêu dấu đối với những
người con xa quê, phiêu bạt nơi đất khách quê người:
Đem thân về chốn vườn dâu cũ
Buồn cũng như khi chị lấy chồng.
( Xuân tha hương)
Vườn là nơi in dấu những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ, cái tuổi leo trèo nghịch
ngợm:
Một thửa vườn hoang bên cạnh ao
Xương rồng cỏ bãi lẫn rau sam
Vườn này ngày nhỏ anh còn nhớ
Đã nhảy qua tường bẻ trộm cam
( Vườn xưa)
Làng quê Việt Nam đẹp và thơ mộng không chỉ bởi những mảnh vườn,
những mái đình cây đa, bến nước con đò mà nó còn đẹp bởi những cánh bướm
những vườn hoa rực rỡ sắc màu. Những cánh bướm dập dìu bay trong thơ ông
góp phần tô điểm cho cảnh vật làng quê thêm xinh tươi và gợi cảm hơn:
Qua dậu tầm xuân thấy bướm nhiều
Bướm vàng vàng quá, bướm yêu yêu
Em sang bắt bướm vườn anh mãi
Quên cả làng Ngang động trống chèo.
( Hết bướm vàng)
Ngoài ra, cảnh vật làng quê trong ký ức của Nguyễn Bính đó là những buổi chiều êm đềm với tiếng sáo vi vu làm dịu tâm hồn con người nơi chốn quê: “Thâu đêm tiếng sáo ngân dài, Vi vu tiếng vọng muôn đời quê ta”(Chuyện tiếng sáo diều). Nhắc đến cảnh làng quê trong thơ Nguyễn Bính thì không thể thiếu hình ảnh những bờ ao, cái giếng. Đó là những hình ảnh gắn liền với đời sống sinh hoạt cũng như đời sống tâm tình của người nhà quê :
Đêm cùng đón ánh trăng cao
Ngồi bên giếng ngọc đếm sao trên trời.
( Tiền và lá)
Giếng trong mắt người nhà quê luôn được coi là một cái gì đó trong sáng và thanh khiết như cái trong sáng của tâm hồn :
Hồn tôi giếng ngọt trong veo
Trăng thu trong vắt biển chiều trong xanh.
( Tình tôi)
Ngoài ra Nguyễn Bính còn nhắc đến một số những hình ảnh tiêu biểu của
chốn thôn quê như trầu cau, hàng rào với dậu mùng tơi, dậu tầm xuân. Đó là
những cảnh vật nhỏ bé, bình thường, quen thuộc với người dân thôn quê. Song
khi đi vào trong thơ, nó trở nên vô cùng thi vị và có sức lay động lòng người.
Cảnh vật làng quê mà Nguyễn Bính đưa vào trong thơ không phải là cái
cảnh vật đơn thuần. Ông đã gửi vào cảnh sắc quê hương đó cái hồn quê của chính mình. Biết rằng sau này làng quê sẽ không còn giữ được những thanh sắc đẹp đẽ như thế nhưng những câu thơ đẫm hương đồng gió nội của Nguyễn Bính sẽ mãi gợi nhắc lòng ta về tâm hồn dân tộc của một thời đã qua.
Trong thơ Nguyễn Bính thôn quê là cái gì đó bất biến trong không gian và thời gian. Cái hồn quê, cái chân quê không chỉ hiện rõ ở cảnh quê mà còn ở những người nhà quê chất phác, giản dị. Chính vì vậy mà thơ Nguyễn Bính làm rung động tới những gì cổ xưa nhất, mến thương nhất của tâm linh người Việt. Thời thơ ấu đã qua nhưng ai có thể quên những trò chơi thơ ngây, hồn nhiên của những cậu bé, cô bé : “Còn nhớ năm xưa đuổi bướm vàng, Mãi vui quên cả nắng chang chang” (Sống lại), “Có hai em bé học trò, Xem con kiến gió đi đò lá tre”(Tiền và lá)…Và Nguyễn Bính dành khá nhiều bài thơ để viết về những người mẹ, có lẽ vì ở thời nào chẳng thế, hình bóng người mẹ cũng là hình bóng quê hương. Trong phong trào Thơ mới cũng có những bài thơ cảm động về mẹ: Chiếc rổ may (Tế Hanh), Nắng mới (Lưu Trọng Lư), Đường về quê mẹ (Đoàn Văn Cừ)…Nhưng trong thơ Nguyễn Bính hình ảnh người mẹ quê nghèo hiện lên thật giản dị, chân thực và gây xúc động nhiều hơn cả. Đấy là những bà mẹ nông thôn Việt Nam nhân hậu đảm đang, nhân hết về mình những khó nhọc, lo toan hết lòng vì chồng con, vì những người thân yêu : “Tết đến mẹ tôi vất vả nhiều,Mẹ tôi lo liệu đủ trăm chiều” (Tết của mẹ tôi). Mẹ sắm sửa cho con đi lấy chồng, cố gượng mà vui, chi khi tiễn con qua cửa buồng mẹ mới khóc sầu thảm và xót thương “Con ạ! Đêm nay mình mẹ khóc, Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi” ( Lòng mẹ). Có người mẹ đưa tiễn con ra trấn ải xa, con đi rồi, còn mình mẹ đứng lặng giữa sân ga, dáng mẹ đổ bóng xuống sân ga trông thật sầu thảm. Chỉ với một c hi tiết dáng lưng còng đổ bóng xuống sân ga, Nguyễn Bính đã nói lên được nỗi nhớ da diết, xót thương đau đớn vô cùng của người mẹ khi phải xa con: “Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng, Lưng còng đỏ bóng xuống sân ga”
( Những bóng người trên sân ga). Và bâng khuâng chua xót bi ết bao trước hình ảnh người mẹ lạnh lẽo cô đơn trong mùa thu thiếu vắng bóng dáng những đứa con gái y êu dấu khi họ đi lấy chồng ở nơi xa:
Xóm Tây bà lão lưng còng
Có hai cô gái lấy chồng cả hai
Gió thu thở ngắn than dài
Bà đem áo rét ra ngoài sân phơi
( Không đề)
Ngoài ra, hình ảnh những cô gái quê, người đã lấy chồng, người đang thời
thiếu nữ, người mới dậy thì,… có lẽ được ngòi bút Nguyễn Bính khắc họa nhiều, thậm chí là nhiều hơn cả trong số những người chân quê. Phải thế chăng, cũng như các bà mẹ, họ là hình ảnh của quê hương, nhưng là quê hương tươi tr ẻ, đẹp đẽ giống như mộng tưởng của người thi sĩ đồng quê? Nhớ tới làng quê xưa là nhớ tới những cô thôn nữ chăn tằm dệt vải; những ng ười con gái ấy thật chăm chỉ, cần cù và cũng duyên dáng, tình tứ biết bao bên khung cửi- con thoi đi về giữa những sợi tơ giăng mắc như hình ảnh cụ thể hóa cho những nhớ nhung vấn vít trong lòng cô gái:
Gieo thoi, gieo thoi, lại gieo thoi
Nhớ nhớ, mong mong, mãi mãi rồi
Thoi ạ làm sao thoi lại cứ
Đi về giăng mắc để trêu tôi
( Nhớ)
Chính những hình ảnh đó đã nói lên phần nào số phận của các cô gái. Có những cô gái bị ép lấy chồng chấp nhận lấy người mình không yêu (Lỡ bước sang ngang). Rồi có những cô gái mãi chờ người tình, nhưng đợi mãi đợi mãicô đành chấp nhận lên xe hoa nhưng lòng vẫn ngóng trong một người (Cô lái đò). Tuy vậy họ luôn khao khát có được một hạnh phúc đơn sơ giản dị, một cuộc sống tốt đẹp hơn (Hôn nhau lần cuối)…
Như vậy, Nguyễn Bính đã dành tình cảm chân thật của mình để phát hiện ra những rung động nhỏ bé trong tâm hồn người nhà quê. Những tình cảm chân thật chất phác ấy luôn làm cho mối quan hệ con người thêm ấm áp. Tình yêu chốn thôn quê thật là sâu sắc
2.2. Không gian văn hóa làng quê với những nét sinh hoạt truyền thống
Trong phong trào Thơ mới, có lẽ Nguyễn Bính với hồn quê đậm đà sâu sắc của mình mới khắc họa thật sinh động những nét văn hóa làng quê. Đọc thơ Nguyễn Bính ta như được sống lại những ngày Tết cổ truyền, những ngày hội xuân, những ngày hội làng, những đêm hát chèo, buổi lễ chùa, những tín ngưỡng phong tục tập quán, những tr ò chơi dân gian và nếp sống xưa của người dân quê.
Bài thơ Chùa vắng đã gợi lên một nét đặc biệt của văn hóa làng quê là tín
ngưỡng tôn giáo. Từ hàng ngàn năm nay, hình ảnh những ngôi chùa, mái đình cổ kính đã gắn bó với thôn xóm Việt Nam, đó l à nơi ước nguyện, nơi nương náu của những gì sâu thẳm trong cõi tâm linh người Việt, nơi không có chỗ cho những phàm tục, xấu xa. Chỉ với vài nét chấm phá, Nguyễn Bính đã diễn tả đúng cái tĩnh lặng, thanh sạch- nét thần của một ngôi chùa ở làng quê:
Gió chiều cầu nguyện đâu đây
Nắng chiều cắt đoạn một ngày cuối thu
Sư già quét lá sau chùa
Để thiêu xác lá trước giờ lên chuông.
Trong bài thơ Tết của mẹ tôi, Nguyễn Bính đã gợi lên hương vị của ngày
Tết cổ truyền dân tộc :
Sáng mùng một sớm tinh sương
Mẹ tôi cấm chúng tôi ra đường
Mở hàng mỗi đứa năm xu rưỡi
Rửa mặt hoa mùi nước đượm hương.
Tế đến cùng với những ngày hội xuân, khung cảnh làng quê nhộn nhịp và
tươi đẹp hẳn lên, người người cùng nhau đi chơi xuân:
Tháng Giêng vừa Tết đầu xuân
Xanh um lá mạ, trắng ngần hoa cam
Mưa xuân rắc bụi quanh làng
Bà già sắm sửa hành trang đi chùa
Ông già vào núi đề thơ
Trai tơ đình đám, giá tơ hội hè.
( Tỳ bà truyện)
Nếu như ở Kinh Bắc xưa, mùa xuân là hội quan họ thì ở các làng quê Bắc Bộ mùa xuân là ngày hội của những đêm hát chèo “Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm” (Mưa xuân) của những trò vui “Ăn cỏi cá, đánh cờ người” (Anh về quê cũ)…Mùa xuân qua đi, lại cuộc sống thường nhật với biết bao vất vả nhọc nhằn, nhưng rồi lòng người lại xốn xang với “Hội làng mở giữa mùa thu”(Đêm cuối cùng)… Có điều Nguyễn Bính không chỉ tài hoa khi dựng cảnh những ngày hội làng quê mà ông còn rất am hiểu và khéo léo khi dặc tả những nét văn hóa làng quê qua cách ăn mặc, qua những dáng bề ngoài của người nhà quê. Đấy là một chú bé mà người ta có thể bắt gặp dâu đó trên đường thôn : “Tuổi thơ tóc để gáo dừa, Tuổi thơ mẹ bắt deo bùa cần cong”(Tiền và lá) . Còn đây là những trang phục của các cô gái trong ngày đi lấy chồng : “Này áo đồng lầm, quần lĩnh tía, Này gương, này lược, này hoa tai” (Lòng mẹ ) và đây là hình ảnh của những người đi lễ chùa :
Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt miệng nam mô…
( Xuân về)
Trong thơ Nguyễn Bính còn hiện ra hàng loạt cách ứng xử giữa những người trong cộng đồng lang xã Việt Nam. Đó là những quan hệ hàng xóm,quan hệ lứa đôi, gia đình dòng tộc…Làng là đơn vị sinh hoạt và đến lời hen hò cũng xem làng, ví von rất làng quê. Những điều vừa nêu sơ lược trên đây có thể coi như những minh chứng khẳng định thêm rằng : “Nguyễn Bính là một nhà thơ về làng quê và là một nhà văn hóa làng
KẾT LUẬN
Qua nội dung đã được trình bày trên chúng ta có thể thấy được rằng,
Nguyễn Bính là một nhà thơ tài hoa, đồng thời cũng là một con người giàu lòng
yêu quê hương đất nước, một con người có tâm hồn trong sáng và thanh cao.
Cuộc đời Nguyễn Bính đã trải qua nhiều thăng trầm, nhiều cuộc bể dâu. Ông đã
xa quê từ rất sớm phiêu bạt chốn thị thành để kiếm sống. Trong cái xã hội xô bồ
lúc bấy giờ, nó luôn làm cho con người ta cảm thấy ngột ngạt và bức bối. Khi đó con người ta luôn khao khát tìm đến một nơi nào đó trong sáng và thanh bình để nuôi dưỡng tâm hồn mình. Và nơi ấy chính là chốn thôn quê. Với Nguyễn Bính, có lẽ ông đã xa quê hương từ lâu cho nên ông càng nhớ về quê hương da diết hơn. Trong ông luôn đau đáu niềm hoài niệm về những nét đẹp chân quê, giản dị, mộc mạc mà trong sáng và thơ mộng của chốn thôn quê. Ông yêu quê và ông sợ quê mất đi cái vẻ đẹp vốn có của nó. Bằng t ài năng của một thi sĩ với tấm lòng yêu quê chung tình son sắt, Nguyễn Bính đã lưu trữ trong thơ ông những nét đẹp tinh tế và cổ điển của nơi làng quê. Thơ Nguyễn Bính cũng thật mộc mạc, song ẩn sau cái mộc mạc bình dị đó, là cả một hồn quê, hồn dân tộc. Đi vào thơ Nguyễn Bính ta như được đắm mình trong một không gian văn hóa làng quê đậm đà bản sắc. Với những cảnh vật làng quê trong sáng, thanh mát. Với những con người quê và những tình cảm chân chất mộc mạc mà ấm áp. Với những lễ hội truyền thống, những nét sinh hoạt dân gian đ ã tồn tại từ hàng ngàn năm. Tất cả đều được thể hiện một cách hết sức sống động v à chân thực. Có lẽ những nét đẹp chốn làng quê ấy, sau này cũng chẳng còn nữa và biết rằng nó sẽ không còn nữa nên Nguyễn Bính đã lập nên một viện bảo tàng văn hóa làng quê trong thơ mình. Để mỗi khi trong cuộc đời dâu bể n ày, có phút giây nào nhớ đến làng quê, ta lại tìm về với Nguyễn Bính.
Khép lại những trang thơ, trong tôi bỗng vọng lên những câu hát:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u là u mình với chúng mình là mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều!
Lời nhắn nhủ như thật nhẹ nhàng và giản dị nhưng nó còn theo mãi trong chúng ta những người xa quê giữ lấy vẻ đẹp truyền thống, giữ lấy những tình cảm đẹp đẽ và giữ lấy bầu trời kỷ niệm ở chôn thôn quê của mình.
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Minh Đức- Đoàn Đức Phương ( tuyển chọn và giới thiệu), 2003, Nguyễn
Bính về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
2. Hoài Thanh- Hoài Chân, 2000, Thi nhân Việt Nam 1932- 19419 ( Tái bản),
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
3. Thảo Linh ( biên khảo), 2000, Nguyễn Bính- nhà thơ chân quê, Nxb VH- TT,
Hà Nội
4. Vương Trí Nhàn, 2006, Cánh bướm và đoá hướng dương, Nxb Phụ nữ, Hà
Nội.
5. Đoàn Đức Phương, 2006, Nguyễn Bính- hành trình sáng tạo thi ca, Nxb Giáo
Dục, Hà Nội.
6. Chu Văn Sơn, 2003, Ba đỉnh cao thơ mới, Xuân Diệu- Nguyễn Bính- Hàn Mặc Tử, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
7. Hoàng Xuân ( Tuyển chọn), 1994, Nguyễn Bính- thơ và đời, Nxb Văn học, Hà Nội.
8 . Nhiều tác giả, 2007, Tác giả trong nhà trường- Nguyễn Bính, Nxb Văn học,
Hà Nội.
9. Nhiều tác giả, 2003, Văn học Việt Nam ( 1900- 1945), Nxb Giáo Dục, Hà
Nội.
10. Thơ Nguyễn Bính: Lỡ bước sang ngang( 1940); Tâm hồn tôi( 1940) Hương
cố nhân( 1941); Mười hai bến nước( 1942); Người con gái ở lầu hoa( 1942); Trả ta về( 1955); Gửi người vợ miền Nam( 1955); Đêm sao sáng( 1962)…
I. Lý do chọn đề tài
Đã từ bao đời nay, làng quê Việt Nam đã góp phần nuôi dưỡng đời sống tâm hồn dân tộc. Những làng quê với bờ tre xanh, cánh đồng thơm hương lúa, cánh cò trắng dập dờn, rồi những ngày lễ hội, phiên chợ tết, đêm hội chèo …Tất cả như còn đây nếp sinh hoạt văn hóa ngày qua. Người nông dân sông cuộc sống bình dị, vất vả một nắng hai sương, họn làn nhũng người lao động cần mẫn khiêm tốn trong sinh hoạt đời thường, và khi quê hương bị xâm lược họ chính là những nghĩa quân dũng cảm bảo vệ quê hương đất nước.Bầu trời quê hương trong sáng, giếng nước gốc đa thanh bình, hương bưởi hương cau man mác trong đêm, câu hát câu ca đậm sắc trữ tình…tất cả đã góp phần giữ gìn sự thanh khiết trong trẻo của miền đất quê hương .
Và khi viết về quê hương, nhiều nhà văn nhà thơ đã lấy đề tài thôn quê làm đề tài chính trong các tác phẩm của mình. Đặc biệt là trong phong trào thơ mới Trong phong trào Thơ mới (1932- 1941), Nguyễn Bính nổi lên như một
ngôi sao sáng. Ông đóng một vai trò hết sức to lớn trong phong trào Thơ mới. Cùng với một số nhà thơ tiêu biểu khác như: Anh Thơ, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ…, Nguyễn Bính đã tạo nên một dòng thơ đồng quê mượt mà và trữ tình. Đề tài sáng tác chủ yếu của Nguyễn Bính đó là chốn thôn quê. Trong thơ ông luôn ngập tràn những hình ảnh của chốn thôn quê chòm xóm, những tình cảm chân chất nồng ấm của những người dân quê hồn hậu. Bởi vậy mà đã có người gọi Nguyễn Bính là nhà thơ chân quê; nhà thơ của tình quê, hồn quê; thi sĩ của đồng quê.
Vậy việc chọn đề tài “không gian thôn quê” trong thơ Nguyễn Bính có tầm quan trọng to lớn đối với việc nghi ên cứu thơ Nguyễn Bính. Nó giúp ta thấy được những cái hay, cái đẹp trong hồn thơ Nguyễn Bính. Đồng thời, ta có thể thấy được những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của thơ ông. Qua đó, ta đánh giá được chính xác hơn đóng góp và vai trò của Nguyễn Bính trong nền thơ ca nước nhà.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là nhũng yếu tố thuộc về phạm trù không gian thôn quê trong thơ Nguyễn Bính
Phạm vi nghiên cứu là những bài thơ nằm trong các tập thơ chính của Nguyễn Binhd như : Lỡ bước sang ngang, Tâm hồn tôi, Hương cố nhân, Người con gái ở lầu hoa …
Và một số tài liệu có liên quan
III. Lịch sữ đề tài nghiên cứu
Nguyễn Bính là một hiện tượng khá tiêu biểu và độc đáo trong phong trào thơ mới nên đã có rất nhiều nhà nghiên cứu nhà phê bình và lí luận văn học
nghiên cứu về con người và thơ Nguyễn Bính. Trong đó có nhiều công trình
nghiên cứu đạt được những thành quả và giá trị nhất định. Nguyễn Bính sáng tác chủ yếu về đề tài làng quê nên những công trình nghiên cứu, những bài viết của các nhà nghiên cứu dù ở khía cạnh này hay khía cạnh khác, ít hay nhiều cũng đều đề cập tới vấn đề không gian thôn quê trong thơ Nguyễn Bính.
Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, xuất bản năm 1942 của nhà phê bình văn
học nổi tiếng Hoài Thanh đã đưa ra nhận định rằng: Nguyễn Bính vẫn còn giữ
được bản chất nhà quê nhiều lắm. Và thơ Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà
quê vẫn ẩn náu trong lòng ta. Ta bỗng thấy vườn cau bụi chuối là hoàn cảnh tự
nhiên của ta và những tính tình đơn giản của dân quê là những tính tình căn bản của ta [3, tr.371] Rõ ràng, chỉ với một câu nhận xét ngắn gọn mà Hoài Thanh đã làm bật lên được cái hồn thơ của Nguyễn Bính. Cái hồn thơ của người nhà quê.
Trong bài viết Đóng góp của thơ Nguyễn Bính đăng trên báo Giáo viên
nhân dân, số đặc biệt, tháng 7/1969 của Vũ Quần Ph ương, đã đưa ra những nhận định khá sâu sắc và toàn diện về hồn thơ Nguyễn Bính.
Vũ Quần Phương đã làm rõ hơn một bước về thơ Nguyễn Bính. Đó là hồn
của làng mạc quê hương, vườn cau mái rạ.[2.,tr.235] Nguyễn Bính ca ngợi vẻ
đẹp chân quê hết mực với cảm xúc yêu thương của một con người xa quê. Ông
miêu tả quê hương thật sắc xảo và tinh tế. Đẹp và trong sáng cả cảnh quê lẫn tình quê. Và duy chỉ có Nguyễn Bính là có thể làm như vậy: ông là nhà thơ của tình yêu thương nơi thôn xóm, tình yêu của những đêm hội làng. Nguyễn Bính hiểu sâu sắc tâm l. của những trai làng gái làng thời ấy, có những nét tâm l. gợi l ên dáng dấp sinh hoạt của một thời. Nông thôn ta tr ước cách mạng khác xa nông thôn ngày nay nhưng lại gần gũi với nông thôn Việt Nam xa xưa. Đời sống như ngưng đọng lại sau luỹ tre xanh. Tâm tình con người được quy định bằng nền kinh tế tiểu nông khép kín. Những cô giá chăn tằm dệt vải chỉ đi từ khung cửi đến nương dâu và cô gái lái đò thì cũng chỉ quen với một khúc sông một cái bến. Chỉ đêm hội làng là dịp tụ hội của trai thôn nọ gái thôn kia. Những mối t ình quê nảy nở bao nhiêu vui buồn mơ ước, nhớ mong, đau khổ xôn xao l ên nhưng vẫn xôn xao trong sự tĩnh lặng cố hữu của quê hương. Ngòi bút Nguyễn Bính có biệt tài diễn tả những mối tình quê thơ và mộng ấy. [2, tr.236]
Vũ Quần Phương đã phân tích thơ Nguyễn Bính ở cả góc độ thi pháp. Thi
pháp thơ Nguyễn Bính mang đậm tính dân gian bởi nh à thơ sáng tác phần lớn
những tác phẩm của mình bằng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc cùng với những ngôn ngữ rất trong sáng, mộc mạc của người nhà quê.
Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức trong cuốn Nguyễn Bính thi sĩ của đồng quê
do Nxb Giáo Dục xuất bản năm 1995 đã nhìn nhận thơ Nguyễn Bính một cách rất sâu sắc và toàn diện hơn. Ông đã chỉ ra cho chúng ta thấy được hình ảnh của một vùng quê ngập tràn trong thơ Nguyễn Bính. Và đó là một vùng quê có thật trong tâm trí nhà thơ: đó là hình ảnh của thôn Vân. Quê mẹ là vùng đất của nhiều trái cây và nhiều loài hoa: hoa lan nhiều loại, hoa huệ, hoa cúc, hoa tử tiêu, hoa hồng quế…Mặt nước và ao ngòi, luôn có hoa sen, hoa súng, hoa ấu và hoa trang…Những vòng bờ ao um tùm những cây dâu quả thẫm, chen những gốc cam yên, sắn, ổi, táo, chay, nhãn, vải… Trước cửa nhà thấp thoáng những giàn đỗ ván, giàn nho, giàn thiên lý hoa vàng riêng bi ệt. [2, tr.133]
Rồi đến cả những tình cảm của người nơi ấy, từ tình cảm gia đình, láng
giềng đến tình cảm nam nữ cũng mộc mạc, giản dị và rất chân quê.
Qua trên ta có thể nhận thấy rằng những công tr ình nghiên cứu về Nguyễn
Bính rất phong phú, dù nhìn nhận ở góc độ nào đi chăng nữa thì các nhà nghiên
cứu đều đồng nhất ở một điểm: Nguyễn Bính là nhà thơ của chốn thôn quê. Thơ Nguyễn Bính quê từ nội dung đến hình thức biểu hiện, ông sử dụng những chất liệu dân gian đưa vào trong thơ một cách độc đáo. Nguyễn Bính l à như vậy bởi ông luôn là một người nhà quê, ông yêu quê và luôn mang trong mình một hoài niệm về quê hương, về cái chân quê.
Đề tài không gian thôn quê trong thơ Nguyễn Bính mặc dù đã được nhiều
nhà nghiên cứu đi vào tìm hiểu với nhiều mức độ khác nhau song nó vẫn luôn là
một đề tài thú vị và hấp dẫn đối với những ai yêu thích hồn thơ Nguyễn Bính
IV. Phương pháp nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã thực hiện một số bước và phương
pháp nghiên cứu khoa học sau: Sưu tầm tài liệu, phương pháp phân tích- tổng hợp,phương pháp diễn dịch- quy nạp và so sánh
V. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo thì phần nội dung chính của đề tài này gồm có hai chương chính sau :
Chương I : Khái quát chung
Chương II : Những biểu hiện của không gian thôn quê trong thơ Nguyễn Bính
NỘI DUNG
Chương I : Khái quát chung
1.1. Thi sĩ Nguyễn Bính – đời và thơ
.1.1. Cuộc đời và con người
1.2. “Không gian thôn quê” trong phong trào Thơ mới
Thơ mới là một cuộc cách tân rộng lớn với sự bùng nổ và sáng tạo có hiệu quả của một thế hệ các nhà thơ có tài năng: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử… những tên tuổi đã đi vào lịch sử thơ ca dân tộc với khuôn mặt tươi sáng và giọng điệu mới mẻ. Nhìn chung các nhà thơ mới đều có một xu hướng chung đó là hoài cổ, hoài niệm về những giá trị, những nét đẹp cổ xưa của dân tộc. Và đấy chính là không gian thôn quê .
Các nhà thơ mới đã hòa vào dòng chảy tâm hồn ấy của đồng bào mình. Và
hơn nữa, đối với các nhà thơ mới trở về làng quê, là trở về với cội nguồn, với dân tộc. Làng quê cũng là nơi mà các nhà thơ mới đã từng sống và gắn bó. Ruộng đồng, vườn ao dường như đã là một phần máu thịt trong họ cho nên làng quê trong tâm hồn các thi sĩ luôn hiện lên với vẻ đẹp thơ mộng cũng như sự vất vả nhọc nhằn của nó. Nó trở thành nguồn thi hứng cho các thi nhân
Vậy nên trong thời kỳ này có rất nhiều câu thơ hay viết về quê hương của
các nhà thơ Mới. Xuân Diệu, một người được coi là nhà thơ Tây nhất những vẫn có những câu thơ man mác về phong vị xóm thôn quê kiểng:
Trăng ở đó; đất vườn thêu bóng lá
Trời trên kia vàng mạ, sáng như băng.
( Hoa đêm)
Huy Cận cũng ngây ngất với hương thơm mộc mạc của hoa dại, rơm khô,
lòng xao xuyến tưởng như cảnh quê của bao đời:
Một buổi trưa không biết ở thời nào
Như buổi trưa nhè nhẹ trong ca dao
Có cu gáy, có bướm vàng nữa chứ.
( Đi giữa đường thơm)
Hàn Mặc Tử gợi vẻ đẹp vừa thực vừa ảo của l àng quê vào lúc đúng mùa
xuân đẹp đẽ nhất, rực rỡ nhất:
Trong làn nắng ửng: khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
( Mùa xuân chín)
Và đặc biệt, một dòng chảy về chốn thôn quê mạnh mẽ và rộng lớn trong
phong trào thơ mới với những tên tuổi như: Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn
Cừ, Bàng Bá Lân…
Anh Thơ viết hẳn một tập thơ Bức tranh quê, thi nhân đã khắc họa được
những hình ảnh thật quen thuộc, dân dã:
Hoa mướp rụng từng đóa vàng rải rác
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay
…Và nhè nhẹ trong tơ trăng phơ phất
Khóm tre xanh lướt gió uốn cung đàn.
Còn Đoàn Văn Cừ lại chú ý tới những sắc màu tươi thắm của chốn thôn
quê:
Ngày ửng hồng sau màn sương gấm mỏng
Nắng dát vàng trên bãi cỏ non xanh
Dịp cầu xa long bóng nước long lanh
Đàn cò trắng dăng hàng bay phấp phới,
( Đám cưới mùa xuân)
Bàng Bá Lân đã lưu giữ được trong thơ những hình ảnh ở đâu mà chẳng có
trên khắp nước non này:
Quán cũ nằm lười trong sóng nắng
Bà hàng thưa khách ngả thiu thiu
Nghe mồ hôi chảy đầm như tắm
Đứng lặng trong mây một cánh diều…
( Trưa hè)
Dù rất yêu mến các làng quê, dù ngòi bút thi nhân rất tài hoa, dù đã dựng
được những hình ảnh sinh động về làng quê nhưng cả Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ,
Bàng Bá Lân đều chỉ mới tả được cảnh quê. Và dường như điều đó chưa đủ nói
lên một hoài niệm lớn lao về chốn thôn quê.
Còn với Nguyễn Bính, ông cũng tả cảnh quê, trong thơ ông có số những
hình ảnh vô cùng quen thuộc: hàng cau và giàn trầu, dậu mùng tơi xanh rờn,
những ao muống vạt cần, những con đò, những bến bãi, rồi bờ sông có hoa cải
vàng nở… Song nếu chỉ có vậy thì Nguyễn Bính cũng không thể nào được coi là nhà thơ của đồng quê. Điều quan trọng là ông đã gửi được vào những vần thơ
cuộc sống, tâm hồn mình, những am hiểu sâu sắc của mình về làng quê, cho nên
phong cảnh làng quê hằng ngày vốn quen thuộc qua những dòng thơ của Nguyễn Bính đã trở lên có hương, có sắc, có linh hồn và trở nên vô cùng thân thiết. Có thể nói, không chỉ tả cảnh quê mà còn gợi được một cách thấm thía cái
hồn quê, cái chân quê. Và đó là một trong những đóng góp lớn của Nguyễn Bính đối với phong trào thơ mới. Ông đã tạo ra một xu hướng mạnh mẽ trong phong trào thơ mới, hay nói cách khác, chính ông đ ã tìm ra một mảnh đất nương náu cho tâm hồn các thi nhân trong cơn gió bụi kinh thành
Chương II : Những biểu hiện của không gian thôn quê trong thơ Nguyễn
Bính
2.1. Cảnh vật – con người thôn quê
Nguyễn Bính sinh ra và lớn lên ở một miền quê đói nghèo nhưng cũng chính là một miền quê nằm trong cái nôi văn hóa của n ền văn minh châu thổ Sông Hồng, Nguyễn Bính đã được sớm đắm mình trong không gian thôn dã, hấp thụ được những giá trị văn hóa dân gian, dân tộc n ơi xóm làng. Quê hương đã nhuộm thắm tâm hồn thi sĩ, ấn định bản sắc chính của một phong cách thơ chân quê.
Nguyễn Bính yêu quê hương mình một cách kỳ lạ, quê hương là hình ảnh không bao giờ vắng bóng trong thơ ông. Cảnh quê hương trong thơ Nguyễn Bính rất đẹp, rất thơ mộng nhưng cũng mang hồn “chân quê” sâu sắc .
Thơ viết về cảnh quê của Nguyễn Bính không hiện thực mà lãng mạn, ông
ít miêu tả số phận cay đắng, những cảnh nhọc nhằn c ơ cực mà hình ảnh làng quê trong thơ ông thường tươi sáng, thơ mộng:
Sáng giăng chia nửa vườn chè
Một gian nhà cỏ đi về có nhau.
( Thời trước)
Nhà thơ có những câu thơ thật đẹp, thật hay về một nông thôn yên vui, no
ấm, thanh bình:
Thủa ấy làm sao thật thái bình
Trai hiền với bạn gái đồng trinh
Đời say men rượu thơm hoa rụng
Tràn những thơ ngây ngập cảnh đồng.
( Hoa với rượu)
Không phải vô cớ mà Nguyễn Bính lại viết về quê hương mình với những
câu thơ trong sáng và đẹp đẽ đến như vậy khi làng quê của ông là một ngôi làng
nghèo đói vùng chiêm trũng quanh năm trắng nước trắng trời. Kí ức sâu sắc nhất của Nguyễn Bính về cảnh thôn qu ê có lẽ đó là thôn Vân, quê mẹ của ông, nơi mà ông đã từng gắn bó phần lớn cuộc đời tuổi th ơ của mình ở đó. Và thực tế, trong thơ ông, những câu trong sáng nhất là viết về thôn Vân:
Thôn Vân có biếc có hồng
Hồng trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều
Đê cao có đất thả diều
Trời cao lắm lắm có nhiều chim bay
Quả lành trĩu nặng từng cây
Sen đầy ao cá, cá đầy ao sen
Hiu hiu gió quạt trăng đèn
Với dăm trẻ nhỏ thả thuyền ta chơi
Ăn gỏi cá, đánh cờ người
Thần tiên riêng một góc trời thôn Vân.
( Anh về quê cũ)
Đây là những hình ảnh có thật của thôn Vân. Quê mẹ Nguyễn Bính là vùng
đất của nhiều cây trái và nhiều loài hoa: hoa lan, hoa huệ, hoa cúc, hoa tử tiêu,
hoa hồng… Mặt nước và ao ngòi, luôn có hoa sen, hoa súng, hoa ấu và hoa
trang… Những vòng bờ ao um tùm những cây dâu thẫm quả, chen những gốc
cam yên, sắn, ổi, táo, chay, nhãn, vải, dừa, cũng không thiếu. Trước nhà thấp
thoáng những giàn đỗ biển, giàn nho, giàn thiên lý hoa vàng riêng biệt. Thiên nhiên ấy đã góp phần tạo nên màu sắc cho thơ viết về làng quê của Nguyễn Bính.Với những chất liệu khác nhau nh ưng về hiệu quả, thi ca Nguyễn Bính đã nói được ước vọng sâu xa của những người nông dân lam lũ ước mong về một cuộc sống tốt đẹp hơn, hòa đồng với thiên nhiên cảnh vật làng quê tươi thắm. Nguyễn Bính có những chất liệu thi ca ri êng của mình: cánh bướm và dậu
mồng tơi, mưa xuân bay và làng quê vào hội, giàn trầu không và hàng cau liên
phòng, con đê làng và sự hẹn hò chờ đợi, rồi những cô gái làng đang ở độ tuổi
yêu đương: cô hái mơ, cô lái đò, cô hàng xóm,..mỗi người một dáng vẻ, một tâm tư. Nguyễn Bính đã tạo nên khuôn mặt làng quê của riêng mình, nhưng rồi cũng là hình ảnh chung của nhiều làng quê Việt Nam, nhất là ở xứ Bắc. Nguyễn Bính có tài dựng lên cái hồn của Việt Nam nông nghiệp, một chất thơ đồng nội chân thực hồn hậu:
Nhà tôi có một vườn dâu
Có giàn đỗ ván, có ao cấy cần
Hoa đỗ ván nở mùa xuân
Lứa dâu tháng tháng, lứa cần năm năm.
( Nhà tôi)
Viết về cảnh quê qua các mùa trong năm, Nguyễn Bính không nói tới mùa đông, có lẽ vì mùa đông tàn tạ quá, không hợp với tâm hồn yêu đời, yêu cảnh sắc thôn quê của thi sĩ. Nguyễn Bính có viết về mùa thu (“Thu rơi từng cành cây bàng cuối thu”(Bắt gặp cuối thu)); về mùa hè (Trưa hè) về cảnh cuối xuân sang hạ (Cuối tháng ba). Nhưng có lẽ gợi cảm nhất, đẹp đẽ nhất, đầy sức sống nhất của cảnh quê trong thơ Nguyễn Bính là hàng loạt bài thơ về mùa xuân như : Thơ xuân, Xuân về, Mưa xuân, Mùa xuân xanh, Vườn xuân…Mùa xuân đã tới làng mạc bừng lên bao sắc màu tươi tắn, mọi vật nảy nở, sinh sôi, người người như trẻ lại :
Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong
(Xuân về)
Ở một gốc độ khác, trong miền ký ức của Nguyễn Bính đối với làng quê luôn hiện lên hình ảnh cái mảnh vườn quê. Với nhà thơ mảnh vườn là “biểu tượng và là ám ảnh của nông thôn trong thơ” vườn không chỉ là biểu tượng của thôn quê mà là biểu tượng của cả dân tộc Việt Nam. Trong mắt của người dân quê hình ảnh đầu tiên động lại vào tâm hồn khi nhìn ra thế giới là mảnh vườn nhà, mảnh vườn là những gì cổ sơ, thiêng liêng của người nhà quê. Chính vì vậy, trong thơ Nguyễn Bính hình ảnh mảnh vườn cứ trở đi trở lại với bao định nghĩa:
Vườn nhà, vườn dâu,vườn ai,vườn trầu, vườn cam…
Hình ảnh vườn trong thơ Nguyễn Bính được sử dụng với nhiều . nghĩa
khác nhau. Chẳng hạn như hình ảnh vườn có nghĩa là nhà:
Em ơi, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
( Lỡ bước sang ngang)
Hay vườn cũng có nghĩa là hình ảnh quê hương yêu dấu đối với những
người con xa quê, phiêu bạt nơi đất khách quê người:
Đem thân về chốn vườn dâu cũ
Buồn cũng như khi chị lấy chồng.
( Xuân tha hương)
Vườn là nơi in dấu những kỉ niệm đẹp của tuổi thơ, cái tuổi leo trèo nghịch
ngợm:
Một thửa vườn hoang bên cạnh ao
Xương rồng cỏ bãi lẫn rau sam
Vườn này ngày nhỏ anh còn nhớ
Đã nhảy qua tường bẻ trộm cam
( Vườn xưa)
Làng quê Việt Nam đẹp và thơ mộng không chỉ bởi những mảnh vườn,
những mái đình cây đa, bến nước con đò mà nó còn đẹp bởi những cánh bướm
những vườn hoa rực rỡ sắc màu. Những cánh bướm dập dìu bay trong thơ ông
góp phần tô điểm cho cảnh vật làng quê thêm xinh tươi và gợi cảm hơn:
Qua dậu tầm xuân thấy bướm nhiều
Bướm vàng vàng quá, bướm yêu yêu
Em sang bắt bướm vườn anh mãi
Quên cả làng Ngang động trống chèo.
( Hết bướm vàng)
Ngoài ra, cảnh vật làng quê trong ký ức của Nguyễn Bính đó là những buổi chiều êm đềm với tiếng sáo vi vu làm dịu tâm hồn con người nơi chốn quê: “Thâu đêm tiếng sáo ngân dài, Vi vu tiếng vọng muôn đời quê ta”(Chuyện tiếng sáo diều). Nhắc đến cảnh làng quê trong thơ Nguyễn Bính thì không thể thiếu hình ảnh những bờ ao, cái giếng. Đó là những hình ảnh gắn liền với đời sống sinh hoạt cũng như đời sống tâm tình của người nhà quê :
Đêm cùng đón ánh trăng cao
Ngồi bên giếng ngọc đếm sao trên trời.
( Tiền và lá)
Giếng trong mắt người nhà quê luôn được coi là một cái gì đó trong sáng và thanh khiết như cái trong sáng của tâm hồn :
Hồn tôi giếng ngọt trong veo
Trăng thu trong vắt biển chiều trong xanh.
( Tình tôi)
Ngoài ra Nguyễn Bính còn nhắc đến một số những hình ảnh tiêu biểu của
chốn thôn quê như trầu cau, hàng rào với dậu mùng tơi, dậu tầm xuân. Đó là
những cảnh vật nhỏ bé, bình thường, quen thuộc với người dân thôn quê. Song
khi đi vào trong thơ, nó trở nên vô cùng thi vị và có sức lay động lòng người.
Cảnh vật làng quê mà Nguyễn Bính đưa vào trong thơ không phải là cái
cảnh vật đơn thuần. Ông đã gửi vào cảnh sắc quê hương đó cái hồn quê của chính mình. Biết rằng sau này làng quê sẽ không còn giữ được những thanh sắc đẹp đẽ như thế nhưng những câu thơ đẫm hương đồng gió nội của Nguyễn Bính sẽ mãi gợi nhắc lòng ta về tâm hồn dân tộc của một thời đã qua.
Trong thơ Nguyễn Bính thôn quê là cái gì đó bất biến trong không gian và thời gian. Cái hồn quê, cái chân quê không chỉ hiện rõ ở cảnh quê mà còn ở những người nhà quê chất phác, giản dị. Chính vì vậy mà thơ Nguyễn Bính làm rung động tới những gì cổ xưa nhất, mến thương nhất của tâm linh người Việt. Thời thơ ấu đã qua nhưng ai có thể quên những trò chơi thơ ngây, hồn nhiên của những cậu bé, cô bé : “Còn nhớ năm xưa đuổi bướm vàng, Mãi vui quên cả nắng chang chang” (Sống lại), “Có hai em bé học trò, Xem con kiến gió đi đò lá tre”(Tiền và lá)…Và Nguyễn Bính dành khá nhiều bài thơ để viết về những người mẹ, có lẽ vì ở thời nào chẳng thế, hình bóng người mẹ cũng là hình bóng quê hương. Trong phong trào Thơ mới cũng có những bài thơ cảm động về mẹ: Chiếc rổ may (Tế Hanh), Nắng mới (Lưu Trọng Lư), Đường về quê mẹ (Đoàn Văn Cừ)…Nhưng trong thơ Nguyễn Bính hình ảnh người mẹ quê nghèo hiện lên thật giản dị, chân thực và gây xúc động nhiều hơn cả. Đấy là những bà mẹ nông thôn Việt Nam nhân hậu đảm đang, nhân hết về mình những khó nhọc, lo toan hết lòng vì chồng con, vì những người thân yêu : “Tết đến mẹ tôi vất vả nhiều,Mẹ tôi lo liệu đủ trăm chiều” (Tết của mẹ tôi). Mẹ sắm sửa cho con đi lấy chồng, cố gượng mà vui, chi khi tiễn con qua cửa buồng mẹ mới khóc sầu thảm và xót thương “Con ạ! Đêm nay mình mẹ khóc, Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi” ( Lòng mẹ). Có người mẹ đưa tiễn con ra trấn ải xa, con đi rồi, còn mình mẹ đứng lặng giữa sân ga, dáng mẹ đổ bóng xuống sân ga trông thật sầu thảm. Chỉ với một c hi tiết dáng lưng còng đổ bóng xuống sân ga, Nguyễn Bính đã nói lên được nỗi nhớ da diết, xót thương đau đớn vô cùng của người mẹ khi phải xa con: “Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng, Lưng còng đỏ bóng xuống sân ga”
( Những bóng người trên sân ga). Và bâng khuâng chua xót bi ết bao trước hình ảnh người mẹ lạnh lẽo cô đơn trong mùa thu thiếu vắng bóng dáng những đứa con gái y êu dấu khi họ đi lấy chồng ở nơi xa:
Xóm Tây bà lão lưng còng
Có hai cô gái lấy chồng cả hai
Gió thu thở ngắn than dài
Bà đem áo rét ra ngoài sân phơi
( Không đề)
Ngoài ra, hình ảnh những cô gái quê, người đã lấy chồng, người đang thời
thiếu nữ, người mới dậy thì,… có lẽ được ngòi bút Nguyễn Bính khắc họa nhiều, thậm chí là nhiều hơn cả trong số những người chân quê. Phải thế chăng, cũng như các bà mẹ, họ là hình ảnh của quê hương, nhưng là quê hương tươi tr ẻ, đẹp đẽ giống như mộng tưởng của người thi sĩ đồng quê? Nhớ tới làng quê xưa là nhớ tới những cô thôn nữ chăn tằm dệt vải; những ng ười con gái ấy thật chăm chỉ, cần cù và cũng duyên dáng, tình tứ biết bao bên khung cửi- con thoi đi về giữa những sợi tơ giăng mắc như hình ảnh cụ thể hóa cho những nhớ nhung vấn vít trong lòng cô gái:
Gieo thoi, gieo thoi, lại gieo thoi
Nhớ nhớ, mong mong, mãi mãi rồi
Thoi ạ làm sao thoi lại cứ
Đi về giăng mắc để trêu tôi
( Nhớ)
Chính những hình ảnh đó đã nói lên phần nào số phận của các cô gái. Có những cô gái bị ép lấy chồng chấp nhận lấy người mình không yêu (Lỡ bước sang ngang). Rồi có những cô gái mãi chờ người tình, nhưng đợi mãi đợi mãicô đành chấp nhận lên xe hoa nhưng lòng vẫn ngóng trong một người (Cô lái đò). Tuy vậy họ luôn khao khát có được một hạnh phúc đơn sơ giản dị, một cuộc sống tốt đẹp hơn (Hôn nhau lần cuối)…
Như vậy, Nguyễn Bính đã dành tình cảm chân thật của mình để phát hiện ra những rung động nhỏ bé trong tâm hồn người nhà quê. Những tình cảm chân thật chất phác ấy luôn làm cho mối quan hệ con người thêm ấm áp. Tình yêu chốn thôn quê thật là sâu sắc
2.2. Không gian văn hóa làng quê với những nét sinh hoạt truyền thống
Trong phong trào Thơ mới, có lẽ Nguyễn Bính với hồn quê đậm đà sâu sắc của mình mới khắc họa thật sinh động những nét văn hóa làng quê. Đọc thơ Nguyễn Bính ta như được sống lại những ngày Tết cổ truyền, những ngày hội xuân, những ngày hội làng, những đêm hát chèo, buổi lễ chùa, những tín ngưỡng phong tục tập quán, những tr ò chơi dân gian và nếp sống xưa của người dân quê.
Bài thơ Chùa vắng đã gợi lên một nét đặc biệt của văn hóa làng quê là tín
ngưỡng tôn giáo. Từ hàng ngàn năm nay, hình ảnh những ngôi chùa, mái đình cổ kính đã gắn bó với thôn xóm Việt Nam, đó l à nơi ước nguyện, nơi nương náu của những gì sâu thẳm trong cõi tâm linh người Việt, nơi không có chỗ cho những phàm tục, xấu xa. Chỉ với vài nét chấm phá, Nguyễn Bính đã diễn tả đúng cái tĩnh lặng, thanh sạch- nét thần của một ngôi chùa ở làng quê:
Gió chiều cầu nguyện đâu đây
Nắng chiều cắt đoạn một ngày cuối thu
Sư già quét lá sau chùa
Để thiêu xác lá trước giờ lên chuông.
Trong bài thơ Tết của mẹ tôi, Nguyễn Bính đã gợi lên hương vị của ngày
Tết cổ truyền dân tộc :
Sáng mùng một sớm tinh sương
Mẹ tôi cấm chúng tôi ra đường
Mở hàng mỗi đứa năm xu rưỡi
Rửa mặt hoa mùi nước đượm hương.
Tế đến cùng với những ngày hội xuân, khung cảnh làng quê nhộn nhịp và
tươi đẹp hẳn lên, người người cùng nhau đi chơi xuân:
Tháng Giêng vừa Tết đầu xuân
Xanh um lá mạ, trắng ngần hoa cam
Mưa xuân rắc bụi quanh làng
Bà già sắm sửa hành trang đi chùa
Ông già vào núi đề thơ
Trai tơ đình đám, giá tơ hội hè.
( Tỳ bà truyện)
Nếu như ở Kinh Bắc xưa, mùa xuân là hội quan họ thì ở các làng quê Bắc Bộ mùa xuân là ngày hội của những đêm hát chèo “Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm” (Mưa xuân) của những trò vui “Ăn cỏi cá, đánh cờ người” (Anh về quê cũ)…Mùa xuân qua đi, lại cuộc sống thường nhật với biết bao vất vả nhọc nhằn, nhưng rồi lòng người lại xốn xang với “Hội làng mở giữa mùa thu”(Đêm cuối cùng)… Có điều Nguyễn Bính không chỉ tài hoa khi dựng cảnh những ngày hội làng quê mà ông còn rất am hiểu và khéo léo khi dặc tả những nét văn hóa làng quê qua cách ăn mặc, qua những dáng bề ngoài của người nhà quê. Đấy là một chú bé mà người ta có thể bắt gặp dâu đó trên đường thôn : “Tuổi thơ tóc để gáo dừa, Tuổi thơ mẹ bắt deo bùa cần cong”(Tiền và lá) . Còn đây là những trang phục của các cô gái trong ngày đi lấy chồng : “Này áo đồng lầm, quần lĩnh tía, Này gương, này lược, này hoa tai” (Lòng mẹ ) và đây là hình ảnh của những người đi lễ chùa :
Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt miệng nam mô…
( Xuân về)
Trong thơ Nguyễn Bính còn hiện ra hàng loạt cách ứng xử giữa những người trong cộng đồng lang xã Việt Nam. Đó là những quan hệ hàng xóm,quan hệ lứa đôi, gia đình dòng tộc…Làng là đơn vị sinh hoạt và đến lời hen hò cũng xem làng, ví von rất làng quê. Những điều vừa nêu sơ lược trên đây có thể coi như những minh chứng khẳng định thêm rằng : “Nguyễn Bính là một nhà thơ về làng quê và là một nhà văn hóa làng
KẾT LUẬN
Qua nội dung đã được trình bày trên chúng ta có thể thấy được rằng,
Nguyễn Bính là một nhà thơ tài hoa, đồng thời cũng là một con người giàu lòng
yêu quê hương đất nước, một con người có tâm hồn trong sáng và thanh cao.
Cuộc đời Nguyễn Bính đã trải qua nhiều thăng trầm, nhiều cuộc bể dâu. Ông đã
xa quê từ rất sớm phiêu bạt chốn thị thành để kiếm sống. Trong cái xã hội xô bồ
lúc bấy giờ, nó luôn làm cho con người ta cảm thấy ngột ngạt và bức bối. Khi đó con người ta luôn khao khát tìm đến một nơi nào đó trong sáng và thanh bình để nuôi dưỡng tâm hồn mình. Và nơi ấy chính là chốn thôn quê. Với Nguyễn Bính, có lẽ ông đã xa quê hương từ lâu cho nên ông càng nhớ về quê hương da diết hơn. Trong ông luôn đau đáu niềm hoài niệm về những nét đẹp chân quê, giản dị, mộc mạc mà trong sáng và thơ mộng của chốn thôn quê. Ông yêu quê và ông sợ quê mất đi cái vẻ đẹp vốn có của nó. Bằng t ài năng của một thi sĩ với tấm lòng yêu quê chung tình son sắt, Nguyễn Bính đã lưu trữ trong thơ ông những nét đẹp tinh tế và cổ điển của nơi làng quê. Thơ Nguyễn Bính cũng thật mộc mạc, song ẩn sau cái mộc mạc bình dị đó, là cả một hồn quê, hồn dân tộc. Đi vào thơ Nguyễn Bính ta như được đắm mình trong một không gian văn hóa làng quê đậm đà bản sắc. Với những cảnh vật làng quê trong sáng, thanh mát. Với những con người quê và những tình cảm chân chất mộc mạc mà ấm áp. Với những lễ hội truyền thống, những nét sinh hoạt dân gian đ ã tồn tại từ hàng ngàn năm. Tất cả đều được thể hiện một cách hết sức sống động v à chân thực. Có lẽ những nét đẹp chốn làng quê ấy, sau này cũng chẳng còn nữa và biết rằng nó sẽ không còn nữa nên Nguyễn Bính đã lập nên một viện bảo tàng văn hóa làng quê trong thơ mình. Để mỗi khi trong cuộc đời dâu bể n ày, có phút giây nào nhớ đến làng quê, ta lại tìm về với Nguyễn Bính.
Khép lại những trang thơ, trong tôi bỗng vọng lên những câu hát:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thầy u là u mình với chúng mình là mình chân quê
Hôm qua em đi tỉnh về
Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều!
Lời nhắn nhủ như thật nhẹ nhàng và giản dị nhưng nó còn theo mãi trong chúng ta những người xa quê giữ lấy vẻ đẹp truyền thống, giữ lấy những tình cảm đẹp đẽ và giữ lấy bầu trời kỷ niệm ở chôn thôn quê của mình.
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hà Minh Đức- Đoàn Đức Phương ( tuyển chọn và giới thiệu), 2003, Nguyễn
Bính về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
2. Hoài Thanh- Hoài Chân, 2000, Thi nhân Việt Nam 1932- 19419 ( Tái bản),
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
3. Thảo Linh ( biên khảo), 2000, Nguyễn Bính- nhà thơ chân quê, Nxb VH- TT,
Hà Nội
4. Vương Trí Nhàn, 2006, Cánh bướm và đoá hướng dương, Nxb Phụ nữ, Hà
Nội.
5. Đoàn Đức Phương, 2006, Nguyễn Bính- hành trình sáng tạo thi ca, Nxb Giáo
Dục, Hà Nội.
6. Chu Văn Sơn, 2003, Ba đỉnh cao thơ mới, Xuân Diệu- Nguyễn Bính- Hàn Mặc Tử, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
7. Hoàng Xuân ( Tuyển chọn), 1994, Nguyễn Bính- thơ và đời, Nxb Văn học, Hà Nội.
8 . Nhiều tác giả, 2007, Tác giả trong nhà trường- Nguyễn Bính, Nxb Văn học,
Hà Nội.
9. Nhiều tác giả, 2003, Văn học Việt Nam ( 1900- 1945), Nxb Giáo Dục, Hà
Nội.
10. Thơ Nguyễn Bính: Lỡ bước sang ngang( 1940); Tâm hồn tôi( 1940) Hương
cố nhân( 1941); Mười hai bến nước( 1942); Người con gái ở lầu hoa( 1942); Trả ta về( 1955); Gửi người vợ miền Nam( 1955); Đêm sao sáng( 1962)…