KHÔNG GIAN THĂNG LONG TRONG THƠ NGUYỄN TRÃI
Phạm Thị Ngọc Hoa
Nguyễn Trãi (1380-1442) sinh ra ở dinh ông ngoại Trần Nguyên Đán tại kinh thành Thăng Long và suốt thời thanh niên cũng khi ở trong thành, khi ra ngoại thành ở với cha ở làng Ngọc Ổi (nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, ngoại thành Hà Nội); rồi đỗ Thái học sinh, có 7 năm làm quan với nhà Hồ (1400-1407); rồi qua mười năm ẩn náu ở thành Đông Quan dưới thời Minh thuộc (1407-1416); trải qua mười năm chiến trận (1417-1427), phần đời còn lại của Nguyễn Trãi (1427-1442) chủ yếu làm qun trong triều và gắn bó với kinh thành Thăng Long – ngoại trừ một số thời gian có về Côn Sơn nghỉ dưỡng, ẩn dật. Đương nhiên Nguyễn Trãi đã có phần đời quan trọng gắn bó với Thăng Long, buồn vui, nếm trải mọi thăng trầm cùng Thăng Long yêu dấu.
Theo khảo sát của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học, dường như bài thơ Thủ vĩ ngâm được Nguyễn Trãi sáng tác trong khoảng mười năm bị quân Minh theo dõi, khống chế, giam lỏng ở kinh thành Thăng Long:
Góc thành Nam lều một gian,
No nước uống thiếu cơm ăn.
Con đòi khóc dường ai quyến,
Bà ngựa gầy thiếu kẻ chăn.
Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá,
Nhà quen xú xứa ngại nuôi vằn.
Triều quan chẳng phải ẩn chẳng phải,
Góc thành Nam lều một gian(1).
Với Nguyễn Trãi, những khó khăn khi bị giam giữ ở Thăng Long không làm ông nản chí mà càng kích thích ý chí đấu tranh giành độc lập cho dân tộc. Người xưa làm thơ là để nói chí. Cái chí nhà Nho được thể hiện qua văn thơ có lúc ngang tàng mạnh mẽ, cũng có khi lắng đọng thâm trầm. Nguyễn Trãi cũng luôn mong muốn thể hiện chí giúp đời. Hoài bão lập thân thời trẻ của Nguyễn Trãi được thể hiện bằng một hình tượng kỳ vĩ, đẹp tuyệt vời – hình tượng chim bằng bể Bắc (“bắc minh bằng”).
Cửu vạn đoàn phong ký tích tằng,
Đương niên thác tỉ bắc minh bằng.
(Mạn hứng)
(Cỡi gió lên chín vạn dặm, nhớ xưa đã từng có chí ấy,
Bấy giờ toan ví mình như chim bằng biển Bắc)
Hình tượng chim bằng biển Bắc với đường bay chín vạn dặm có tác dụng thể hiện rõ cái chí lớn, cao xa, mạnh mẽ của kẻ trượng phu nói chung, Nguyễn Trãi nói riêng. Nguyễn Trãi đúng là đã rất khát khao được tung hoành trong trời bể, khát khao làm chim phượng ca hát gọi mặt trời lên sưởi ấm dương gian “Lãm huy nghi học minh dương phượng”. Lý tưởng của Nguyễn Trãi đã rõ. Một con người cả cuộc đời khát khao nhập thế, một tấm lòng son “hừng hực”, đầy nhiệt tâm với đất nước (Nhất phiến đơn tâm chân hống hoả), Nguyễn Trãi đã sống suốt cuộc đời mình như đi hết đường bay của chim phượng hoàng: “Say hết tấc lòng hồng hộc”.
Thể hiện rất rõ trong Ức Trai thi tập là hình ảnh một nhà nho Nguyễn Trãi mang lý tưởng cao đẹp, hăm hở dấn thân luôn thực hiện hài hoà, đúng đắn trong các mối quan hệ. Một mặt, do hoàn cảnh bất như ý, khi ở kinh thành Thăng Long, nhiều khi Nguyễn Trãi lại muốn lui về ở ẩn, muốn tìm về miền quê Côn Sơn thánh tĩnh; ngược lại, khi đang ở Côn Sơn, có khi ông lại đau đáu nhớ tới trách nhiệm với đất nước và ước mong về một ngày được dấn thân nhập cuộc, được thi thố tài năng phục vụ vương triều, dựng xây đất nước. Điều này tạo nên những nghịch lý và sự luân chuyển hai chiều giữa hai dòng tâm sự: từ Thăng Long nhớ về cố hương và từ nơi cố hương vọng nhớ về kinh đô Thăng Long.
Tuổi trẻ Nguyễn Trãi được lịch sử đặt trước ngã ba đường. Ông phải lựa chọn một lối sống. An cư hay dấn thân cứu nước? Quả có niềm day dứt trong ông và từ đó hiện hình thành những câu thơ da diết.
Trượng sách hà tòng quy Hán Thất?
Bão cầm không tự tháo Nam âm.
(Mạn thành 1)
(Chống roi ngựa do đâu theo về nhà Hán?
Ôm đàn chỉ gảy khúc Nam âm thôi).
Về đâu? câu hỏi nghe da diết biết dường nào! Về đâu giữa ngã ba đường thời đại? Câu trên là tiếng lòng xốn xang của Nguyễn Trãi mà đường tơ chỉ mới đau buồn, một mối băn khoăn về lý tưởng. Câu sau là lời khẳng định dứt khoát, mạnh: “Ôm đàn chỉ gảy khúc Nam âm thôi”. “Khúc Nam”, một cách nói đủ gợi cho người đọc hiểu lòng Nguyễn Trãi đã nghiêng về phía non sông đất nước. Cho nên, sự lựa chọn đúng đắn, tự thân đã là một giá trị.
Sự lựa chọn của Nguyễn Trãi phản ánh nhận thức đúng đắn về quy luật vận động của lịch sử: nhà Trần đã suy, nhà Hồ không tìm được chỗ dựa vững chắc là lòng dân. Với nhận thức đó, Nguyễn Trãi tìm về với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đây là cuộc khởi nghĩa của nhân dân, được “trời trao mệnh lớn”. Thực ra, để có được sự lựa chọn này, ông đã phải trải qua nhiều tháng ngày suy tư, trăn trở: “Lấy xưa nghiệm nay, xét suy mọi cơ hưng phế” (Bình Ngô đại cáo).
Có lý tưởng rồi, Nguyễn Trãi hồ hởi dấn thân. Gạt bỏ quan niệm đầy khắt khe“trung thần bất sự nhị quân” của Nho giáo, Nguyễn Trãi chủ động đến với Lê Lợi, không ngần ngại ngơi ca ông. Trong Ức Trai thi tập, Nguyễn Trãi nhiều lần ca ngợi Lê Lợi, người anh hùng “quyền mưu” và “nhân nghĩa” đã làm nên nghiệp lớn. Hình ảnh Lê Lợi ở đây đồng nghĩa với vương triều, với sự vững bền của kinh thành Thăng Long đã được bốn phương qui phục:
Quyền mưu bản thị dụng trừ gian,
Nhân nghĩa duy trì quốc thế an.
Đài các hữu nhân nho tịch noãn,
Biên thuỳ vô sự liễu doanh nhân.
Viễn phương ngọc bạch đồ vương hội,
Trung Quốc uy nghi đổ Hán quan
Sóc tấm dĩ thanh kinh lãng tức,
Nam châu vạn cổ cựu giang san.
(Hạ Quy Lam Sơn)
(Quyền mưu vốn là để trừ gian ác,
Nhân nghĩa thì giữ gìn cho thế nước được yên.
Chốn đài các có người giỏi, chiếu nhà nho ấm,
Nơi biên thuỳ không có việc, doanh liễu được nhàn.
Phương xa dâng ngọc lụa, vẽ cảnh hội nhà vua,
Uy nghi của Trung Quốc được thấy lại quan nhà Hán.
Yêu khí phương Bắc đã dẹp quang, sóng kình đã lặng,
Đất Nam châu vẫn giữ giang sơn muôn đời)
Nguyễn Trãi ca ngợi người anh hùng “quyền mưu” và “nhân nghĩa” Lê Lợi đã làm nên lịch sử bằng những vần thơ hào hùng, sảng khoái. Đó là lẽ hiển nhiên. Song, ở Nguyễn Trãi còn có những suy ngẫm mới mẻ về người anh hùng mà văn học trước đó chưa hề có. Theo quan niệm “Bất tương thành bại luâïn anh hùng”, Nguyễn Trãi không chỉ đề cao người anh hùng vệ quốc, anh hùng giải phóng. Trong nhiều bài thơ, thi thoảng ông nhắc đến Hồ Quý Ly trong tư cách một “anh hùng để hận…”, “ anh hùng ôm hận…”, “anh hùng một thuở…” qua những dòng thơ nhuốm màu bi tráng. Quả là có sự ngậm ngùi, cảm khái và trân trọng trong những câu thơ về Hồ Quý Ly.
Vẻ đẹp hình tượng con người Nguyễn Trãi nằm ở chỗ luôn trăn trở với các bổn phận của nhà Nho. Trước hết là bổn phận của kẻ bề tôi và kẻ làm con. Trong thơ, Nguyễn Trãi nói nhiều đến đạo “quân thân”. Trong ý thức, tình cảm của Nguyễn Trãi luôn có sự gắn kết chặt chẽ giữa “quân” và “thân”. Hai chữ “quân thân” canh cánh bên lòng. Trong bài Mạn hứng, Nguyễn Trãi bộc bạch tấm lòng của mình đối với vua rất xúc động: Hà tằng nhất phạn nhẫn vong quân (Chưa từng một bữa ăn nào mà không nhớ đến vua). Đó là sự thật. Bởi lẽ, đối với Nguyễn Trãi, đạo “quân thân” luôn thường trực trong ông. Xét cho cùng, đạo “quân thân”, niềm “trung hiếu” mà Nguyễn Trãi thường nhắc đến trong thơ chính là tấm lòng yêu nước, thương dân của ông. Chẳng phải Nguyễn Trãi đã phải gạt nước mắt tiễn cha nơi ải Nam Quan, trở về tìm cách rửa hận cho nước đấy sao!
Con người Nho giáo là con người chức năng: sống theo bổn phận, giữ đúng đạo nghĩa. Mỗi người đều có bổn phận và làm đúng bổn phận của mình. Bổn phận đó được xã hội quy định. Nho giáo đặt con người trong các mối quan hệ luân thường để xem xét, đánh giá. Nho giáo không thừa nhận con người cá nhân như một hữu thể tồn tại độc lập mà chỉ có con người trong những quan hệ luân thường xác định: vua - tôi, cha - con, anh - em, chồng - vợ, bạn bè. Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu viết: “Con người theo cách hình dung của Nho giáo, kể cả trong xã hội lý tưởng của họ, sống theo trật tự đẳng cấp. Cái định giá con người là tước vị... Giá trị của con người là ở đạo đức, là hoàn thành tốt hay xấu chức năng của mình”(2). Vì thế, không có gì khó hiểu khi đạo đức trở thành một tiêu chuẩn cơ bản để phân loại con người trong văn chương nhà nho. Tư tưởng Nho giáo đã quy định cho mỗi nhà nho ý thức sâu sắc về hai chữ trung - hiếu (đạo làm tôi và đạo làm con). Không đặt trọng chữ trung hay chữ hiếu, Nguyễn Trãi luôn làm tròn các bổn phận, chức năng và thực hiện trọn vẹn đạo hiếu “quân thân”: “Quân thân nhất niệm cửu anh hoài”. Hai chữ “quân thân” luôn vương vít trong lòng Nguyễn Trãi, trước sau là một sự khẳng định nhất quán, thuỷ chung.
Là người giàu tình cảm “cuồn cuộn nước triều đông” nhưng Nguyễn Trãi ít khi bộc bạch, nhất là tình cảm đối với người thân. Phải chăng tuổi ấu thơ với những mất mát lớn về tình cảm gia đình đã giúp Nguyễn Trãi nén lại những cảm xúc riêng tư? Trong Ức Trai thi tập, Nguyễn Trãi nhắc đến tình cảm của mình đối với cha mẹ, anh em, thân bằng quyến thuộc không nhiều, nhưng trong mỗi câu, mỗi bài là cả tấc lòng da diết, đau đáu một tình yêu. Trong bài Thanh minh, dường như nhà thơ gắng gượng dồn nén mọi cảm xúc của mình nhưng tự nó vẫn cứ tràn lên nỗi nhớ thương, day dứt:
Nhất tòng luân lạc tha hương khứ,
Khuất chỉ thanh minh kỷ độ qua.
Thiên lý phần uynh vi bái tảo,
Thập niên thân cựu tận tiêu ma.
Sạ tình thiên khí mô lăng vũ,
Quá bán xuân quang tê cú hoa.
Liêu bả nhất bôi hoàn tự cưỡng,
Mạc giao nhật nhật khổ tư gia.
(Kể từ khi lưu lạc ra làng khác,
Đếm đốt ngón tay, thanh minh đã qua mấy lần.
Xa nghìn dặm mồ mả không được lạy quét,
Trải mười năm thân cựu đã thảy hao mòn.
Chợt tạnh khí trời vào tiết mưa rào,
Đã quá nửa xuân, hoa tê cú nở.
Tán khuây nâng một chén còn phải cố gượng uống,
Để đừng có ngày ngày khổ về nhớ nhà)
Bài thơ được viết trong hoàn cảnh loạn lạc. Thấm đẫm trong lòng Nguyễn Trãi là nỗi buồn nhớ cố hương, gia quyến. Nhìn cảnh xuân qua mà lòng sầu tiếc vô hạn vì đã không làm tròn bổn phận với gia đình. Nguyễn Trãi xa quê, ngày thanh minh không sao về được để chăm sóc phần mộ tổ tiên ông bà.Đó là điều đau xót nhất của Nguyễn Trãi. Xót xa, nhưng đành nén lòng, “gắng gượng” nâng chén để quên đi nỗi khổ nhớ thương ngày ngày đang dằn vặt mình:
Liêu bả nhất bôi hoàn tự cưỡng,
Mạc giao nhật nhật khổ tư gia.
Nghịch lí chén rượu giải khuây nhưng lại làm tăng mức độ nỗi nhớ cho con người “Uống rượu tiêu sầu, sầu cứ sầu”. Cho nên, nỗi nhớ ở Nguyễn Trãi đã bị đẩy lên thành nỗi khổ “khổ tư gia”. Từ nhớ đến thành khổ là một nỗi nhớ vô cùng sâu sắc.
Nhà Nho Ngô Thế Vinh rất có lý khi nhận xét về Nguyễn Trãi: “Các bậc tiền bối có bàn rằng, tiên sinh không bao giờ lãng quên hai chữ quân thân, mỗi bài là mỗi thấy”. Nói khác đi, đây chính là sự phân thân trong vấn đề chữ “trung” (trung vua, hướng đến kinh thành Thăng Long) và chữ “hiếu” (nhớ về quê cha, vọng nhớ về quê xưa). Bài thơ Đề Hà Hiệu uý Bạch Vân tư thân thêm một lần nữa cho ta thấy nỗi niềm chân thật của ông về tình yêu quê, tình nhớ thương cha mẹ:
Đình vi nhất biệt tuế hoa thâm,
Aùi mộ nhân giai cộng tử tâm.
Khách lý khan vân tình dị thiết,
Công dư phi quyển ý nan câm.
Gia sơn thục bất hoài tang tử,
Trung hiếu hà tằng hữu cổ câm.
Trì thử tặng quân hoàn tự cảm,
Thi thành ngã diệc lệ triêm khâm.
(Từ khi xa rời chỗ sân màn, tuổi đã sâu thêm,
Yêu mến cha mẹ ai cũng lòng ấy.
Trong cảnh khách nhìn mây tình dễ thiết tha,
Xong việc quan giở sách ý khôn cầm được.
Đối với núi nhà, ai lại không mang lòng tang tử,
Lòng trung hiếu khi nào lại có cổ kim khác nhau.
Cầm bài thơ này tặng ngươi ta còn tự cảm,
Thơ làm xong ta cũng nước mắt áo đầm đìa)
Yêu mến cha mẹ là thứ tình cảm tự nhiên, vĩnh hằng của con người. Trong thơ Nguyễn Trãi, tình quê hương thường được diễn đạt qua các hình tượng như gia sơn, cố viên, cố lý (núi nhà, núi cũ, vườn nhà, vườn cũ…). Quê hương, ở đó có kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ, có hình ảnh của mẹ cha, của những thân bằng quyến thuộc. Con người dù ở đâu, làm gì cũng luôn hướng về quê hương với một tình yêu trong sáng nhất. Nhân đề tập thơ của bạn nhớ cha mẹ, Nguyễn Trãi cũng tự liên hệ về hoàn cảnh mình. Ý đó thể hiện rõ ở hai câu kết đầy xúc động:
Trì thử tặng quân hoàn tự cảm,
Thi thành ngã diệc lệ triêm khâm.
Nước mắt (lệ) là một thứ ngôn ngữ của tình cảm con người. Trong thơ, Nguyễn Trãi không nói nhiều đến nước mắt. Bởi vậy, khi ông nói “nước mắt thấm áo” (lệ triêm khâm) là ông thú nhận một sự thực: ông không giấu được nỗi lòng mình. Giọt nước mắt đó trở thành một tín hiệu nghệ thuật đầy biểu cảm.
Không tự giới hạn trong quan hệ vua - tôi, cha - con, Nguyễn Trãi còn đặt mình vào các mối quan hệ xã hội rộng lớn khác. Bởi vậy, ở ông ngoài hai chữ “quân thân” còn có tư tưởng nhân nghĩa.
Trong Nho giáo, “nhân” và “nghĩa” là hai phạm trù đạo đức của người quân tử. “Nhân” là lòng thương người ,“nghĩa” là bổn phận của con người với cộng đồng. Tiếp nhận tư tưởng này, Nguyễn Trãi tự xây dựng cho mình một triết lý ứng xử mang đậm tinh thần Việt Nam. Với Nguyễn Trãi, điều quan trọng của nhân nghĩa là thương dân, vì dân: “Nhân nghĩa chi cử, yếu tại chi dân” (Bình Ngô đại cáo). Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nhận xét: “Triết lý nhân nghĩa của Nguyễn Trãi cuối cùng chẳng qua là lòng yêu nước thương dân”(3). Nguyễn Trãi không phải là người đầu tiên nói về “dân”. Trước Nguyễn Trãi, nhiều nhà thơ đời Trần như Trần Minh Tông, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh… đã nói đến dân. Nguyễn Trãi đã kế thừa và phát triển tình cảm cao đẹp này. Nguyễn Trãi luôn dành cho những thương sinh, vạn tính… một sự thông cảm, thương yêu “Thương sinh tại niệm độc tiên ưu”. Chiến tranh, loạn lạc khiến đời sống dân lành khốn khổ. Từ đáy lòng mình, Nguyễn Trãi vô cùng đau xót:
Thần châu nhất tự khởi can qua,
Vạn tính ngao ngao khả nại hà.
Tử Mỹ cô trung Đường nhật nguyệt,
Bá Nhân song lệ Tấn sơn hà…
(Loạn hậu cảm tác)
(Thần châu từ lúc nổi cuộc can qua,
Muôn dân rên xiết biết làm sao được.
Tử Mỹ giữ lòng trung mồ côi đối với ngày tháng nhà Đường,
Bá Nhân ứa nước mắt hai hàng mà khóc non sông nhà Tấn)
Đọc những vần thơ Nguyễn Trãi, ta thấy ẩn sau những hình ảnh là tấm lòng người làm thơ vô cùng tha thiết và sâu nặng với nước, với dân. Lấy chuyện Tử Mỹ ôm mối cô trung, Bá Nhân nhìn non sông rơi lệ, Nguyễn Trãi mượn chuyện người để ký thác tấm lòng mình. Đó là một nỗi niềm đầy bi thiết. Ông vô cùng xót xa, đau đớn cho thân phận mình, đau đớn vì sự bất lực khi nhìn cảnh non sông đất nước thanh bình mà mình bất lực, không làm gì được cho dân cho nước. Nguyễn Trãi là một nhà nho giàu tinh thần nhập thế. Nhà nho ấy luôn có chí khí thanh cao, có lý tưởng trong sáng, có mục tiêu rõ ràng, luôn làm tròn bổn phận đạo “quân thân”. Không chỉ thế, con người Nho giáo Nguyễn Trãi còn có tư tưởng, ý thức vượt thời đại mà ông đang sống. Nhà Nho quân tử ấy biết định hướng đúng đắn trong sự lựa chọn, biết nhận ra vai trò của nhân dân trong thế thịnh suy của đất nước… Đó là những điều mà không phải ai ở thế kỷ XV cũng dễ dàng nhận ra được.
Xuất, xử là những lối ứng xử cơ bản của nhà nho. Những cách ứng xử này do các tình huống chính trị quy định và làm bộc lộ những khía cạnh tinh thần con người nhà Nho. Nho giáo đã dạy người quân tử: “Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng”. Nguyễn Trãi ý thức rất rõ về điều này và ông thực sự bị đặt vào tình thế đó trong những năm cuối đời. Vậy nên trong những năm làm quan ở kinh thành, Nguyễn Trãi chỉ thấy được thỏa mãn trong tình bạn bè, thường xuyên đàm đạo, tặng thơ cho nhau. Trong số nhiều bạn thơ đáng chú ý có bạn đồng khoa Cúc Pha Nguyễn Mộng Tuân. Đặc biệt Nguyễn Mộng Tuân có hai bài thơ tặng Nguyễn Trãi với những lời chân thành, tri âm tri kỷ. Mừng nhà mới Ức Trai, Nguyễn Mộng Tuân cảm thông sâu sắc trước một tài năng và nhân cách:
Thiện trị ưng tri kế Tử Kinh,
Hà tu lậu ốc hộ tân minh?
Nhất điều thủy lãnh tri Tam quán,
Tứ bích gia bần phú lục kinh.
Mai ảnh nguyệt miêu lai giáng trướng,
Hà hoa phong đệ tống sơ linh.
Hồ huề nghĩ dục đồng thanh thưởng,
Giai túy tùy nhân vật độc tinh (tỉnh).
(Hạ Thừa chỉ Ức Trai tân cư)
(Khéo chọn nơi ở để nối chí Tử Kinh,
Cần gì có bài minh mới dán ở cái nhà xềnh xoàng?
Làm việc ở Tam quán mà nhà lạnh lẽo như dòng nước,
Sách vở nhiều nhưng của thì nghèo xơ cả bốn vách.
Ánh trăng tạc cây mai vào tấm màn đỏ nơi dạy học,
Gió đưa mùi hoa sen lọt qua hàng cây cối thưa thớt.
Muốn mang bầu rượu cùng ông thưởng thú thanh cao,
Khuyên ông cùng say với mọi người chớ tỉnh một mình)
(Mừng nhà mới của Thừa chỉ Ức Trai)
Trần Thanh Mại dịch thơ:
Tử Kinh nối chí khéo làm nhà,
Lậu ốc cần chi có bản ca?
Lạnh lẽo một dòng quan cực phẩm,
Xác xơ bốn vách sách nghìn pho.
Dáng mai trăng tạc nơi màn đỏ,
Sen ngát hương qua cây cối thưa.
Mang rượu đến ông cùng thưởng thức,
Say theo người! Chớ tỉnh riêng ta!
Trong một bài thơ khác, dường như được viết sau khi Nguyễn Trãi được Lê Thái Tông bổ dụng trở lại, Nguyễn Mộng Tuân hết lời ngợi ca và động viên bậc tài năng đàn anh:
Hoàng các thanh phong ngọc thự tiên,
Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền.
Nhất thời từ hãn (hàn) suy văn bá,
Lưỡng đạo quân dân ác chính quyền.
Bạch phát chỉ nhân thiên hạ lự,
Thanh trung lưu dữ tử tôn truyền.
Nho lâm kỷ hứa chiêm Sơn Đẩu,
Hảo vị triều đình lực tiến hiền.
(Ngồi trong gác vàng, dáng thanh như ông tiên trong lầu ngọc,
Giúp đời, làm rạng rỡ cho nước, từ xưa chưa ai được như thế.
Nổi tiếng đàn anh, từng đem văn chương múa bút một thời,
Nắm quyền chính sự, nay lại phụ trách hai đạo quân dân.
Tóc tuy bạc mà vẫn luôn luôn lo lắng việc đời,
Lòng trong trắng, ngay thẳng mong truyền lại cho con cháu.
Bạn làng Nho một mực xem ông như Thái Sơn, Bắc Đẩu,
Vậy ông nên vì triều đình ra sức giới thiệu kẻ hiền tài)
(Tặng quan Gián nghị đại phu họ Nguyễn)
Vân Trình dịch thơ:
Gác tía thanh cao phong cách tiên,
Giúp đời dựng nước đã ai trên?
Một thời văn bút lừng danh tiếng,
Hai đạo quân dân lại nắm quyền.
Tóc bạc vẫn lo tròn đạo nghĩa,
Lòng thanh ý muốn cháu con truyền.
Làng Nho hướng tới như Sơn, Đẩu,
Mong giúp nhà vua chọn kẻ hiền.
Đáp lại tình cảm Nguyễn Mộng Tuân, Nguyễn Trãi cũng có hai bài thơ họa lại. Sống giữa kinh thành Thăng Long, Nguyễn Trãi tâm sự cùng bạn đồng khoa Cúc Pha Nguyễn Mộng Tuân và tìm thấy sự đồng cảm sâu sắc:
Thái bình thiên tử chính sùng văn,
Hỷ kiến hoàng kim lịch ngõa phân.
Mỹ ngọc bất lao cầu thiện giá,
Ỷ lan chung tự thổ thanh phân.
Tiển quân dĩ tác nghi đình phượng,
Quý ngã ưng đồng xuất tụ vân.
Lưỡng nhãn hôn hoa đầu cánh bạch,
Quyên ai hà dĩ đáp quân ân.
(Thứ Cúc Pha tặng thi)
(Đời thái bình thiên tử chính chuộng văn,
Mừng thấy vàng được phân biệt với sành gạch.
Ngọc tốt không cần nhọc phải đòi giá đắt,
Lan quý rốt cuộc cũng sẽ ngát hương thơm.
Mừng thấy người đã làm phượng ở điện đình,
Thẹn cho ta còn phải giống mây bay khỏi động.
Hai mắt đã loà đầu lại bạc,
Lấy gì mà đền đáp ơn vua chút mảy may)
(Họa thơ tặng Cúc Pha)
Bài thứ hai Nguyễn Trãi đáp lời khi bạn tặng thơ mình nhân làm xong nhà mới giữa nơi kinh thành:
Cung dư tịch địa bán trăn kinh,
Hỷ đắc tân thi đương tọa minh.
Cóng thuật lũ khuynh mưu phụ tửu,
Nang thư duy hữu thảo huyền kinh.
Bồng môn đảo lý nghinh giai khách,
Hoa ổ di sàng cận khúc tinh.
Tiếu ngã lão lai cuồng cánh thậm,
Bàng nhân hưu quái Thứ công tinh.
(Thứ vận Hoàng môn Thị lang Nguyễn Cúc Pha hạ tân cư thành)
(Chỗ vắng chỉ hơn cung đất mà nửa phần gai bụi,
Mừng được thơ mới để ghi chỗ ngồi.
Cong gạo nếp dốc luôn rượu mưu với vợ nấu,
Túi sách chỉ có quyển chép kinh Thái huyền.
Cửa bồng xỏ lộn dép ra đón khách quí,
Dời giường dưới khóm hoa gần hiên vòng.
Cười ta về già càng thêm cuồng,
Hàng xóm đừng lạ Thứ công vẫn tỉnh đây)
(Họa vần thơ của Hoàng môn Thị lang
Nguyễn Cúc Pha mừng làm xong nhà mới)
Trong toàn bộ cuộc đời Nguyễn Trãi, chúng ta dễ dàng nhận ra ông là con người hành động. Chưa bao giờ ông có ý định từ bỏ công danh của mình. Thời loạn thì “múa bút, vung gươm” giúp dân giữ nước. Thời bình thì trỗ tài “kinh bang, tế thế” giúp vua xây dựng nền thái bình thịnh trị:
Thánh tâm dục dữ dân hưu tức,
Văn tự chung tu trí thái bình.
(Quan duyệt thuỷ trận)
(Lòng thánh muốn cho dân nghỉ ngơi,
Rốt cuộc phải xây dựng thái bình bằng văn trị)
Con người hăm hở nhập cuộc ấy cớ sao lại trĩu nặng những ưu buồn?
Đọc thơ Nguyễn Trãi, dù thơ Nôm hay thơ chữ Hán, nhất là những bài thơ làm sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh kết thúc thắng lợi, dễ nhận ra Nguyễn Trãi có nhiều tâm sự đau buồn và một nỗi cô đơn vô bờ bến. Đã có lúc ông ngao ngán, lo sợ “Cõi trần nhiều hiểm hóc - Đường lợi cực quanh co” (Quốc âm thi tập). Phải đâu là chuyện Tấn Tần tranh quyền đoạt lợi mà đó là những chuyện diễn ra ở ngay trước mắt ông, ở ngay triều đại mà ông đã từng tận tâm cống hiến. Thẳng ngay, bản lĩnh như Nguyễn Trãi làm sao không đau xót!
Giữa thời bình, sao Nguyễn Trãi đầy bi quan, lo lắng? Lòng khao khát muốn làm chim phượng hót chào mặt trời, đã phải thúc thủ, cam phận làm chim hồng tránh nơi nguy hại:
Lãm huy nghĩ học minh dương phượng
Viễn hại chung vi tị dặc hồng.
(Hoạ hương tiên sinh vận giản chư đồng chí)
(Muốn học chim phượng thấy sáng hót ánh mặt trời,
Rốt cuộc làm chim hồng tránh tên để lánh hại)
Hai câu thơ bật ra từ con người mà tấm lòng luôn yêu đời, khát khao nhập cuộc mới chua chát làm sao! Câu thơ đầu là hình ảnh đẹp tuyệt vời của một trang nam tử với khát vọng tung hoành muốn vẫy vùng cho thoả sức. Nhưng tiếc thay, thời thế đã không chọn mặt anh hùng hoặc bầu trời chưa đủ cao rộng thoáng đạt, mặt trời chưa đủ sáng để chim phượng cất cao giọng hót đón chào. Hình ảnh “chim hồng tránh tên” trong câu thơ tiếp theo là một sự đối lập hoàn toàn. Sự đối lập ở hai hình ảnh đã thể hiện tình cảnh trở trêu cùng tâm sự nặng màu yếm thế của con người Nguyễn Trãi.
Vì lẽ gì mà một con người “Nhất phiến đơn tâm chân hống hoả” đang hăm hở với đời lại bỗng dưng nguội lạnh cõi lòng, cho rằng sự nghiệp chỉ là hư danh, thân thế chỉ là hư ảo, cuộc đời như một giấc chiêm bao?
Câu trả lời không khó. Nguyễn Trãi từng nói: “Trong dòng phẳng có phong ba”. Từ năm 1430 trở đi, mối quan hệ vua - tôi của Nguyễn Trãi đã bắt đầu rạn nứt. Nguyễn Trãi bị gièm pha, không còn được tin dùng. Ông rất khổ tâm về điều này. Và từ đây, một dòng sông sầu muộn bắt đầu chảy vào cánh đồng thơ Nguyễn Trãi.
Phù tục thăng trầm ngũ thập niên,
Cố sơn tuyền bạch phụ tình duyên.
Hư danh thực hoạ phù kham tiếu,
Chúng báng cô trung nguyệt khả liên.
(Oan thán)
(Nổi chìm trong phù tục đã năm chục năm,
Đành phụ tình duyên với khe và đá của núi cũ.
Danh hư mà hoạ thực rất đáng buồn cười,
Lắm kẻ nghét một mình trung, rất đáng thương hại).
Rốt cục, sau năm mươi năm chìm nổi, Nguyễn Trãi đúc kết đời mình trong bốn chữ “hư danh, thực hoạ”. Dĩ nhiên, đó là một triết lý đầy chua chát mà sau này rất nhiều lần xuất hiện trong thơ ông.
Trong bài Mạn hứng, Nguyễn Trãi thể hiện sự cay đắng khi nhận ra một thực tế:
Phác tán thuần ly thánh đạo nhân,
Ngô Nho sự nghiệp diểu vô văn.
(Phác đã tan, thuần đã rữa, đạo thánh mai một,
Sự nghiệp của nhà nho ta chẳng tiếng tăm gì).
Đạo lý thánh hiền đã hỏng rồi, sự nghiệp nhà Nho còn chăng? Nơi đây còn chỗ cho ông chăng? Đã bao lần câu hỏi “Vấn quân hà bất quy khứ lai?” (Về đi sao chẳng sớm quay về?) cứ trở đi trở lại trong ông như một nỗi day dứt, trách cứ. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Trãi muốn đào thoát chốn quan trường để về giữa thế giới “cò nằm, hạc lặn”.
Tùng cúc do tồn quy vị vãn,
Lợi danh bất tiện ẩn phương chân.
Ta dư cửu bị nho quan ngộ,
Bản thị canh nhàn điếu tịch nhân.
(Đề Từ Trọng Phủ Canh Ẩn đường)
(Tùng cúc hãy còn, ta về chửa muộn,
Lợi danh không thèm, ẩn mới đúng hơn.
Thân ta bị cái mũ nhà nho đánh lừa đã lâu,
Vốn ta là người cày nhà, câu quạnh)
Hai tiếng «về đi» cứ giục giã, thôi thúc ông. Ông tìm mọi lý lẽ để biện minh cho tư cách « nhà ẩn dật » của mình. Nào là mũ áo nhà Nho phải đâu là chỗ cho ta, nào là mình vốn là người cày trong thanh nhàn, người câu trong hiu quạnh giống như Đào Tiềm về vườn hái cúc, Lâm Bô “nuôi hạc trồng mai”, Dương Thực vui với “hạc rừng, vượn núi”…
Năm 1439, Nguyễn Trãi chính thức về Côn Sơn sống đời ẩn dật. Đắm say trong thiên nhiên thì có đấy nhưng lòng ông không sao dứt được «lưới trần », không quên được chốn thị thành. Nguyễn Trãi tuy thân đã ở cố hương mà lòng tựa bóng trăng vẫn dõi về Linh Các:
Linh Các tưởng ưng thanh thoại xứ,
Thiên nhai khẳng niệm cố nhân phù?
(Đồ trung ký Thao giang Hà thứ sử Trình thiêm hiến)
(Tưởng rằng khi bàn chuyện ở nơi Linh Các,
Có nhớ đến cố nhân ở nơi chân trời không?)
Thiết nghĩ, cứ một việc dứt thì muôn việc đều dứt như ông đã từng nói thì lấy đâu mà cất lên câu hỏi xót xa, đau đớn thế! Đúng là, trong lòng Nguyễn Trãi đã diễn ra mâu thuẫn về xuất xử không dễ gì giải quyết! Bản thân Nguyễn Trãi đã khẳng định:
Lấy đâu xuất xử trọn hai bề,
Được thú làm quan mất thú quê.
Nhưng thực tế ông không thể lựa chọn dứt khoát được! Trong ở muốn về, về rồi thì lại muốn trở lại. Mâu thuẫn này tạo nên bi kịch tinh thần Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi luôn đặt mình trước lịch sử, trước nhân dân để hành động, nhưng xã hội phong kiến với bản chất vốn có đã không cho ông thực hiện. Sự đổ vỡ lý tưởng ở trong ông mang tính bi kịch lớn. Bao nhiêu kiến thức cổ kim đúc rút từ sách vở, kinh nghiệm từ thực tế cuộc sống, từ trong truyền thống dân tộc…, Nguyễn Trãi muốn thực hiện một lý tưởng cao đẹp, rốt cuộc đành làm chim hồng tránh tên lánh nạn. Đau khổ nào hơn khi dự đồ tương lai không thể thực hiện trong khi chí khí vẫn còn hừng hực! Đó là cốt lõi của mâu thuẫn, là nguyên nhân sâu xa của mọi nỗi đau buồn trong những dòng thơ day dứt:
Nhất phiến đơn tâm chân hống hỏa,
Thập niên thanh chức ngọc hồ băng.
(Mạn hứng)
(Một tấm lòng son, nóng hừng như lửa lò luyện thuốc đơn,
Mười năm chức rảnh, lòng như băng trong bầu ngọc)
Mười năm nhà thơ vật lộn cho sự thực hành của một lý tưởng, và chứng kiến từng bước đổ vỡ của lý tưởng ấy. Dằn vặt về hành hay tàng, xuất hay xử, nhàn dật cho mình hay ưu ái vì đời diễn ra trong ông thành một cuộc đấu tranh dai dẳng suốt cả đời. Đó là bi kịch, bi kịch của một nhân cách cao thượng, nhập thế, biết trước mọi hoạ phúc, mọi mất mát mà vẫn không tránh khỏi tai hoạ. Là con người trong thơ, Nguyễn Trãi hiện diện như một day dứt, một con người thao thức khôn nguôi của thời đại. Ông hiện diện không nhằm để khẳng định Nho, Phật hay Đạo mà là khẳng định một con người nhà nho với nhiệt tâm cống hiến và mang nặng bi kịch tinh thần hành - tàng, xuất - xử, ở lại nơi vương triều thị thành hay lui về ẩn dật nơi cố hương.
Nhận xét về tâm hồn nghệ sĩ của Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn - người cùng thời với ông đã viết:
Tâm kính tương phùng khởi ngẫu nhiên ?
Biệt khai thành thị nhất lâm tuyền.
(Đề Ức Trai bích)
(Phải có tâm hồn mới chọn được cảnh đẹp, đâu phảic ngẫu nhiên?
Ông đã mở riêng ở đây một cảnh lâm tuyền giữa chốn thị thành)
(Đề vách nhà Ức Trai)
Nhận xét trên là rất đáng tin cậy, bởi Lý Tử Tấn không chỉ là một nhà nho nổi tiếng thế kỷ XV mà còn là người bạn lớn của Nguyễn Trãi, một trong những người bạn gắn bó với Thăng Long một thuở. Phẩm chất nghệ sĩ của Nguyễn Trãi thêm một lần nữa được khẳng định: giữa chốn thị thành vẫn tạo được cho mình một cõi thiên nhiên trong trẻo riêng để di dưỡng tính tình. Nguyễn Đức Mậu xác định: “Trong những phút giây hứng động của người nghệ sĩ Nguyễn Trãi, thiên nhiên có sức hút mãnh liệt, thế nhưng Nguyễn Trãi vẫn không đi xa tâm điểm của lòng mình: hướng vào cuộc đời, vào thương sinh, vào dân tộc”(4)...
________________
(1) Đào Duy Anh: Nguyễn Trãi toàn tập, Tai bản. NXB Khoa học Xã hội, H., 1976, tr.395. Cac trích dẫn thơ Nguyễn Trãi trong bài đều theo sách này.
(2) Trần Đình Hượu: Mấy ý kiến về nghiên cứu Nho giáo. Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, số 2-1984, tr.54.
(3) Phạm Văn Đồng: Tổ Quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ. NXB Văn học, H., 1983, tr.400.
(4) Nguyễn Đức Mậu: Hồn thơ Nguyễn Trãi, trong sách Nguyễn Trãi - về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn, giới thiệu). Tái bản. NXB Giáo dục, H., 2001, tr.484.
Nguồn: Văn hóa Nghệ An