rubi_mos2002
New member
- Xu
- 0
Bruce Poulsen
Trẻ cần nếm trải thất vọng nhiều hơn nữa
Nghiên cứu mới vừa được công bố gần đây bởi American Psychological Association (Hiệp hội tâm lí học Hoa-kì) cho rằng việc ưu tiên khen ngợi các phẩm chất cá nhân thay vì khen ngợi những cố gắng của trẻ sẽ khiến trẻ có xu hướng suy giảm cảm giác giá trị về bản thân, khiến chúng cảm thấy hổ thẹn hơn. Nghiên cứu được công bố gần đây trên Journal of Experimental Psychology: General (Tạp chí tâm lí học thực nghiệm: Tổng quan) phát hiện thấy những trẻ hay tự ti dễ cảm thấy xấu hổ khi người khác khen ngợi các phẩm chất cá nhân của mình.
Theo nguồn tin của Science Daily, tác giả Eddie Brummelman thuộc trường Utrecht University tại Hoà-lan nói rằng, “Hình thức khen ngợi cá nhân này có thể gây tác dụng ngược. Những điều có vẻ rất thường tình ấy đôi khi khiến người lớn gặp sai lầm trong những nỗ lực giúp trẻ tự ti cảm thấy khá hơn.” Brummelman còn nói thêm, “Người lớn cho rằng việc khen ngợi những phẩm chất vốn có của trẻ sẽ giúp chúng chống lại cảm giác tự ti, nhưng việc này có thể khiến trẻ cảm thấy chúng chỉ được trân trọng khi thành công. “Khi gặp thất bại sau này, trẻ có thể sẽ suy diễn ra rằng mình vô dụng.”
Nghiên cứu này phù hợp với quan niệm “khen ngợi hành vi, đừng ca ngợi cá nhân” từng là đối trọng cần thiết cho ám ảnh tự tôn vào những năm 1970s và 1980s. Nó từng được công nhận một cách đơn giản là ý thức về giá trị bản thân hoặc lòng tự tôn của một đứa trẻ đóng vai trò quan trọng trong sự thành công ở trường và do đó, trong cuộc sống. Trường học đặc biệt tập trung vào việc tăng cường cảm xúc bản thân, khích lệ niềm tự hào và khả năng tự quyết ở mức độ cao cho sinh viên. Những phong trào này đã được minh hoạ rất tuyệt vời theo lối châm biếm trong phim hoạt hình Calvin and Hoobs, trong đó Calvin tuyên bố, “Bài tập về nhà có hại cho lòng tự tôn của tôi. Nó gửi đi thông điệp gì tôi cũng chẳng rõ! Vì vậy, thay vì cố gắng học, giờ đây tôi chỉ tập trung vào việc được là chính mình.”
Tất nhiên, mọi sự tập trung nâng cao lòng tự tôn là vô ích, tồi tệ nhất là có thể gây phương hại. Cứ liệu khoa học sau đó đã không ủng hộ lối nghĩ “đề cao cá nhân hơn mọi thứ”. Một nghiên cứu chỉ ra rằng sự tự tôn quá đáng thực chất sẽ dẫn đến việc học hành sa sút. Cùng với việc không thể giải thích được tại sao những phẩm chất tự nhận của một người có thể phát triển theo năm tháng là chắc chắn do lòng tự tôn gây ra, thì “tình yêu hậu ngã ái của bản ngã (post-narcissistic love of the ego)”, như Erik Erikson đã gọi, còn tồn tại nhược điểm.
Có lẽ ngoài câu hỏi làm cách nào để khen ngợi trẻ khi chúng thành công còn có một câu hỏi thú vị hơn, đó là làm sao chúng ta có thể hỗ trợ trẻ khi chúng thất vọng. Phụ huynh và con cái có cách tiếp cận vấn đề này bằng những động lực và mức độ nhạy cảm khác nhau. Quan điểm độ lượng nhất đó là phụ huynh luôn muốn những điều tốt lành nhất cho con mình và coi những lần thất bại của trẻ là thời điểm cần phải động viên cổ vũ con cái. Ví dụ, họ sẽ nói “Con ổn mà, lần sau con sẽ làm tốt hơn.” Bản năng của chúng ta là giúp trẻ tự khích lệ. Chức năng hoạt động giống như các hệ thống ngoại biên thay thế của trẻ khi chúng còn nhỏ, chúng ta muốn đồng cảm và giúp trẻ kiểm soát cảm xúc căng thẳng khi chúng vừa gặp thất bại. Theo nhiều cách thức, đây là sự mở rộng những cảm xúc được phản ánh mà chúng ta đã đúc kết từ kinh nghiệm thuở ấu thơ của mình. Mặt khác, có lẽ ít rộng lượng hơn, đó làquan điểm cho rằng phụ huynh chúng ta tiếp tục theo đuổi những ước mơ, những tiếc nuối và khát vọng thời thơ ấu của chính mình thông qua con cái. Sự thất vọng của trẻ là sự thất vọng của chúng ta, chúng ta phải khích lệ trẻ để an ủi những hi vọng và ước mơ đã mất của chính mình.
Về phần trẻ, theo cách nào đó, sự thất vọng là một trong những cảm xúc sớm sủa và dễ nhận ra nhất mà chúng phải đối mặt. Sự phát triển tâm lí xoay quanh việc trẻ làm thế nào để chịu đựng những nỗi thất vọng không thể tránh được của cuộc đời. Vào những thời điểm quan trọng, trẻ nhận ra rằng thế giới có thể rất khắc nghiệt và tình yêu của cha mẹ chỉ có thể che chở cho chúng đến mức như vậy mà thôi. Sau đó bản thân chúng sẽ phát triển khả năng tự vệ, hoặc tự chữa trị, để kiểm soát đau khổ và thất vọng. Nếu các chiến lược này tỏ ra không thích hợp, trẻ sẽ nảy sinh niềm tin cho rằng mình vô dụng và bất tài – một cảm giác hầu như vô ích khi phải đối mặt với nỗi thất vọng. Nổi bật nhất là niềm tin hoặc cảm giác cho rằng “Cuộc sống là nỗi thất vọng, điều này quả là tồi tệ.”
Có thể trẻ (và cả phụ huynh) cần nếm trải (nhiều hơn, chứ không phải ít đi) nỗi thất vọng, cần phải thân thuộc hơn với cảm giác thất bại. Bằng cách tập trung vào việc khen ngợi, chúng ta có thể từng bước vượt qua trải nghiệm thất vọng. Khi bắt đầu xoa dịu đau khổ, chúng ta có thể vô tình nói, “chuyện con đau khổ có gì đó không ổn?” Có nhiều hình thức trải nghiệm cảm giác này. Chúng ta có thể minh chứng và trao đổi nhiều hơn cách đối phó với nỗi thất vọng của mình với tư cách là phụ huynh. Đây là đối trọng của quan điểm cho rằng trẻ em nên được thấy cha mẹ chúng lúc nào cũng bình tĩnh, phán đoán tốt, và không bao giờ bị căng thẳng. Chúng ta cần khen ngợi trẻ mỗi khi chúng kiểm soát thành công nỗi thất vọng. Chúng ta cũng cần phải tìm thêm nhiều cách diễn đạt khác về sự thất vọng và tác động của nó. Ví dụ, chúng ta có thể nói về những phúc lạc hiếm hoi khi phải chịu đựng nỗi thất vọng. Mặt khác, bằng cách loại bỏ sự thất vọng – thực chất là nỗi sợ hãi vô lí, chúng ta đã gợi ra một thế giới quan chỉ đơn giản là sự mở rộng tầm mắt. Chúng ta có thể loại trừ cho trẻ sự thoả mãn do nỗi thất vọng sinh ra.
K.H. dịch (chiecnon.wordpress)
Nguồn: PsychologyToday
Trẻ cần nếm trải thất vọng nhiều hơn nữa
Nghiên cứu mới vừa được công bố gần đây bởi American Psychological Association (Hiệp hội tâm lí học Hoa-kì) cho rằng việc ưu tiên khen ngợi các phẩm chất cá nhân thay vì khen ngợi những cố gắng của trẻ sẽ khiến trẻ có xu hướng suy giảm cảm giác giá trị về bản thân, khiến chúng cảm thấy hổ thẹn hơn. Nghiên cứu được công bố gần đây trên Journal of Experimental Psychology: General (Tạp chí tâm lí học thực nghiệm: Tổng quan) phát hiện thấy những trẻ hay tự ti dễ cảm thấy xấu hổ khi người khác khen ngợi các phẩm chất cá nhân của mình.
Theo nguồn tin của Science Daily, tác giả Eddie Brummelman thuộc trường Utrecht University tại Hoà-lan nói rằng, “Hình thức khen ngợi cá nhân này có thể gây tác dụng ngược. Những điều có vẻ rất thường tình ấy đôi khi khiến người lớn gặp sai lầm trong những nỗ lực giúp trẻ tự ti cảm thấy khá hơn.” Brummelman còn nói thêm, “Người lớn cho rằng việc khen ngợi những phẩm chất vốn có của trẻ sẽ giúp chúng chống lại cảm giác tự ti, nhưng việc này có thể khiến trẻ cảm thấy chúng chỉ được trân trọng khi thành công. “Khi gặp thất bại sau này, trẻ có thể sẽ suy diễn ra rằng mình vô dụng.”
Nghiên cứu này phù hợp với quan niệm “khen ngợi hành vi, đừng ca ngợi cá nhân” từng là đối trọng cần thiết cho ám ảnh tự tôn vào những năm 1970s và 1980s. Nó từng được công nhận một cách đơn giản là ý thức về giá trị bản thân hoặc lòng tự tôn của một đứa trẻ đóng vai trò quan trọng trong sự thành công ở trường và do đó, trong cuộc sống. Trường học đặc biệt tập trung vào việc tăng cường cảm xúc bản thân, khích lệ niềm tự hào và khả năng tự quyết ở mức độ cao cho sinh viên. Những phong trào này đã được minh hoạ rất tuyệt vời theo lối châm biếm trong phim hoạt hình Calvin and Hoobs, trong đó Calvin tuyên bố, “Bài tập về nhà có hại cho lòng tự tôn của tôi. Nó gửi đi thông điệp gì tôi cũng chẳng rõ! Vì vậy, thay vì cố gắng học, giờ đây tôi chỉ tập trung vào việc được là chính mình.”
Tất nhiên, mọi sự tập trung nâng cao lòng tự tôn là vô ích, tồi tệ nhất là có thể gây phương hại. Cứ liệu khoa học sau đó đã không ủng hộ lối nghĩ “đề cao cá nhân hơn mọi thứ”. Một nghiên cứu chỉ ra rằng sự tự tôn quá đáng thực chất sẽ dẫn đến việc học hành sa sút. Cùng với việc không thể giải thích được tại sao những phẩm chất tự nhận của một người có thể phát triển theo năm tháng là chắc chắn do lòng tự tôn gây ra, thì “tình yêu hậu ngã ái của bản ngã (post-narcissistic love of the ego)”, như Erik Erikson đã gọi, còn tồn tại nhược điểm.
Có lẽ ngoài câu hỏi làm cách nào để khen ngợi trẻ khi chúng thành công còn có một câu hỏi thú vị hơn, đó là làm sao chúng ta có thể hỗ trợ trẻ khi chúng thất vọng. Phụ huynh và con cái có cách tiếp cận vấn đề này bằng những động lực và mức độ nhạy cảm khác nhau. Quan điểm độ lượng nhất đó là phụ huynh luôn muốn những điều tốt lành nhất cho con mình và coi những lần thất bại của trẻ là thời điểm cần phải động viên cổ vũ con cái. Ví dụ, họ sẽ nói “Con ổn mà, lần sau con sẽ làm tốt hơn.” Bản năng của chúng ta là giúp trẻ tự khích lệ. Chức năng hoạt động giống như các hệ thống ngoại biên thay thế của trẻ khi chúng còn nhỏ, chúng ta muốn đồng cảm và giúp trẻ kiểm soát cảm xúc căng thẳng khi chúng vừa gặp thất bại. Theo nhiều cách thức, đây là sự mở rộng những cảm xúc được phản ánh mà chúng ta đã đúc kết từ kinh nghiệm thuở ấu thơ của mình. Mặt khác, có lẽ ít rộng lượng hơn, đó làquan điểm cho rằng phụ huynh chúng ta tiếp tục theo đuổi những ước mơ, những tiếc nuối và khát vọng thời thơ ấu của chính mình thông qua con cái. Sự thất vọng của trẻ là sự thất vọng của chúng ta, chúng ta phải khích lệ trẻ để an ủi những hi vọng và ước mơ đã mất của chính mình.
Về phần trẻ, theo cách nào đó, sự thất vọng là một trong những cảm xúc sớm sủa và dễ nhận ra nhất mà chúng phải đối mặt. Sự phát triển tâm lí xoay quanh việc trẻ làm thế nào để chịu đựng những nỗi thất vọng không thể tránh được của cuộc đời. Vào những thời điểm quan trọng, trẻ nhận ra rằng thế giới có thể rất khắc nghiệt và tình yêu của cha mẹ chỉ có thể che chở cho chúng đến mức như vậy mà thôi. Sau đó bản thân chúng sẽ phát triển khả năng tự vệ, hoặc tự chữa trị, để kiểm soát đau khổ và thất vọng. Nếu các chiến lược này tỏ ra không thích hợp, trẻ sẽ nảy sinh niềm tin cho rằng mình vô dụng và bất tài – một cảm giác hầu như vô ích khi phải đối mặt với nỗi thất vọng. Nổi bật nhất là niềm tin hoặc cảm giác cho rằng “Cuộc sống là nỗi thất vọng, điều này quả là tồi tệ.”
Có thể trẻ (và cả phụ huynh) cần nếm trải (nhiều hơn, chứ không phải ít đi) nỗi thất vọng, cần phải thân thuộc hơn với cảm giác thất bại. Bằng cách tập trung vào việc khen ngợi, chúng ta có thể từng bước vượt qua trải nghiệm thất vọng. Khi bắt đầu xoa dịu đau khổ, chúng ta có thể vô tình nói, “chuyện con đau khổ có gì đó không ổn?” Có nhiều hình thức trải nghiệm cảm giác này. Chúng ta có thể minh chứng và trao đổi nhiều hơn cách đối phó với nỗi thất vọng của mình với tư cách là phụ huynh. Đây là đối trọng của quan điểm cho rằng trẻ em nên được thấy cha mẹ chúng lúc nào cũng bình tĩnh, phán đoán tốt, và không bao giờ bị căng thẳng. Chúng ta cần khen ngợi trẻ mỗi khi chúng kiểm soát thành công nỗi thất vọng. Chúng ta cũng cần phải tìm thêm nhiều cách diễn đạt khác về sự thất vọng và tác động của nó. Ví dụ, chúng ta có thể nói về những phúc lạc hiếm hoi khi phải chịu đựng nỗi thất vọng. Mặt khác, bằng cách loại bỏ sự thất vọng – thực chất là nỗi sợ hãi vô lí, chúng ta đã gợi ra một thế giới quan chỉ đơn giản là sự mở rộng tầm mắt. Chúng ta có thể loại trừ cho trẻ sự thoả mãn do nỗi thất vọng sinh ra.
K.H. dịch (chiecnon.wordpress)
Nguồn: PsychologyToday