Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Nhân Vật Lịch Sử
Khánh Mỹ quận công Hồ Đắc Trung với tư tưởng cách tân.
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="trucdiepthanh" data-source="post: 118121" data-attributes="member: 51060"><p style="text-align: center"><span style="color: #006400"> <span style="font-size: 15px"><strong>Khánh Mỹ quận công Hồ Đắc Trung với tư tưởng cách tân</strong></span></span></p><p></p><p> <strong> <em>Hồ Đắc Trung</em></strong> là con trưởng của hầu tước <em>Hồ Đắc Tuấn</em> và bà công nử <em>Thức Huấn</em>, quê ở làng An Truyền (nay thuộc xã Phú An,huyện Phú Vang,tỉnh Thừa Thiên-Huế). Ông sinh năm Tân Dậu (1861) đậu cử nhơn năm Giáp Thân (1884) sau đó làm quan dưới các triều Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại, ông Hồ Đắc Trung thăng tiến thuận lợi: được bổ vào Nội các, thăng Tri phủ, Viên ngoại cơ mật, hộ lý Võ khố, lịch lỵ Tuần Vũ, tổng đốc Nam - Ngãi dưới triều Thành Thái, đầu triều Duy Tân được bổ Thượng Thư bộ Học Thái tử thiếu bảo, Hiệp biện đại học sĩ tước Khánh Mỹ Tử, dưới triều Khải Định giữ chức bộ Lễ kiêm bộ Công thăng Đông Các đại học sĩ, tấn phong “Khánh Mỹ Bá” cuối cùng là “Khánh Mỹ Quận công”. Ông sinh ra, lớn lên và làm quan trong giai đoạn có nhiều biến động trong lịch sử phong kiến triều Nguyễn với nhiều sự kiện chi phối đến việc hình thành nhân cách riêng hiếm thấy trong số đại thần triều Nguyễn. </p><p></p><p>Lúc công tử Hồ Đắc Trung trưởng thành, đổ đạt ra làm quan cũng là lúc thực dân Pháp đã hoàn thành cuộc xâm lược toàn bộ nước Việt nam biến dân tộc ta thành nô lệ và triều đình quan lại làm bù nhìn cho chúng. Ông đã trực tiếp chứng kiến người mẹ thân yêu của mình chết dưới làn đạn của thực dân Pháp trong ngày thất thủ Kinh đô năm 1885. Một năm sau, ông lại chứng kiến cuộc nổi loạn Chìa vôi (1786) với khí phách anh hùng của Đoàn Hửu Trưng và số phận thê thảm của gia tộc họ Đoàn, của bà Thể Cúc chị ruột mẹ mình (Bà Thể Cúc vợ Đoàn Hửu Trưng và bà Thức Huấn vợ hầu tước Hồ Đắc Tuấn là 2 chị em ruột cùng cha mẹ là vợ chồng Tùng Thiện vương Miên Thẩm,hoàng tử thứ 10,con vua Minh Mạng, vương cũng là môt nhà thơ lớn). Bước vào quan trường dưới triều vua Kiến Phúc (1883-1884), ông Hồ Đắc Trung đã phục vụ qua 3 triều vua yêu nước:Hàm Nghi ,Thành Thái, Duy Tân. </p><p></p><p>Khí phách anh hùng, tinh thần yêu nước của Đoàn Hửu Trưng,của ba nhà vua trẻ cùng với sự tàn ác của quân Pháp gây ra cái chết cho người mẹ thân yêu đã để lại những dấu ấn không phai mờ trong tâm hồn của một nhà Nho uyên bác như ông.Do vậy trong cuộc đời làm quan, ông không thuộc loại a dua, cộng sự đắc lực với người Pháp để tiến thân. Trái lại còn tìm cách giúp đở số người chống Pháp thất cơ lỡ vận. Dưới triều Thành Thái ở cương vị Tổng đốc Nam-Ngãi (2 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi) những năm mất mùa lại bị sưu cao thuế nặng ông đã tận tình giúp đở cứu đói cho dân yêu cầu chính phủ bảo hộ miễn thuế cho dân. </p><p></p><p>Năm 1908, đầu triều Duy Tân một số nhà Nho bạn đồng học nay trở thành lãnh tụ phong trào chống sưu thuế ở tỉnh Quảng Nam là Thái Phiên, Trần Cao Vân bị Pháp bắt giam chờ ngày ra tòa, Tổng đốc Hồ Đắc Trung đã vào tận ngục thăm hỏi và khuyên hai ông nhẫn nhục nhận tội để ông bảo lãnh ra tù. Hai ông Thái,Trần đã chấp nhận và được trả tự do.Theo lời kể của ông Cả Khiêm (Nguyễn Sinh Khiêm)và O Thanh (bà Nguyễn Thị Thanh chị ruột Bác Hồ) với nhà văn Sơn Tùng sau ngày đất nước thống nhất thì trong những năm 1910-1920 lúc ông Hồ Đắc Trung đảm nhiệm Thượng thư bộ Học, mẹ Lụa cùng o Thanh là 2 phụ nử bí mật đi quyên tiền cho các “Hội kín” đã đươc hai Thượng thư <em>Cao Xuân Dục</em>, <em>Hồ Đắc Trung</em> nhiều lần đón tiếp tại tư gia trao tặng tiền,vàng giúp đở.(1) </p><p> </p><p> Khi đảm nhận Thượng thư bộ Học dưới triều vua Duy Tân, vua Duy Tân đang tuổi thiếu niên đã có mối quan hệ thân mật ngoài quan hệ vua tôi với các con cùng lứa tuổi của TT Hồ Đắc Trung. Vua Duy Tân đặc biệt có cảm tình với tiểu thư <em>Hồ Thị Chỉ</em> con gái áp út của TT Hồ Đăc Trung kém vua 2 tuổi,một cô gái mới lớn, xinh đẹp, nhu mì, thông minh, thông thạo chữ Hán và cả tiếng Pháp. Năm 1915 vua Duy Tân 16 tuổi đã ngỏ ý với 2 bà Hoàng Thái hậu muốn chọn tiểu thư Hồ Thị Chỉ để nạp phi (làm Hoàng hậu). Hai bà Hoàng Thái hậu (một mẹ dích, một mẹ đẻ) đã cho gọi Hồ Thị Chỉ vào hầu và cho tiểu thư một đôi vòng vàng làm kỷ niệm. Tiếp đó có người trong Nội cung ra dạy cho tiểu thư Hồ Thị Chỉ thông thạo mọi lễ nghi trong nội cung và định đầu năm 1916 sẽ làm lễ nạp phi. Mọi việc tưởng như đã an bài thì bất ngờ cuối năm đó vua Duy Tân cho gọi Thượng thư Hồ Đắc Trung vào chầu và nhà vua đã nói lời từ hôn với Hồ Thị Chỉ mà không cho biết lý do.</p><p></p><p>Cả nhà TT Hồ Đắc Trung bàng hoàng nhất là Hồ Thị Chỉ rất đau khổ. Đầu năm 1916 lễ nạp phi vẫn diễn ra nhưng người ngồi kiệu hoa vào cung để làm vợ vua Duy Tân không phải Hồ Thi Chỉ mà là tiểu thư <em>Mai Thị Vàng</em> con gái cụ <em>Mai Khắc Đôn</em> thầy dạy chữ Hán cho vua Duy Tân! Chỉ vài tháng sau lễ nạp phi đã xảy ra sự kiện động trời:ngày 4 tháng 5 năm 1916 vua Duy Tân bị Pháp bắt giam trong lúc nhà vua đang ở ngoài cung để tham dự vào một cuộc khởi nghĩa chống Pháp do hai lãnh tụ Việt nam Quang phục hội là Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh đạo(Cuộc khởi nghĩa bị lộ do nội phản.(TT Hồ Đắc Trung cũng bị Pháp bắt câu lưu để điều tra về mối quan hệ với vua Duy Tân và với 2 ông Thái, Trần từng được ông Hồ Đắc Trung bảo lãnh ra tù năm 1908 lúc làm Tổng đốc An Ngãi. Song qua lời khai của vua Duy Tân và 2 tử tội Thái, Trần đã chứng minh TT Hồ Đắc Trung vô can trong vụ vua Duy Tân xuất bôn theo giặc làm khởi nghĩa. Cũng trong dịp này, qua lời khai của vua Duy Tân với người Pháp, ông Hồ Đắc Trung mới rõ động cơ việc nhà vua từ hôn với Hồ Thị Chỉ là do sau ngày nhận lời tham dự cuộc khởi nghĩa ”<em>vì thương ông Hồ Đắc Trung đông con và không muốn tiểu thư Hồ Thị Chỉ bị liên lụy nên từ hôn mà không nói lý do gì cả</em>” (2)Biết được điều đó cả nhà ông Hồ Đắc Trung đều cảm động, riêng tiểu thư Hồ Thị Chỉ đã khóc mấy ngày liền bỏ cả ăn uống. </p><p></p><p>Sau khi được trả tự do,theo tiến cử của triều đình được người Pháp chấp nhận TT Hồ Đắc Trung phải chắp bút <em>bản án xét xử tội vua Duy Tân</em> tham dự phản nghịch chống Pháp của Nam triều để Tòa Khâm sứ Pháp quyết định (theo người Pháp tội phản nghịch dù là vua cũng phải xử trảm). Sau nhiều đêm thức trắng suy nghỉ với mục đích tìm cách biện hộ cho nhà vua thoát tội chết,TT Hồ Đắc Trung đã hoàn thành dự thảo bản án với nhan đề “<em>vọng thính sàm ngô, khuynh nguy xã tắc</em>”(nghe lời dua nịnh làm cho đất nước lâm nguy). </p><p> </p><p>Theo sư bà Diệu Không nhớ lại bản án đại khái như sau:<em> "Vua Duy Tân còn nhỏ tuổi, tuy rất thông minh, song còn cạn nghĩ,Ngài bị bọn người mưu phản kích thích lòng ái quốc nên nghe theo. Nếu đúng tuổi trưởng thành thì tội Ngài rất nặng, song Ngài còn vị thành niên, tưởng không đáng trách mà nên thương tình. Đứng về phía Chính phủ Bảo hộ thì Ngài can tội "phản nghịch" nhưng đứng về phía chính phủ Nam triều thì Ngài là một ông Vua biết thương dân và được lòng dân. Như vậy luận về tội thì quả thật Ngài có tội với người Pháp, còn đối với nhân dân Việt Nam thì Ngài không có tội gì cả.Vậy nên xét tình mà chỉ truất phế Ngài và để cho Ngài được tự do về với danh nghĩa một ông Hoàng tử như trước. Như vậy lòng dân mới khỏi oán thán Chính phủ Pháp là khắc nghiệt" (Diệu Không-Vua Duy Tân và gia đình Hồ Đắc Trung). </em>"Bản án" có lý, có tình hơn nữa còn ẩn giấu lời răn đe người Pháp đừng quá nặng tay với vua Duy Tân mà phải lãnh hậu quả như trên đã được người Pháp chấp nhận. Vua Duy Tân phải nhận tội đi đày nhưng vẫn giữ danh vị hoàng tử.(3) </p><p> </p><p> Sau sự kiện 2 ông vua có tinh thần yêu nước: <em>Thành Thái </em>và<em> Duy Tân</em>,người Pháp đã chọn được người nối ngôi vua Duy Tân như mong muốn là một ông vua bù nhìn: vua Khải Định. Chỉ sau một thời gian ngắn ngày ngồi lên ngôi báu, Khải Định ngỏ lời cầu hôn với tiểu thư Hồ Thị Chỉ con gái Thượng thư Hồ Đắc Trung, và với tình thế bắt buộc không thể khác.Để tránh cho toàn gia phải gánh hình phạt về tội “khi quân”. Mặc dù còn nặng lòng với vua Duy Tân nhưng Hồ Thị Chỉ buộc phải vào cung nhận danh hiệu “Ân phi” (nhị giai phi). Thượng thư Hồ Đắc Trung trở thành “quốc trượng” (cha vợ vua).Ông vẫn dảm nhận Thượng thư bộ Lễ và bộ Công,được tấn phong Đông Các đại học sĩ,Khánh Mỹ quận công và là một trong “tứ trụ” của triều đình.Tuy có uy quyền lớn nhưng Thượng thư Hồ Đắc Trung vẫn sống thanh bạch,giản dị không ỷ quyền để làm giàu cho cá nhân và gia đình,ỷ thế chèn ép,hà hiếp người khác. Là một nhà Nho học nhưng TT Hồ Đắc Trung đã sớm nhận thấy những điều còn hạn chế trong xã hội phong kiến so với những ưu việt của xã hội phương Tây nhất là về khoa học kỷ thuật.Ông cũng đã từng biết số phận những bản điều trần về canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ (1827-1871) không qua được xu hướng bảo thủ của triều đình. Dưới triều Tự Đức đã thế, dưới triều Khải Định, Bảo Đại cũng không hơn gì nếu không muốn nói là tồi tệ hơn. Vì vậy ông đã tìm cách thực hiện những suy ngẫm về canh tân theo cách riêng của mình. Ông đã có quyết định sáng suốt trong việc chuyễn hướng phương pháp giáo dục gia đình,hướng nghiệp cho các con theo xu hướng phát triễn mới của thời đại. Nhờ vậy gia đình TT Hồ Đắc Trung đã có đóng góp lớn cho xã hội Việt nam thế kỷ XX và cả sau này.Vợ chồng TT <em>Hồ Đắc Trung-Châu Thị Ngọc Lương</em> có tất cả 10 người con (4 gái,6 trai) </p><p> </p><p> Trong 4 con gái trừ 2 bà <em>Hồ Thị Huyên, Hồ Thị Phương </em>sinh cuối thế kỷ 19 chỉ dược học qua chữ Hán, 2 tiểu thư <em>Hồ Thị Chỉ,Hồ Thị Hạnh </em>sinh đầu thế kỷ 20 được hấp thụ nền giáo dục kết hợp Á-Âu: vừa giỏi chữ Hán vừa thông thạo tiếng Pháp, tiếng La Tinh. Cả bốn cô lớn lên đều gã cho các nơi quyền quý, môn đăng hộ đối: <em>Hồ Thị Huyên,</em>trưởng nử, là vợ Thượng thư <em>Ưng Úy</em>, (sinh hạ một con trai duy nhất là nhà bác học <em>Bửu Hội)</em>;<em>Hồ Thị Phương (Sài)</em>, bà Tham Ngô,dâu Thượng thư <em>Lê Trinh</em>; <em>Hồ Thị Chỉ</em> là đệ nhất Ân phi của vua Khải Định; <em>Hồ Thị Hạnh</em> , bà Cao Xuân Xang con dâu Thượng thư <em>Cao Xuân Dục. </em>Ba trong số bốn người trên đã cống hiến trọn đời cho Phật giáo: <em>Hồ Thị Huyên</em> sau này là sư bà <em>Diệu Huệ; Hồ Thị Phương</em> là một “bà vãi” không chỉ nổi tiếng ở các chùa tỉnh Thừa thiên mà còn ở nhiều chùa khắp các tỉnh miền Trung; <em>Hồ Thị Hạnh</em> sau này là sư bà <em>Diệu Không, </em>một ni trưởng có uy tín hàng đầu trong giáo hội Phật giáo Việt nam thế kỷ XX. Sáu con trai : trừ ông <em>Hồ Đắc Khải</em> (trưởng nam) được đào tạo theo Nho học, ra làm quan đến Thượng thư bộ Hộ (tài chánh) hàm Hiệp biện đại học sĩ, 5 người con trai còn lại đều được đào tạo Tây học và đều được du học ở Pháp mỗi người một ngành pháp luật, khoa học kỷ thuật để sau này góp phần xây dựng đất nước và hầu hết các con của ông đều đáp ứng nguyện vọng của người cha. Năm người đã tốt nghiệp với học vị cao trở thành số trí thức, nhân tài đầu tiên của nền khoa học kỷ thuật xã hội Việt nam đương thời: tiến sĩ Luật khoa <em>Hồ Đắc Điềm</em>,GS-TS Ykhoa <em>Hồ Đắc Di</em>,Kỷ sư Mỏ-Địa chất, <em>Hồ Đắc Liên</em>,Tiến sĩ Dược khoa <em>Hồ Đắc Ân</em>, riêng con trai út <em>Hồ Đắc Thứ</em> được tu nghiệp ngành Ngân hàng-Tài chính tại Pháp thuộc loại giỏi buộc phải bỏ dỡ học hành và sự nghiệp vì căn bênh hiểm nghèo. </p><p></p><p>Năm 1924,các con của TT Hồ Đắc Trung sau khi du học thành tài đều trở về phục vụ đất nước dưới chế độ thực dân phong kiến..Sau ngày cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công,vợ chồng cụ Hồ Đắc Trung đều đã qua đời,các con đều có gia đình riêng sống sung túc trên cả 3 miền Trung,Nam,Bắc đều hồ hỡi chào đón dịp khai sinh nước Việt nam dân chủ cộng hòa.Ngay say khi tiếng súng kháng chiến toàn quốc bùng nổ ba trong số 6 người con trai ::Luật sư-TS <em>Hồ Đắc Điềm,</em>,GS-TS <em>Hồ Đắc Di</em>,Kỷ sư <em>Hồ Đắc Liên</em> đã đem theo cả gia đình thoát ly theo Chính phủ Hồ Chí Minh.Số còn lại không thoát ly do hoàn cảnh tuổi tác, bệnh tật (<em>Hồ Đắc Khải,Hồ Đắc Thứ</em>) riêng TS- Dược sĩ <em>Hồ Đắc Ân</em> ở Sàigòn ngay từ ngày đầu kháng chiến cũng đã tham gia cùng với chủ tịch UBKC <em>Phạm Ngọc Thạch</em> nhưng đã bị Pháp bắt đưa về lại Sài gòn từ đó ông vẫn tiếp tục bí mật giúp đở thuốc men cho lực lượng kháng chiến.</p><p></p><p>Sư bà <em>Diệu Không</em> ở lại trụ trì chùa Hồng Ân ở Huế trở thành một ni trưởng có uy tín hàng đầu trong giáo hội Phât giáo miền Nam và luôn sát cánh với phong trào yêu nước của Phật giáo chống chế độ Pháp,Mỹ và tay sai.Sư bà cũng đã có vai trò có ý nghĩa trong việc thống nhất 2 tổ chức Phật giáo nam-bắc sau ngày đất nước thống nhất.Các ông <em>Hồ Đắc Điềm,Hồ Đắc Di.Hồ Đắc Liên</em> sau ngày thoát ly tham gia kháng chiến, đã đem kiến thức khoa học tích cực phục vụ chế độ mới và trở thành những nhân sĩ trí thức nổi tiếng. Tiến sĩ Luật khoa <em>Hồ Đắc Điềm</em> từng đảm nhiện các chức vụ:Chánh án Tòa án Nhân dân Liên khu IV,phó Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội.Ông còn nổi tiếng trong phong trào xóa nạn mù chữ ở Thủ đô theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:”<em>Chú là một nhà đại trí thức,chú phải sẻ chữ cho đồng bào ít chữ</em>”..</p><p></p><p>Tiến sĩ Y khoa <em>Hồ Đắc Di</em> là một giáo sư rất nổi tiếng về cả tài năng và đạo đức.Giáo sư là một trong số thầy thuốc có công đầu trong việc xây dựng và phát triễn ngàng Y dưới chế độ mới. Hàng nghìn thầy thuốc trẻ ra lò từ những lớp học bằng tre nứa ở chiến khu Việt Bắc cho đến các giảng đường trường Đại học Y Hà Nội do Giáo sư đứng đầu đã phục vụ đắc lực cho công cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước. Nhiều học trò của Giáo sư nay cũng đã là giáo sư, tiến sĩ trong đó có học trò xuất sắc nhất (trước CM tháng Tám) và cũng là người bạn lâu năm nhất của Giáo sư là Giáo sư Tôn Thất Tùng với phương pháp mổ gan lừng danh trong nước và cả trên thế giới.Kỷ sư <em>Hồ Đắc Liên</em> từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời tham dự Hội nghị Fontainebleaux trong những ngày đầu CM tháng Tám 1945 thành công. </p><p></p><p>Sau đó ông cùng vài người được Bác Hồ bí mật cử mang tiền,vàng sang Hông Kông cho Vĩnh Thụy (Bảo Đại). Tiếp đó ông theo Bác Hồ lên Việt Bắc nhận nhiệm vụ xây dựng, đào tạo lớp cán bộ đầu tiên của ngành mỏ-địa chất dưới chế độ mới. Không phải ngẫu nhiên mà trong kỳ Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt nam đầu tiên sau ngày thống nhất đất nước đã có 4 đại biểu là anh em ruột cùng một gia đình từng sống,công tác ở 2 miền dưới thời đất nước bị chia cắt: 2 ông TS <em>Hồ Đắc Điềm</em>, GS <em>Hồ Đắc Di</em> trong đoàn MT thành phố Hà Nội,sư bà <em>Diệu Không</em> đoàn MT TP Huế, DS <em>Hồ Đắc Ân</em> đoàn MT TP Hồ Chí Minh,một hình ảnh đẹp thể hiện chân lý <em>“Đất nước ta là một, dân tộc ta là một”</em>. Những cống hiến của gia đình đại thần Hồ Đắc Trung trong thế kỷ XX đã cho thấy: dù xuất thân Nho học nhưng TT Hồ Đắc Trung đã có nhãn quan nhìn xa trông rộng, sớm có tinh thần cách tân trong việc định hướng học hành,rèn luện phẩm chất cho con cái phù hợp với xu hướng phát triễn của thời đại,điều hiếm thấy trong giới quan lại triều Nguyễn lúc bấy giờ. Hiện nay ở Hà Nội,Huế có con đường mang tên “<em>Hồ Đắc Di</em>”. Thừa thiên-Huế có con 2 con đường một ở huyện Phú Vang mang tên “<em>Hồ Đắc Trung</em>” và một ở TP Huế mang tên “<em>Thích nử Diệụ Không</em>”. <em>. </em></p><p><em> </em> </p><p>Khánh Mỹ Quận công Hồ Đắc Trung qua đời năm 1941 thọ 81 tuổi,lăng mộ của ông được táng trên một ngọn đồi tại sơn phận xã Dương Xuân Thượng,huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.Năm 1949 sư bà Diệu Không xây dựng ni viện Hồng Ân trên diện tích đất thuộc sở hửu của gia đình Hồ Đắc trên đồi Dương Xuân Thượng, diện tích khu đất nghĩa trang có lăng mộ vợ chồng cụ Hồ Đắc Trung được tính trong khuôn viên ni tự Hồng Ân. (Nay thuộc địa phận thôn I,xã Thủy Xuân,TP Huế). Cuối năm 2011, theo thỏa thuận giữa sư trụ trì chùa Hống Ân và ông Hồ Đắc Hoài cháu nội cụ Hồ Đắc Trung, được sự đồng ý của chính quyền tỉnh Thừa Thiên-Huế, diện tích đất nghĩa trang Hồ Đắc được tách khỏi chùa Hồng Ân giao lại cho dòng họ Hồ Đắc. Trên phần đất này ông Hồ Đắc Hoài đã cho xây tường bao quanh khu nghĩa trang và xây dựng ngôi Từ đường khang trang để phụng thờ vợ chồng cụ Hồ Đắc Trung và số người trong gia đình đã quá cố. <em>Hà Nội Xuân Nhâm Thìn (2012). </em>TDT</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="trucdiepthanh, post: 118121, member: 51060"] [CENTER][COLOR=#006400] [SIZE=4][B]Khánh Mỹ quận công Hồ Đắc Trung với tư tưởng cách tân[/B][/SIZE][/COLOR][/CENTER] [B] [I]Hồ Đắc Trung[/I][/B] là con trưởng của hầu tước [I]Hồ Đắc Tuấn[/I] và bà công nử [I]Thức Huấn[/I], quê ở làng An Truyền (nay thuộc xã Phú An,huyện Phú Vang,tỉnh Thừa Thiên-Huế). Ông sinh năm Tân Dậu (1861) đậu cử nhơn năm Giáp Thân (1884) sau đó làm quan dưới các triều Đồng Khánh, Thành Thái, Duy Tân, Khải Định, Bảo Đại, ông Hồ Đắc Trung thăng tiến thuận lợi: được bổ vào Nội các, thăng Tri phủ, Viên ngoại cơ mật, hộ lý Võ khố, lịch lỵ Tuần Vũ, tổng đốc Nam - Ngãi dưới triều Thành Thái, đầu triều Duy Tân được bổ Thượng Thư bộ Học Thái tử thiếu bảo, Hiệp biện đại học sĩ tước Khánh Mỹ Tử, dưới triều Khải Định giữ chức bộ Lễ kiêm bộ Công thăng Đông Các đại học sĩ, tấn phong “Khánh Mỹ Bá” cuối cùng là “Khánh Mỹ Quận công”. Ông sinh ra, lớn lên và làm quan trong giai đoạn có nhiều biến động trong lịch sử phong kiến triều Nguyễn với nhiều sự kiện chi phối đến việc hình thành nhân cách riêng hiếm thấy trong số đại thần triều Nguyễn. Lúc công tử Hồ Đắc Trung trưởng thành, đổ đạt ra làm quan cũng là lúc thực dân Pháp đã hoàn thành cuộc xâm lược toàn bộ nước Việt nam biến dân tộc ta thành nô lệ và triều đình quan lại làm bù nhìn cho chúng. Ông đã trực tiếp chứng kiến người mẹ thân yêu của mình chết dưới làn đạn của thực dân Pháp trong ngày thất thủ Kinh đô năm 1885. Một năm sau, ông lại chứng kiến cuộc nổi loạn Chìa vôi (1786) với khí phách anh hùng của Đoàn Hửu Trưng và số phận thê thảm của gia tộc họ Đoàn, của bà Thể Cúc chị ruột mẹ mình (Bà Thể Cúc vợ Đoàn Hửu Trưng và bà Thức Huấn vợ hầu tước Hồ Đắc Tuấn là 2 chị em ruột cùng cha mẹ là vợ chồng Tùng Thiện vương Miên Thẩm,hoàng tử thứ 10,con vua Minh Mạng, vương cũng là môt nhà thơ lớn). Bước vào quan trường dưới triều vua Kiến Phúc (1883-1884), ông Hồ Đắc Trung đã phục vụ qua 3 triều vua yêu nước:Hàm Nghi ,Thành Thái, Duy Tân. Khí phách anh hùng, tinh thần yêu nước của Đoàn Hửu Trưng,của ba nhà vua trẻ cùng với sự tàn ác của quân Pháp gây ra cái chết cho người mẹ thân yêu đã để lại những dấu ấn không phai mờ trong tâm hồn của một nhà Nho uyên bác như ông.Do vậy trong cuộc đời làm quan, ông không thuộc loại a dua, cộng sự đắc lực với người Pháp để tiến thân. Trái lại còn tìm cách giúp đở số người chống Pháp thất cơ lỡ vận. Dưới triều Thành Thái ở cương vị Tổng đốc Nam-Ngãi (2 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi) những năm mất mùa lại bị sưu cao thuế nặng ông đã tận tình giúp đở cứu đói cho dân yêu cầu chính phủ bảo hộ miễn thuế cho dân. Năm 1908, đầu triều Duy Tân một số nhà Nho bạn đồng học nay trở thành lãnh tụ phong trào chống sưu thuế ở tỉnh Quảng Nam là Thái Phiên, Trần Cao Vân bị Pháp bắt giam chờ ngày ra tòa, Tổng đốc Hồ Đắc Trung đã vào tận ngục thăm hỏi và khuyên hai ông nhẫn nhục nhận tội để ông bảo lãnh ra tù. Hai ông Thái,Trần đã chấp nhận và được trả tự do.Theo lời kể của ông Cả Khiêm (Nguyễn Sinh Khiêm)và O Thanh (bà Nguyễn Thị Thanh chị ruột Bác Hồ) với nhà văn Sơn Tùng sau ngày đất nước thống nhất thì trong những năm 1910-1920 lúc ông Hồ Đắc Trung đảm nhiệm Thượng thư bộ Học, mẹ Lụa cùng o Thanh là 2 phụ nử bí mật đi quyên tiền cho các “Hội kín” đã đươc hai Thượng thư [I]Cao Xuân Dục[/I], [I]Hồ Đắc Trung[/I] nhiều lần đón tiếp tại tư gia trao tặng tiền,vàng giúp đở.(1) Khi đảm nhận Thượng thư bộ Học dưới triều vua Duy Tân, vua Duy Tân đang tuổi thiếu niên đã có mối quan hệ thân mật ngoài quan hệ vua tôi với các con cùng lứa tuổi của TT Hồ Đắc Trung. Vua Duy Tân đặc biệt có cảm tình với tiểu thư [I]Hồ Thị Chỉ[/I] con gái áp út của TT Hồ Đăc Trung kém vua 2 tuổi,một cô gái mới lớn, xinh đẹp, nhu mì, thông minh, thông thạo chữ Hán và cả tiếng Pháp. Năm 1915 vua Duy Tân 16 tuổi đã ngỏ ý với 2 bà Hoàng Thái hậu muốn chọn tiểu thư Hồ Thị Chỉ để nạp phi (làm Hoàng hậu). Hai bà Hoàng Thái hậu (một mẹ dích, một mẹ đẻ) đã cho gọi Hồ Thị Chỉ vào hầu và cho tiểu thư một đôi vòng vàng làm kỷ niệm. Tiếp đó có người trong Nội cung ra dạy cho tiểu thư Hồ Thị Chỉ thông thạo mọi lễ nghi trong nội cung và định đầu năm 1916 sẽ làm lễ nạp phi. Mọi việc tưởng như đã an bài thì bất ngờ cuối năm đó vua Duy Tân cho gọi Thượng thư Hồ Đắc Trung vào chầu và nhà vua đã nói lời từ hôn với Hồ Thị Chỉ mà không cho biết lý do. Cả nhà TT Hồ Đắc Trung bàng hoàng nhất là Hồ Thị Chỉ rất đau khổ. Đầu năm 1916 lễ nạp phi vẫn diễn ra nhưng người ngồi kiệu hoa vào cung để làm vợ vua Duy Tân không phải Hồ Thi Chỉ mà là tiểu thư [I]Mai Thị Vàng[/I] con gái cụ [I]Mai Khắc Đôn[/I] thầy dạy chữ Hán cho vua Duy Tân! Chỉ vài tháng sau lễ nạp phi đã xảy ra sự kiện động trời:ngày 4 tháng 5 năm 1916 vua Duy Tân bị Pháp bắt giam trong lúc nhà vua đang ở ngoài cung để tham dự vào một cuộc khởi nghĩa chống Pháp do hai lãnh tụ Việt nam Quang phục hội là Thái Phiên và Trần Cao Vân lãnh đạo(Cuộc khởi nghĩa bị lộ do nội phản.(TT Hồ Đắc Trung cũng bị Pháp bắt câu lưu để điều tra về mối quan hệ với vua Duy Tân và với 2 ông Thái, Trần từng được ông Hồ Đắc Trung bảo lãnh ra tù năm 1908 lúc làm Tổng đốc An Ngãi. Song qua lời khai của vua Duy Tân và 2 tử tội Thái, Trần đã chứng minh TT Hồ Đắc Trung vô can trong vụ vua Duy Tân xuất bôn theo giặc làm khởi nghĩa. Cũng trong dịp này, qua lời khai của vua Duy Tân với người Pháp, ông Hồ Đắc Trung mới rõ động cơ việc nhà vua từ hôn với Hồ Thị Chỉ là do sau ngày nhận lời tham dự cuộc khởi nghĩa ”[I]vì thương ông Hồ Đắc Trung đông con và không muốn tiểu thư Hồ Thị Chỉ bị liên lụy nên từ hôn mà không nói lý do gì cả[/I]” (2)Biết được điều đó cả nhà ông Hồ Đắc Trung đều cảm động, riêng tiểu thư Hồ Thị Chỉ đã khóc mấy ngày liền bỏ cả ăn uống. Sau khi được trả tự do,theo tiến cử của triều đình được người Pháp chấp nhận TT Hồ Đắc Trung phải chắp bút [I]bản án xét xử tội vua Duy Tân[/I] tham dự phản nghịch chống Pháp của Nam triều để Tòa Khâm sứ Pháp quyết định (theo người Pháp tội phản nghịch dù là vua cũng phải xử trảm). Sau nhiều đêm thức trắng suy nghỉ với mục đích tìm cách biện hộ cho nhà vua thoát tội chết,TT Hồ Đắc Trung đã hoàn thành dự thảo bản án với nhan đề “[I]vọng thính sàm ngô, khuynh nguy xã tắc[/I]”(nghe lời dua nịnh làm cho đất nước lâm nguy). Theo sư bà Diệu Không nhớ lại bản án đại khái như sau:[I] "Vua Duy Tân còn nhỏ tuổi, tuy rất thông minh, song còn cạn nghĩ,Ngài bị bọn người mưu phản kích thích lòng ái quốc nên nghe theo. Nếu đúng tuổi trưởng thành thì tội Ngài rất nặng, song Ngài còn vị thành niên, tưởng không đáng trách mà nên thương tình. Đứng về phía Chính phủ Bảo hộ thì Ngài can tội "phản nghịch" nhưng đứng về phía chính phủ Nam triều thì Ngài là một ông Vua biết thương dân và được lòng dân. Như vậy luận về tội thì quả thật Ngài có tội với người Pháp, còn đối với nhân dân Việt Nam thì Ngài không có tội gì cả.Vậy nên xét tình mà chỉ truất phế Ngài và để cho Ngài được tự do về với danh nghĩa một ông Hoàng tử như trước. Như vậy lòng dân mới khỏi oán thán Chính phủ Pháp là khắc nghiệt" (Diệu Không-Vua Duy Tân và gia đình Hồ Đắc Trung). [/I]"Bản án" có lý, có tình hơn nữa còn ẩn giấu lời răn đe người Pháp đừng quá nặng tay với vua Duy Tân mà phải lãnh hậu quả như trên đã được người Pháp chấp nhận. Vua Duy Tân phải nhận tội đi đày nhưng vẫn giữ danh vị hoàng tử.(3) Sau sự kiện 2 ông vua có tinh thần yêu nước: [I]Thành Thái [/I]và[I] Duy Tân[/I],người Pháp đã chọn được người nối ngôi vua Duy Tân như mong muốn là một ông vua bù nhìn: vua Khải Định. Chỉ sau một thời gian ngắn ngày ngồi lên ngôi báu, Khải Định ngỏ lời cầu hôn với tiểu thư Hồ Thị Chỉ con gái Thượng thư Hồ Đắc Trung, và với tình thế bắt buộc không thể khác.Để tránh cho toàn gia phải gánh hình phạt về tội “khi quân”. Mặc dù còn nặng lòng với vua Duy Tân nhưng Hồ Thị Chỉ buộc phải vào cung nhận danh hiệu “Ân phi” (nhị giai phi). Thượng thư Hồ Đắc Trung trở thành “quốc trượng” (cha vợ vua).Ông vẫn dảm nhận Thượng thư bộ Lễ và bộ Công,được tấn phong Đông Các đại học sĩ,Khánh Mỹ quận công và là một trong “tứ trụ” của triều đình.Tuy có uy quyền lớn nhưng Thượng thư Hồ Đắc Trung vẫn sống thanh bạch,giản dị không ỷ quyền để làm giàu cho cá nhân và gia đình,ỷ thế chèn ép,hà hiếp người khác. Là một nhà Nho học nhưng TT Hồ Đắc Trung đã sớm nhận thấy những điều còn hạn chế trong xã hội phong kiến so với những ưu việt của xã hội phương Tây nhất là về khoa học kỷ thuật.Ông cũng đã từng biết số phận những bản điều trần về canh tân đất nước của Nguyễn Trường Tộ (1827-1871) không qua được xu hướng bảo thủ của triều đình. Dưới triều Tự Đức đã thế, dưới triều Khải Định, Bảo Đại cũng không hơn gì nếu không muốn nói là tồi tệ hơn. Vì vậy ông đã tìm cách thực hiện những suy ngẫm về canh tân theo cách riêng của mình. Ông đã có quyết định sáng suốt trong việc chuyễn hướng phương pháp giáo dục gia đình,hướng nghiệp cho các con theo xu hướng phát triễn mới của thời đại. Nhờ vậy gia đình TT Hồ Đắc Trung đã có đóng góp lớn cho xã hội Việt nam thế kỷ XX và cả sau này.Vợ chồng TT [I]Hồ Đắc Trung-Châu Thị Ngọc Lương[/I] có tất cả 10 người con (4 gái,6 trai) Trong 4 con gái trừ 2 bà [I]Hồ Thị Huyên, Hồ Thị Phương [/I]sinh cuối thế kỷ 19 chỉ dược học qua chữ Hán, 2 tiểu thư [I]Hồ Thị Chỉ,Hồ Thị Hạnh [/I]sinh đầu thế kỷ 20 được hấp thụ nền giáo dục kết hợp Á-Âu: vừa giỏi chữ Hán vừa thông thạo tiếng Pháp, tiếng La Tinh. Cả bốn cô lớn lên đều gã cho các nơi quyền quý, môn đăng hộ đối: [I]Hồ Thị Huyên,[/I]trưởng nử, là vợ Thượng thư [I]Ưng Úy[/I], (sinh hạ một con trai duy nhất là nhà bác học [I]Bửu Hội)[/I];[I]Hồ Thị Phương (Sài)[/I], bà Tham Ngô,dâu Thượng thư [I]Lê Trinh[/I]; [I]Hồ Thị Chỉ[/I] là đệ nhất Ân phi của vua Khải Định; [I]Hồ Thị Hạnh[/I] , bà Cao Xuân Xang con dâu Thượng thư [I]Cao Xuân Dục. [/I]Ba trong số bốn người trên đã cống hiến trọn đời cho Phật giáo: [I]Hồ Thị Huyên[/I] sau này là sư bà [I]Diệu Huệ; Hồ Thị Phương[/I] là một “bà vãi” không chỉ nổi tiếng ở các chùa tỉnh Thừa thiên mà còn ở nhiều chùa khắp các tỉnh miền Trung; [I]Hồ Thị Hạnh[/I] sau này là sư bà [I]Diệu Không, [/I]một ni trưởng có uy tín hàng đầu trong giáo hội Phật giáo Việt nam thế kỷ XX. Sáu con trai : trừ ông [I]Hồ Đắc Khải[/I] (trưởng nam) được đào tạo theo Nho học, ra làm quan đến Thượng thư bộ Hộ (tài chánh) hàm Hiệp biện đại học sĩ, 5 người con trai còn lại đều được đào tạo Tây học và đều được du học ở Pháp mỗi người một ngành pháp luật, khoa học kỷ thuật để sau này góp phần xây dựng đất nước và hầu hết các con của ông đều đáp ứng nguyện vọng của người cha. Năm người đã tốt nghiệp với học vị cao trở thành số trí thức, nhân tài đầu tiên của nền khoa học kỷ thuật xã hội Việt nam đương thời: tiến sĩ Luật khoa [I]Hồ Đắc Điềm[/I],GS-TS Ykhoa [I]Hồ Đắc Di[/I],Kỷ sư Mỏ-Địa chất, [I]Hồ Đắc Liên[/I],Tiến sĩ Dược khoa [I]Hồ Đắc Ân[/I], riêng con trai út [I]Hồ Đắc Thứ[/I] được tu nghiệp ngành Ngân hàng-Tài chính tại Pháp thuộc loại giỏi buộc phải bỏ dỡ học hành và sự nghiệp vì căn bênh hiểm nghèo. Năm 1924,các con của TT Hồ Đắc Trung sau khi du học thành tài đều trở về phục vụ đất nước dưới chế độ thực dân phong kiến..Sau ngày cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công,vợ chồng cụ Hồ Đắc Trung đều đã qua đời,các con đều có gia đình riêng sống sung túc trên cả 3 miền Trung,Nam,Bắc đều hồ hỡi chào đón dịp khai sinh nước Việt nam dân chủ cộng hòa.Ngay say khi tiếng súng kháng chiến toàn quốc bùng nổ ba trong số 6 người con trai ::Luật sư-TS [I]Hồ Đắc Điềm,[/I],GS-TS [I]Hồ Đắc Di[/I],Kỷ sư [I]Hồ Đắc Liên[/I] đã đem theo cả gia đình thoát ly theo Chính phủ Hồ Chí Minh.Số còn lại không thoát ly do hoàn cảnh tuổi tác, bệnh tật ([I]Hồ Đắc Khải,Hồ Đắc Thứ[/I]) riêng TS- Dược sĩ [I]Hồ Đắc Ân[/I] ở Sàigòn ngay từ ngày đầu kháng chiến cũng đã tham gia cùng với chủ tịch UBKC [I]Phạm Ngọc Thạch[/I] nhưng đã bị Pháp bắt đưa về lại Sài gòn từ đó ông vẫn tiếp tục bí mật giúp đở thuốc men cho lực lượng kháng chiến. Sư bà [I]Diệu Không[/I] ở lại trụ trì chùa Hồng Ân ở Huế trở thành một ni trưởng có uy tín hàng đầu trong giáo hội Phât giáo miền Nam và luôn sát cánh với phong trào yêu nước của Phật giáo chống chế độ Pháp,Mỹ và tay sai.Sư bà cũng đã có vai trò có ý nghĩa trong việc thống nhất 2 tổ chức Phật giáo nam-bắc sau ngày đất nước thống nhất.Các ông [I]Hồ Đắc Điềm,Hồ Đắc Di.Hồ Đắc Liên[/I] sau ngày thoát ly tham gia kháng chiến, đã đem kiến thức khoa học tích cực phục vụ chế độ mới và trở thành những nhân sĩ trí thức nổi tiếng. Tiến sĩ Luật khoa [I]Hồ Đắc Điềm[/I] từng đảm nhiện các chức vụ:Chánh án Tòa án Nhân dân Liên khu IV,phó Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội.Ông còn nổi tiếng trong phong trào xóa nạn mù chữ ở Thủ đô theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:”[I]Chú là một nhà đại trí thức,chú phải sẻ chữ cho đồng bào ít chữ[/I]”.. Tiến sĩ Y khoa [I]Hồ Đắc Di[/I] là một giáo sư rất nổi tiếng về cả tài năng và đạo đức.Giáo sư là một trong số thầy thuốc có công đầu trong việc xây dựng và phát triễn ngàng Y dưới chế độ mới. Hàng nghìn thầy thuốc trẻ ra lò từ những lớp học bằng tre nứa ở chiến khu Việt Bắc cho đến các giảng đường trường Đại học Y Hà Nội do Giáo sư đứng đầu đã phục vụ đắc lực cho công cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước. Nhiều học trò của Giáo sư nay cũng đã là giáo sư, tiến sĩ trong đó có học trò xuất sắc nhất (trước CM tháng Tám) và cũng là người bạn lâu năm nhất của Giáo sư là Giáo sư Tôn Thất Tùng với phương pháp mổ gan lừng danh trong nước và cả trên thế giới.Kỷ sư [I]Hồ Đắc Liên[/I] từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời tham dự Hội nghị Fontainebleaux trong những ngày đầu CM tháng Tám 1945 thành công. Sau đó ông cùng vài người được Bác Hồ bí mật cử mang tiền,vàng sang Hông Kông cho Vĩnh Thụy (Bảo Đại). Tiếp đó ông theo Bác Hồ lên Việt Bắc nhận nhiệm vụ xây dựng, đào tạo lớp cán bộ đầu tiên của ngành mỏ-địa chất dưới chế độ mới. Không phải ngẫu nhiên mà trong kỳ Đại hội Mặt trận Tổ quốc Việt nam đầu tiên sau ngày thống nhất đất nước đã có 4 đại biểu là anh em ruột cùng một gia đình từng sống,công tác ở 2 miền dưới thời đất nước bị chia cắt: 2 ông TS [I]Hồ Đắc Điềm[/I], GS [I]Hồ Đắc Di[/I] trong đoàn MT thành phố Hà Nội,sư bà [I]Diệu Không[/I] đoàn MT TP Huế, DS [I]Hồ Đắc Ân[/I] đoàn MT TP Hồ Chí Minh,một hình ảnh đẹp thể hiện chân lý [I]“Đất nước ta là một, dân tộc ta là một”[/I]. Những cống hiến của gia đình đại thần Hồ Đắc Trung trong thế kỷ XX đã cho thấy: dù xuất thân Nho học nhưng TT Hồ Đắc Trung đã có nhãn quan nhìn xa trông rộng, sớm có tinh thần cách tân trong việc định hướng học hành,rèn luện phẩm chất cho con cái phù hợp với xu hướng phát triễn của thời đại,điều hiếm thấy trong giới quan lại triều Nguyễn lúc bấy giờ. Hiện nay ở Hà Nội,Huế có con đường mang tên “[I]Hồ Đắc Di[/I]”. Thừa thiên-Huế có con 2 con đường một ở huyện Phú Vang mang tên “[I]Hồ Đắc Trung[/I]” và một ở TP Huế mang tên “[I]Thích nử Diệụ Không[/I]”. [I]. [/I] Khánh Mỹ Quận công Hồ Đắc Trung qua đời năm 1941 thọ 81 tuổi,lăng mộ của ông được táng trên một ngọn đồi tại sơn phận xã Dương Xuân Thượng,huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.Năm 1949 sư bà Diệu Không xây dựng ni viện Hồng Ân trên diện tích đất thuộc sở hửu của gia đình Hồ Đắc trên đồi Dương Xuân Thượng, diện tích khu đất nghĩa trang có lăng mộ vợ chồng cụ Hồ Đắc Trung được tính trong khuôn viên ni tự Hồng Ân. (Nay thuộc địa phận thôn I,xã Thủy Xuân,TP Huế). Cuối năm 2011, theo thỏa thuận giữa sư trụ trì chùa Hống Ân và ông Hồ Đắc Hoài cháu nội cụ Hồ Đắc Trung, được sự đồng ý của chính quyền tỉnh Thừa Thiên-Huế, diện tích đất nghĩa trang Hồ Đắc được tách khỏi chùa Hồng Ân giao lại cho dòng họ Hồ Đắc. Trên phần đất này ông Hồ Đắc Hoài đã cho xây tường bao quanh khu nghĩa trang và xây dựng ngôi Từ đường khang trang để phụng thờ vợ chồng cụ Hồ Đắc Trung và số người trong gia đình đã quá cố. [I]Hà Nội Xuân Nhâm Thìn (2012). [/I]TDT [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Nhân Vật Lịch Sử
Khánh Mỹ quận công Hồ Đắc Trung với tư tưởng cách tân.
Top