Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
DU LỊCH
Địa lí Việt Nam
Địa lí KT-XH Việt Nam
Khái Quát Về Nghệ An
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="NguoiDien" data-source="post: 4983" data-attributes="member: 75"><p style="text-align: center"><span style="font-size: 15px"><strong>KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ AN</strong></span></p> <p style="text-align: center"></p><p><strong></strong></p><p><strong>Lịch sử tên gọi</strong></p><p></p><p>Thời Hùng Vương và An Dương Vương, tỉnh Nghệ An bao gồm bộ Hoài Hoan và phần bắc bộ Cửu Đức. </p><p></p><p>Thời nhà Hán, thuộc huyện Hàm Hoan thuộc quận Cửu Chân. </p><p></p><p>Đời nhà Tấn là quận Cửu Đức. </p><p></p><p>Đời nhà Tùy là quận Nhật Nam. </p><p></p><p>Năm 628 đổi là Đức Châu, rồi lại đổi thành Châu Hoan, lại Châu Diễn. </p><p></p><p>Đời nhà Đường là quận Nam Đức. </p><p></p><p>Thời nhà Ngô, tách ra khỏi quận Cửu Chân đặt làm quận Cửu Đức. </p><p></p><p>Thời nhà Đinh, nhà Tiền Lê gọi là Hoan Châu. </p><p></p><p>Năm 1030, bắt đầu gọi là châu Nghệ An. </p><p></p><p>Từ năm 1490 gọi là xứ Nghệ An. </p><p></p><p>Thời Tây Sơn, gọi là Nghĩa An trấn. </p><p></p><p>Bản triều năm Gia Long nguyên niên lại đặt làm Nghệ An trấn. </p><p></p><p>Năm 1831, vua Minh Mệnh chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (phía Bắc sông Lam); Hà Tĩnh (phía nam sông Lam). Sau đó hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh sáp nhập lại, lấy tên là tỉnh An Tĩnh. </p><p></p><p>Từ năm 1976 đến 1991, Nghệ An và Hà Tĩnh là một tỉnh và được gọi là tỉnh "Nghệ Tĩnh". </p><p>Năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh lại tách ra thành Nghệ An và Hà Tĩnh như ngày nay. </p><p></p><p><strong> Điều kiện tự nhiên</strong></p><p></p><p>Nghệ An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 4 mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Từ tháng 4 đến tháng 8 dương lịch hàng năm, tỉnh chịu ảnh hưởng của gió phơn tây nam khô và nóng. Vào mùa đông, chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc lạnh và ẩm ướt.</p><p></p><p>Diện tích: 16.487km². </p><p></p><p>Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.670 mm. </p><p></p><p>Nhiệt độ trung bình: 25,2 °C. </p><p></p><p>Số giờ nắng trong năm: 1.420 giờ. </p><p></p><p>Độ ẩm tương đối trung bình: 86-87%. </p><p></p><p>Vĩ độ: 18°33′ đến 19°25′ vĩ bắc. </p><p></p><p>Kinh độ: 102°53′ đến 105°46′ kinh đông. </p><p></p><p><strong>Tài nguyên</strong></p><p></p><p>Nghệ An có nguồn khoáng sản được đánh giá là đa dạng. Tuy nhiên hầu hết chưa được đánh giá đầy đủ và không có khả năng khai thác công nghiệp, ngoại trừ một số như đá vôi, đá ốp lát, đá bazan, sắt, thiếc, than đá, than bùn</p><p></p><p>Đá vôi có trữ lượng lớn tập trung ở huyện Quỳnh Lưu, Anh Sơn, Con Cuông. Riêng khu vực Hoàng Mai có trữ lượng 350 triệu m³[2]. Các vật liệu phụ gia khác cho sản xuất xi măng có trữ lượng lớn như sét xi măng ở Nghệ An có tới 300 triệu tấn[3], phân bố nhiều nhất ở Quỳnh Thiện, Quỳnh Lưu, Anh Sơn, Đô Lương. Đá bazan hàng trăm triệu tấn (trữ lượng dự báo toàn vùng 260 triệu m³[cần dẫn nguồn]). Ngoài ra còn có nhiều mỏ ở các vùng Đô Lương, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp. </p><p></p><p>Đá xây dựng có trữ lượng rất lớn. Đá có giá trị kinh tế cao là đá magma và gốc cácbonat phân bố nhiều ở vùng Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Con Cuông, Hưng NguyênTiêu bản:Theo số liệu của Liên đoàn Địa chất Bắc Trung Bộ. </p><p></p><p>Thiếc được đánh giá là lớn nhất Việt Nam, vùng thiếc sa khoáng có trữ lượng 42.000 tấn [cần dẫn nguồn](chiếm 30% trữ lượng thiếc cả nước) đang được khai thác ở quy mô công nghiệp, khá tập trung ở vùng Quỳ Hợp và Quế Phong. </p><p></p><p>Sét gạch ngói phân bố rộng ở vùng đồng bằng và trung du, là nguyên liệu lớn cho phát triển vật liệu xây dựng. Sét xi măng theo khảo sát ban đầu, để phục vụ cho nhà máy xi măng thì trữ lượng hiện tại đã có trên 40 triệu m³[2], phân bố ở Quỳnh Lưu và Đô Lương. </p><p></p><p>Mangan được phát hiện ở Hưng Nguyên, Nam Đàn, Nghi Lộc, Tân Kỳ, Anh Sơn, Kẻ Li (Quỳ Châu). Trữ lượng đáng kể là mỏ Yên Cứ (Hưng Nguyên) 1,4 triệu tấn[cần dẫn nguồn], mỏ Hoa Sen (Nam Đàn) có trữ lượng 111.000 tấn[cần dẫn nguồn], mỏ Nam Lộc có trữ lượng 665.000 tấn[cần dẫn nguồn], mỏ Khe Su có trữ lượng 501.000 tấn. </p><p></p><p>Bô xít có tổng trữ lượng khoảng 0,2 triệu tấn. Bô xít có ở Sơn Thành (Yên Thành), Diễn Lâm (Diễn Châu), Nghĩa Lâm (Nghĩa Đàn), trong đó mỏ Sơn Thành có trữ lượng lớn nhất 257.000 tấn[cần dẫn nguồn]. </p><p></p><p>Phốtphorít toàn tỉnh có trữ lượng dự báo khoảng 130.000 tấn[cần dẫn nguồn], nhưng phân tán ở các huyện ở Thanh Chương, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Đô Lương, Anh Sơn và Con Cuông. </p><p>Titani có ở Cửa Hội và Nghi Thọ tồn tại dưới dạng inmenít (TiO2). Tổng trữ lượng 22.600 tấn[cần dẫn nguồn] trong đó Cửa Hội 20.500 tấn[cần dẫn nguồn]. </p><p></p><p>Vàng trữ lượng được đánh giá khoảng 20 tấn, chủ yếu là vàng sa khoáng ở dọc sông Cả, sông Hiếu. Mỏ vàng gốc Tà Sỏi với trữ lượng dự báo 8 tấn. Đá quý tập trung ở Quỳ Hợp, Quỳ Châu... chủ yếu là rubi. </p><p></p><p>Nước khoáng có nhiều mỏ dễ khai thác. Mỏ Bản Khạng (Quỳ Hợp) thuộc loại khoáng cacbonic là loại được ưa chuộng, có lưu lượng 0,5 lít/giây[cần dẫn nguồn]. Các mỏ Bản Hợp, Bản Bo, Bản Lang (Quỳ Hợp), Cồn Soi (Nghĩa Đàn), Vĩnh Giang (Đô Lương) đều có thể khai thác sử dụng ngay. </p><p></p><p>Than đá: tập trung ở Khe Bố (Tương Dương), Đồn Phục (Con Cuông). </p><p>Than bùn: Tập trung ở Tân Kỳ, Nghĩa Đàn. </p><p></p><p><strong>Dân số</strong></p><p></p><p>Dân số Nghệ An (2004) có 3.003.200 người</p><p></p><p></p><p><strong>Hành chính</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong></strong> Nghệ An bao gồm 1 thành phố trực thuộc, 2 thị xã và 17 huyện:</p><p></p><p>Thành phố Vinh </p><p></p><p>Thị xã Cửa Lò </p><p></p><p>Thị xã Thái Hòa </p><p></p><p>Huyện Anh Sơn </p><p></p><p>Huyện Con Cuông </p><p></p><p>Huyện Diễn Châu </p><p></p><p>Huyện Đô Lương </p><p></p><p>Huyện Hưng Nguyên </p><p></p><p>Huyện Quỳ Châu </p><p></p><p>Huyện Kỳ Sơn </p><p></p><p> Huyện Nam Đàn </p><p></p><p>Huyện Nghi Lộc </p><p></p><p>Huyện Nghĩa Đàn </p><p></p><p>Huyện Quế Phong</p><p> </p><p>Huyện Quỳ Hợp </p><p></p><p>Huyện Quỳnh Lưu </p><p></p><p>Huyện Tân Kỳ </p><p></p><p>Huyện Thanh Chương </p><p></p><p>Huyện Tương Dương </p><p></p><p>Huyện Yên Thành </p><p> </p><p></p><p></p><p><strong>Công nghiệp</strong></p><p></p><p>Chủ yếu là ximăng, bia, đường </p><p></p><p>Du lịch</p><p></p><p>Có bãi tắm Cửa Lò là khu nghỉ mát, khu di tích Hồ Chí Minh, khu di tích đền Cuông. Năm 2008, Khu du lịch Bãi Lữ được đưa vào khai thác.</p><p></p><p></p><p><strong>Danh nhân</strong></p><p></p><p>Mai Hắc Đế </p><p></p><p>Bạch Liêu </p><p></p><p>Nguyễn Cảnh Chân </p><p></p><p>Nguyễn Cảnh Dị </p><p></p><p>Nguyễn Xí </p><p></p><p>Hồ Tông Thốc </p><p></p><p>Bùi Tá Hán </p><p></p><p>Hồ Sĩ Dương </p><p></p><p>Hồ Xuân Hương </p><p></p><p> Nguyễn Trường Tộ </p><p></p><p>Trần Tấn </p><p></p><p>Nguyễn Đức Đạt </p><p></p><p>Nguyễn Thức Tự </p><p></p><p>Cao Xuân Dục </p><p></p><p>Đặng Văn Thụy </p><p></p><p>Phan Bội Châu </p><p></p><p>Đặng Thái Thân </p><p></p><p>Nguyễn Xuân Ôn </p><p></p><p>Nguyễn Tư Nghiêm</p><p> </p><p> Hồ Chí Minh </p><p></p><p>Lê Hồng Phong </p><p></p><p>Nguyễn Thị Minh Khai </p><p></p><p>Tạ Quang Bửu </p><p></p><p>Đặng Thai Mai </p><p></p><p>Phạm Hồng Thái </p><p></p><p>Nguyễn Sỹ Sách </p><p></p><p>Lê Hồng Sơn </p><p></p><p>Phan Đăng Lưu </p><p></p><p> Hồ Tùng Mậu </p><p></p><p>Phùng Chí Kiên </p><p></p><p>Nguyễn Phong Sắc </p><p></p><p>Trần Văn Cung </p><p></p><p>Tôn Quang Phiệt </p><p></p><p>Trần Quốc Hoàn </p><p></p><p>Nguyễn Duy Trinh </p><p></p><p>Cao Xuân Huy </p><p></p><p>Nguyễn Văn Tý</p><p></p><p> Sưu tầm</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="NguoiDien, post: 4983, member: 75"] [CENTER][SIZE=4][B]KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ AN[/B][/SIZE] [/CENTER] [B] Lịch sử tên gọi[/B] Thời Hùng Vương và An Dương Vương, tỉnh Nghệ An bao gồm bộ Hoài Hoan và phần bắc bộ Cửu Đức. Thời nhà Hán, thuộc huyện Hàm Hoan thuộc quận Cửu Chân. Đời nhà Tấn là quận Cửu Đức. Đời nhà Tùy là quận Nhật Nam. Năm 628 đổi là Đức Châu, rồi lại đổi thành Châu Hoan, lại Châu Diễn. Đời nhà Đường là quận Nam Đức. Thời nhà Ngô, tách ra khỏi quận Cửu Chân đặt làm quận Cửu Đức. Thời nhà Đinh, nhà Tiền Lê gọi là Hoan Châu. Năm 1030, bắt đầu gọi là châu Nghệ An. Từ năm 1490 gọi là xứ Nghệ An. Thời Tây Sơn, gọi là Nghĩa An trấn. Bản triều năm Gia Long nguyên niên lại đặt làm Nghệ An trấn. Năm 1831, vua Minh Mệnh chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (phía Bắc sông Lam); Hà Tĩnh (phía nam sông Lam). Sau đó hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh sáp nhập lại, lấy tên là tỉnh An Tĩnh. Từ năm 1976 đến 1991, Nghệ An và Hà Tĩnh là một tỉnh và được gọi là tỉnh "Nghệ Tĩnh". Năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh lại tách ra thành Nghệ An và Hà Tĩnh như ngày nay. [B] Điều kiện tự nhiên[/B] Nghệ An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 4 mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Từ tháng 4 đến tháng 8 dương lịch hàng năm, tỉnh chịu ảnh hưởng của gió phơn tây nam khô và nóng. Vào mùa đông, chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc lạnh và ẩm ướt. Diện tích: 16.487km². Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.670 mm. Nhiệt độ trung bình: 25,2 °C. Số giờ nắng trong năm: 1.420 giờ. Độ ẩm tương đối trung bình: 86-87%. Vĩ độ: 18°33′ đến 19°25′ vĩ bắc. Kinh độ: 102°53′ đến 105°46′ kinh đông. [B]Tài nguyên[/B] Nghệ An có nguồn khoáng sản được đánh giá là đa dạng. Tuy nhiên hầu hết chưa được đánh giá đầy đủ và không có khả năng khai thác công nghiệp, ngoại trừ một số như đá vôi, đá ốp lát, đá bazan, sắt, thiếc, than đá, than bùn Đá vôi có trữ lượng lớn tập trung ở huyện Quỳnh Lưu, Anh Sơn, Con Cuông. Riêng khu vực Hoàng Mai có trữ lượng 350 triệu m³[2]. Các vật liệu phụ gia khác cho sản xuất xi măng có trữ lượng lớn như sét xi măng ở Nghệ An có tới 300 triệu tấn[3], phân bố nhiều nhất ở Quỳnh Thiện, Quỳnh Lưu, Anh Sơn, Đô Lương. Đá bazan hàng trăm triệu tấn (trữ lượng dự báo toàn vùng 260 triệu m³[cần dẫn nguồn]). Ngoài ra còn có nhiều mỏ ở các vùng Đô Lương, Tân Kỳ, Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp. Đá xây dựng có trữ lượng rất lớn. Đá có giá trị kinh tế cao là đá magma và gốc cácbonat phân bố nhiều ở vùng Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn, Con Cuông, Hưng NguyênTiêu bản:Theo số liệu của Liên đoàn Địa chất Bắc Trung Bộ. Thiếc được đánh giá là lớn nhất Việt Nam, vùng thiếc sa khoáng có trữ lượng 42.000 tấn [cần dẫn nguồn](chiếm 30% trữ lượng thiếc cả nước) đang được khai thác ở quy mô công nghiệp, khá tập trung ở vùng Quỳ Hợp và Quế Phong. Sét gạch ngói phân bố rộng ở vùng đồng bằng và trung du, là nguyên liệu lớn cho phát triển vật liệu xây dựng. Sét xi măng theo khảo sát ban đầu, để phục vụ cho nhà máy xi măng thì trữ lượng hiện tại đã có trên 40 triệu m³[2], phân bố ở Quỳnh Lưu và Đô Lương. Mangan được phát hiện ở Hưng Nguyên, Nam Đàn, Nghi Lộc, Tân Kỳ, Anh Sơn, Kẻ Li (Quỳ Châu). Trữ lượng đáng kể là mỏ Yên Cứ (Hưng Nguyên) 1,4 triệu tấn[cần dẫn nguồn], mỏ Hoa Sen (Nam Đàn) có trữ lượng 111.000 tấn[cần dẫn nguồn], mỏ Nam Lộc có trữ lượng 665.000 tấn[cần dẫn nguồn], mỏ Khe Su có trữ lượng 501.000 tấn. Bô xít có tổng trữ lượng khoảng 0,2 triệu tấn. Bô xít có ở Sơn Thành (Yên Thành), Diễn Lâm (Diễn Châu), Nghĩa Lâm (Nghĩa Đàn), trong đó mỏ Sơn Thành có trữ lượng lớn nhất 257.000 tấn[cần dẫn nguồn]. Phốtphorít toàn tỉnh có trữ lượng dự báo khoảng 130.000 tấn[cần dẫn nguồn], nhưng phân tán ở các huyện ở Thanh Chương, Yên Thành, Quỳnh Lưu, Đô Lương, Anh Sơn và Con Cuông. Titani có ở Cửa Hội và Nghi Thọ tồn tại dưới dạng inmenít (TiO2). Tổng trữ lượng 22.600 tấn[cần dẫn nguồn] trong đó Cửa Hội 20.500 tấn[cần dẫn nguồn]. Vàng trữ lượng được đánh giá khoảng 20 tấn, chủ yếu là vàng sa khoáng ở dọc sông Cả, sông Hiếu. Mỏ vàng gốc Tà Sỏi với trữ lượng dự báo 8 tấn. Đá quý tập trung ở Quỳ Hợp, Quỳ Châu... chủ yếu là rubi. Nước khoáng có nhiều mỏ dễ khai thác. Mỏ Bản Khạng (Quỳ Hợp) thuộc loại khoáng cacbonic là loại được ưa chuộng, có lưu lượng 0,5 lít/giây[cần dẫn nguồn]. Các mỏ Bản Hợp, Bản Bo, Bản Lang (Quỳ Hợp), Cồn Soi (Nghĩa Đàn), Vĩnh Giang (Đô Lương) đều có thể khai thác sử dụng ngay. Than đá: tập trung ở Khe Bố (Tương Dương), Đồn Phục (Con Cuông). Than bùn: Tập trung ở Tân Kỳ, Nghĩa Đàn. [B]Dân số[/B] Dân số Nghệ An (2004) có 3.003.200 người [B]Hành chính [/B] Nghệ An bao gồm 1 thành phố trực thuộc, 2 thị xã và 17 huyện: Thành phố Vinh Thị xã Cửa Lò Thị xã Thái Hòa Huyện Anh Sơn Huyện Con Cuông Huyện Diễn Châu Huyện Đô Lương Huyện Hưng Nguyên Huyện Quỳ Châu Huyện Kỳ Sơn Huyện Nam Đàn Huyện Nghi Lộc Huyện Nghĩa Đàn Huyện Quế Phong Huyện Quỳ Hợp Huyện Quỳnh Lưu Huyện Tân Kỳ Huyện Thanh Chương Huyện Tương Dương Huyện Yên Thành [B]Công nghiệp[/B] Chủ yếu là ximăng, bia, đường Du lịch Có bãi tắm Cửa Lò là khu nghỉ mát, khu di tích Hồ Chí Minh, khu di tích đền Cuông. Năm 2008, Khu du lịch Bãi Lữ được đưa vào khai thác. [B]Danh nhân[/B] Mai Hắc Đế Bạch Liêu Nguyễn Cảnh Chân Nguyễn Cảnh Dị Nguyễn Xí Hồ Tông Thốc Bùi Tá Hán Hồ Sĩ Dương Hồ Xuân Hương Nguyễn Trường Tộ Trần Tấn Nguyễn Đức Đạt Nguyễn Thức Tự Cao Xuân Dục Đặng Văn Thụy Phan Bội Châu Đặng Thái Thân Nguyễn Xuân Ôn Nguyễn Tư Nghiêm Hồ Chí Minh Lê Hồng Phong Nguyễn Thị Minh Khai Tạ Quang Bửu Đặng Thai Mai Phạm Hồng Thái Nguyễn Sỹ Sách Lê Hồng Sơn Phan Đăng Lưu Hồ Tùng Mậu Phùng Chí Kiên Nguyễn Phong Sắc Trần Văn Cung Tôn Quang Phiệt Trần Quốc Hoàn Nguyễn Duy Trinh Cao Xuân Huy Nguyễn Văn Tý Sưu tầm [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
DU LỊCH
Địa lí Việt Nam
Địa lí KT-XH Việt Nam
Khái Quát Về Nghệ An
Top