Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Triết học phương Đông
Khái quát sự phát triển của Nho giáo thời kỳ Lý-Trần
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Chị Lan" data-source="post: 34464" data-attributes="member: 28779"><p>Cùng với việc mở rộng giáo dục thi cử, chế độ phong kiến trên con đường đi lên đòi hỏi phải phát triển các ngành học thuật, phát triển các lĩnh vực tri thức để xây dựng một nền văn hóa đặc sắc với bản sắc riêng của mình để có thể đứng vững trước mọi thử thách của kẻ thù xâm lược từ bên ngoài và âm mưu đồng hóa của chúng. Kể từ thời Lý trở đi, sự phát triển về tri thức khoa học và sáng tạo nghệ thuật của đất nước ta có một bước tiến rõ rệt biểu hiện trên các lĩnh vực lý luận chính trị và pháp quyền, sáng tác văn học và quốc sử. Nho giáo với tư cách là một học thuyết chính trị đạo đức có thể lấy văn để chở đạo, lấy sử ký để giáo hóa con người, quan tâm đến các lĩnh vực thiên văn, địa lý và nhân sự… đã từng bước thâm nhập vào các lĩnh vực tư tưởng văn hóa của xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết để tiếp tục phát triển mạnh mẽ dưới thời Trần và các thế kỷ sau. Dấu hiệu rõ rệt cho thấy sự có mặt của Nho giáo trong lĩnh vực tư tưởng chính trị - xã hội ngay từ thời nhà Lý là ở bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn. Mở đầu bài chiếu, Lý Công Uẩn đã dẫn ra những điển tích về vua Bàn Canh, vua Thành Vương của thời Tam Đại để khẳng định chủ trương dời đô của mình là đúng đắn, nhằm mưu nghiệp lớn, làm kế lâu dài cho con cháu: “Ngày xưa, nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua Tam đại ấy theo ý riêng tự dời đô xằng bậy đâu. Làm như thế cốt để mưu nghiệp. Trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đô, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời. Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh” . Chủ trương dời đô đã đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, nguyện vọng của giai cấp cầm quyền về việc xây dựng một quốc gia độc lập, giàu mạnh, một xã hội thái bình, thịnh trị - xã hội mà trong quan niệm của các bậc vua quan và nho sĩ thời Lý - Trần là một xã hội phong kiến Việt Nam trị bình theo lý tưởng Nho giáo, là xã hội như của Đường Ngu, Nghiêu Thuấn. Vua Lý Thánh Tông từng nói: “Thời Đường Ngu chỉ vạch hình mà người không dám phạm, không đánh mà khuất phục được binh của người, giũ áo khoanh tay mà thiên hạ đại trị, cho nên các sao không đi trái, sấm mưa không thất thường, chim muông đến múa, phượng hoàng lại chầu, bốn di theo về, trăm man hướng hóa, không hiểu làm sao mà được đến như thế!” . Các nho sĩ thời Trần cũng bày tỏ mong muốn về một xã hội theo quan niệm của Nho giáo, về những vị vua như Nghiêu Thuấn, Văn Vương, Thành Thang. Trong bài Phú lầu Cần Chính, Nguyễn Pháp đã khuyên vua nên noi gương của Nghiêu Thuấn, Văn Vương để chuyên tâm vào việc trị nước: “Thanh sắc lánh xa chẳng thiết, bắn săn bỏ dứt không chơi. Cấm gấm vóc không cho là quý, mặc giản đơn làm trước mọi người. Dù phú không màng dật lạc, nghĩ nghiệp vua khó nhọc lâu dài. Thức khuya dậy sớm, sử dụng hiền tài. Thân coi chính sự nắm hết quyền oai. Đức Nghiêu, Thuấn mong rằng sánh kịp công vua Văn cố gắng theo đòi” . Hay như sử gia Lê Văn Hưu đời Trần cũng rất mực đề cao đường lối trị nước của các vua thời Tam đại, coi đó là những tấm gương mẫu mực về đạo đức để các nhà cầm quyền học tập: “Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành phong tục mặc áo đội mũ (như Trung Hoa), đất Ngô Cối không có Thái Bá thì không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, chỉ xem ở đức mà thôi” . Nêu ra các điển tích và các khuôn mẫu theo quan niệm của Nho giáo, các bậc vua quan và nho sĩ dưới thời Lý - Trần đã coi đó như là những bài học kinh nghiệm, những mực thước trong việc trị nước yên dân để xây dựng một xã hội phong kiến thái bình, thịnh trị.</p><p></p><p>Tư tưởng về “trời”, “mệnh trời” được vua quan dưới thời Lý - Trần sử dụng phổ biến cũng cho thấy ảnh hưởng khá sâu rộng của quan niệm duy tâm thần bí Hán Nho. Việc Lý Công Uẩn lên ngôi được giải thích là “ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhân thời mở vận” . Khi dời đô ra Thăng Long, Lý Công Uẩn cũng viện dẫn “ý trời, lòng dân” làm cơ sở cho chủ trương dời đô của mình. Bài “Nam quốc sơn hà” bất hủ của Lý Thường Kiệt trong cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077) đã khẳng định nền độc lập và chủ quyền của nước Đại Việt là một sự thật theo đúng ý trời và đã được định trước trong sách trời: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên phân định tại thiên thư”. Bên cạnh đó, những quan niệm coi vua là người thi hành mệnh trời, giữa trời và người có mối quan hệ tương cảm với nhau lại cho thấy dấu vết tư tưởng “Thiên nhân cảm ứng”, “Thiên nhân tương dữ” của Hán Nho. Sử chép, vào năm 1012 khi vua Lý Thái Tổ thân chinh đi đánh Diễn Châu về đến Vũng Biện gặp lúc trời đất tối sầm, gió sấm dữ dội, “vua đốt hương khấn trời rằng: “Tôi là người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ như sắp sa xuống vực sâu không dám cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy. Chỉ vì người Diễn Châu không giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân, tội ác chồng chất, đến nay không thể dung tha không đánh. Còn như trong khi đánh nhau, hoặc giết oan kẻ trung hiếu, hoặc hại lầm kẻ hiền lương, đến nỗi hoàng thiên nổi giận phải tỏ cho biết lỗi lầm, dẫu gặp tổn hại cũng không dám oán trách. Đến như sáu quân thì tội lỗi có thể dung thứ, xin lòng trời soi xét”. Khấn xong, gió sấm đều yên lặng” Thời Trần, khi có tai dị xảy ra như hạn hán, các vua quan thường cầu đảo để cho mưa xuống. Nguyễn Phi Khanh đã có bài thơ ghi lại việc chuẩn bị cầu mưa như sau: “Rừng rực đất đai khắp nơi khô cháy, Một trận mưa của trời gieo khắp ơn sâu. Quốc gia sắp làm lễ thỉnh tội để cầu mưa trọng thể, Trời đem lại khí hòa, dân đã thấm khắp niềm vui. Rồng nằm vốn là con vật của nhân gian, Tiếu tượng của trời có thể hẹn mưa dầm trong năm hạn. Chẳng phải dùng làm gì cái lẽ đưa một thân hình gầy còm ra phơi ngoài chợ, Xưa nay chỉ có lòng chí thành là cảm đến trời” . Ở đây, ông đã coi việc hạn hán là do trời giáng tội xuống nhân gian và chịu tội trước hết là vua, rằng nếu vua chịu tội với trời thì được nhân hòa, nhân dân thấm khắp niềm vui và chỉ cần nhà vua thành tâm tu thân sửa đức thì trời sẽ ban cho điềm lành, tức là cảm hóa được trời đúng như quan niệm “thiên nhân cảm ứng” của Hán Nho.</p><p></p><p>Dưới thời Lý - Trần, các khái niệm đạo đức của Nho giáo như trung, hiếu, nhân nghĩa… đã được vận dụng vào lĩnh vực chính trị và ngày càng trở thành chuẩn mực đạo đức cho hành vi của con người trong xã hội. Sử chép: khi vua Lý Thái Tổ mất, ba vương làm phản mưu cướp ngôi, các bề tôi lúc đó đều khẳng định lòng trung, coi việc “chết vì vua gặp nạn là chức phận” . Bề tôi Lê Phụng Hiểu vạch tội ba vương là “trên quên ơn Tiên đế, dưới trái nghĩa tôi con” và ông xông lên dẹp loạn. Vua Lý Thái Tông không tiếc lời ca ngợi tấm gương trung dũng đó của bề tôi: “Ta thường xem sử nhà Đường thấy Uất Trì Kính Đức giúp nạn vua, tự nghĩ là bề tôi đời sau không ai sánh được. Ngày nay gặp biến, mới biết Phụng Hiểu còn trung dũng hơn Kính Đức nhiều” . Tô Hiến Thành đời Lý Anh Tông cũng được coi là tấm gương trung nghĩa cho các nho sĩ đời sau khi ông kiên quyết không để bị quyền lợi mua chuộc, mà khẳng khái rằng: “Làm việc bất nghĩa mà được giàu sang, kẻ trung thần nghĩa sĩ đâu có vui mà làm” . Đến đời Trần, xuất phát từ thực tiễn của công cuộc dựng nước và giữ nước lúc bấy giờ, sự trung nghĩa được nhấn mạnh như một yêu cầu quan trọng đối với các binh tướng trong cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước, bảo vệ an nguy cho triều đình. Trần Quốc Tuấn – người được đánh giá là “có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa” - trong bài Hịch tướng sĩ, đã lấy những tấm gương trung liệt trong lịch sử Trung Quốc để giáo dục các tì tướng của mình: “Ta từng nghe, Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu giơ lưng chịu giáo che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay cứu nạn cho nước; Kính Đức, một chàng trẻ tuổi, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung; Cảo Khanh, một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào không có” . Từ đó, ông phê phán thái độ thờ ơ, lãnh đạm của các tì tướng, kêu gọi lòng trung thành của họ với triều đình, rửa nhục cho đất nước. Nhìn chung, nội dung tư tưởng Nho giáo thời kỳ Lý - Trần chủ yếu là xoay quanh tư tưởng chính trị xã hội với những vấn đề về mẫu hình lý tưởng của xã hội phong kiến Việt Nam, về đường lối cai trị, vấn đề xây dựng bộ máy chính quyền phong kiến, vấn đề về đạo đức, tiết tháo của bậc trung thần, nghĩa sĩ… là những vấn đề có liên hệ mật thiết đến sự phát triển của chế độ phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế ở Việt Nam đương thời, góp phần củng cố sự thống nhất của xã hội, tạo ra một trật tự xã hội theo lễ và pháp, phục vụ cho yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên ở thời Trần, Nho giáo chưa phải là nhân tố quyết định sự phát triển và nội dung của tư tưởng chính trị - xã hội mà chính thực tiễn phong phú và hào hùng của công cuộc dựng nước, giữ nước của nhân dân ta có vai trò quyết định nội dung tư tưởng chính trị - xã hội. Những khái niệm của Nho giáo được vua quan và nho sĩ thời kỳ Lý - Trần sử dung cũng chứa đựng những nội dung thiết thực và gần gũi với công cuộc đấu tranh của dân tộc. Tuy nhiên, vì Nho giáo là hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến, gắn với yêu cầu củng cố địa vị của giai cấp thống trị nên cùng với sự phát triển của nó, Nho giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam ngày càng bộc lộ những hạn chế của nó, đó là bệnh khuôn sáo và từ chương ngày càng phát triển mạnh trong lĩnh vực tư tưởng và ý thức hệ, trong giáo dục khoa cử… làm cho sự sáng tạo trong các lĩnh vực này dần dần bị dập vào những khuôn khổ sẵn có. </p><p></p><p>Cuối thế kỷ XIV, Nho giáo phát triển mạnh, giáo dục Nho học giữ vị trí chủ đạo trong nền giáo dục đất nước, Nho giáo chiếm ưu thế trong cung đình và đi sâu vào sinh hoạt tinh thần của Đại Việt trên nhiều mặt. Tầng lớp nho sĩ trở nên đông đảo, và tích cực tham gia các công việc chính trị của đất nước, phấn đấu cho lý tưởng của Nho giáo, phát triển những quan điểm về các mặt chính trị, xã hội, đạo đức làm cho sinh hoạt tư tưởng và văn hóa nước nhà khá náo nhiệt. Bên cạnh đó, vào cuối Trần, xã hội phong kiến Việt Nam bước vào khủng hoảng, sự phát triển quá mức của đạo Phật đã gây ra những hậu quả xã hội nặng nề như tầng lớp quý tộc lợi dụng danh nghĩa tôn giáo ra sức xây chùa, đúc tượng; nhà chùa chiếm hữu nhiều ruộng đất, tiêu phí nhiều tiền của, tăng ni độ điệp ngày một đông đến mức chiếm quá nửa dân số. Lúc này xuất hiện khuynh hướng công kích vào Phật giáo từ phía các nho sĩ ngày một mạnh mẽ, rầm rộ, phản ánh những mâu thuẫn vốn có trong xã hội phong kiến giữa một bên là tôn thất nhà vua có thế lực, có sản nghiệp, có khuynh hướng ủng hộ Phật giáo với một bên là ngoại tộc đi lên bằng tài năng trí tuệ. Lê Văn Hưu đã đứng trên lập trường của nhà Nho để lên án việc tiêu phí tiền của, sức lực của nhân dân vào việc xây dựng chùa chiền, tháp miếu: “Lý Thái Tổ lên ngôi mới được hai năm tông miếu chưa dựng, xã tắc chưa xây, mà trước hết đã dựng tám ngôi chùa ở phủ Thiên Đức, lại sửa chữa chùa quán ở các lộ, cấp độ điệp cho hơn một nghìn sư sãi ở kinh đô. Thế thì tiêu phí sức lực, của cải cho việc xây chùa, làm tháp biết bao nhiêu mà kể. Của cải chẳng phải trời mưa cho, sức lực chẳng phải thần làm cho, như thế há chẳng phải là khơi vét máu mỡ của dân ư? Khơi vét máu mỡ của dân có thể gọi là tu phúc được chăng? Bậc vua sáng nghiệp tự mình cần kiệm lo con cháu ngày sau xa xỉ lười nhác, huống chi Thái Tổ nêu gương như thế, trách gì con cháu đời sau chẳng lo chùa tháp cao ngút trời, trồng cột chùa đá đạm, chùa Phật lộng lẫy cả cung vua. Người dưới học theo có kẻ hủy hoại thân thể, thay đổi cách ăn mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích. Dân quá nửa là sư sãi, khắp nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đó mà ra sao” . Trương Hán Siêu thì tố cáo các nhà sư chiếm đoạt ruộng vườn, nhà cửa, ham mê cảnh đẹp, coi sự phát triển quá mức của đạo Phật đã gây ra tác hại cho sản xuất: “Những kẻ giảo hoạt trong bọn sư sãi lại bỏ mất cái bản ý “khổ không” của đạo Phật mà chỉ chăm lo chiếm những nơi đất tốt cảnh đẹp, tự giát vàng, nạm ngọc cho chỗ ở của chúng rực rỡ, tô điểm cho môn đồ của chúng lộng lẫy như voi rồng. Đương thời bọn có quyền thế, bọn ngoại đạo a dua lại đòi hùa theo. Vì thế những nơi u nhã thanh kỳ trong nước, chùa chiền đã chiếm mất một nửa. Bọn áo thâm, áo vàng đang tụ tập ở đấy, không cày mà ăn, không dệt mà mặc, những người thất phu, thất phụ thường bỏ cửa nhà, bỏ làng xóm lũ lượt quy theo” . Không chỉ phê phán những tệ nạn và những hậu quả tiêu cực do sự phát triển rầm rộ của Phật giáo, một số nhà Nho còn công kích cả giáo lý của nhà Phật. Trong bài văn bia Chùa Thiện Phúc, Lê Quát đã lên án nhà chùa lấy điều họa phúc để mê hoặc lòng người, làm cho người ta tin theo. Trong bài ký Tháp Linh tế, Trương Hán Siêu đã mạt sát tín đồ đạo Phật là yêu ma, gian tà, cho giáo lý Phật giáo chỉ mê hoặc chúng sinh: “Đức Thích Ca lão trượng lấy “tam không” để chứng đạo khi Phật tịch rồi, đời sau ít người tôn thờ giáo lý của Phật mà chỉ làm mê hoặc chúng sinh. Đất thiên hạ năm phần, chùa chiền chiếm một, làm cho hư nát đạo thường, hao phí tiền của; bọn sư sãi thì dông dài mà những người khờ khạo lại tin theo. Như thế mà không trở thành quỷ quái gian tà cũng thật hiếm có” . Trong khi công kích, bài xích Phật giáo, các nho sĩ nhà Trần đồng thời cũng đề cao Nho giáo, giành lấy trận địa tư tưởng cho Nho giáo. Trương Hán Siêu cho rằng: “Ngày nay thánh hiền muốn mở mang giáo hóa để sửa đổi phong tục đồi bại. Dị đoan đáng phải truất bỏ, chính đạo phải được phục hưng. Đã là kẻ sĩ đại phu, không phải đạo Nghiêu Thuấn không bày tỏ trước vua; không phải đạo Khổng - Mạnh không trước thuật” . Đặc biệt, trong khi phê phán Nho giáo, Lê Văn Hưu dã đề cao Nho giáo như là cơ sở lý luận cho mọi hoạt động chính trị của triều đình, rằng: “Những việc trù tính trong cửa tướng, quyết thắng ngoài nghìn dặm, đều là công của bậc tướng giỏi cầm quân nơi chiến trận. Thái phó Lý Công Bình phá được quân Chân Lạp vào cướp châu Nghệ An, sai người báo tin thắng trận. Đáng lẽ Lý Thần Tông phải làm lễ cáo tiệp ở Thái Miếu, bàn công ở triều đình, khen thưởng công dẹp giặc cho bọn Lý Công Bình mới phải. Nay lại quy công cho Phật, Đạo, đến khắp các chùa và các quán lễ tạ, như thế, không phải là cách uý lạo kẻ có công, cổ lệ chí khí quân lính?” . Có thể thấy là càng vào cuối Trần, giới nho sĩ ngày càng lớn mạnh và có vị trí đáng kể trong xã hội. Họ đã nắm giữ nhiều chức vụ trọng yếu trong bộ máy nhà nước phong kiến và “họ lần lần có đủ uy lực chẳng những để dám công khai phản đối một số đặc quyền đặc lợi của quý tộc, mà còn công khai tiến công vào Phật giáo lúc Phật giáo còn là tôn giáo của nhà vua” . Cuộc đấu tranh công kích Phật giáo vừa nhằm khẳng định địa vị cho Nho giáo trong đời sống văn hóa tư tưởng xã hội, vừa được coi là cuộc đấu tranh triệt để chuẩn bị về mặt lực lượng xã hội và tư tưởng cho một tầng lớp nho sĩ bước lên vũ đài chính trị, đồng thời báo hiệu sự sa sút của Phật giáo không chỉ trong thực tế mà còn trong lĩnh vực tư tưởng và hình thái ý thức xã hội. Từ đây, Phật giáo nước ta không còn giữ vị trí quan trọng trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng như trước nữa, mà Nho giáo với những điều kiện phát triển khách quan, đã dần dần tiến đến nắm giữ vị trí chủ đạo trong sinh hoạt tư tưởng của nhân dân ta.</p><p><strong><em><p style="text-align: right"></p></em></strong></p><p style="text-align: right"><strong><em>Phạm Thị Loan</p></em></strong></p><p style="text-align: right"><strong><em></p><p></em></strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Chị Lan, post: 34464, member: 28779"] Cùng với việc mở rộng giáo dục thi cử, chế độ phong kiến trên con đường đi lên đòi hỏi phải phát triển các ngành học thuật, phát triển các lĩnh vực tri thức để xây dựng một nền văn hóa đặc sắc với bản sắc riêng của mình để có thể đứng vững trước mọi thử thách của kẻ thù xâm lược từ bên ngoài và âm mưu đồng hóa của chúng. Kể từ thời Lý trở đi, sự phát triển về tri thức khoa học và sáng tạo nghệ thuật của đất nước ta có một bước tiến rõ rệt biểu hiện trên các lĩnh vực lý luận chính trị và pháp quyền, sáng tác văn học và quốc sử. Nho giáo với tư cách là một học thuyết chính trị đạo đức có thể lấy văn để chở đạo, lấy sử ký để giáo hóa con người, quan tâm đến các lĩnh vực thiên văn, địa lý và nhân sự… đã từng bước thâm nhập vào các lĩnh vực tư tưởng văn hóa của xã hội, tạo ra những tiền đề cần thiết để tiếp tục phát triển mạnh mẽ dưới thời Trần và các thế kỷ sau. Dấu hiệu rõ rệt cho thấy sự có mặt của Nho giáo trong lĩnh vực tư tưởng chính trị - xã hội ngay từ thời nhà Lý là ở bài Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn. Mở đầu bài chiếu, Lý Công Uẩn đã dẫn ra những điển tích về vua Bàn Canh, vua Thành Vương của thời Tam Đại để khẳng định chủ trương dời đô của mình là đúng đắn, nhằm mưu nghiệp lớn, làm kế lâu dài cho con cháu: “Ngày xưa, nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua Tam đại ấy theo ý riêng tự dời đô xằng bậy đâu. Làm như thế cốt để mưu nghiệp. Trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đô, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời. Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh” . Chủ trương dời đô đã đáp ứng được nguyện vọng của nhân dân, nguyện vọng của giai cấp cầm quyền về việc xây dựng một quốc gia độc lập, giàu mạnh, một xã hội thái bình, thịnh trị - xã hội mà trong quan niệm của các bậc vua quan và nho sĩ thời Lý - Trần là một xã hội phong kiến Việt Nam trị bình theo lý tưởng Nho giáo, là xã hội như của Đường Ngu, Nghiêu Thuấn. Vua Lý Thánh Tông từng nói: “Thời Đường Ngu chỉ vạch hình mà người không dám phạm, không đánh mà khuất phục được binh của người, giũ áo khoanh tay mà thiên hạ đại trị, cho nên các sao không đi trái, sấm mưa không thất thường, chim muông đến múa, phượng hoàng lại chầu, bốn di theo về, trăm man hướng hóa, không hiểu làm sao mà được đến như thế!” . Các nho sĩ thời Trần cũng bày tỏ mong muốn về một xã hội theo quan niệm của Nho giáo, về những vị vua như Nghiêu Thuấn, Văn Vương, Thành Thang. Trong bài Phú lầu Cần Chính, Nguyễn Pháp đã khuyên vua nên noi gương của Nghiêu Thuấn, Văn Vương để chuyên tâm vào việc trị nước: “Thanh sắc lánh xa chẳng thiết, bắn săn bỏ dứt không chơi. Cấm gấm vóc không cho là quý, mặc giản đơn làm trước mọi người. Dù phú không màng dật lạc, nghĩ nghiệp vua khó nhọc lâu dài. Thức khuya dậy sớm, sử dụng hiền tài. Thân coi chính sự nắm hết quyền oai. Đức Nghiêu, Thuấn mong rằng sánh kịp công vua Văn cố gắng theo đòi” . Hay như sử gia Lê Văn Hưu đời Trần cũng rất mực đề cao đường lối trị nước của các vua thời Tam đại, coi đó là những tấm gương mẫu mực về đạo đức để các nhà cầm quyền học tập: “Đất Liêu Đông không có Cơ Tử thì không thành phong tục mặc áo đội mũ (như Trung Hoa), đất Ngô Cối không có Thái Bá thì không thể lên cái mạnh của bá vương. Đại Thuấn là người Đông Di nhưng là bậc vua giỏi trong Ngũ đế. Văn Vương là người Tây Di mà là bậc vua hiền trong Tam đại. Thế mới biết người giỏi trị nước không cứ đất rộng hay hẹp, chỉ xem ở đức mà thôi” . Nêu ra các điển tích và các khuôn mẫu theo quan niệm của Nho giáo, các bậc vua quan và nho sĩ dưới thời Lý - Trần đã coi đó như là những bài học kinh nghiệm, những mực thước trong việc trị nước yên dân để xây dựng một xã hội phong kiến thái bình, thịnh trị. Tư tưởng về “trời”, “mệnh trời” được vua quan dưới thời Lý - Trần sử dụng phổ biến cũng cho thấy ảnh hưởng khá sâu rộng của quan niệm duy tâm thần bí Hán Nho. Việc Lý Công Uẩn lên ngôi được giải thích là “ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhân thời mở vận” . Khi dời đô ra Thăng Long, Lý Công Uẩn cũng viện dẫn “ý trời, lòng dân” làm cơ sở cho chủ trương dời đô của mình. Bài “Nam quốc sơn hà” bất hủ của Lý Thường Kiệt trong cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077) đã khẳng định nền độc lập và chủ quyền của nước Đại Việt là một sự thật theo đúng ý trời và đã được định trước trong sách trời: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư, Tiệt nhiên phân định tại thiên thư”. Bên cạnh đó, những quan niệm coi vua là người thi hành mệnh trời, giữa trời và người có mối quan hệ tương cảm với nhau lại cho thấy dấu vết tư tưởng “Thiên nhân cảm ứng”, “Thiên nhân tương dữ” của Hán Nho. Sử chép, vào năm 1012 khi vua Lý Thái Tổ thân chinh đi đánh Diễn Châu về đến Vũng Biện gặp lúc trời đất tối sầm, gió sấm dữ dội, “vua đốt hương khấn trời rằng: “Tôi là người ít đức, lạm ở trên dân, nơm nớp lo sợ như sắp sa xuống vực sâu không dám cậy binh uy mà đi đánh dẹp càn bậy. Chỉ vì người Diễn Châu không giáo hóa, ngu bạo làm càn, tàn ngược chúng dân, tội ác chồng chất, đến nay không thể dung tha không đánh. Còn như trong khi đánh nhau, hoặc giết oan kẻ trung hiếu, hoặc hại lầm kẻ hiền lương, đến nỗi hoàng thiên nổi giận phải tỏ cho biết lỗi lầm, dẫu gặp tổn hại cũng không dám oán trách. Đến như sáu quân thì tội lỗi có thể dung thứ, xin lòng trời soi xét”. Khấn xong, gió sấm đều yên lặng” Thời Trần, khi có tai dị xảy ra như hạn hán, các vua quan thường cầu đảo để cho mưa xuống. Nguyễn Phi Khanh đã có bài thơ ghi lại việc chuẩn bị cầu mưa như sau: “Rừng rực đất đai khắp nơi khô cháy, Một trận mưa của trời gieo khắp ơn sâu. Quốc gia sắp làm lễ thỉnh tội để cầu mưa trọng thể, Trời đem lại khí hòa, dân đã thấm khắp niềm vui. Rồng nằm vốn là con vật của nhân gian, Tiếu tượng của trời có thể hẹn mưa dầm trong năm hạn. Chẳng phải dùng làm gì cái lẽ đưa một thân hình gầy còm ra phơi ngoài chợ, Xưa nay chỉ có lòng chí thành là cảm đến trời” . Ở đây, ông đã coi việc hạn hán là do trời giáng tội xuống nhân gian và chịu tội trước hết là vua, rằng nếu vua chịu tội với trời thì được nhân hòa, nhân dân thấm khắp niềm vui và chỉ cần nhà vua thành tâm tu thân sửa đức thì trời sẽ ban cho điềm lành, tức là cảm hóa được trời đúng như quan niệm “thiên nhân cảm ứng” của Hán Nho. Dưới thời Lý - Trần, các khái niệm đạo đức của Nho giáo như trung, hiếu, nhân nghĩa… đã được vận dụng vào lĩnh vực chính trị và ngày càng trở thành chuẩn mực đạo đức cho hành vi của con người trong xã hội. Sử chép: khi vua Lý Thái Tổ mất, ba vương làm phản mưu cướp ngôi, các bề tôi lúc đó đều khẳng định lòng trung, coi việc “chết vì vua gặp nạn là chức phận” . Bề tôi Lê Phụng Hiểu vạch tội ba vương là “trên quên ơn Tiên đế, dưới trái nghĩa tôi con” và ông xông lên dẹp loạn. Vua Lý Thái Tông không tiếc lời ca ngợi tấm gương trung dũng đó của bề tôi: “Ta thường xem sử nhà Đường thấy Uất Trì Kính Đức giúp nạn vua, tự nghĩ là bề tôi đời sau không ai sánh được. Ngày nay gặp biến, mới biết Phụng Hiểu còn trung dũng hơn Kính Đức nhiều” . Tô Hiến Thành đời Lý Anh Tông cũng được coi là tấm gương trung nghĩa cho các nho sĩ đời sau khi ông kiên quyết không để bị quyền lợi mua chuộc, mà khẳng khái rằng: “Làm việc bất nghĩa mà được giàu sang, kẻ trung thần nghĩa sĩ đâu có vui mà làm” . Đến đời Trần, xuất phát từ thực tiễn của công cuộc dựng nước và giữ nước lúc bấy giờ, sự trung nghĩa được nhấn mạnh như một yêu cầu quan trọng đối với các binh tướng trong cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước, bảo vệ an nguy cho triều đình. Trần Quốc Tuấn – người được đánh giá là “có tài mưu lược, anh hùng, lại một lòng giữ gìn trung nghĩa” - trong bài Hịch tướng sĩ, đã lấy những tấm gương trung liệt trong lịch sử Trung Quốc để giáo dục các tì tướng của mình: “Ta từng nghe, Kỷ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu giơ lưng chịu giáo che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay cứu nạn cho nước; Kính Đức, một chàng trẻ tuổi, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung; Cảo Khanh, một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào không có” . Từ đó, ông phê phán thái độ thờ ơ, lãnh đạm của các tì tướng, kêu gọi lòng trung thành của họ với triều đình, rửa nhục cho đất nước. Nhìn chung, nội dung tư tưởng Nho giáo thời kỳ Lý - Trần chủ yếu là xoay quanh tư tưởng chính trị xã hội với những vấn đề về mẫu hình lý tưởng của xã hội phong kiến Việt Nam, về đường lối cai trị, vấn đề xây dựng bộ máy chính quyền phong kiến, vấn đề về đạo đức, tiết tháo của bậc trung thần, nghĩa sĩ… là những vấn đề có liên hệ mật thiết đến sự phát triển của chế độ phong kiến trung ương tập quyền chuyên chế ở Việt Nam đương thời, góp phần củng cố sự thống nhất của xã hội, tạo ra một trật tự xã hội theo lễ và pháp, phục vụ cho yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước. Tuy nhiên ở thời Trần, Nho giáo chưa phải là nhân tố quyết định sự phát triển và nội dung của tư tưởng chính trị - xã hội mà chính thực tiễn phong phú và hào hùng của công cuộc dựng nước, giữ nước của nhân dân ta có vai trò quyết định nội dung tư tưởng chính trị - xã hội. Những khái niệm của Nho giáo được vua quan và nho sĩ thời kỳ Lý - Trần sử dung cũng chứa đựng những nội dung thiết thực và gần gũi với công cuộc đấu tranh của dân tộc. Tuy nhiên, vì Nho giáo là hệ tư tưởng của giai cấp phong kiến, gắn với yêu cầu củng cố địa vị của giai cấp thống trị nên cùng với sự phát triển của nó, Nho giáo trong xã hội phong kiến Việt Nam ngày càng bộc lộ những hạn chế của nó, đó là bệnh khuôn sáo và từ chương ngày càng phát triển mạnh trong lĩnh vực tư tưởng và ý thức hệ, trong giáo dục khoa cử… làm cho sự sáng tạo trong các lĩnh vực này dần dần bị dập vào những khuôn khổ sẵn có. Cuối thế kỷ XIV, Nho giáo phát triển mạnh, giáo dục Nho học giữ vị trí chủ đạo trong nền giáo dục đất nước, Nho giáo chiếm ưu thế trong cung đình và đi sâu vào sinh hoạt tinh thần của Đại Việt trên nhiều mặt. Tầng lớp nho sĩ trở nên đông đảo, và tích cực tham gia các công việc chính trị của đất nước, phấn đấu cho lý tưởng của Nho giáo, phát triển những quan điểm về các mặt chính trị, xã hội, đạo đức làm cho sinh hoạt tư tưởng và văn hóa nước nhà khá náo nhiệt. Bên cạnh đó, vào cuối Trần, xã hội phong kiến Việt Nam bước vào khủng hoảng, sự phát triển quá mức của đạo Phật đã gây ra những hậu quả xã hội nặng nề như tầng lớp quý tộc lợi dụng danh nghĩa tôn giáo ra sức xây chùa, đúc tượng; nhà chùa chiếm hữu nhiều ruộng đất, tiêu phí nhiều tiền của, tăng ni độ điệp ngày một đông đến mức chiếm quá nửa dân số. Lúc này xuất hiện khuynh hướng công kích vào Phật giáo từ phía các nho sĩ ngày một mạnh mẽ, rầm rộ, phản ánh những mâu thuẫn vốn có trong xã hội phong kiến giữa một bên là tôn thất nhà vua có thế lực, có sản nghiệp, có khuynh hướng ủng hộ Phật giáo với một bên là ngoại tộc đi lên bằng tài năng trí tuệ. Lê Văn Hưu đã đứng trên lập trường của nhà Nho để lên án việc tiêu phí tiền của, sức lực của nhân dân vào việc xây dựng chùa chiền, tháp miếu: “Lý Thái Tổ lên ngôi mới được hai năm tông miếu chưa dựng, xã tắc chưa xây, mà trước hết đã dựng tám ngôi chùa ở phủ Thiên Đức, lại sửa chữa chùa quán ở các lộ, cấp độ điệp cho hơn một nghìn sư sãi ở kinh đô. Thế thì tiêu phí sức lực, của cải cho việc xây chùa, làm tháp biết bao nhiêu mà kể. Của cải chẳng phải trời mưa cho, sức lực chẳng phải thần làm cho, như thế há chẳng phải là khơi vét máu mỡ của dân ư? Khơi vét máu mỡ của dân có thể gọi là tu phúc được chăng? Bậc vua sáng nghiệp tự mình cần kiệm lo con cháu ngày sau xa xỉ lười nhác, huống chi Thái Tổ nêu gương như thế, trách gì con cháu đời sau chẳng lo chùa tháp cao ngút trời, trồng cột chùa đá đạm, chùa Phật lộng lẫy cả cung vua. Người dưới học theo có kẻ hủy hoại thân thể, thay đổi cách ăn mặc, bỏ sản nghiệp, trốn thân thích. Dân quá nửa là sư sãi, khắp nước chỗ nào cũng chùa chiền, nguồn gốc há chẳng phải từ đó mà ra sao” . Trương Hán Siêu thì tố cáo các nhà sư chiếm đoạt ruộng vườn, nhà cửa, ham mê cảnh đẹp, coi sự phát triển quá mức của đạo Phật đã gây ra tác hại cho sản xuất: “Những kẻ giảo hoạt trong bọn sư sãi lại bỏ mất cái bản ý “khổ không” của đạo Phật mà chỉ chăm lo chiếm những nơi đất tốt cảnh đẹp, tự giát vàng, nạm ngọc cho chỗ ở của chúng rực rỡ, tô điểm cho môn đồ của chúng lộng lẫy như voi rồng. Đương thời bọn có quyền thế, bọn ngoại đạo a dua lại đòi hùa theo. Vì thế những nơi u nhã thanh kỳ trong nước, chùa chiền đã chiếm mất một nửa. Bọn áo thâm, áo vàng đang tụ tập ở đấy, không cày mà ăn, không dệt mà mặc, những người thất phu, thất phụ thường bỏ cửa nhà, bỏ làng xóm lũ lượt quy theo” . Không chỉ phê phán những tệ nạn và những hậu quả tiêu cực do sự phát triển rầm rộ của Phật giáo, một số nhà Nho còn công kích cả giáo lý của nhà Phật. Trong bài văn bia Chùa Thiện Phúc, Lê Quát đã lên án nhà chùa lấy điều họa phúc để mê hoặc lòng người, làm cho người ta tin theo. Trong bài ký Tháp Linh tế, Trương Hán Siêu đã mạt sát tín đồ đạo Phật là yêu ma, gian tà, cho giáo lý Phật giáo chỉ mê hoặc chúng sinh: “Đức Thích Ca lão trượng lấy “tam không” để chứng đạo khi Phật tịch rồi, đời sau ít người tôn thờ giáo lý của Phật mà chỉ làm mê hoặc chúng sinh. Đất thiên hạ năm phần, chùa chiền chiếm một, làm cho hư nát đạo thường, hao phí tiền của; bọn sư sãi thì dông dài mà những người khờ khạo lại tin theo. Như thế mà không trở thành quỷ quái gian tà cũng thật hiếm có” . Trong khi công kích, bài xích Phật giáo, các nho sĩ nhà Trần đồng thời cũng đề cao Nho giáo, giành lấy trận địa tư tưởng cho Nho giáo. Trương Hán Siêu cho rằng: “Ngày nay thánh hiền muốn mở mang giáo hóa để sửa đổi phong tục đồi bại. Dị đoan đáng phải truất bỏ, chính đạo phải được phục hưng. Đã là kẻ sĩ đại phu, không phải đạo Nghiêu Thuấn không bày tỏ trước vua; không phải đạo Khổng - Mạnh không trước thuật” . Đặc biệt, trong khi phê phán Nho giáo, Lê Văn Hưu dã đề cao Nho giáo như là cơ sở lý luận cho mọi hoạt động chính trị của triều đình, rằng: “Những việc trù tính trong cửa tướng, quyết thắng ngoài nghìn dặm, đều là công của bậc tướng giỏi cầm quân nơi chiến trận. Thái phó Lý Công Bình phá được quân Chân Lạp vào cướp châu Nghệ An, sai người báo tin thắng trận. Đáng lẽ Lý Thần Tông phải làm lễ cáo tiệp ở Thái Miếu, bàn công ở triều đình, khen thưởng công dẹp giặc cho bọn Lý Công Bình mới phải. Nay lại quy công cho Phật, Đạo, đến khắp các chùa và các quán lễ tạ, như thế, không phải là cách uý lạo kẻ có công, cổ lệ chí khí quân lính?” . Có thể thấy là càng vào cuối Trần, giới nho sĩ ngày càng lớn mạnh và có vị trí đáng kể trong xã hội. Họ đã nắm giữ nhiều chức vụ trọng yếu trong bộ máy nhà nước phong kiến và “họ lần lần có đủ uy lực chẳng những để dám công khai phản đối một số đặc quyền đặc lợi của quý tộc, mà còn công khai tiến công vào Phật giáo lúc Phật giáo còn là tôn giáo của nhà vua” . Cuộc đấu tranh công kích Phật giáo vừa nhằm khẳng định địa vị cho Nho giáo trong đời sống văn hóa tư tưởng xã hội, vừa được coi là cuộc đấu tranh triệt để chuẩn bị về mặt lực lượng xã hội và tư tưởng cho một tầng lớp nho sĩ bước lên vũ đài chính trị, đồng thời báo hiệu sự sa sút của Phật giáo không chỉ trong thực tế mà còn trong lĩnh vực tư tưởng và hình thái ý thức xã hội. Từ đây, Phật giáo nước ta không còn giữ vị trí quan trọng trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng như trước nữa, mà Nho giáo với những điều kiện phát triển khách quan, đã dần dần tiến đến nắm giữ vị trí chủ đạo trong sinh hoạt tư tưởng của nhân dân ta. [B][I][RIGHT] Phạm Thị Loan [/RIGHT][/I][/B] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Triết học phương Đông
Khái quát sự phát triển của Nho giáo thời kỳ Lý-Trần
Top