Chia Sẻ Khái niệm về ngôn ngữ và ngôn ngữ học

Trang Dimple

New member
Xu
38
KHÁI NIỆM VỀ NGÔN NGỮ VÀ NGÔN NGỮ HỌC

9_2.jpg
1. Ngôn ngữ là gì?
1.1 Theo cách hiểu thông thường.

Người ta có thể sử dụng từ ngôn ngữ để chỉ một hệ thống kí hiệu bất kì dùng để diễn đạt, thông báo một nội dung nào đó. Thí dụ: ngôn ngữ điện ảnh là toàn bộ những phương tiện nghệ thuật được các nhà làm phim sử dụng để phản ánh hiện thực; ngôn ngữ hội họa là toàn bộ những đường nét, màu sắc, hình khối mà họa sĩ sử dụng để phản ánh thế giới; ngôn ngữ của loài ong là toàn bộ những "vũ điệu" mà loài ong sử dụng để báo cho nhau về nơi chốn có hoa và lượng hoa...

Ðôi khi người ta còn dùng từ ngôn ngữ để chỉ đặc điểm khái quát trong việc sử dụng ngôn ngữ của một tác giả, một tầng lớp hay một lứa tuổi hoặc một phong cách ngôn ngữ cụ thể. Thí dụ: ngôn ngữ Nguyễn Du, ngôn ngữ trẻ em, ngôn ngữ báo chí...

Tuy nhiên, theo cách hiểu phổ biến và chủ yếu nhất, ngôn ngữ là hệ thống kí hiệu bao gồm hệ thống những âm, những từ và những quy tắc kết hợp các từ mà những người trong cùng một cộng đồng sử dụng làm phương tiện để giao tiếp với nhau. Thí dụ: tiếng Nga, tiếng Việt là hai ngôn ngữ khác nhau.

1.2 Theo lối duy danh định nghĩa

Theo lối này, người ta có thể hiểu ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội gồm hai mặt: ngôn và ngữ.

- Ngôn là lời nói do các cá nhân trong xã hội nói ra mà ta nghe được. Lời nói được tạo ra bởi các âm, các thanh và chứa đựng nội dung thông tin, có thể gồm một hoặc nhiều câu nói. Ở các xã hội đã phát triển, đã có chữ viết, lời nói có thể được ghi lại dưới dạng lời viết.

- Ngữ là phần trừu tượng tồn tại trong trí óc của một cộng đồng xã hội thường là một tộc người. Ðấy là một kho tàng được thực tế nói năng của những người cùng một cộng đồng ngôn ngữ lưu lại.

1.3 Theo cách hiểu của Ferdinand de Saussure (1857-1913)

Ngôn ngữ được hiểu như một thuật ngữ ngôn ngữ học. Giáo trình Ngôn ngữ học đại cương xuất bản năm 1916 của Saussure đã quan niệm hoạt động ngôn ngữ gồm hai mặt: mặt ngôn ngữ và mặt lời nói. Theo ông, ngôn ngữ là một hợp thể gồm những quy ước tất yếu được tập thể xã hội chấp nhận,(...) Ðó là một kho tàng được thực tiễn nói năng của những người thuộc cùng một cộng đồng ngôn ngữ lưu lại, một hệ thống tín hiệu, một hệ thống ngữ pháp tồn tại dưới dạng tiềm năng trong mỗi bộ óc, hay, nói cho đúng hơn trong các bộ óc của một tập thể. (1) Những tín hiệu và quy tắc trừu tượng đó tồn tại ở cả mặt ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp. Hay nói khác đi, ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu tồn tại như một cái mã chung cho cả một cộng đồng ngôn ngữ dưới dạng tiềm năng để họ sử dụng chung trong nói năng. Còn lời nói là sự vận dụng và thể hiện cái mã chung đó vào hoàn cảnh nói năng cụ thể, do một con người cụ thể tiến hành. Tình hình trên tương tự như trong âm nhạc, nốt la là một nốt nhạc trừu tượng, cách si một quãng 8, cách đô một quãng 12. Nhưng trên các nhạc cụ, không có một nốt la nào giống y hệt nốt la đó. Nốt la do các nhạc cụ tấu lên sẽ gồm các đặc trưng của nốït la trừu tượng và nhiều nét riêng khác nữa. Ðiều đó khiến ta có thể dễ dàng nhận ra nốt la của các nhạc cụ khác nhau. Chẳng hạn, với một cây đàn có chất liệu tốt, nốt la nghe sẽ thanh hơn, vang hơn; với cây đàn có chất liệu xấu, nốt la nghe sẽ rè hơn, đục, ồn hơn. Ngôn ngữ giống như nốt la trừu tượng kia và lời nói giống như các nốt la trên các nhạc cụ cụ thể.

Sự khác biệt giữa ngôn ngữ và lời nói thể hiện ở các cấp độ sau:

+ Ở cấp độ ngữ âm : có sự khác biệt giữa âm vị và âm tố.

+ Ở cấp độ từ vựng : có sự khác nhau giữa từ vị và biến thể của từ vị.

+ Ở cấp độ cú pháp : có sự khác nhau giữa câu cú pháp và phát ngôn cụ thể.

Sự phân biệt giữa ngôn ngữ và lời nói như trên, dẫn đến một số hệ quả sau:

- Ngôn ngữ là sản phẩm của tập thể, lời nói là sản phẩm của cá nhân. Ban đầu có thể một âm, một từ nào đó xuất phát từ một người nào đó, nhưng sau đó, trong quá trình lưu truyền từ người này đến người khác, nó đã được sàng lọc, gọt giũa bởi tập thể. Trong quá trình đó, chỉ những đặc điểm cơ bản, khái quát nhất được giữ lại, những đặc điểm cá nhân, riêng lẻ sẽ bị loại trừ. Như vậy, những quy tắc trừu tượng của ngôn ngữ chính là sự khái quát hóa của hàng ngàn, hàng triệu cái cụ thể trong thực tế. Do đó ngôn ngữ là sản phẩm của tập thể, tồn tại dưới dạng tiềm năng trong óc của từng người bản ngữ giống như một pho tự điển để khi cần người ta chỉ việc lật ra và sử dụng. Vì ngôn ngữ là sản phẩm của tập thể nên ai cũng hiểu và sử dụng được. Còn lời nói là sản phẩm của cá nhân nên việc hiểu được còn tùy thuộc vào trình độ, lứa tuổi và thời đại... của cá nhân người đọc nữa.

- Ngôn ngữ mang tính khái quát và bền vững, lời nói mang tính cụ thể và tạm thời. Trước hết, ngôn ngữ mang tính khái quát. Nó là kết quả của quá trình trừu tượng hóa, khái quát hóa từ vô số câu nói cụ thể của các cá nhân trong xã hội. Các từ ngữ và các kiểu câu đều có tính khái quát. Chẳng hạn, từ bàn không chỉ một cái bàn cụ thể nào, nó được dùng để chỉ mọi vật dụng có đặc điểm: nhân tạo, có mặt phẳng, có chân, được dùng để đặt, để, kê, tựa... Các câu cú pháp cũng được khái quát hóa từ vô số câu cụ thể có cùng loại cấu trúc. Tính khái quát ấy dẫn đến tính bền vững của ngôn ngữ. Ðể làm được chức năng thông báo, đảm bảo mọi người có thể hiểu được nhau, ngôn ngữ tuy có phát triển trong quá trình lịch sử dài lâu nhưng phải ổn định và cố định ở bộ phận cốt yếu. Do đó, ngôn ngữ có tính bền vững. Hãy lấy một thí dụ, kiểu câu C-V là kiểu câu được khái quát hóa từ rất nhiều câu khác nhau như: "Mẹ mắng.", "Hoa đẹp.", "Bé ngủ.", "Nó khóc."... Dựa vào kiểu câu trừu tượng ấy, những con người cụ thể trong cộng đồng ngôn ngữ có thể nói ra những câu rất phong phú đại loại: Trời mưa., Mỹ Linh ca rất hay., Môn học này dễ ợt.... Các câu nói ấy, tức là lời nói, chỉ mang tính cụ thể và tạm thời, vì sau khi làm xong nhiệm vụ giao tiếp thì chúng không còn nữa.

- Số lượng đơn vị ngôn ngữ (âm vị, hình vị, từ vị) và phép tắc kết hợp chúng là hữu hạn. Số lượng các âm tố, biến thể của từ và phát ngôn cụ thể là vô hạn. Tương tự như trong âm nhạc, nốt nhạc và những quy tắc kết hợp chúng là hữu hạn. Trên cơ sở ấy, người ta có thể có vô vàn bản nhạc với những tiết tấu và giai điệu tuyệt vời khác nhau.

Tuy nhiên, theo Saussure, không có sự tách biệt rạch ròi giữa ngôn ngữ và lời nói. Theo ông, bằng cách nghe người khác nói mà ta học được tiếng mẹ đẻ. Từ nhiều câu riêng lẻ trong lời nói mà ta nghe được, dần dần đọng lại trong ta cách phát một âm, ý nghĩa một từ, cách tạo một câu... Như vậy có thể nói, ngôn ngữ và lời nói là hai mặt của một thể thống nhất, chúng có quan hệ khắng khít nhau và giả định lẫn nhau. Ngôn ngữ là cần thiết để cho lời nói có thể hiểu được và gây được tất cả những hiệu quả của nó, nhưng lời nói lại cần thiết để cho ngôn ngữ được xác lập. (1) Về phương diện lịch sử, sự kiện lời nói bao giờ cũng cóï trước. Làm sao người ta lại có thể nói được một từ nếu không được nghe nó ở đâu đó trong thực tế? Làm sao người ta có thể nói được một câu nếu đã không được nghe nhiều câu cùng một kiểu cấu trúc trong cuộc sống? Tuy nhiên, sau khi được hình thành, ngôn ngữ tác động trở lại lời nói, làm cho lời nói phát triển, sáng tạo, ngày càng trở thành một công cụ tinh vi, tế nhị để biểu đạt được mọi tư tưởng, tình cảm của con người trong những điều kiện xã hội rất khác nhau .

Một sinh ngữ bao giờ cũng là một hệ thống hoạt động. Ngôn ngữ không hoạt động sẽ là tử ngữ. Theo E. Côxeriu, ngôn ngữ hoạt động không phải vì nó là một hệ thống mà trái lại nó là một hệ thống để mà hoạt động. Như thế, học ngoại ngữ không chỉ là học lí thuyết về cách phát âm, ý nghĩa của từ, cách cấu tạo câu, mà còn phải luyện tập sử dụng chúng nữa. Có như vậy chúng ta mới nhớ lâu và đồng thời phát triển được khả năng sử dụng và sáng tạo lời nói của mình.

Tóm lại, theo cách hiểu thông thường, phổ biến nhất, ta có thể sử dụng khái niệm ngôn ngữ để chỉ một hệ thống tín hiệu giao tiếp bằng âm thanh mà một cộng đồng dân tộc nào đó sử dụng. Theo cách hiểu duy danh và khoa học, người ta có thể tách ngôn ngữ thành hai mặt gắn bó khăng khít: Mặt ngôn hay mặt lời nói là sản phẩm của cá nhân, và mặt ngữ hay mặt ngôn ngữ là sản phẩm của tập thể, là phần trừu tượng tồn tại ở dạng tiềm năng trong óc của một cộng đồng dân tộc. Nó là một hệ thống kí hiệu đặc biệt, có bản chất xã hội đặc biệt, là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người và là công cụ của tư duy. Trong giáo trình này, từ ngôn ngữ tùy trường hợp, có thể được sử dụng với một trong hai ý nghĩa trên.

2. Sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ học.


Ý kiến về thời gian ra đời của ngôn ngữ học với tư cách là một khoa học tự lập, có đối tượng riêng, phương pháp riêng, cho đến nay vẫn chưa thống nhất. Có người cho rằng ngôn ngữ học ra đời từ thế kỉ 19 cùng với sự xuất hiện của khuynh hướng so sánh - lịch sử. Người khác lại cho rằng ngôn ngữ học chỉ thực sự được hình thành từ cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, cùng với sự xuất hiện của Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của Ferdinand de Saussure. Dù chọn mốc thời gian nào đi nữa, người ta cũng không thể phủ nhận một quá trình quan tâm, mày mò, tìm hiểu ngôn ngữ của loài người từ nhiều thế kỉ trước đó.

Nếu chọn Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của Saussure làm mốc hình thành của khoa học ngôn ngữ, ta có thể phân quá trình phát triển của ngôn ngữ học ra làm hai giai đoạn:

- Giai đoạn 1: trước thế kỉ 20 - thời kì chuẩn bị cho sự ra đời của ngôn ngữ học.

- Giai đoạn 2: từ thế kỉ 20 trở đi - thời kì ra đời và phát triển của ngôn ngữ học.

2.1 Việc nghiên cứu ngôn ngữ giai đoạn trước thế kỉ 20.

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất và gắn bó chặt chẽ với con người và đã được loài người nghiên cứu từ rất sớm. Có thể nói khoảng 500 năm trước công nguyên, con người đã nghiên cứu khá sâu về ngôn ngữ và để lại nhiều công trình có giá trị.

a. Việc nghiên cứu ngôn ngữ thời cổ đại

+ Ở Trung Quốc, từ thời cổ đại, đã có những thảo luận bàn về vấn đề triết học - ngôn ngữ. Các nhà tư tưởng lớn giai đoạn cổ đại của Trung Quốc như Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Tử, Trang Tử... đều có những ý kiến bàn về mối quan hệ giữa danh và thực (tên gọi và hiện thực) của từ và vấn đề câu. Tuy nhiên, do trình độ khoa học còn thấp của thời đại, ngôn ngữ chưa được coi là một đối tượng để xem xét riêng. Trong tình trạng văn - sử - triết bất phân, ngôn ngữ chưa thể nào là một ngành khoa học tự lập.

Sang thời Xuân Thu, những công trình đi sâu nghiên cứu ngôn ngữ đã bắt đầu xuất hiện. Ngày nay, nhắc đến những thành tựu về ngôn ngữ học Trung Quốc cổ đại, người ta không thể không nhắc đến cuốn sách Tiểu học, công trình đi sâu vào việc dạy chữ cho trẻ em Trung Quốc. Sau này, xuất phát từ thành tựu của cuốn sách, người Trung Hoa đã phát triển lên thành các ngành huấn hỗ học (chuyên giải thích nghĩa của chữ Trung Quốc), tự thư học (chuyên phân tích hình chữ Trung Quốc) và âm vận học (chuyên nghiên cứu cách phát âm của chữ Trung Quốc). Ngoài ra, người ta cũng không thể không nhắc đến Nhĩ nhã, tác phẩm được xem như quyển tự điển sớm nhất của thế giới và Thuyết văn giải tự của Hứa Thận, tác phẩm có mục đích chuẩn hóa chữ viết Trung Quốc...

+ Ở Ấn Ðộ, bộ phận cổ nhất của các kinh Vêđa được viết khoảng 1.500 đến 2000 năm trước công nguyên. Theo sự tiến triển của thời gian và những biến động lớn lao của lịch sử, ngôn ngữ viết trong kinh được các tộc người ở nhiều địa phương đọc lên và hiểu nghĩa rất khác nhau rồi dần trở nên khó hiểu trong khi việc truyền giảng đòi hỏi sự chính xác... Yêu cầu nghiên cứu để chuẩn hóa tiếng Sanscrit hay Védique (tiếng nói của kinh Vêđa) được đặt ra. Nhiều thế hệ đã nghiên cứu để mô tả tiếng Sanscrit và khoảng 500 đến 400 năm trước công nguyên, Panini đã kế thừa xuất sắc những người đi trước để sáng tạo nên bộ Ngữ pháp tiếng Sanscrit. Ðó là công trình ngữ pháp cổ nhất gồm 8 tập, mỗi tập 8 chương bao gồm 3996 quy tắc ngữ âm, ngữ pháp, được đánh giá là tiến bộ nhất thời kì này và có thể làm mẫu mực cho nhiều công trình nghiên cứu về sau. Trong công trình của mình, Panini đã miêu tả một cách tỉ mỉ các đơn vị của chính âm và chính tả, cùng cấu trúc ngữ pháp tiếng Sanscrit một cách chắc chắn và khoa học. H.A. Gleason, nhà ngôn ngữ học thuộc trường phái ngôn ngữ học miêu tả Mĩ, đã nhận định: ... các nhà ngôn ngữ học hiện đại sẽ phải thừa nhận một cách bái phục rằng việc miêu tả đầy đủ nhất, tốt nhất, chắc chắn là quyển ngữ pháp tiếng Sanscrit của Panini và các cộng tác viên của ông viết vào thế kỷ V hay thế kỷ IV trước c.n. (1) . Những công trình nghiên cứu ngôn ngữ Ấn Ðộ sau Panini đều kếthừa những thành tựu của ông theo cách này hay cách khác.

+ Ở Hi Lạp - La Mã, từ những thế kỉ V - IV trước công nguyên cũng đã có những ý kiến hay công trình có liên quan đến ngôn ngữ .

( Démocrite (460-370 trước CN) lần đầu tiên trong lịch sử Hi Lạp đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tên gọi và sự vật. Theo ông giữa từ và tên gọi có mối liên hệ tự nhiên, tên gọi được hình thành trên cơ sở cảm giác của con người vềì sự vật, hiện tượng. Từ chủ trương nhấn mạnh cảm giác, Démocrite tiếp tục quan tâm đến nhiều vấn đề thực tế của ngôn ngữ như: về nhịp điệu và sự hài hòa, về vẻ đẹp của các từ, về các chữ êm tai và không êm tai, về sự nói năng, về các tên gọi, ...

( Platon (427-347 trước CN), nhà triết học duy tâm khách quan, dầu những phát kiến về ngôn ngữ còn chừng mực, nhưng vẫn được đánh giá là có nhiều đóng góp có giá trị cho ngôn ngữ học nhân loại. Lần đầu tiên, trong tác phẩm Cratile, Platon đã nghiên cứu về cách cấu tạo từ và cho rằng nghĩa của mọi từ không phải đều có nguồn gốc từ âm thanh và người ta có thể phân tích từ ghép, từ nhánh ra thành những yếu tố nhỏ nhất có nghĩa. Ðồng thời, ông còn phát hiện ra tính biểu trưng ngữ âm theo cách gọi ngày nay. Thí dụ, ông cho âm r thường biểu thị sự vận động hay bùng nổ (TD : rein = chảy; Roe = sự chảy...); âm i biểu thị một cái gì nhẹ, mỏng, có thể xuyên qua của sự vật ; âm l biểu thị một cái gì nhẵn, lướt ... và sự mô hình hóa ấy dựa trên mối quan hệ giữa phương thức phát âm và ý nghĩa của từng từ. Platon còn hướng đến việc nghiên cứu từ nguyên học. Có điều là trong điều kiện đương thời, ông chỉ dừng lại nghiên cứu từ nguyên học dân gian. Một đóng góp quan trọng khác của Platon là những nghiên cứu về mối quan hệ giữa tư tưởng và lời nói. Do hạn chế của thời đại, Platon chưa phân tích thành phần ngữ pháp của câu mà chỉ đi vào phân tích cấu trúc của phán đoán, bởi vì khi ấy logic học và ngữ pháp học chưa tách thành những khoa học độc lập.

( Aristote (384-322 trước CN) được Mác gọi là nhà tư tưởng vĩ đại nhất thời cổ. Là học trò của Platon nhưng ông đã phê phán lí thuyết duy tâm của thầy. Ông là nhà triết học tiếp cận chủ nghĩa duy vật, là nhà logic học, nhà khoa học của nhiều ngành: mĩ học, đạo đức học, thi pháp học, tu từ học, vật lí học, sinh học, toán học... Các tác phẩm của ông bao quát mọi tri thức của xã hội đương thời. Tuy không có một công trình dành riêng cho việc nghiên cứu ngôn ngữ, nhưng những ý kiến của ông về ngôn ngữ có thể được tìm thấy rải rác ở nhiều sách khác nhau của ông.

Về từ, Aristote đã có những ý kiến rất quan trọng. Theo ông, tên gọi là âm thanh mang ý nghĩa theo sự thỏa thuận; trong tên không có gì tự bản tính mà ra và mối quan hệ giữa tên gọi và ý nghĩa là gián tiếp thông qua ý niệm về sự vật trong ý thức con người... Từ là một thành tố của lời nói, tự thân có ý nghĩa nhất định nhưng không thể chia thành những thành tố nhỏ hơn (1). Ngoài ra, lần đầu tiên tronglịch sử ngôn ngữ học, ông đã chỉ ra sự khác nhau giữa hiện tượng đồng âm và hiện tượng nhiều nghĩa.

Mối quan hệ giữa lời nói và tư tưởng cũng được ông quan tâm. Ông cho rằng giữa từ và ý tuy rằng hai cái khác nhau nhưng thống nhất nhau. Do đó, muốn suy nghĩ phải biết cách dùng các phương tiện ngôn ngữ một cách trật tự. Từ đó, ông tiếp tục nghiên cứu ngôn ngữ bằng việc gắn bó lôgic với sự biểu đạt tư duy bằng ngôn ngữ. Aristote đã sáng lập bộ môn ngữ pháp học - lôgic mà ngày nay ta còn có thể tìm thấy ảnh hưởng sâu đậm của nó trong ngữ pháp nhà trường.

Ở La Mã, một thời gian dài trước công nguyên người ta đã quan tâm đến việc hoàn thiện tiếng La Tinh. Nói chung, ngữ văn học La Mã chịu ảnh hưởng sâu sắc, mạnh mẽ của ngữ văn học Hi Lạp. Các tư tưởng triết học thống trị trong việc nghiên cứu ngữ văn học, đến nội dung nghiên cứu đều tương tự Hi Lạp. Chính vì vậy ta có thể gộp chung nền khoa học hai khu vực thành nền khoa học Hi - La.

+ Ở Ả Rập, trên cơ sở tiếp thu thành tựu ngữ văn học của Ấn Ðộ, Hi lạp, người Ả Rập, sau này, đã miêu tả tỉ mỉ, chính xác ngữ âm của tiếng Ả Rập, có những tìm tòi về cú pháp và đạt được nhiều thành tựu về từ điển học.

Tóm lại, ngành ngữ văn học nói chung hay ngôn ngữ học nói riêng của thế giới, đặc biệt là của Hi - La, Ấn Ðộ, Trung Quốc đã đạt được những thành tựu rực rỡ. Tuy có những hạn chế khó tránh khỏi, nhưng cóï thể nói, những thành tựu của thời kì này chính là những khơi mào quan trọng cho ngôn ngữ học phát triển sau này. Ðáng tiếc là thời kì trung đại đã không phát huy được những thành tựu đáng kể này do ảnh hưởng nặng nề của hệ giáo lí và triết học kinh viện của thời đại.

b. Việc nghiên cứu ngôn ngữ trong các thế kỉ sau

Từ thế kỉ 15 - 16 trở về sau, cùng với sự phát triển của ngành hàng hải, thương mại, những phát minh về địa lí, những cuộc xâm chiếm thuộc địa, việc truyền bá đạo cơ đốc ra ngoài phạm vi Châu Âu, ngôn ngữ học Châu Âu đã tiến xa hơn so với các vùng khác trên thế giới. Do đó bàn về ngôn ngữ học giai đoạn này là bàn về những ý kiến và thành tựu của các nước phương Tây.

Ðến thế kỉ thứ 17, 18, ảnh hưởng mạnh mẽ tư tưởng của F.Bacon (nhà khoa học thực nghiệm Anh đề cao phương pháp quy nạp), René Descartes (nhà khoa học, triết học Pháp chống chủ nghĩa kinh viện, đề cao lí trí và phương pháp diễn dịch duy lí), W. G. Leibnitz (nhà triết học, toán học, khoa học tự nhiên người Ðức, đề cao phát minh), trường phái Port-Royal ở Pháp đã nghiên cứu những vấn đề về bản chất, cấu tạo và các thuộc tính của từ. Theo họ, bản chất của từ là kí hiệu gồm hai mặt: âm (chữ) và nghĩa (tư tưởng được biểu đạt). Chúng được tạo ra bởi lí trí con người. Lí trí là tiền đề của ngôn ngữ và sự phát triển của lí trí là tiền đề của sự phát triển ngôn ngữ. Từ đó các tác giả chỉ ra và giải thích quan hệ giữa các phạm trù và hiện tượng ngôn ngữ với các phạm trù tư duy. Ngoài ra trường phái này còn hướng đến việc tìm ra các nguyên lí chung, phổ biến của ngôn ngữ.

Lần đầu tiên trong lịch sử ngôn ngữ học, cấu trúc phán đoán, cấu trúc câu được nêu lên khá rõ. Cấu trúc phán đoán dựa trên cơ sở phân tích mệnh đề gồm hai phần: Chủ từ và thuật từ. Ðó cũng là cấu trúc của một câu đơn giản.

Sang thế kỉ 18, hầu hết các công trình ngôn ngữ học hay triết lí - ngôn ngữ học, đều mang ảnh hưởng của ngữ pháp Port-Royal: hoặc là tiếp tục phát triển các tư tưởng của nó, hoặc là tách khỏi nó trong khi xây dựng các khái niệm riêng, hoặc là tranh luận về các tư tưởng ấy.

Sau Cách mạng tư sản Pháp, các nước tư bản đẩy mạnh chính sách xâm lược và bước vào giai đoạn phát triển; học thuyết của Darwin về nguồn gốc và sự tiến hóa của các loài được xác lập; tư tưởng của Hêghen về quy luật vận động và phát triển của thực tế khách quan được phổ biến. Những tiền đề xã hội và học thuật đó đã tạo điều kiện cho ngôn ngữ học so sánh - lịch sử ra đời. Ngôn ngữ học so sánh - lịch sử chủ yếu áp dụng phương pháp so sánh để nghiên cứu các ngôn ngữ, từ đó hướng đến tìm cội nguồn lịch sử của các ngôn ngữ, chỉ ra mối quan hệ giữa chúng, đặt cơ sở tiền đề cho sự sắp xếp các ngôn ngữ thành dòng họ, thành ngữ hệ.

Những người đặt nền móng cho ngôn ngữ học so sánh - lịch sử là: Franz Bopp, Ramus Rask, Jakob Grimm... Bopp được xem là người có công lao lớn nhất đối với sự ra đời của khuynh hướng nghiên cứu này vì ông đã chứng minh một cách có cơ sở, có hệ thống quan hệ họ hàng giữa các ngôn ngữ Ấn - Âu, vạch ra những quy luật tương ứng về hình thái học giữa các ngôn ngữ ấy. Rask là người có đóng góp lớn nhất về thủ pháp nghiên cứu.

Việc biết thêm nhiều ngôn ngữ ngoài Châu Âu khiến ngôn ngữ học buộc phải vượt ra ngoài cái sơ đồ hệ thống các quy tắc ngữ pháp của tiếng La Tinh. Các tác giả đã dành một công sức đáng kể vào việc biên soạn các cuốn từ điển và ngữ pháp khác nhau của ngôn ngữ các dân tộc, từ đó đẩy mạnh sự so sánh ngôn ngữ này với ngôn ngữ khác, đặt cơ sở cho các bước phát triển của ngôn ngữ học về sau.

Tiếp theo sự ra đời của ngôn ngữ học so sánh - lịch sử, một số trường phái khác nhau đã được hình thành. Khuynh hướng lãng mạn chủ nghĩa mà tiêu biểu nhất là Humbolt cho rằng: Ngôn ngữ là hoạt động của linh hồn (...), ngôn ngữ phản ánh tư duy của dân tộc dùng nó, đồng thời cũng tác động đến nó (...), ngôn ngữ không phải là một công trình bất di, bất dịch mà luôn vận động (...), ngôn ngữ là một hệ thống cấu trúc, trong đó các thành tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, quy định lẫn nhau (1) Khuynh hướng tự nhiên chủ nghĩa, tiêu biểu là A. Schleicher, M. Rapp, M. Muler, đã áp dụng học thuyết tiến hóa của Darwin vào ngôn ngữ và cho rằng: Ngôn ngữ là những thể hữu cơ (...), chúng sinh ra theo con đường tự nhiên, không phụ thuộc vào ý chí con người (...), ngôn ngữ sinh ra, phát triển và có ngôn ngữ cũng mất đi tuân theo quy luật có tính chất xã hội lịch sử (2)

Khuynh hướng tâm lí chủ nghĩa, tiêu biểu như H. Staintan, Moriss Laparus, Potebnja... coi ngôn ngữ như một cơ chế hoạt động tâm lí cá nhân, do đó nghiên cứu ngôn ngữ sẽ tìm hiểu được tâm hồn cá nhân và từ đó cũng sẽ hiểu được tâm hồn, tâm lí dân tộc.. .

Ngôn ngữ học so sánh - lịch sử đánh dấu một bước tiến mới của ngôn ngữ học. Ðối tượng nghiên cứu đã được mở rộng và toàn diện hơn. Các nhà nghiên cứu ngôn ngữ không chỉ nghiên cứu ngôn ngữ Hi - La mà mở rộng ra nghiên cứu nhiều ngôn ngữ của nhiều vùng trên thế giới. Phương pháp so sánh đã được xác lập. Phương pháp giả thiết - diễn dịch bước đầu được dùng để giải thích những điểm giống và khác nhau giữa các ngôn ngữ trên thế giới. Tuy cách làm của họ còn khiếm khuyết, chưa chú ý đến nhân chủng học, khảo cổ học; xây dựng các ngôn ngữ Ấn, Âu tiền sử nhưng không biết ai và tộc người nào nói ngôn ngữ tiền sử ấy Nhưng không thể phủ nhận toàn bộ quá khứ, khoa học bao giờ cũng là sự kế thừa. Ngôn ngữ học thế kỉ 19 và trước đó là một bước chuẩn bị cho sự ra đời của một ngành khoa học ngôn ngữ thực sự bắt đầu từ thế kỉ 20.

2.2 Việc nghiên cứu ngôn ngữ học thế kỉ 20.

Có thể nói Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của Ferdinand de Saussure ra đời năm 1916 là một lằn gạch đỏ đánh dấu bước chuyển mình của ngôn ngữ học.

Trong cuốn giáo trình, với dung lượng gần 400 trang đánh máy, những người biên tập đã trình bày được những vấn đề quan trọng và cơ bản của ngôn ngữ học như: xác định bản chất của ngôn ngữ, đối tượng và phương pháp nghiên cứu của ngôn ngữ học. Tuy giáo trình chưa phải là những tư tưởng hoàn chỉnh của Saussure nhưng về cơ bản đó là những suy nghĩ hết sức sâu sắc và phong phú của ông về ngôn ngữ học với tất cả những điều hữu lí và những mâu thuẫn nội tại của nó.

Theo Saussure, ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu. Trong hệ thống kí hiệu ấy các yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau. Hai cặp quan hệ nổi tiếng trong ngôn ngữ mà Saussure đã phát hiện là cặp quan hệ đồng nhất và quan hệ đối lập; quan hệ hình tuyến (ngữ đoạn/ngang) và quan hệ trực tuyến (đối vị/dọc). Ðể xác định đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học một cách rõ ràng, cụ thể, Saussure phân biệt sự khác nhau giữa ngôn ngữ và lời nói và đồng thời khẳng định đối tượng duy nhất và chân thực của ngôn ngữ học là ngôn ngữ, xét trong bản thân nó và vì bản thân nó (1) Ðồng thời để xác định một phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ học đúng đắn, Saussure đã đối lập mặt đồng đại và mặt lịch đại và khẳng định: ngôn ngữ học đích thực có nhiệm vụ nghiên cứu ngôn ngữ học đồng đại, tĩnh trạng dù cho nó không thể bỏ qua mặt lịch đại của ngôn ngữ. Ngoài ra, trong giáo trình, Saussure còn đưa ra nhiều cặp phạm trù đối lập khác nữa: sự đối lập giữa mặt nội tại và ngoại tại, sự đối lập giữa hình thức và thể chất. Một số ý kiến của giáo trình đã trở thành những đề tài tranh luận sôi nổi và kéo dài cho đến tận ngày nay.

Học thuyết về tính hệ thống trong ngôn ngữ của Saussure đã ảnh hưởng một cách trực tiếp hay gián tiếp đến ngôn ngữ học thế giới thế kỉ 20, dẫn đến việc hình thành ba trường phái ngôn ngữ học: trường phái miêu tả Mĩ, còn gọi là chủ nghĩa miêu tả (Descriptivisme), chủ nghĩa phân bố (Distributionnalisme); trường phái cấu trúc chức năng Praha (Structural - Funtional) và trường phái ngữ vị học Copenhague (Glossématique). Các trường phái nối tiếp và bổ sung cho nhau giúp cho ngôn ngữ học ngày càng đi sâu vào chiều rộng và chiều sâu của ngôn ngữ. Các lĩnh vực ngữ âm học, từ vựng học, ngữ pháp học ngày càng được khai thác một cách có hệ thống, có phương pháp khoa học hơn. Trường phái ngôn ngữ học Praha, đứng đầu là N.S. Troubetskoy (1890-1938) và R. Jakobson (1896-1981), đã có những đóng góp quan trọng trong việc khai sinh ra bộ môn âm vị học (Phonology). Những khái niệm mới mẻ như âm vị, thế đối lập, nét khu biệt âm vị học, thuyết khu biệt nghĩa... cùng những phương pháp xác định hệ thống âm vị của một ngôn ngữ được xác lập. Trường phái Copenhague, nổi bật là Louis Hjelmslev (1899-1965), trên cơ sở triệt để hóa một số luận điểm trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của Saussure, đã quan tâm xây dựng một lí thuyết phổ quát về ngôn ngữ. Hejlmslev đã lưu ý các nhà ngôn ngữ học đến việc xây dựng lí thuyết chung, định ra những tiêu chí đánh giá một lí thuyết và đề ra phương pháp tốt nhất để nghiên cứu ngôn ngữ. Ðặc biệt, líï thuyết về các ngữ hình của hình thức và nội dung mở đường cho việc phân tích nghĩa thành các thành tố ngữ nghĩa (nét nghĩa, nghĩa vị), là những gợi ý quan trọng cho việc nghiên cứu ngữ nghĩa học sau này. Trường phái miêu tả Mĩ đứng đầu là Leonard Bloomfield (1887-1949) và trường phái ngữ pháp tạo sinh do Noam Chomsky làm chủ soái, đã có những đóng góp tích cực cho ngành ngữ pháp học. Những phương pháp phân tích cú pháp mới đã được đề ra như: phương pháp phân tích thành tố trực tiếp, phương pháp thay thế, phương pháp phân bố của Bloomfield cùng với khái niệm cấu trúc nổi, cấu trúc chìm của Chomsky đã hướng sự nghiên cứu đi vào chiều sâu ngữ nghĩa của câu, thúc đẩy ngành ngữ dụng học phát triển.

Hội ngôn ngữ học chức năng quốc tế (thành lập năm 1976 tại Pháp) và ngôn ngữ học Xô Viết đã cố gắng xây dựng và hoàn thiện những vấn đề cơ sở líï luận và phương pháp luận nghiên cứu. Các tổ chức này đặc biệt chú ý đến chức năng giao tiếp của ngôn ngữ và nghiên cứu ngôn ngữ ở mặt lời nói, mặt thực tiễn.

Nếu ở giai đoạn đầu thế kỉ, trước sức hút mạnh mẽ của các luận điểm của Saussure, hầu hết các công trình chỉ đi vào nghiên cứu ngôn ngữ trong hệ thống cấu trúc và dừng việc nghiên cứu trong phạm vi câu, thì ở giai đoạn sau, ngôn ngữ học có khuynh hướng vượt khỏi bình diện cấu trúc và hệ thống, đi vào khảo sát ngôn ngữ ở mặt hoạt động, gắn liền với chức năng giao tiếp của nó, đồng thời vượt khỏi phạm vi của câu, nghiên cứu hệ thống ngữ pháp trên câu, tức là văn bản.

Hiện nay, ngôn ngữ học có khuynh hướng liên kết với thành tựu của các khoa học khác, làm hình thành những khoa học liên ngành như: Tâm líï - ngôn ngữ học, nhâìn chủng - ngôn ngữ học, xã hội - ngôn ngữ học, dân tộc - ngôn ngữ học, địa lí - ngôn ngữ học, thần kinh - ngôn ngữ học, ngôn ngữ học- toán học, ngôn ngữ học - điện toán... Ngoài ra ngôn ngữ học còn tập trung vào việc ứng dụng những hiểu biết về ngôn ngữ vào đời sống. Trước hết, ngôn ngữ học đi vào nghiên cứu nội dung, phương pháp dạy và học tiếng cho người bản ngữ và ngoại quốc, định ra chính sách ngôn ngữ, nhằm thúc đẩy ngôn ngữ phát triển; sau đó là việc nghiên cứu ứng dụng ngôn ngữ học vào tin học, vào việc dịch máy, vào việc trắc nghiệm tâm líï trong quá trình tiếp thu ngôn ngữ, vào việc điều tra hình sự hoặc chữa những bệnh có liên quan đến ngôn ngữ như nói ngọng, nói lắp do câm điếc bẩm sinh hoặc do chấn thương sọ não...

Tóm lại, ngôn ngữ dù được chú ý nghiên cứu từ rất sớm nhưng chỉ từ khi Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của Saussure ra đời, mới trở thành một khoa học thực sự. Từ đầu thế kỉ đến nay, với công sức của nhiều nhà nghiên cứu thuộc nhiều trường phái, ngôn ngữ học phát triển không ngừng về nội dung và phương pháp để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.

2.3 Ðối tượng và nhiệm vụ của ngôn ngữ học.

Do tính chất phức tạp và đa dạng của ngôn ngữ, trải qua các giai đoạn lịch sử, đã có nhiều quan niệm khác nhau về đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của ngôn ngữ học.

Ở giai đoạn đầu, khi nghiên cứu ngôn ngữ, các triết gia cổ đại chỉ bó hẹp trong phạm vi của các văn bản có tiếng, có uy tín như kinh kệ, các văn bản có tính văn hiến. Từ các văn bản trên, các nhà nghiên cứu tìm ra các quy tắc kết cấu ngôn từ trong văn bản nhằm hướng dẫn mọi người đọc đúng, hiểu đúng và viết đúng nội dung văn bản.

Từ thế kỉ 16 đến thế kỉ 19, đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học mở rộng hơn. Người ta một mặt vẫn chú ý đến việc miêu tả cấu trúc nội bộ của một ngôn ngữ, mặt khác đã đặc biệt chú ý đến mối tương quan giữa các ngôn ngữ để từ đó xây dựng sơ đồ tộc hệ ngôn ngữ, sơ đồ loại hình ngôn ngữ chung cho các ngôn ngữ trên thế giới.

Bước sang thế kỉ 20, đối tượng của ngôn ngữ học được xác định một cách rõ ràng, toàn diện. Lúc đầu, người ta tập trung nghiên cứu ngôn ngữ trong phạm vi hệ thống cấu trúc theo cách hiểu của Saussure. Về sau, sự chú ý chuyển sang cả ở phạm vi lời nói mở đường cho ngôn ngữ học văn bản và ngữ dụng học ra đời. Ngoài ra người ta còn nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ với các đối tượng khác có liên quan với hoạt động ngôn ngữ như: tâm líï, xã hội, dân tộc, địa lí, thần kinh... Yêu cầu đặt ra cho ngôn ngữ học không chỉ dừng lại ở việc xác lập các quy tắc ngôn ngữ trong trong các văn bản cụ thể. Ngôn ngữ học phải chỉ ra các quy luật cấu trúc nội bộ của ngôn ngữ, các quy luật hoạt động của ngôn ngữ, cùng những quy luật vận động của chúng trong quá trình phát triển. Ðể đạt được yêu cầu trên, ngôn ngữ học phải thực hiện các nhiệm vụ sau đây:

Một là: Miêu tả, phân tích một cách khoa học cấu trúc nội bộ của từng ngôn ngữ, chỉ ra quy luật hoạt động và phát triển của chúng; giải thích đúng tính chất xã hội của ngôn ngữ, nghiên cứu ngữ hệ và loại hình ngôn ngữ.

Hai là: Tác động vào quá trình phát triển của ngôn ngữ, nhằm làm cho ngôn ngữ phục vụ xã hội tốt nhất. Ðồng thời tìm những phương pháp, biện pháp tốt nhất để ứng dụng những thành tựu của ngôn ngữ học vào đời sống.

Do tính đa dạng và phức tạp của nhiệm vụ trên, ngôn ngữ học được chia thành nhiều bộ môn khác nhau. Có hai bộ phận lớn:

- Ngôn ngữ học lí thuyết: Nhằm nghiên cứu các quy luật của ngôn ngữ.

- Ngôn ngữ học ứng dụng: Chuyên ứng dụng ngôn ngữ học vào đời sống.

a) Ngôn ngữ học lí thuyết: gồm có các ngành chính sau:

a.1 Ngôn ngữ học đại cương: Có nhiệm vụ đúc kết, tổng hợp các thành tựu của ngôn ngữ học về các mặt đối tượng, mục tiêu, phương pháp nghiên cứu, bản chất, nguồn gốc, loại hình của ngôn ngữ ... để tạo cơ sở lí luận chung cho việc nghiên cứu các ngôn ngữ cụ thể.

a.2 Ngôn ngữ học nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ gồm các bộ môn:

- Ngữ âm học: Nghiên cứu hệ thống âm thanh của ngôn ngữ. Tùy theo nhiệm vụ nghiên cứu trọng tâm, ta có các chuyên ngành hẹp khác nhau: ngữ âm học đại cương, ngữ âm học miêu tả, ngữ âm học lịch sử, ngữ âm học so sánh

- Từ vựng học: Nghiên cứu hệ thống từ vựng của một ngôn ngữ. Tùy thuộc vào nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu khác nhau, ta có các chuyên ngành hẹp khác nhau: từ vựng học đại cương, từ vựng học miêu tả, từ vựng học lịch sử, từ nguyên học, từ điển học...

-- Ngữ pháp học: Nghiên cứu hệ thống ngữ pháp của một ngôn ngữ. Tùy thuộc vào nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu khác nhau, ta có các chuyên ngành hẹp khác nhau: hình thái học hay từ pháp học, cú pháp học, văn pháp học hay ngữ pháp học văn bản.

- Loại hình học: Bộ môn ngôn ngữ học nghiên cứu các quy tắc và phương pháp phân loại loại hình các ngôn ngữ trên thế giới. Bộ môn này tuy thuộc ngôn ngữ học đại cương nhưng do quy mô và tầm quan trọng của nó, đã được coi là một bộ môn riêng.

a.3 Ngôn ngữ học nghiên cứu những vấn đề liên quan đến lời nói: gồm các bộ môn:

- Phong cách học: Nghiên cứu cách thức lựa chọn và sử dụng các yếu tố ngôn ngữ trong các phong cách chức năng khác nhau sao cho lời nói đạt hiệu quả biểu đạt và thông tin cao nhất.

- Ngữ dụng học: một bộ môn mới, tuy phạm vi nghiên cứu của nó còn chưa được xác định rõ, nhưng có thể nói, đây là một bộ môn nghiên cứu ngôn ngữ trong sử dụng và giao tiếp bằng ngôn ngữ.

a.4 Ngôn ngữ học liên ngành: Bao gồm những khoa học liên ngành:

- Tâm lí - ngôn ngữ học.

- Xã hội - ngôn ngữ học.

- Ðịa lí - ngôn ngữ học

- Dân tộc - ngôn ngữ học

- Ngôn ngữ học - toán học và ngôn ngữ học - điện toán

- Thần kinh - ngôn ngữ học...

a.5 Lịch sử ngôn ngữ học: Nhằm tổng kết tiến trình phát triển của ngôn ngữ học qua các thời kì.

b) Ngôn ngữ học ứng dụng gồm các ngành chính:

- Giáo dục ngôn ngữ: Ứng dụng những thành tựu của ngôn ngữ học vào việc dạy và học tiếng cho người bản ngữ và người nước ngoài.

- Chuẩn hóa ngôn ngữ: Có nội dung là định chính sách ngôn ngữ, định hướng và thúc đẩy sự phát triển của ngôn ngữ . (1)

- Trắc nghiệm ngôn ngữ: Ứng dụng thành tựu của ngôn ngữ học vào tin học, dịch máy, trắc nghiệm sự tiếp thu ngôn ngữ bằng những biện pháp tâm lí.

- Chữa bệnh ngôn ngữ: Ứng dụng những thành tựu của y học và ngôn ngữ học vào việc điều trị các bệnh có liên quan đến ngôn ngữ như bệnh nói ngọng, nói lắp, mất ngôn...

Trên đây là một số bộ phận, một số ngành ngôn ngữ học chủ yếu. Do giới hạn của chương trình, những chương tiếp theo chỉ tập trung trình bày về bộ phận ngôn ngữ học nghiên cứu hệ thống ngôn ngữ. Ba bộ phận được tập trung chú ý là: hệ thống ngữ âm, hệ thống ngữ pháp, hệ thống từ vựng.

2.4. Quan hệ giữa ngôn ngữ học và các khoa học khác.

Trong thực tế, các khoa học không tách rời nhau, mà đan chéo và xen kẽ lẫn nhau. Với ngôn ngữ, sự đan chéo đó càng lớn bởi vì ngôn ngữ học là một trong các khoa học phức tạp nhất. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp và tư duy của con người. Ngôn ngữ phục vụ xã hội, phản ánh sinh hoạt, tập quán của xã hội trong sự phát triển lịch sử của nó. Tính chất phức tạp đó đã quy định mối quan hệ của ngôn ngữ với các ngành khoa học khác.

2.4.1. Quan hệ giữa ngôn ngữ học và triết học. Không có ngôn ngữ, triết học không có cơ sở thể hiện tư tưởng của mình. Nhưng ngược lại, triết học là cơ sở phương pháp luận của ngôn ngữ học, nó chi phối phương pháp và quan điểm nghiên cứu của ngôn ngữ học.

2.4.2. Ngôn ngữ học và lôgic học. Ngôn ngữ học cung cấp cho lôgic học các cấu trúc và các đơn vị ngôn ngữ để từ đó lôgic học nghiên cứu, chỉ ra các hình thức và quy luật của tư duy. Ngược lại, trên cơ sở các dạng ý nghĩ và các quy luật tư duy, lôgic học giúp ngôn ngữ học xây dựng được những câu, những văn bản hợp logic, đạt hiệu quả biểu đạt cao.

2.4.3. Ngôn ngữ học và xã hội học. Ngôn ngữ học và xã hội học có quan hệ mật thiết. Ngôn ngữ chỉ tồn tại trong xã hội loài người. Không có xã hội, ngôn ngữ trở thành tử ngữ, và ngược lại, xã hội không thể tồn tại và phát triển được nếu không có ngôn ngữ để giao tiếp, để tổ chức xã hội. Thông qua việc nghiên cứu ngôn ngữ, người ta có thể hiểu thêm về đời sống xã hội và ngược lại. Ngôn ngữ học - xã hội nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ và xã hội, sự hoạt động và phụ thuộc của ngôn ngữ vào những điều kiện khác nhau của đời sống xã hội.

2.4.4. Ngôn ngữ học và sử học. Lịch sử ngôn ngữ và dân tộc gắn bó chặt chẽ. Những tri thức về lịch sử phát triển của một dân tộc là rất bổ ích cho việc nhận thức những đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc, và ngược lại, những hiểu biết về ngôn ngữ học giúp sử học đi tìm quá khứ xa xưa của một dân tộc được đúng đắn hơn.

2.4.5. Ngôn ngữ học và địa lí học. Các dân tộc thường phân bố cư trú trên một vùng lãnh thổ rộng lớn. Sự phân bố dân cư theo địa lí cũng ảnh hưởng không nhỏ đến ngôn ngữ. Ðiều kiện địa lí khác biệt khiến những sinh hoạt, thói quen của các vùng không giống nhau. Ðiều này làm cho ngôn ngữ cũng biến đổi theo. Những hiểu biết về địa lí sẽ giúp cho việc lập các đường đồng tuyến ngữ có cơ sở hơn và ngược lại những hiểu biết về ngôn ngữ sẽ cung cấp những tư liệu về thiên nhiên, khí hậu, điều kiện sinh sống của các vùng địa lí khác nhau.

2.4.6 Ngôn ngữ học và dân tộc học. Mỗi dân tộc có một nền văn hoá, tiếng nói và chữ viết riêng biệt. Những hiểu biết về dân tộc sẽ giúp hiểu sâu hơn về ngôn ngữ của dân tộc đó, và ngược lại, thông qua ngôn ngữ, người ta có thể khám phá được bản sắc của từng dân tộc.

2.4.7 Ngôn ngữ học và tâm lí học. Ngôn ngữ học giúp tâm lí học giải thích được những hiện tượng tâm lí, tình cảm của con người. Ngược lại, tâm lí học giúp ngôn ngữ học giải thích nhiều vấn đề của ngôn ngữ như sự liên hệ giữa các quá trình tâm lí và hành động nói năng, mối quan hệ giữa sự vật và tên gọi, vấn đề tạo nghĩa mới của từ bằng các phương thức ẩn dụ, hoán dụ v.v...

2.4.8 Ngôn ngữ học và sinh lí học - vật lí học. Ngôn ngữ không thể tồn tại ngoài cái vỏ vật chất của nó. Sinh lí học nghiên cứu những điều kiện sinh lí tạo nên và tiếp nhận cái vỏ vật chất ấy như bộ máy phát âm, cơ quan thính giác. Vật lí học nghiên cứu bản chất vật lí của âm thanh như cao độ, trường độ, cường độ, âm sắc... với nhiều phương tiện kĩ thuật ngày càng hiện đại.

2.4.9 Ngôn ngữ học và văn học. Nhà văn Gorki nói: Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học. Sự thành công của tác phẩm chính là sự thành công của nghệ thuật ngôn từ. Ngôn ngữ học có nhiệm vụ cung cấp phương tiện vật chất để văn học xây dựng nên các lâu đài nghệ thuật. Ðặc biệt tu từ học chỉ ra khả năng diễn đạt của ngôn ngữ, các phương tiện diễn cảm của ngôn ngữ và đặc điểm vận dụng của chúng trong trong các tác phẩm văn học. Văn học hoàn thiện và đi lên sẽ tác động trở lại ngôn ngữ dân tộc, làm cho nó ngày càng phát triển phong phú, tinh tế.

2.4.10 Ngôn ngữ học và toán học, máy điện toán. Toán học cung cấp phương pháp để nghiên cứu ngôn ngữ. Người ta vận dụng phương pháp thống kê, tính xác suất... để xử lí các số liệu ngôn ngữ, từ đó mô hình hóa hình thức của ngôn ngữ tự nhiên để xây dựng ngôn ngữ nhân tạo thông qua máy điện toán. Những thành tựu của ngôn ngữ học được vận dụng rất nhiều trong tin học. Và tin học giúp ngôn ngữ phát triển một cách khoa học và nhanh chóng hơn.

Tóm lại, ngôn ngữ học có liên quan mật thiết với rất nhiều ngành khoa học. Sự hình thành các bộ môn khoa học liên ngành đã chứng tỏ điều đó.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top