MỞ ĐẦU
Trong văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Công Trứ được xem là một trong những nhà thơ tài tử, với bản tính phóng túng mạnh mẽ, có triết lý sống ngoài khuôn khổ nhưng lại bị gò mình trong tư tưởng Nho giáo và cúi mình phục vụ triều đình phong kiến. Đấy chính là sự mâu thuẫn trong tư tưởng và hành động của con người Nguyễn Công Trứ, cho nên khi đọc thơ ông chúng ta luôn có cảm giác đầy mới lạ đan xen nhau, nhận thức con người ông mỗi lúc một khác cần khám phá, tìm hiểu .
Có thể nói, trong sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Công Trứ, mảng thơ Nôm chiếm một vị trí quan trọng và đầy ý nghĩa. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về thơ Nôm Nguyễn Công Trứ nhưng hầu hết chỉ khám phá về mặt tư tưởng, phong cách nghệ thuật chứ chưa đi sâu vào nghiên cứu hình tượng nhà nho trong thơ ông.
Nguyễn Công Trứ đã tiếp thu Nho giáo một cách tích cực, chính điều đó được thể hiện sâu sắc trong thơ Nôm của ông khi viết về con người nhà nho.
Nghiên cứu và tìm hiểu hình tượng nhà nho trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ, trên cơ sở tiếp thu những ý kiến, những công trình nghiên cứu, những phát hiện tương đối mới mẽ của các nhà nghiên cứu trước đây, chúng tôi mong muốn với công sức nhỏ bé của mình, khi nghiên cứu đề tài này chúng tôi sẽ đem đến một cái nhìn mới, cụ thể và sâu sắc hơn về vấn đề này. Đồng thời, góp phần hữu ích vào công việc phục vụ học tập, giảng dạy và nghiên cứu sau này.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Nguyễn Công Trứ là một nhà thơ có vị trí đáng kể trong văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. Mặc dù sự nghiệp thơ văn của ông không quá lớn và đồ sộ về số lượng, nhưng nó lại chứa đựng nhiều vấn đề quan trọng, lý thú và khá phức tạp, vì vậy nó thu hút sự quan tâm, tìm hiểu của các nhà phê bình, nghiên cứu về thơ văn, cộc đời của Nguyễn Công Trứ.
Từ trước tới nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về cuộc đời, sự nghiệp và một số biểu hiện con người trong thơ văn ông. Phải nói rằng việc đánh giá về con người và thơ văn của Nguyễn Công Trứ còn có chỗ chưa thỏa đáng, cách nhìn nhận của các nhà nghiên cứu có lúc “lên thác, xuống ghềnh”, khen nhiều và chê cũng không ít. Điều này cũng có nguyên nhân của nó, vì thơ văn của ông nó biểu hiện sự đa tính, phức tạp, đầy mâu thuẫn và nhiều ẩn số về chính con người của nhà thơ.
Nghiên cứu hình tượng nhà nho trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ, trong quá trình làm khóa luận, thông qua sự tìm hiểu, chúng tôi quan tâm đến một số công trình của các tác giả sau:
Năm 1978, Tác giả Nguyễn Lộctrong cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVII- nửa đầu thế kỉ XIX (tập 2) đã nhận định: “Thơ văn Nguyễn Công Trứ bao hàm một nội dung khá phức tạp, kết tinh một trạng thái ý thức của thời đại: vừa ca tụng con người hành động, vừa ca tụng lối sống hưởng lạc, cầu nhàn: vừa ca tụng Nho giáo lại vừa ca tụng Đạo giáo: vừa lạc quan tin tưởng lại vừa bi quan thất vọng: vừa tự khẳng định mình lại vừa phủ định mình, v v… Nguyễn Công Trứ là khối mâu thuẫn lớn”[ 8, tr.312]. Đúng vậy, khi tìm hiểu về cuộc đời cũng như thơ văn của ông ta thấy sự mâu thuẫn con người thể hiện rõ trong sáng tác của ông. Tác giả Nguyễn Lộc còn khẳng định: “Xét trong toàn bộ cuộc đời và thơ văn Nguyễn Công Trứ, phải thấy quan niệm công danh của nhà thơ trước hết có nghĩa là nhiệm vụ của người làm trai, là một món “nợ lần” phải trả. Nguyễn Công Trứ không có quan niệm nào khác là con người sống trong xã hội phải chiếm lấy một địa vị để trên cơ sở đó làm việc “trí quân, trạch dân” [8, tr.318 -319]. Nghiên cứu thơ văn Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Lộc tập trung vào ba chủ đề chính: Chí nam nhi, cuộc sống nghèo khổ và thế thái nhân tình, những bài thơ xoay quanh triết lý hưởng lạc.
Năm 1983, trong cuốn Thơ văn Nguyễn Công Trứ của tác giả Trương Chính, tác giả đã chia thơ văn ông thành “thơ lãng mạn, thơ hành lạc, thơ triết lý, thơ cầu nhàn. Nhưng cũng như các nhà thơ chân chính, thơ ông là thơ ký thác tâm sự, không có những bài không đau mà rên không có thơ thù tạc. Thơ ông gắn liền với cuộc đời ông” [1, tr.41], tác giả đã có cách nhìn nhận sâu sắc về thơ của ông. Trương Chính cũng khẳng định: “bất cứ nỗi buồn nào cũng được phản ánh vào thơ, không dấu diếm, không tô vẽ, nghĩ thế nào thì viết thế ấy, mộc mạc nôm na nhưng ý nghĩa chân thành sâu sắc, yêu ghét rõ ràng: đọc rất thấm thía” [ 1, tr.41]. Đây là một nhận xét xác đáng, ý kiến của tác giả gần với ý kiến của Nguyễn Lộc, Nguyễn Lộc cũng cho rằng : “thơ văn ông không chạm trỗ, đẽo gọt, mộc mạc: nôm na mà vẫn gây xúc cảm”.
Năm 1995, bài tiểu luận nghiên cứu về con người cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Công Trứ trong cuốn Nguyễn Công Trứ con người- cuộc đời của nhiều tác giả, các tác giả trong bài viết này đã phát hiện ra: “ông luôn lạc quan vì ông tin tưởng rằng mình có tài, rằng mình là “tú khí giang sơn chung đúc lại” [ 23, tr.67], ở đây ta thấy sự xuất hiện của cái tôi tự khẳng định mình, có lẽ đây là hình mẫu của nhà nho tài tử thời bấy giờ, họ tự hào mình là một người có tài năng. Đồng thời, Nguyễn Công Trứ cũng công khai thú hành lạc của mình, cũng như của các nhà nho cùng thời.
Bài nghiên cứu của các tác giả Hồ Sỹ Hiệp, Lâm Quế Phong in trong cuốn Nguyễn Công Trứ Cao Bá Quát, Nxb văn nghệ TPHCM, năm 1997 các tác giả viết: “Những sáng tác của ông trong giai đoạn đầu phản ánh tâm trạng của họ. Ông đặc biệt ca ngợi con người hành động, con người trung hiếu, đề cao chí nam nhi, đề cao vai trò của kẻ sĩ theo tinh thần Nho giáo, đã kích Phật giáo và tràn trề tin thần lạc quan tin tưởng” [ 2, tr.19], đây là giai đoạn mà Nguyễn Công Trứ hăm hở, cái hăm hở của một nhà nho sau khi đỗ đạt ra phụng sự giúp vua cai trị đất nước. Nhưng càng về sau, do nhận ra bản chất của cái xã hội đen tối, bất công, nhận ra xã hội mà ông tôn thờ vốn không tốt đẹp như ông hằng nghĩ, nên tinh thần lạc quan càng giảm sút, tác giả cũng thừa nhận trong “Nguyễn Công Trứ là con người hành động nhưng cũng là con người hành lạc” [ 2, tr.40].
Năm 2003, trong cuốn Tác gia tác phẩm Nguyễn Công Trứ, Nxb giáo dục do tác giả Nguyễn Nho Thìn giới thiệu và tuyển chọn có nhiều bài viết có sự nhận xét và phát hiện có giá trị về cuộc đời cũng như thơ văn ông, trong đó phải kể đến các tác giả như:
Trong bài viết Nguyễn Công Trứ và thời đại chúng ta Nguyễn Nho Thìn đã đề cập tới yếu tố hành lạc, triết lý cầu nhàn hưởng lạc biểu hiện rất rõ trong thơ Nguyễn Công Trứ. Có thể nói, đây không phải là một phát hiện mới mẽ nhưng điều đó nó chứng tỏ các nhà nghiên cứu đã đồng nhất trong quan điểm nhìn con người của nhà thơ.
Với bài viết của tác giả Lê Thước về Sự nghiệp và thơ văn của uy viễn tướng công Nguyễn Công Trứ,tuy ở bài viết này tác giả chưa có sự phát hiện mới về tư tưởng con người Nguyễn Công Trứ, nhưng đây là công trình biên khảo có ý nghĩa nền tảng làm tư liệu khi nghiên cứu. Lê Thước phân chia các giai đoạn trong cuộc đời và đánh giá nhà thơ theo tiêu chí lập công, lập đức và lập ngôn.
Nguyễn Khắc Hoạch với bài viết Lý tưởng kẻ sĩ trong thi văn và ngoài cuộc đời Nguyễn Công Trứ. Bài viết không đi sâu vào nghiên cứu tư tưởng của tác giả mà tìm hiểu quá trình trưởng thành cho đến cuối cuộc đời của nhà thơ. Mỗi giai đoạn như vậy có một lý tưởng, một cách sống riêng. Thời xuất chính ông tích cực hành đạo, thời ẩn dật ông lui vào hậu trường hưởng cuộc đời nhàn lạc của người đã làm tròn nhiệm vụ.
Quan trọng hơn là tác giả Phạm Thế Ngũ nhìn từ khuynh hướng thời đại đi đến quan niệm sống của tác giả đã có cái nhìn tương đối toàn diện và sâu sắc, trong bài viết Sáng tác của Nguyễn Công Trứ cũng đề cập đến phương diện biểu hiện của con người như: Chí nam nhi, quan niệm công danh, quan niệm hưởng lạc, triết lý nhân sinh. Đặc biệt tác giả còn thấy được điểm tương đồng và khác biệt giữa Nguyễn Công Trứ và một số nhà nho khác như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng…
Phạm Vĩnh Cư khi bàn về Thơ hành lạc của Nguyễn Công Trứ với dòng thơ an lạc,xem đó là mảng sáng tác rất đặc sắc lâu nay vẫn được coi là thơ văn cầu nhàn hưởng lạc hay là thơ văn hành lạc chiếm một vị trí đáng kể. Tác giả khẳng định: “Nhu cầu hưởng thụ của con người, nâng nó lên thành một triết lý có sức thu phục nhân tâm thì không mấy ai làm được như Nguyễn Công Trứ”. Ở Nguyễn Công Trứ hành lạc lẫn hành đạo, cả sự hưởng thú vui lẫn việc thực hiện sứ mệnh của người anh hùng trên đời đều khát khao sự chơi, cuộc chơi. Tác giả cũng khẳng định rằng: “Bậc trượng phu ấy vì vậy vừa khao khát công danh, vừa vô cầu yên sở ngộ, vừa hăng say nhập cuộc, vừa biết thanh thản xuất thế, vừa biết hành vừa biết tàng, coi hành tàng thực chất không khác gì nhau” (“hành tàng bất nhị kì quan”) [ 18, tr.443]. Nguyễn Công Trứ luôn thể hiện cái khí phách cứng cỏi, bản lĩnh cao cường của mình trong thơ. Thơ ông vừa diễu cợt người đời, vừa diễu cợt bản thân mình.
Năm 2007, trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam (tập 2) do Nguyễn Đăng Na chủ biên, Nxb ĐHSP Đà Nẵng, các tác giả trong công trình này cho rằng: “Tiếng nói chí nam nhi là chủ đề lớn nhất tập trung xuất hiện trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ thưở hàn vi và thời làm quan đắc chí” [ 10, tr.236]. Đồng thời, các tác giả cũng khẳng định công lao to lớn của ông “Nguyễn Công Trứ đã mang vào khái niệm chí nam nhi của Nho gia cái ý thức cá nhân về sự tự do phóng túng trong lối sống tạo nên nét riêng độc đáo và mang đến một màu sắc mới cho thời đại. Nguyễn Công Trứ nhất quán giữa con người trong mối quan hệ với cộng đồng và con người trong mối quan hệ với bản thân; giữa ý thức về trách nhiệm và ý thức về quyền lợi, giữa hành động và hưởng thụ” [ 10, tr.239].
Có thể khẳng định rằng, các công trình và bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình đã đem lại một giá trị to lớn khi đánh giá, nhận xét về thơ văn của Nguyễn Công Trứ. Tuy mỗi người có một cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau nhưng tựu chung đều thấy được vẻ đẹp trong con người cũng như giá trị tư tưởng trong thơ văn của ông.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu khác như của: Chương Thâu, Vũ Ngọc Khánh, Kiêm Đạt, Nguyễn Minh, Nguyễn Tài Thư....Cho đến nay, công việc nghiên cứu về tác giả và tác phẩm Nguyễn Công Trứ vẫn tiếp tục phát triển, tuy nhiên vẫn còn nhiều khoảng trống. Nghiên cứu Hình tượng nhà nho trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ trên cơ sở tiếp thu ý kiến của các tác giả đi trước, cùng với kiến thức và sự tìm tòi, nghiên cứu, chúng tôi tìm hiểu, khám phá cụ thể hơn nữa về hình tượng con người nhà nho trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ, góp phần hữu ích trên con đường nghiên cứu tác giả, tác phẩm thơ văn Nguyễn Công Trứ.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đề tài sẽ tìm hiểu về hình tượng nhà nho trong mảng thơ Nôm Nguyễn Công Trứ.
Tài liệu chính mà chúng tôi sử dụng tìm hiểu, khảo sát là: Thơ văn Nguyễn Công Trứ của tác giả Trương Chính,Nxb Văn học, 1983, Nguyễn Công Trứ thơ và đời của tác giả Chu Trọng Huyến, Nxb Văn học, 1996. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi có sử dụng các bài thơ ở các thể loại khác trong sáng tác của ông, và một số bài thơ của một số tác giả khác như Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến… và một số tài liệu khác có liên quan đến đề tài. Qua đó, nhằm so sánh, đối chiếu để làm sáng rõ hơn về hình tượng nhà nho trong thơ Nôm của ông.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành tốt đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau :
- Phương pháp khảo sát - thống kê.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp.
5. Bố cục của khóa luận
Đề tài của chúng tôi gồm có ba phần. Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung có 2 chương chính:
Chương I: Nguyễn Công Trứ - cuộc đời và sự nghiệp thơ văn
Chương II: Hình tượng nhà nho và nghệ thuật thể hiện hình tượng nhà nho trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ
Chương I: Nguyễn Công Trứ - cuộc đời và sự nghiệp thơ văn
1.1. Nguyễn Công Trứ - cuộc đời và thời đại
1.1.1. Cuộc đời
Cuộc đời Nguyễn Công Trứ là cuộc đời của một con người say mê hoạt động nhưng lắm thăng trầm, nhiều cay đắng. Nguyễn Công Trứ húy là Củng, tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn, người xã Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ngày mồng 1 tháng 10 năm 1778. Thân phụ là Nguyễn Công Tấn, đỗ Cử nhân và được phong tri huyện Quỳnh Côi, Thái Bình, sau đó làm tri phủ Tiên Hưng. Khi Quang Trung ra Bắc lần thứ hai thì Công Tấn được vua Lê Chiêu Thống phong tước Đức ngạn hầu để lo việc Cần Vương nhưng thất bại, lui về Hà Tĩnh dạy học và mất trong cảnh nghèo khổ. Lúc bây giờ Nguyễn Công Trứ mới 22 tuổi. Thân mẫu ông là con gái Quản nội thi cảnh nhạc bá, người trấn Sơn Nam.
Nguyễn Công Trứ từ bé đã sống trong cảnh nghèo khổ nhưng ông vẫn giữ được nền nếp phong lưu của kẻ con nhà. Tuổi thanh niên của ông là lúc nhà Tây Sơn sụp đổ, nhà Nguyễn lên thay và đang tích cực củng cố địa vị thống trị của mình.
Cũng như bao nho sĩ thời bây giờ, Nguyễn Công Trứ cũng hăm hở đi thi để lập thân, lập nghiệp. Cuộc đời thi cử của ông cũng gặp nhiều gian truân, lận đận, sau nhiều lần trượt lên trượt xuống, nhưng với ý chí và quyết tâm thành đạt cùng với tài năng và sự thông minh vốn có của bản thân, đến năm 1819 Nguyễn Công Trứ thi đậu giải nguyên và được bổ đi làm quan. Lúc này, ông đã ngoài 40 tuổi. Mặc dù sống trong cảnh bần hàn chua xót thi cử không suôn sẻ nhưng ông vẫn luôn lạc quan yêu đời và tin tưởng vào khả năng thành đạt của mình. Ông đã bộc lộ với đời những quan niệm sống tích cực, tràn đầy khí phách:
Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc,
Nợ tang bồng vay trả trả vay.
Chí làm trai nam bắc đông tây,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể.
( Chí làm trai)
Mấy chục năm đeo đẳng đèn sách, dùi mài kinh sử, ông đã phấn đấu thực hiện ước mơ hoài bão đỗ đạt thành tài để ra phò vua giúp nước cứu dân. Ông hăm hở ra làm quan để được thực thi trách nhiệm của kẻ sĩ trước cuộc đời.
Ông đã từng giữ nhiều chức vụ khác nhau, năm 42 tuổi ông được bổ nhiệm làm
Hành tẩu quán, một năm sau làm Biên tu. Đến năm Minh Mệnh thứ tư (1823) ông được
bổ làm tri huyện Đường Hào, năm 1824 làm Thanh lại thuộc bộ lại. Tháng 10/1824 ông
được thăng làm Thiêm sự bộ hình. Năm 1825 được bổ về Thừa Thiên phủ rồi tiếp tục
thăng làm quan Tham hiệp trấn Thanh Hoa (Thanh hóa). Cùng lúc ấy, ở Bắc kì có giặc,
ông được sung chức Tham tán quân vụ. Năm 1828, Nguyễn Công Trứ được điều về kinh
làm Thị hình bộ hữu. Cũng thời gian này tác giả đã tự nguyện đi làm công tác khai hoang
ở hai huyện Tiền Hải và Kim Sơn. Công lao của ông được nhân dân hai vùng này ghi nhớ
và lập bia thờ ngay tại đó. Năm 1832, ông bị giáng làm tri huyện tại Kinh. Năm 1833
làm Tham tán quan vụ đi đánh dẹp các cuộc khởi nghĩa của nông dân. Năm 1839, ông
bị giáng xuống làm Binh bộ hữu tham tri. Năm 1841 được sung chức tham tán đại thần.
Năm 1944 thăng làm Binh bộ tham tri đến tháng 10 bị người ta vu cáo phải cách tuột
xuống làm lính tuần ở Quãng Ngãi. Cứ ngỡ rằng Quảng Ngãi sẽ là mồ chôn công
danh Nguyễn Công Trứ nhưng duyên nợ của ông đối với quan trường chưa dứt hẳn.
Năm 1846, ông lại được bổ làm Chủ sự bộ hình. Năm 70 tuổi cụ xin sớ về trí sĩ và năm
71 tuổi thì về hưu tại quê nhà và được thực thụ làm Thừa Thiên phủ doãn.
Trong cuộc đời làm quan Nguyễn Công Trứ đã chứng tỏ được mình là một ông
quan mẫn cán, một nhà quân sự có tài, một nhà kinh tế lỗi lạc. Dù ở cương vị nào ông
cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Nguyễn Công Trứ là một ông quan có
đủ những phẩm chất tốt đẹp, là người hết lòng vì dân vì nước, đã làm được nhiều việc lớn
có ích cho xã hội, được nhân dân kính yêu mến phục. Công lao của ông được vua Minh
Mệnh ban thưởng và ngợi khen.
Nguyễn Công Trứ thực sự là một ông quan có đủ những phẩm chất tốt đẹp, là một trí thức cao đẹp luôn có tư tưởng nhập thế, luôn luôn hành động vì cuộc đời và vì con người. Thế nhưng chốn quan trường đâu phải là nơi trong sạch, đơn giản mà ngược lại nó đầy phức tạp. Người ta thấy ông có tài lại đâm ra ghen ghét, đố kỵ, đã vu oan giá họa cho ông. Ông đã ba lần bị vu cáo là “mại trại” (mua tiếng ngay thẳng), là buôn lậu , là làm phản, bốn lần bị giáng chức xuống từ một đến ba bốn cấp, có khi bị cách chức trượt xuống làm lính thú, có lần phải chịu án “trảm giam hậu”. Mặc dù chịu nhiều oan ức, nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn tận tụy với công việc được giao, ông nén chịu oan ức để giữ lấy đạo vi thần, giữ lấy lòng trung thành với nước, với vua. Bởi vì, ngay từ đầu tư tưởng của ông là đỗ đạt được làm quan để có điều kiện cống hiến tài năng, sức lực cho nước cho dân nhiều hơn.
Lúc về già, ông biết mình không còn đủ tâm lực lo việc Quốc triều, ông đã cáo quan về hưu nhưng vua không chấp nhận. Đến năm 1848 nhà vua mới y nhận. Từ đó trở đi ông mới an hưởng tuổi già. Đến năm 1858 ông từ trần, hưởng thọ 82 tuổi.
Con người và cuộc đời Nguyễn Công Trứ phong phú và vô cùng sinh động, có nhiều nét độc đáo, ít gặp trong hàng tao nhân mặc khách hay trong hàng ngũ quan liêu đương thời. Ông là người lịch lãm, nuôi hoài bão muốn thực hiện rất nhiều việc lớn, để cứu nước yên dân, lại là một người nghệ sĩ tài năng.
Cuộc đời của Nguyễn Công Trứ rõ ràng đã đủ mùi nếm trải. Dù cuộc đời nhiều gian truân, vất vã nhưng ông đã có công lao to lớn đối với dân với nước. Nghiệp lớn với núi sông là phương châm hành động và tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời ông.
1.1.2. Phác thảo một giai đoạn lịch sử
Thời đại là một yếu tố vô cùng quan trọng, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của
nền văn học, đồng thời nó cũng là tiền đề cho sự hình thành phong cách nhà thơ và cơ
sở để hiểu sâu về tác phẩm của họ. Nguyễn Công Trứ được xem là hiện tượng độc đáo
trong lịch sử văn học Việt Nam. Vì thế, tìm hiểu về thời đại cũng là điều kiện để hiểu
rõ những vướng mặc về cá tính, tư tưởng nhà thơ này.
Nguyễn Công Trứ sinh ra và lớn lên trong giai đoạn lịch sử đầy biến động. Xã
hội phong kiến Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng và bế tắc. Chưa có một giai
đoạn nào trong lịch sử chế độ phong kiến ở nước ta, vua lại nắm toàn bộ quyền hành như
giai đoạn này. Vua là tất cả, triều đình chẳng qua là công cụ để thực hiện ý muốn của vua.
Lịch sử Việt Nam giữa cuối thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX là giai đoạn khủng
hoảng trầm trọng, mâu thuẫn xã hội bị đẩy lên đến đỉnh điểm, các cuộc khởi nghĩa nông
dân nổ ra mà đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn. Nhưng ánh hào quang do người nông dân
tạo ra tồn tại không được bao lâu thì bị dập tắt dưới sự đàn áp tàn bạo của nhà Nguyễn.
Đầu thế kỷ XIX (1802), Nguyễn Ánh đã thống nhất nước nhà, lần đầu tiên trong lịch sử
diện tích đất nước ta được rộng lớn như lúc bấy giờ. Để củng cố địa vị thống trị của mình,
nhà Nguyễn thực thi nhiều chính sách khắt khe, tổ chức đàn áp và trả thù nhà Tây Sơn
một cách tàn bạo, ở khắp nơi tạo nên không khí chính trị bức bí trong cả nước. Trên
con đường xây dựng quyền lực, vương triều Nguyễn sẵn sàng gạt bỏ mọi chướng ngại
vật có ý định cản trở mình làm phát sinh mâu thuẫn gay gắt dẫn đến nhiều cuộc đấu tranh
giai cấp. Thế kỷ XVIII sang thế kỷ XIX đã có gần 400 cuộc khởi nghĩa vì thế đây được
xem là thời kỳ khởi nghĩa. Trong điều kiện lịch sử này đã xuất hiện nhiều anh hùng
muốn đem tài năng ra phục vụ sự nghiệp kinh bang tế thế. Nguyễn Công Trứ là một
trường hợp tiêu biểu. Vốn sinh ra trong gia đình nề nếp Tống Nho, cha ông được xếp vào
hàng phò Lê, lớn lên trong giai đoạn loạn lạc, ông không bị ràng buộc bởi bất kì vương
triều nào, trong đời làm quan chỉ thờ một chủ nên dù phóng túng ông vẫn giữ được
đạo “Trung quân”.
Thế kỷ XVIII – XIX, bên cạnh những cuộc chiến liên miên thì xã hội thành thị
Việt Nam phát triển mạnh, nền kinh tế có những thay đổi do các thương gia nước ngoài
xuất hiện khắp lãnh thổ Việt Nam, đời sống đô thị dần dần được khai mở. Các đô thị nổi
tiếng của Việt Nam dần dần xuất hiện, các hình thức vui chơi như cao lâu, hát ả đào
không chỉ dành cho bậc đế vương mà trở nên phổ biến. Người có tiền, có quyền, có sở
thích đều lấy đó làm điểm đến, mô hình nhà nho tài tử cũng được hình thành từ đó.
Văn học Việt Nam giai đoạn này có những chuyển biến để bắt nhịp cùng thời đại.
Lịch sử luôn là yếu tố chi phối sự phát triển của văn học. Giữa thế kỷ XVIII đầu thế
kỷ XIX, xã hội Việt Nam rối ren, khủng hoảng thế nhưng văn học giai đoạn này lại phát
triển hết sức rực rỡ, văn học trở thành tấm gương phản chiếu đời sống. Xã hội rối ren,
khủng hoảng, đời sống nhân dân rơi vào cảnh lầm than lại chính là đối tượng của văn
học. Tuyệt tác Truyện Kiều với chủ nghĩa nhân đạo được ra đời trong hoàn cảnh đó.
Thành quả to lớn mà văn học Việt Nam giai đoạn này đạt được là sự sáng tạo để cho
ra đời những thể thơ của dân tộc như: Ngâm khúc, Truyện thơ và Hát nói. Trong đó thơ
Nôm được đánh giá là đỉnh cao của thơ ca dân tộc, Nguyễn Công Trứ đã rất thành công
trong mảng thơ Nôm này.
Con người ở bất cứ thời đại nào cũng mang trong mình khát vọng tự do hạnh phúc.
Thế nhưng khi nhìn vào thực trạng của xã hội phong kiến Việt Nam thời bấy giờ, tự do
là điều không thể, một khi con người không có tự do thì hạnh phúc lại càng trở nên khó
khăn hơn. Văn học đã đi vào phản ánh những khát vọng sâu xa nhất của con người bởi
“văn học là nhân học” (Macxim Gorki). Chính điều kiện này là tiền đề khởi động sự
phát triển lên đến đỉnh cao của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học.
Văn học giai đoạn này xoay quanh vấn đề con người. Chủ nghĩa nhân đạo là đặc
điểm chung nhất của văn học Việt Nam giai đoạn giữa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu
thế kỉ XIX. Thơ văn của Nguyễn Công Trứ cũng không nằm ngoài đặc điểm này. Vốn
là người đa tài, đa tình văn thơ của ông đi vào khẳng định giá trị của cá nhân, khẳng định
chí làm trai, khẳng định vai trò của kẻ sĩ. Có thế nói, giai đoạn khoảng cuối thể kỉ XVIII
nửa đầu thế kỉ XIX, lịch sử xã hội bị khủng hoảng trầm trọng nhưng lại tạo nên tiền đề
cho văn học phát triển mang hơi thở, màu sắc của thời đại.
1.2. Sự nghiệp thơ văn Nguyễn Công Trứ
1.2.1. Thơ văn Nguyễn Công Trứ
Trong văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Công Trứ là một nhà thơ có vị trí đáng kể. Nguyễn Công Trứ sáng tác khá nhiều, ông đã để lại một kho thi văn chữ Nôm phong phú, nhưng phần lớn bị thất lạc. Theo tương truyền thì ông sáng tác trên một nghìn bài nhưng còn có khoảng 150 bài, gồm có nhiều thể tài khác nhau. Theo cuốn sách biên khảo của giáo sư Lê Thước ghi nhận: 1 bài phú ( Hàn nho phong vị), 52 bài thơ Đường luật, 21 câu đối Nôm, 2 bản tuồng ( tuồng Tửu hội và Lý phụng công), Hát nói chiếm số lượng nhiều nhất có 63 bài.
Có thể nói, sự nghiệp sáng tác của ông không phải là quá đồ sộ, nhưng những gì ông thể hiện trong tác phẩm của mình có nhiều vấn đề cần phải quan tâm tìm hiểu. Nguyễn Công Trứ bắt đầu sáng tác vào giai đoạn đầu của triều đại nhà Nguyễn, một triều đại hết sức phản động, nhưng do được thành lập sau những năm chiến tranh liên miên trong thế kỷ XVIII, trên một đất nước thống nhất, cho nên triều đại này có một điều kiện để mỵ dân, tạo ra một sự ổn định giả tạo cho xã hội. Chính điều đó gây nên ảo tưởng cho một phần số trí thức, nhất là những gia đình phong kiến lớp dưới. Họ hăm hở đi học, đi thi và ra làm quan và Nguyễn Công Trứ là một trong số ấy.
Nghiên cứu thơ văn của Nguyễn Công Trứ chúng ta không khỏi nhận thấy con người cũng như sự nghiệp của ông thật phong phú và phức tạp. Nhất là thấy những khuynh hướng tâm hồn ông thường hiện ra một cách mâu thuẫn. Điều đó nó thể hiện một cách chân thật và cụ thể trên những trang thơ của ông.
Những sáng tác của Nguyễn Công Trứ trong giai đoạn đầu phản ánh tâm trạng của ông và của tầng lớp nhà nho cùng thời như ông. Nguyễn Công Trứ đặc biệt ca ngợi con người hành động, đề cao chí nam nhi, đề cao vai trò của kẻ sĩ theo tinh thần Nho giáo. Nhưng càng về sau, tinh thần đó ngày càng giảm sút, bởi ông nhận ra rằng cái triều đại ông vốn tôn thờ, phụng sự nó không tốt đẹp như ông hằng tin tưởng. Nguyễn Công Trứ muốn phục vụ nhà Nguyễn thì chính nhà Nguyễn lại nghi ngờ ông. Nguyễn Công Trứ muốn làm quan thanh liêm thì có lần triều đình đã bắt tội, hạch sách ông. Ông muốn cải cách xã hội thì phần lớn đề nghị của ông bị bác bỏ… Gia đình ông luôn sống trong cảnh nghèo túng. Chính bối cảnh đó, đã làm cho Nguyễn Công Trứ dần chuyển hướng sáng tác: ông từ bỏ dần những đề tài ca ngợi, khẳng định, để viết những đề tài có màu sắc tố cáo, đã kích xã hội, hàng loạt bài thơ về thế thái nhân tình của ông ra đời. Nhà thơ vạch trần thói đạo đức giả của bọn giàu có, thông cảm với cảnh ngộ của những người nghèo khổ (Vịnh cảnh nghèo, Than cảnh nghèo…), tố cao gay gắt sự tác oai tác quái của đồng tiền (Vịnh nhân tình thế thái, Vịnh đồng tiền …). Những bài thơ tố cáo của Nguyễn Công Trứ không có những hình ảnh, những chi tiết sinh động, cụ thể nhưng do thấm đượm cảm xúc sâu sắc, nên vẫn có sức lay động mạnh. Tuy nhiên khi về già, ông thấy sự phê phán, tố cáo của mình thất bại, không đem lại kết quả như ý muốn, ông tỏ ra chán nản và ông sáng tác nhiều bài thơ có tư tưởng hưởng lạc, thoát ly.
Tư tưởng, thái độ của ông đối với triều đại, đối với đời có sự thay đổi từ say mê hoạt động, hăm hở của một con người có chí hướng mong góp phần giúp vua cứu nước đến chán nản, muốn thoát ly, hưởng thụ cũng có nguyên nhân của nó. Đó là vì, khi thực hiện chí nam nhi của ông vào cuộc đời làm quan, Nguyễn Công Trứ ngày càng va vấp, ông thấy rằng thời thế quả không cho phép ông vẫy vùng ngang dọc. Tư tưởng của ông dần đi đến chỗ bi quan, yếm thế. Danh lợi đối với ông chỉ còn là sự chán nản:
Chen chúc lợi danh đà chán ngắt
Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao
Đám phồn hoa trót bước chân vào
Sực nghĩ lại giật mình bao xiết kể
( Thoát vòng danh lợi)
Nhìn chung thơ văn của ông nó cũng nói lên phần nào cuộc đời, chí hướng cũng như tư tưởng của con người ông. Thơ văn của Nguyễn Công Trứ hình thành một khuynh hướng mới, nó mang màu sắc thời đại rõ rệt. Đồng thời qua thơ văn của ông, chúng ta thấy con người ông là một khối mâu thuẫn lớn, là một con người chứa đầy những tâm tư và việc làm trái ngược nhau, có lúc thì hăng hái nhập thế cục, nhưng rồi lại có lúc ca tụng cuộc sống nhàn ẩn, có lúc xem danh lợi là vinh, nhưng rồi có lúc xem là nhục, có lúc coi vũ trụ đều là phận sự của mình, nhưng rồi lại có lúc nghĩ đến lại phải giật mình, kinh sợ…Nhưng từ trước đến sau, từ đầu đến cuối những mâu thuẫn đó chỉ là của một con người sống trong một hoàn cảnh xã hội, với một tư cách làm người không hơn, không kém. Vì vậy nghiên cứu Nguyễn Công Trứ, chúng ta phải thấy được hết những mâu thuẫn ấy thì mới có thể hiểu đúng, đánh giá đúng và sâu sắc về con người cũng như sự nghiệp sáng tác của ông.
1.2.2. Đóng góp của Nguyễn Công Trứ đối với nền văn học dân tộc
Đặc điểm nổi bật trong sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Công Trứ là mảng thơ Nôm. Thơ Nôm của ông đã có nhiều thành tựu đáng kể. Nếu Hồ Xuân Hương được gọi là “Bà chúa thơ Nôm” thì Nguyễn Công Trứ cũng được phong làm “Ông hoàng Hát nói”.
Số lượng tác phẩm ông để lại cho đời không nhiều nhưng nó có một giá trị tư tưởng
to lớn. Ông sáng tác rất nhiều loại thể khác nhau, chúng ta phải khẳng định rằng thể Hát
nói đã tạo được dấu ấn riêng, mở rộng phạm vi nội dung từ chí nam nhi, nhân tình thế
thái và triết lí cầu nhàn hưởng lạc, Nguyễn Công Trứ đã đưa Hát nói từ lối hát của ca
trù trở thành thể loại văn học mang đậm bản sắc dân tộc Việt.
Nguyễn Công Trứ cũng trở thành một trong những tác giả viết Hát nói nhiều nhất
và thành công nhất, đưa nghệ thuật Hát nói lên đến đỉnh cao, ông mở ra một khuynh
hướng phát triển mới cho văn học trung đại với những vần thơ tự do đó là những tiếng
nói của một con người mang bản ngã độc đáo. Sở dĩ, Nguyễn Công Trứ có sự thành công
đặc biệt ở thể loại này bởi Hát nói ra đời khá muộn màng, nó gắn liền với lối hát ca trù,
lối hát mà Nguyễn Công Trứ đam mê từ thời trai trẻ. Dường như, thể loại Hát nói mới
manh nha thì gặp ngay người tài năng giúp nó thăng hoa :“Dưới bàn tay tài hoa của nhà
thơ, thể Hát nói từ giả các hành viện ả đào để bước lên đài danh dự những thể thơ
truyền thống của dân tộc”(?), cũng từ đó trong lịch sử văn học dân tộc đã có những vần
thơ “hào hùng”, “khoan thai” mà “réo rắt”, những quan niệm sống tự do của nhà thơ
dường như được thể hiện hết mình trong Hát nói.
Tuy không có công khai sinh ra Hát nói, nó vốn có từ lâu đời nhưng với Nguyễn
Công Trứ, ông biết khai thác triệt để lối diễn đạt không bị ràng buộc ngặt nghèo bởi niêm
luật, bởi số chữ, số câu đã trở thành khuôn phép. Do đó Hát nói đã tạo ra cái phóng khoáng cho nhà thơ, đúng như nhận xét của Lưu Trọng Lư: “Cái thể ca trù nhờ phép thành
của Nguyễn Công Trứ đã trở nên một thể cách hoàn toàn Việt Nam, rất thích hợp với
những sự diễn xuất hùng mạnh…Tôi nhớ có lần ông Huỳnh Thúc Kháng ví cái điệu thơ ấy
với thủy triều, thật không phải là một lời nói vu vơ” [ 2, tr.230]. Nguyễn Công Trứ đã có
công vun trồng và nuôi dưỡng thể Hát nói trưởng thành để nó trở thành một thể loại độc
lập. Ông góp phần hoàn chỉnh về mặt thể cách, tạo nên cấu trúc nghệ thuật hoàn chỉnh
cho Hát nói. Không ai có thể phủ nhận được sự đóng góp của ông đối với nền văn học
dân tộc. Bên cạnh Hát nói thì thơ Nôm đường luật cũng chiếm một vị trí quan trọng trong
sự nghiệp sáng tác của ông.
Về mặt ngôn ngữ,Nguyễn Công Trứ là nhà thơ sáng tác chủ yếu bằng văn Nôm.
Nghiên cứu sự nghiệp văn chương còn lại của ông ta thấy tất cả đều viết bằng chữ Nôm,
chỉ có một bài viết bằng chữ Hán đó là bài ( Tự thọ), được viết khi ông tròn bảy mươi
tuổi. Ông làm thơ bằng tiếng nói của nhân dân, những tiếng nói người ta thường đọc,
thường nghe, nói ra tức là thành văn, Nguyễn Công Trứ là một trong những nhà thơ sử
dụng khá thành công tục ngữ, ca dao, tiếng địa phương, ông vận vào thơ văn của mình
một cách tự nhiên, thích hợp, sinh động và dễ đi vào lòng người. Lời văn của ông nghe
vừa nhẹ nhàng vừa chất phác, trông vào không thấy gì là cao kỳ, đọc vào nghe thú vị,
trông thì không có gì là thâm thúy mà đọc vào thì ý dồi dào.
Có thể nói, lúc nhà Nguyễn lên ngôi, Nho giáo được xem là quốc giáo, văn thơ
chữ Hán lại lên ngôi, văn Nôm bị kìm hảm sự phát triển. Trong điều kiện không mấy
thuận lợi ấy, Nguyễn Công Trứ vẫn ngang tàng với chữ Nôm để tiếp tục thể hiện tính
cách phóng túng của mình, ông khoe tài, thị tài trên con chữ của dân tộc một cách tự
hào. Chữ Nôm trong văn học Việt Nam lúc bấy giờ ngoài Hồ Xuân Hương chỉ có
Nguyễn Công Trứ mới tạo nên tính chất nôm na rất mực đời thường, những vần thơ
Nôm của Nguyễn Công Trứ được viết trực tiếp để nói lên khát vọng chân thành, nó khác
với tính ước lệ của các nhà nho đương thời. Vì vậy, ta có thể khẳng định Nguyễn Công
Trứ đã khuyên một dấu son cho chữ Nôm trong thể Hát nói.
Ngôn ngữ văn học trung đại kể từ Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ không chỉ
là ngôn ngữ ước lệ, giàu hình ảnh mà còn rất mực đời thường, dân dã. Nguyễn Công Trứ
đã kiên trì sử dụng chữ Nôm trong sáng tác văn học mặc dù xã hội đề cao chữ Hán, ông
được đánh giá là người thắp lửa cho chữ Nôm phát triển.
[FONT="]
[/FONT] Chương II: Hình tượng nhà nho và nghệ thuật thể hiện hình tượng nhà nho trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ
2.1. Hình tượng nhà nho trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ
2.1.1. Nhà nho hành đạo
2.1.1.1. Nhà nho hành đạo trong văn học trung đại
Nho giáo ảnh hưởng rất lớn đến nền văn học của nước ta cũng như một số nước Châu Á: Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản…Nho giáo đã xác định cho văn học nghệ thuật một vai trò, một chức năng xã hội cao cả. Nho giáo cũng hi vọng dùng văn chương để giáo hóa, động viên, tổ chức, hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Những xã hội chịu ảnh hưởng của Nho giáo đều phải đề cao văn hóa, văn hiến, kẻ có học, biết làm thơ văn. Chính vì vậy, Nho giáo tạo ra một tâm lý hiếu học, khuyến khích người đi học, động viên các sĩ tử đi thi để lập công danh.
Các nhà nho ngày xưa tiến đến đường công danh bằng khoa cử văn chương, nhà nho hành đạo cũng vậy muốn giúp đời trước hết phải tự rèn luyện bản thân để cai trị đất nước, để giúp nhân dân có cuộc sống yên bình, ấm no, hạnh phúc. Nhà nho hành đạo bao giờ cũng trao cho mình chức năng của một vị thiên sứ. Con người hành đạo mang trong mình hệ thống giáo lí của Nho giáo, những vấn đề thuộc phạm trù đạo lí khuyên răn con người sống có nhân cách, giữ vững trật tự cương thường: nhân- lễ- nghĩa- trí- dũng; vua- tôi, cha- con, vợ chồng…
Nói đến nhà nho hành đạo, trong văn học trung đại Việt Nam hình mẫu nhà nho hành đạo được thể hiện rất rõ ở những tác phẩm của các nhà nho trong sự nghiệp thơ văn của họ. Trong số đó phải kể đến các nhà thơ nổi danh như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến,…Ở họ tinh thần nhập thế thể hiện rất tích cực. Đó là những con người có khí phách, có chí hướng làm quan, quan tâm đến sự vững bền thịnh vượng cho dân tộc, đó là những tấm lòng ưu quốc ái dân, lo lắng đến sự tồn vong, cuộc sống no đủ của nhân dân. Nhà nho hành đạo ẩn hiện rất nhiều ở các nhà thơ này cũng là điều dễ hiểu, bởi họ được học tập và chịu ảnh hưởng sâu sắc của sách vở thánh hiền, của tư tưởng Nho giáo. Với họ, đã sinh ra ở trên đời thì phải cống hiến cả đức độ và tài năng mà phò vua giúp nước, giúp dân, sống phải có chí hướng, đồng thời phải mang trong mình nhân cách cao đẹp. Đó là cái đạo để giúp đời. Bởi vậy ở họ vấn đề đạo đức được đưa lên hàng đầu. Nhà thơ Nguyễn trãi đã nói:
Tài thì kém đức một vài phân
Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du cũng cho rằng:
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
( Truyện Kiều)
Đạo đức nhân cách được đề cao, được coi trọng. Với các nhà nho hành đạo, văn chương dĩ nhiên là công cụ chính trị, là phương tiện để thực thi giáo hóa, văn dĩ tải đạo. Nguyễn Trãi đã từng quan niệm rằng văn nghệ không thể tách rời những yêu cầu của cuộc sống. Ông cũng đã để lại những ý kiến rất quý báu góp phần xây dựng một nhận thức đúng về nhiệm vụ và khả năng của văn nghệ. Thứ văn chương đó cũng phải hướng đến nhân dân, để truyền đạt những thông tin hành chính quan phương chứ không phải để phô diễn, bộc lộ những cảm xúc riêng tư của cá nhân.
Trong văn học trung đại, con người hành đạo thể hiện ở chí làm trai. Đó là khát vọng công danh với lí tưởng hành đạo phò vua giúp nước. Hình tượng nhà nho hành đạo trong thơ của Nguyễn Trãi thể hiện ở tấm lòng ưu ái, yêu nước thương dân, những lo âu, suy nghĩ về dân tộc cuồn cuộn như “nước triều đông”:
Bui có một lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông
( Thuật hứng 5)
Nguyễn Trãi đã ý thức được trách nhiệm của mình với người dân. Người làm quan chính là người ăn lộc của dân, được dân nuôi sống để giúp nước giúp dân có cuộc sống ổn định, kinh tế phát triển. Sự biết ơn đó nó thể hiện khá rõ trong thơ của ông. Đó là truyền thống tốt đẹp của con người Việt “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”.
Là một nho sĩ, một nhà đạo đức Nguyễn Trãi luôn nói đến trung hiếu, con người ông luôn hướng đến bổn phận thiêng liêng với gia đình và tổ quốc. Vì vậy trong thơ ông luôn thể hiện nỗi canh cánh với đời, niềm trăn trở day dứt khôn nguôi. Đó là con người “lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ” một tấm lòng vì dân vì nước.
Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, con người hành đạo hiện lên trong thơ văn của ông một tư thế thoải mái và đầy hoài bão để đưa hết tài năng của mình để phò vua cai quản đất nước. Tuy nhiên sau nhiều năm rong ruổi, ráng hết sức mình mà vẫn không xoay nổi được tình thế cho nhà Mạc, đem lại cảnh thái bình cho đất nước, Nguyễn Bỉnh Khiêm đành ngậm ngùi, chua xót và ông đã bất lực mà thú nhận:
Tế nịch phù nguy quý phạp tài
Cố viên hữu ước trụng quy lai
( Ngụ hứng)
( Tự thẹn kém tài với kẻ đắm đuối, đỡ kẻ nguy nan,
Đã có ước hẹn với vườn cũ, nặng tình ra về)
Tuy nhiên con người hành đạo trong thơ ông không phải là một hình tượng nổi bật mà là con người ẩn dật. Ông chán ghét công danh, và lui về sống một cuộc sống nhàn tản mặc dù vậy nhưng trong ông vẫn luôn nghĩ về dân về nước.
Quan niệm về con người hành đạo xuất phát từ tư tưởng Nho giáo nên trong tác phẩm của họ hình tượng nhân vật ý thức rất cao về sứ mệnh cao cả trong xã hội, đây là ý thức tham gia vào hoạt động cai trị đất nước, hướng đạo. Hầu hết con người hành đạo trong văn học trung đại đều thể hiện sự trung thành với vua, với triều đại mà họ đang phụng sự. Nhà thơ Nguyễn Khuyến viết:
Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông thẹn đất, ngửa lên thẹn trời
Đó còn là những con người hành động xã thân vì độc lập dân tộc mà nhiều nhà nho đã thể hiện trong cuộc chiến đấu chống giặc pháp xâm lược cuối thế kỉ XIX, dù biết rằng khả năng thành công là mong manh:
Vì nước tấm thân đã gửi, còn mất cũng cam
Giúp đời cái nghĩa đáng làm, nên hư nào nại
( Văn tế Trương Định- Nguyễn Đình Chiểu)
Đó còn là tư thế khảng khái của đấng nam nhi được sánh cùng trời đất dưới thời đại Lý - Trần:
Nam nhi vị liểu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết vũ hầu
( Phạm Ngũ Lão)
Nho giáo vốn chủ trương con người sống phải có trách nhiệm với đời, nhập thế cứu thế. Tinh thần đó được thể hiện rất rõ trong tác phẩm của các nhà thơ trung đại. Với Nguyễn Công Trứ cũng thể hiện tinh thần nhập thế tích cực đó. Bên cạnh những nét giống nhau ấy, thì nhà nho hành đạo trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ còn có những điểm riêng, tạo nên nét đặc sắc, diện mạo riêng trong làng thơ Việt Nam trung đại.
2.1.1.2. Nhà nho hành đạo trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ
* Quan niệm chí làm trai
Quan niệm được nhắc đi nhắc lại nhiều trong thơ văn của Nguyễn Công Trứ đó là quan niệm về “chí nam nhi”. Tiếng nói chí nam nhi là một chủ đề lớn tập trung xuất hiện trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ thưở hàn vi và thời làm quan đắc chí. Chí nam nhi xuất hiện sớm trong các tác phẩm văn học trung đại của Nguyễn Trãi, Phạm Ngũ Lão… Đến Nguyễn Công Trứ, chí nam nhi được bộc lộ một cách mạnh mẽ.
Chí nam nhi trong thơ Nguyễn Công Trứ giống với chí nam nhi của các nhà thơ tri thức thời Lý - Trần, và cũng giống như tất cả các nhà thơ thời trung đại. Ông tin rằng có số mệnh, có trời trong số phận (trời ban cho mình cái tài để giúp nước) nhưng mặt khác ông cũng tin vào cái tài năng và sự nỗ lực của bản thân để được lưu danh cùng trời đất. Nó cũng đã trở thành lẽ tồn tại, niềm khao khát với quyết tâm và nghị lực lớn lao:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
( Đi thi tự vịnh)
Đọc hai câu thơ chúng ta có cảm nhận rằng, cái trách nhiệm, bổn phận đó không tách rời với công việc mà con người ta phải làm, là hoài bão, khát vọng của một đấng nam nhi đã được hun đúc thành chí khí, trở thành một mục đích lớn của đời ông. Ông xác định đã là nam nhi đứng giữa trời đất phải tạo lập nên danh nghiệp.
Quả thực cả cuộc đời của Nguyễn Công Trứ là hành trình của những cống hiến cho triều đình. Ngay từ khi còn là một nho sinh thì ông đã dâng bản điều trần “thái bình lập sách cho vua”. Cũng từ đây Nguyễn Công Trứ lựa chọn cho mình con đường của các sĩ tử đi thi để đỗ đạt và ra làm quan, giúp vua cai trị đất nước. Dù thi hỏng nhiều lần nhưng ông vẫn quyết đi thi, quyết đậu đạt mới thôi, đến năm 42 tuổi mới đạt được nguyên vọng của mình. Sau khi đỗ đạt, ông xuất chính ra làm quan cho triều đình nhà Nguyễn, là rường cột của quốc gia trong một thời gian dài, Nguyễn Công Trứ không chỉ giỏi thơ phú, mà còn là một võ tướng giỏi về binh pháp, có tài thao lược đánh giặc, dẹp loạn. Trong quá trình làm quan nhà thơ biết sử dụng hợp thời khi đứng ở hai phương diện:
Văn dìu cánh phượng yên trăm họ
Võ thét oai hùm dẹp bốn phương
( Vịnh văn võ)
Ông là một con người đầy nghị lực, có thể nói gần trọn cuộc đời Nguyễn Công Trứ đã đem đức độ và tài năng giúp cho dân cho nước. Trong sáng tác Nguyễn Công Trứ thường hay nói đến công danh, sự nghiệp:
Tang bồng là cái nợ
Làm trai chi sợ áng công danh
( Quân tử cố cùng I)
Hay:
Thôi hẳng đợi trời bình trị đã
Gặp thời vỗ cánh sẽ ra danh
( Vinh nhục)
Chỉ xét trong phạm vi thơ Nôm đã thấy từ danh xuất hiện trong rất nhiều bài thơ, điều đó chứng tỏ trong tâm trí của nhà thơ vấn đề công danh, sự nghiệp đặt ra với ông thật da diết và xem đó là phận sự lớn nhất mà mệnh trời đã ban phát cho. Bên cạnh lập công danh để cống hiến cho dân tộc nhà thơ còn muốn khẳng định vị trí của mình ở trong trời đất, trong vũ trụ. Con người hành động dưới con mắt của Nguyễn Công Trứ không tỏ ra an phận mà luôn hăm hở sục sôi với cái nợ công danh.
Ý thức danh phận đi liền với ý thức hành động, con người ông luôn đau đáu niềm khát vọng lập công danh, chính điều đó đã làm nên sắc thái đặc biệt trong cái nhìn về con người danh phận.
Nguyễn Công Trứ đã phát biểu chí làm trai một cách say mê, hào hứng và hăm hở hành động trên cơ sở hoàn cảnh xã hội cụ thể và những điều kiện của bản thân. Sinh ra và phụng sự cho triều Nguyễn đang trong hoàn cảnh loạn lạc, triều đình còn lúng túng về đường lối nhưng không vì thế mà Nguyễn Công Trứ nhụt chí, trái lại càng khơi dậy tinh thần chủ nghĩa anh hùng cá nhân ở ông.
Trong văn học trung đại đã có rất nhiều nhà thơ nói về chi nam nhi, nhưng đến Nguyễn Công Trứ thì chí nam nhi được thể hiện một cách mạnh mẽ, sâu sắc.
* Thực hiện vai trò, bổn phận của kẻ sĩ
Sống trên đời mỗi người chọn cho mình một nghề nghiệp khác nhau, nghề nghiệp đó vừa để nuôi sống bản thân, gia đình vừa là phương tiện để đóng góp cho đời, cho xã hội. Nhưng có người công việc thì vẫn làm, song không nhận thức được rõ ý nghĩa việc làm của mình, hoặc có nhận thức được nhưng không tiện nói ra. Với Nguyễn Công Trứ thì khác, ông hiểu rõ vị trí nghề nghiệp của mình và đã nói thẳng ra tâm trạng suy nghĩ của mình khi làm nghề đó.
Theo truyền thống của xã hội phong kiến thì các nghề được phân ra làm bốn loại: sĩ, nông, công, thương và theo đó thì sĩ là một nghề cao quý nhất, kẻ sĩ cũng được xem là người cao quý nhất. Trên cơ sở quan niệm truyền thống đó, Nguyễn Công Trứ tự hào là mình được làm kẻ sĩ:
Tước hữu ngũ, sĩ cư kỳ liệt
Dân hữu tứ, sĩ vi chi tiên
Có giang sơn thì sĩ đã có tên
Từ Chu, Hán vốn sĩ này là quý
( Luận kẻ sĩ)
Dưới thời trung đại nhiều nhà thơ cũng tự ví mình là kẻ sĩ. Đối với Nguyễn Công Trứ đã là kẻ sĩ ông tự ghép mình vào các mối quan hệ vua tôi, cha con, anh em…, tự thấy mình phải thờ ai, theo ai, tự biết phải giữ gì, bỏ gì. Cho nên cũng như những kẻ sĩ khác, ông thấy mình phải có nghĩa vụ cương thường, thực hiện đạo làm tôi, làm con, phải có trách nhiệm giữ lấy:
Nặng nề thay đôi chữ quân thân
Đạo vi tử, vi thần đâu có nhẹ
( Nợ nam nhi)
Mặc dù sống trong cảnh nghèo hèn từ khi chưa làm quan cho đến khi thành đạt, dưới nhiều cám dỗ vật chất nhưng ông vẫn luôn giữ mình được trong sạch:
Nhân nghĩa tước thời thì phải giữ
Lợi danh đường nhục cũng nên kinh.
( Vịnh cảnh nghèo)
Bên cạnh đó, ông còn quy định chặt chẽ nhiệm vụ của kẻ sĩ lúc sống ở gia đình, làng xóm, kẻ sĩ phải lo việc hiếu dễ. Khi chưa gặp thời ra tay giúp nước, kẻ sĩ phải góp phần giáo hóa xã hội :
Xe bồ luân dầu chưa gặp Thang, Văn
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị
Và khi thời cơ đến “rồng mây gặp hội ưa duyên”, nhiệm vụ của kẻ sĩ là phải dốc tất cả sức mình ra làm việc ở triều đình cũng như ngoài biên ải. Mặc dù triều đại nhà Nguyễn là một triều đại phong kiến suy tàn, dù ông ý thức rất rõ số phận chung của tất cả các kẻ sĩ khi vào chốn quan trường đều phải chịu cảnh:
Ra trường danh lợi vinh liền nhục
Giữa cuộc trần ai khóc lộn cười
( Tình cảnh làm quan)
Tuy vậy ông vẫn cứng rắn với lập trường của mình về trách nhiệm với vua, với dân. Bởi vậy, hình tượng kẻ sĩ hiện lên trong thơ ông là hình ảnh một vị quan tốt thực sự. Không chỉ ở chốn quan trường ông còn là một võ tướng oai hùng giữa trận mạc:
Đem quách cả sở tồn làm sở dụng
Trong lăng miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thùy rạch mũi can tương
Sĩ làm cho bách thế lưu phương
Trước là sĩ sau là khanh tướng
( Luận kẻ sĩ)
Cả cuộc đời của Nguyễn Công Trứ đã cống hiến cho thời đại không chỉ cái tài văn chương mà còn cả cái tài dẹp loạn, tài binh lược. Đối với việc an dân Nguyễn Công Trứ đã góp công vào khai hoang giúp cho nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Trong cuộc sống riêng tư cũng như trong việc công, ông luôn nhớ tới trách nhiệm nặng nề và vẫn giữ được chí lớn của mình. Ngay khi đến tuổi 80 giữa cảnh “nhất tọa lễ hoa áp hải đường” người vẫn không quên sự nghiệp và bổn phận của kẻ sĩ mà vội vã dâng sớ xin đi đánh thực dân pháp. Qua đó, chúng ta thấy ở con người ông một con người trách nhiệm, sôi nổi, hào hùng và một chí khí mạnh mẽ.
Cũng như bao nhà nho khác, Nguyễn Công Trứ luôn đề cao đạo trung quân, một lòng trung thành với vua, và xem đó là ân huệ phải trả:
Ơn chúa vun trồng kể xiết bao
Một ngày càng một rấn lên cao
Lưng đeo đai bạc sương nào nhuốm
Đầu đội tàn xanh nắng chẳng vào
( Cây cau)
Đọc thơ ông chúng ta thấy hiện lên một con người trung thành, biết giữ chữ tính, biết đề cao đạo trung hiếu:
Đường trung hiếu chữ quân thân là gánh vác
Là một nho sĩ, bao giờ Nguyễn Công Trứ cũng xuất hiện với tư thế là một chủ thể tích cực, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm.
Do có quan niệm, tư tưởng tích cực như vậy nên Nguyễn Công Trứ luôn phải suy nghĩ và giải quyết những vấn đề do cuộc sống xã hội đề ra. Nguyễn Trãi có nói “suy nghĩ xa thì thành công kì”. Thành công của Nguyễn Công Trứ một phần là do tư thế làm người của ông. Tất cả những chí khí của ông đều được bày tỏ một cách rành mạch, dứt khoát bằng những lời thơ chân thành thiết tha, đầy vẻ tự hào và tin tưởng.
* Sự trăn trở trước thế thái nhân tình
Những người theo Nho giáo trong tinh thần nhập thế tích cực chứ không quay lại với hiện thực của xã hội, thường là những người có ý thức về cuộc sống và chú ý nhiều đến với vấn đề của cuộc sống. Trong xã hội cũ, chỉ cần một thái độ như vậy là họ có thể nhận ra ít nhiều những mặt trái của xã hội mà họ đang sống. Bên cạnh những con người hoài bão, có chí khí cao, trong thơ Nguyễn Công Trứ còn xuất hiện hình ảnh con người chứa đựng nhiều nỗi niềm với đời, với những vấn đề thuộc phạm trù đạo lí xã hội, nhân cách. Đọc thơ ông ta thấy được nỗi trăn trở, sự hoài nghi của nhà thơ về cuộc sống. Có lẽ chốn quan trường đầy rẫy những bất công, cạm bẫy đã cho ông những bài học đắt giá. Phải chăng nhà thơ sống trong môi trường phong kiến đang trên đà đi xuống, ở đó vàng thau lẫn lộn, đồng tiền trở thành một thế lực đen tối, đang chế ngự đời sống con người, nó trở thành thước đo giá trị của con người:
Hễ không điều lợi, khôn thành dại
Đã có đồng tiền, dở cũng hay
( Vịnh nhân tình thế thái)
Đồng tiền đánh đỗ cả nhân nghĩa, nó chi phối mọi tình cảm, mọi mối quan hệ trong xã hội:
Thế thái nhân tình gớm chết thay!
Lạt nồng, trong chiếc túi vơi đầy
( Vịnh nhân tình thế thái)
Đối lập với những con người khí phách, có lối sống phóng túng còn có hạng quan lại dốt nát, hẹp hòi, ích kỉ. Đó là những con người bất tài mà hay hại người:
Tuổi tác càng già càng xốp xáp
Ruột gan không có có gai chông
( Vịnh cây vông)
Cái xấu đầy rẫy trong cuộc sống từ đám cường hào mọt dân ở nông thôn đến hàng ngũ quan lại giữa triều đình. Trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ không chỉ nói đến bọn quan lại xấu xa, bỉ ổi mà còn nói đến sự đổi trắng thay đen của người đời, đây cũng là một đối tượng không thể thiếu trong thơ ông như những bài: Trách người đời, Vịnh sự đời, Thế tình bạc bẽo, thói đời…Hàng loạt các bài thơ trên đều thể hiện sự phẫn nộ của ông trước sự tráo trở, nham hiểm của người đời:
Những nghĩ xa gần khéo gớm thay!
Sự đời tráo trở giống bàn tay
Hãy xem gương trước to tày liếp
Mà biết lòng người mỏng tựa mây
( Vịnh sự đời)
Ông đã kích bọn người tráo trở, gian lận:
Mặc sức đâm thùng và tháo đáy,
Tha hồ tráo đấu lại lừa thưng.
( Ích kỷ hại nhân)
Nguyễn Công Trứ rất quan tâm đến sự thay đổi của lòng người, chú ý đến nhân cách và sự thoái hóa nhân cách con người. Cũng giống như Hồ Xuân Hương, nhà thơ cũng văng những câu chửi tục rất cay độc. Ông đã buột miệng chửi đổng:
Đù mẹ nhân tình đã biết rồi
Lạt như nước ốc bạc như vôi
( Thế tình bạc bẽo)
. Phải là một người đã từng trải nghiệm giữa cuộc sống không mấy êm đềm, tốt đẹp mới hiểu được sự đời bạc bẽo một cách thấm thía, sâu sắc đến như vậy. Nhưng điều đặc biệt so với các nhà thơ khác cùng thời khi đề cập đến đồng tiền, đến danh lợi ta không thấy sự chán nản hay tuyệt vọng bi quan nào, ngược lại đọc thơ Nôm của Nguyễn Công Trứ ta luôn cảm nhận được một tinh thần lạc quan và niềm tin vào số phận:
Còn giời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu mã thế này
( Tự thuật I)
Hãy xem giời đất thời liền rõ,
Dầu nắng dầu mưa có mãi đâu
( Thế tình đen bạc)
Trong tác phẩm thơ Nôm của ông luôn hiện lên con người với tư thế chủ động, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh, luôn có niềm tin vào một ngày mai tươi sáng hơn. Đây cũng chính là một biểu hiện của con người nhà nho hành đạo điển hình ở trong thơ Nguyễn Công Trứ nói chung và thơ Nôm nói riêng.
Nhìn chung những câu thơ của Nguyễn Công trứ viết về nhân tình thế thái thường thấm đượm cảm xúc sâu sắc của một con người từng trải. Cho nên, mặc dù phần nào có trừu tượng, chung chung, hình ảnh thơ cũng không mấy sinh động nhưng nó vẫn có lay động mạnh với bạn đọc.
2.1.2. Nhà nho tài tử
2.1.2.1. Nhà nho tài tử trong văn học trung đại
Xét từ loại hình kiểu tác giả Nho gia, một số nhà nghiên cứu tiêu biểu như Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vượng đã chia thành ba loại nhà nho: Nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật, nhà nho tài tử. Cả ba loại hình nhà nho này đều bộc lộ rất rõ trong văn học trung đại. Tuy nhiên từ thế kỷ X- thế kỷ XVIII tồn tại song song hai loại nhà nho chính thống: nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật. Đến đầu thế kỷ XVIII xuất hiện thêm loại hình nhà nho tài tử. Người đầu tiên đề cập đến loại hình nhà nho tài tử trong văn học trung đại phải kể đến GS. Trần Đình Hượu. Sau đó khái niệm nhà nho tài tử được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu này chỉ đề cập đến chứ chưa nghiên cứu sâu về con người tài tử cũng như hình tượng con người tài tử trong văn học trung đại Việt Nam.
Con người tài tử xuất hiện gắn liền với sự phát triển của xã hội đô thị lúc bấy giờ. Hầu hết các nhà thơ dù trực tiếp hay gián tiếp đều thể hiện chất tài tử một cách mạnh mẽ trong tác phẩm của mình.
Trong văn học trung đại Việt Nam, ta bắt gặp một Hồ Xuân Hương với khí phách ngang tàng, ngạo nghễ, dù là phụ nữ nhưng bà muốn sánh cùng các bậc nam nhi để dựng nghiệp cơ đồ, tỏ ra mình không hề thua kém “Đấng mày râu”:
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền Thái Tthú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu
Con người tài tử trong thơ Hồ Xuân Hương thực sự hơi khác người. Đó là con người như bản năng vốn có của mình dám bộc lộ nhu cầu hạnh phúc cá nhân, đây là điều tối kỵ nhất đối với con người sống trong xã hội phong kiến. Đặc biệt là người phụ nữ dễ dàng bị dẫn đến hình phạt “cạo trọc bôi vôi” giữa ba quân thiên hạ. Thế nhưng người phụ nữ trong thơ bà còn xem hiện tượng không chồng mà chữa là một hiện tượng bình thường, thậm chí xem đó là điều đáng tự hào, bà đã ngẩng cao đầu tuyên chiến với lễ giáo phong kiến bằng những lời lẽ hùng hồn, đanh thép:
Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có nhưng mà có mới ngoan
Bà là một người phụ nữ khá mạnh mẽ, không có cái dịu dàng của người phụ nữ theo kiểu “êm đềm trướng rủ màn che” mà là kiểu con người chân thành, bạo dạn trong tính cách. Phải là một người có tài năng thực sự thì Hồ Xuân Hương mới thể hiện mình một cách tự tin và cao ngạo đến như vậy. Tài năng là ưu thế hàng đầu, như thế giá trị cao nhất của người tài tử là “tài”, bên cạnh đó còn có cả tình nữa. Với họ, dường như hai phạm trù này luôn tồn tại song song với nhau.
Đọc thơ của bà không chỉ thấy một tài năng thơ ca vượt trội mà chúng ta còn cảm nhận được phần nào niềm khao khát cháy bỏng trong hạnh phúc riêng tư của người phụ nữ. Nỗi niềm đó không chỉ bộc lộ trực tiếp mà nó còn được nhà thơ gửi gắm một cách tha thiết, nồng nàn vào những vật rất đổi bình thường, nhỏ mọn như “Quả cau”:
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi,
Này của Xuân Hương mới quệt rồi.
Có phải duyên nhau thì thắm lại,
Đừng xanh như lá bạc như vôi.
Như chúng ta đã biết, số phận của những con người có tài lẫn sắc thường ít khi nhận được một kết thúc tốt đẹp trong cuộc sống, Hồ Xuân Hương cũng không nằm ngoài những ngoại lệ đó, cuộc đời bà là những chuỗi ngày cay đắng trong tình yêu hạnh phúc lứa đôi. Ngay cả khi chấp nhận làm vợ lẽ cũng không trao cho bà những đêm ân ái trọn vẹn:
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười họa chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Đó là một sự phẫn nộ hay là một lời than thở cho số phận của mình? Dường như từ trong cõi lòng Hồ Xuân Hương đan xen những tâm trạng đớn đau trong hạnh phúc lứa đôi. Đó là sự thể hiện những cảm xúc nội tâm, Hồ Xuân Hương đã “vén lên” bức màn ngăn cách để người đọc, người nghe phần nào xâm nhập vào thế giới nội tâm của con người.
Cũng như Hồ Xuân Hương, trong thơ Nguyễn Du cũng xuất hiện con người tài tử, có nghĩ tới hành lạc, có điều vì ông mang nặng trách nhiệm nhân thế, đề cao chữ “tâm” mà xem nhẹ chữ “tài” nên chất tài tử của nhà thơ phần nào mờ nhạt hơn so với Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát…
Không ngang tàng, ngạo nghễ như các nhà thơ khác cùng thời nhưng trong sáng tác của ông đã xuất hiện mẫu hình người anh hùng thời loạn, sự thể hiện lí tưởng, khát vọng sống, nhu cầu giải phóng cá nhân. Những biểu hiện tài tử đó được thể hiện rõ trong thế giới nhân vật của ông, tiêu biểu đó là nhân vật Từ Hải trong tác phẩm truyện Kiều nổi tiếng của nhà thơ. Với nhân vật Từ Hải - một tướng giặc “đội trời đạp đất trên đầu có ai?” được nhà thơ thổi vào đó những gì là tinh túy, là bản lĩnh phi thường của người anh hùng. Ngay sự xuất hiện con người này cũng rất bất ngờ, phong thái uy nghi tự tại:
Bỗng đâu có khách bên đình sang chơi
Râu hùm hàm én mày ngài
Vai năm tức rộng thân mười thước cao
…………………………………………
Nguyễn Du đã miêu tả Từ Hải với một tấm lòng mến phục, trân trọng, ngưỡng vọng, xem đó là một trang hảo hán trong thời loạn lạc lúc bấy giờ.
Đến Cao Bá Quát hình tượng nhà nho tài tử thể hiện một cách rõ rệt. Không chỉ trong thơ văn mà ngoài cuộc đời ông cũng là con người như thế. Ngoài đời, ông là một con người có bản lĩnh dám chống lại triều đình phong kiến để bảo vệ đạo lí, bảo vệ nhân dân, vì thế ông được nhân dân tôn thờ và đề cao tài năng của mình. Ý thức được cái tài vượt trội của mình, Cao Bá Quát không tỏ ra một chút rụt rè khi thể hiện tài năng của mình vào trong thơ ca. Trong các bài thơ chữ Nôm lẫn chữ Hán con người tự ca ngợi cái tài của mình xuất hiện rất nhiều:
Đạp hướng danh đồ bất điệu đầu,
Ngã vô hành dã, diệc vô lưu.
Thi tài đáo để liên Tô Tử,
Thư nghĩa chung tu thuyết Hạ Hầu.
( Trường giang thiên III)
Dịch nghĩa: ( Bước lên con đường “danh” đầu vẫn ngay thẳng,
Ta không có ý gì đi, cũng không có ý gì ở cả.
Kể tài làm thơ, cuối cùng cũng phải tiếc đến Tô Tử
Bần nghĩa kinh thư, rút cuộc phải kể đến Hạ Hầu)
Cái tài của con người được thể hiện ở những thú chơi tao nhã “cầm, kỳ, thi, họa”. Tài về thơ, tài về uống rượu cũng là điểm để người tài thấy mình hơn người, để rồi họ dám sánh mình cùng với thiên cổ, những bậc kì tài trong thiên hạ như Tô Tử, Hạ Hầu.
Đọc thơ ông ta còn thấy con người tài tử nặng gánh với mối tình của mình, khí phách ngang tàng là vậy, thế nhưng khi vướng vào chuyện tình ái con người tài tử trong thơ ông cũng tình tứ và khổ đau lắm chứ:
Thương những kẻ giai nhân tài tử
Trót đa mang vì một chữ tình
………………………….
Tương tư ai để cho nhau
( Tài hoa nợ)
Hình ảnh người trượng phu ở đây không còn nữa mà là một nho sinh nho nhã đã vấn vương vào chuyện tương tư, đang bị ràng buộc, bị mềm yếu vì “trót đa mang” trước tình cảm yêu đương. Nhà nho tài tử trong thơ Cao Bá Quát đã bộc lộ rõ những đặc điểm của con người thời đại lúc bây giờ.
Trên thi đàn văn học trung đại có lẽ đây là thời kỳ nở rộ nhất, nhiều hương sắc phong phú, đa dạng. Mỗi nhà thơ chọn cho mình một lối đi riêng không ai giống ai, chính cái riêng đó nó tạo nên diện mạo riêng, vị trí riêng trong quan niệm vủa mỗi người. Đến với Nguyễn Công Trứ, con người tài tử thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau. Người tài tử trong thơ ông là sự kết tinh, hội tụ của con người tài tử trong thời đại lúc bấy giờ.
2.1.2.2. Nguyễn Công Trứ và sự thể hiện con người nhà nho tài tử
* Tự hào về tài năng của mình
Người tài tử quan niệm “Tài” theo nhiều cách: Có thể là tài trị nước, tài cầm quân, tài học vấn, tài văn chương, tài cầm, kỳ, thi, họa…Mỗi nhà nho đều tự hào về cái tài của mình và được thể hiện rõ trong tác phẩm của họ. Cái tài đó mỗi người có một cách thể hiện riêng. Nếu Hồ Xuân Hương bộc lộ mình một cách mạnh mẽ, thậm chí có vẻ thách thức hơn về cái tài của mình:
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.
thì Nguyễn Du, dù rất muốn thể hiện khát vọng anh hùng, thể hiện cái tài của mình cũng chỉ mượn qua hình tượng Từ Hải để thổ lộ gián tiếp:
Đội trời đạp đất mặc dầu
Dọc ngang nào biết trên đời có ai
Đến với Nguyễn Công Trứ quan niệm con người tài tử được thể hiện một cách rõ ràng, không một chút e dè, dấu diếm.
Nguyễn Công Trứ sống trong một thời kì lịch sử đầy biến động, tình hình chính trị xã hội phức tạp. Đó là thời kì xã hội phong kiến suy đồi, kỷ cương đổ nát. Trong điều kiện như vậy, mầm móng ý thức cá nhân ngày càng phát triển sâu rộng. Nét đặc trưng thể hiện trong văn học thế kỷ XVIII – XIX là nhu cầu tự nhiên của con người đã được khẳng định. Con người vươn lên đứng vững trong xã hội bằng chính tài năng của bản thân mình, thể hiện tài và khoe tài như một tất yếu đối với các nho sĩ. Hình tượng con người trong thơ Phạm thái, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát…đều tự khoe tài và bộc lộ bản lĩnh của mình trong thiên hạ. Họ phá vỡ mọi quy ước để dương cao ngọn cờ cá nhân, sống đúng với nhu cầu, khát vọng của bản thân mình. Có điều mỗi nhà thơ, trong các tác phẩm của họ thể hiện chất tài tử riêng, tạo nên phong cách độc đáo cho các nhà thơ.
Trong nền văn học trung đại, phải nói rằng ít ai thể hiện cái tài của mình một cách cao ngạo, tự tin như Nguyễn Công Trứ. Người tài tử cậy tài không chỉ mơ ước lập công danh phú quý mà còn lập nên sự nghiệp vẻ vang phi thường. Ông chính là điển hình cho mẫu người ấy, ông ý thức rõ số phận ban cho mình cái tài hơn người khác để vui thích, để hưởng thụ những thú vui của cuộc đời:
Trời đất cho ta một cái tài
Dắt lưng dành để tháng ngày chơi
(Cầm kỳ thi tửu)
Đọc thơ ông dường như ta có cảm nhận nhà thơ không hề dấu diếm, e dè như các bậc tiền bối mà ngược lại ông còn nói to, nói rõ, nói một cách hào sảng về cái tài thậm chí đôi lúc kiêu hãnh, ngông nghênh. Giọng văn hơi khoa trương nhưng không gây khó chịu với người đọc bởi chỉ có những con người đã ý thức được tài năng của bản thân mới nói được như vậy. Cái tài đó không phải ai cũng có mà chỉ những người được thiên phú ban cho, Nguyễn Công Trứ đã rất đắc ý và luôn tự hào rằng:
Thiên phú ngô, địa tái ngô
Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý
(Trời che ta, đất chở ta
Trời đất sinh ta vốn có chủ ý)
Nguyễn Công Trứ đã là một cá nhân sống theo mình, bất chấp mọi ràng buộc, ông luôn tự khoe tài, đề cao cái tài. Vì quá đề cao cái tài nên khi lâm vào hoàn cảnh bế tắc, nghèo túng con người tự đổ lỗi cho cái tài :
Mang danh tài sắc cho nên nợ
Quen thói phong lưu hóa phải vay
(Tự thuật I)
Có lẽ đó chỉ là một lời biện minh, một cách nói nhất thời mà thôi. Bởi khi đọc thơ ông bao giờ cũng thấy hiện lên tinh thần lạc quan, hào sảng, mạnh mẽ để chiến thắng số phận. Ngay trong một bài thơ ta cũng bắt gặp hai thái độ ứng xử khác nhau. Nếu như ở đoạn trên của bài thơ, con người tự đổ lỗi cho tài sắc của mình thì ở phần cuối lại thể hiện niềm tin quyết liệt :
Còn giời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này?
Có khi con người trong thơ Nguyễn Công Trứ tự ví mình như cái trống đại cổ. Đây là một loại trống lớn coi khinh mọi thứ trống bé mọn khác:
Bé mọn làm chi những thứ trống
Lớn lao thế ấy ghẹo ai rung
Đôi bên bằng phẳng trời hai mặt
Chính giữa tròn xoay nguyệt một vòng
Hiên bệ gió đưa đùi trắc trắc
Giang san sấm dậy tiếng tùng tùng
Huống chưng đất nước đồ sang trọng
Đánh giá cho cao lại vẻ rồng
(Trống đại cổ)
Cả bài thơ toát lên một khẩu khí to lớn của bậc chí nhân quân tử. Nhà thơ muốn nói mình làm việc lớn không kể lời khen chê của bọn tiểu nhân. Phải là người tài thực sự, có nhân cách cao đẹp, thanh liêm chính trực mới có thể dám nói hào sảng đến như vậy được.
Như chúng ta đã biết, văn học trung đại rất tối kỵ việc thể hiện cái tôi vào thơ ca. Mặc dù giai đoạn này đã phá vỡ mọi khuôn phép của xã hội phong kiến, nhu cầu thể hiện khát vọng cá nhân được đề cao nhưng dù sao nó cũng thuộc về quy ước trong khuôn khổ của văn học cổ.
Con người tài tử trong thơ Nôm Nguyển Công Trứ luôn mang dáng dấp đầy tinh thần, trách nhiệm với khí chất khảng khái hiện lên rõ nét. Hình ảnh ấy được tác giả gửi gắm trong dáng vẻ cao lớn, xum xuê của cây cau:
Kình thiên một cột dơ tay chống
Dẫu gió lung lay cũng chẳng nao
(Cây cau)
Từ một vật thể nhỏ bé để nói lên chí khí cao đẹp lớn lao của con người, cây cau giữa phong ba bão táp như vậy vẫn đứng vững hiên ngang, hồi sinh nảy nở, xum xuê tươi tốt, quả chất đầy buồng. Hình ảnh cây cau chính là biểu tượng cho tinh thần khảng khái bất khuất, không chịu luồn cúi trước ai và thể hiện sự thành đạt của mình. Cái tinh thần đó còn được thể hiện trong một bài thơ lục bát, Nguyễn Công Trứ cũng tự ví mình như cây thông dù điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, rét mướt cây thông vẫn vươn lên xanh tốt. Nhà thơ tự ví mình như cây thông già, trải qua bao phen chìm nổi vẫn đứng vững giữa cuộc đời:
Ngồi buồn mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
(Vịnh cây thông)
Thơ Nôm Nguyễn Công Trứ ẩn hiện dáng dấp con người với bản lĩnh phi thường, tự tin vào chính mình. Sự tự tin phát triển đến mức cao hơn đã tạo cho Nguyễn Công Trứ một phong thái uy nghi, lộng lẫy và cũng rất ngất ngưỡng, rất ngông. Trong văn học trung đại, chúng ta hiếm thấy có ai khoe tài như ông, có công ích gì là kể hết trong thơ: Nào là khi thủ khoa, khi tham tán, khi tổng đốc đông, từng nắm cờ đại tướng phủ Doãn Thừa Thiên. Dường như ẩn sau đó có sự thấp thoáng nụ cười đắc ý. Chính niềm tin luôn tạo cho con người trong mọi hoàn cảnh vẫn giữ được tâm thế an định, hướng về một tương lai, một niềm tin tươi sáng. Trong sự nghiệp, con người đó lại hẹn ước với non sông:
Trong cuộc trần ai ai dễ biết
Rồi ra mới biết mặt anh hùng
Tất cả những biểu hiện trên đúc kết hình tượng một con người bản lĩnh, cái bản lĩnh để biến khát vọng, lý tưởng thành sự thực, tự mình định được vị trí của mình trong đời. Bản lĩnh và niềm tin lớn lao đã giúp con người xác định đúng con đường để cống hiến. Nguyễn Công Trứ tự nhận trời đất sinh ra ông không phải vô cớ bởi ông là sự chung đúc của khí thiêng sông núi. Đó là tài kinh bang tế thế, tài lập công danh sự nghiệp của một đấng anh hùng, một bậc trượng phu:
Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông
(Đi thi tự vịnh)
Nhà nho tài tử trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ còn thể hiện ở khát vọng lập công danh. Người tài tử cậy tài, mơ ước không chỉ lập công danh, phú quý mà còn lập nên những sự nghiệp phi thường “Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc” hay “thay con tạo xoay cơn khí số”. Họ luôn trăn trở, băn khoăn về lẻ xuất - xử. Khát vọng lập công danh sự nghiệp của con người tài tử trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ không đơn thuần để hành đạo cho đời nữa mà còn là dịp để thi thố tài năng, khẳng định tài năng của mình trong thiên hạ.
Ý thức được tài năng nên khát vọng lập công danh sự nghiệp của con người tài tử trong thơ Nôm thể hiện chí khí mãnh liệt. Phải nói rằng chưa có một nhà thơ nào thể hiện được lòng khao khát sống, khao khát lập công danh sự nghiệp như Nguyễn Công Trứ.
Sinh ra trong một gia đình Nho giáo lại chịu ảnh hưởng những thay đổi của thời đại, ở Nguyễn Công Trứ chứa đựng nhiều tư tưởng. Chính điều đó tạo cho ông một tính cách khác lạ, đan xen nhiều mâu thuẫn phức tạp. Con người trong thơ ông là sự phanh thân tuyệt đối không chỉ giữa các tác phẩm khác nhau mà đôi khi trong một bài thơ cũng có sự phanh thân. Ông không chỉ là một nhà nho hành đạo điển hình với tinh thần nhập thế tích cực, sôi nổi mà còn là một con người có bản lĩnh mạnh mẽ, cứng cỏi. Cái tôi được đặt trong môi trường hoạt động đa dạng và đầy sắc điệu. Sự tự ý thức về tài năng cá nhân đã được ông thể hiện trên nhiều phương diện, nó chính là cơ sở để ông tự khoe tài một cách ngông nghênh, ngạo nghễ giữa đời. Hình tượng nhà nho tài tử trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ dù ở khía cạnh nào vẫn luôn giữ được một dáng vẻ riêng, không lẫn với bất kì nhà văn nào.
* Thú hành lạc một cách để tỏ với đời phẩm chất thanh cao của kẻ sĩ
Trong di sản văn học không quá đồ sộ lắm về số lượng, nhưng khá đa dạng, phong phú về chủ đề, thể tài thì mảng thơ văn “hành lạc” giữ một vị trí rất quan trọng, không thể không để ý đến trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Trứ.
Thú hành lạc của nhà nho trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ thể hiện rất rõ ở mô típ rượu, thú đánh tổ tôm, hát ả đào và đặc biệt yếu tố sắc dục đã “gậm nhấm” vào tâm hồn nhà thơ. Trong văn học trung đại, con người cũng tìm đến những thú vui ở đời nhưng chỉ là thú cầm kỳ thi họa, những thú chơi tinh tế để giải sầu hoặc mua vui cho mình. Trong thơ Nguyễn Công Trứ tư tưởng hành lạc đi xa hơn, táo bạo hơn. Ông đã nâng quan niệm hành lạc lên thành một khuynh hướng, một triết lý sống có sức hấp dẫn thu phục nhân tâm. Trong thú hành lạc đối tượng được nói nhiều đến trong thơ đó là người phụ nữ. Vì vậy hình tượng người phụ nữ trong thơ ông cũng có nét đặc trưng riêng so với văn học trung đại.
Bên cạnh đó, rượu cũng được nhắc dến nhiều trong thơ Nguyễn Công Trứ, thú uống rượu, đánh tổ tôm là một trong những thú chơi tao nhã của các bậc “phong lưu” ngày xưa. Cùng với cầm kỳ thi họa, nhà thơ xem rượu như những bậc tri âm tri kĩ có duyên nợ với nhau:
Dở duyên với rượu không từ chén
Trót nợ cùng thơ phải chuốt lời
(Cầm kỳ thi tửu)
Ngay từ đầu đề nhiều bài thơ, ông nhắc đến rượu, đánh tổ tôm: Cầm kỳ thi tửu, Say rượu đánh long thành, Uống rượu tự vịnh, Khách nợ tổ tôm, Đánh tổ tôm… Điều đó cũng chứng tỏ rượu, đánh tổ tôm, hát ả đào đều là những thú chơi được con người nâng lên thành thú chơi tinh tế đầy nghệ thuật, đặc biệt có ý nghĩa đối với đời sống tinh thần của mỗi con người. Đọc thơ Nguyễn Công Trứ, ta thấy hiện lên hình tượng con người đang ngất ngưỡng cùng với rượu, chìm đắm trong những cơn say. Thậm chí trong cơn say dẫn đến những hành động ngang tàng:
Hôm qua trời tối tới chơi đây
Đánh vật long thần mấy cẳng tay
Khi tĩnh thời nào ai có dám,
Say!
(Say rượu…)
Có thể nói, long thần thể công ở các miếu là chốn linh thiêng nhất, yên tĩnh nhất thế nhưng khi say con người dường như mất hết ý thức. Có khi rượu như một thứ để giải sầu nỗi buồn thiên cổ đối với các nhà thơ:
Trót đà khuya sớm với ma men,
Mặc mặc người chê mặc kẻ khen.
(Uống rượu tự vịnh)
Nguyễn Công Trứ cũng ví uống rượu- xem rượu như món giải sầu cùng với các nhà thơ xưa. Rượu nhiều khi dùng để làm vui chốn thanh nhàn, trút bỏ những ô trọc tầm thường của cuộc đời.
Với Nguyễn Công Trứ dù trong hoàn cảnh nghèo khó nhất con người vẫn lao vào những cuộc chơi hành lạc. Đánh tổ tôm là một thú chơi của các bậc phong lưu đòi hỏi có trí tuệ và bản lĩnh kết hợp một chút mạo hiểm:
Tổ tôm tên chữ gọi “hà sào”,
Đánh thì không thấp cũng không cao.
Được thì vơ cả thua thì chạy,
Nào!
(Đánh tổ tôm)
Trong cuộc đời của những kẻ phong lưu tài tử, người đàn bà luôn có một địa vị quan trọng trong thơ ca cũng như trong suốt cuộc đời họ. Tâm hồn người nghệ sĩ từ muôn thưở vẫn đa tình và nhan sắc người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng cho các thi phẩm của các nhà thơ tài tử. Thơ văn Nguyễn Công Trứ nói chung thơ Nôm nói riêng, hình tượng người phụ nữ được nhắc đến nhiều lần. Có thể nói, đây là hình tượng chủ yếu trong loại thơ hành lạc của ông. Thú hành lạc trong thơ Nguyễn Công Trứ đã đưa ông lên một đẳng cấp khác trong văn đàn Việt Nam.
Thú hành lạc trong thơ Nguyễn Công Trứ có đủ “cầm kỳ thi tửu”, nhưng nó chưa phải là vấn đề trung tâm. Hình tượng người tài tử trong thơ ông vừa là con người tài ba lỗi lạc nhưng cũng rất đa tình và nhạy cảm trước vẻ đẹp của người phụ nữ. Con người bản lĩnh là vậy, cương quyết là vậy thế nhưng trước tình cảm riêng tư con người ấy lại “mềm yếu” hẳn đi. Bởi vậy, người phụ nữ đi vào thơ ông vừa chứa đựng một chút cảm thông vừa bị khinh thường khi xem nó như món đồ để thỏa mãn. Hình tượng người phụ nữ trong thơ văn Nguyễn Công Trứ đã trở thành một yếu tố khá mãnh liệt so với quan niệm hành lạc trong văn học cổ điển của nước ta. Nếu trong văn chương “nghiêm chỉnh” được truyền thống Nho giáo sùng mộ “hành lạc” là “bầu rượu túi thơ”, là “ngao du sơn thủy”, là “cầm kỳ thi tửu” thì hành lạc trong thơ Nguyễn Công Trứ có yếu tố tình dục, có những khao khát khoái lạc kiểu xác thịt. Tất nhiên yếu tố này trong thơ Nôm phần nào được biểu hiện rất tế nhị.
Nguyễn Công Trứ là người rất đa tình, bản thân nhà thơ có 13 vợ cũng cho chúng ta thấy ông là người đa tình như thế nào? Cái đa tình ngay từ đầu đã tạo nên dấu ấn riêng cho con người tài tử Nguyễn Công Trứ. Cũng như bất kì người nghệ sĩ nào, ông dễ đồng cảm với các giai nhân, mĩ nữ. Kể ra trong những ngày lăn lóc ở nhà cô đầu, đôi khi vượt lên trên những thứ tình trăng gió, phóng đảng, Nguyễn Công Trứ cũng viết được những câu thơ về tình yêu khá xúc động, ông ghi lại cảnh nhớ nhung một người tình:
Hỏi trăng gió, gió trăng hờ hững
Ngắm cỏ hoa, hoa cỏ ngậm ngùi
Đặc biệt ông đã đưa ra một tuyên ngôn về ái tình, tự xem mình là “quân tử đa tình”, đã xem lối phong tình là cách sống của kẻ phong lưu “mượn phong tình mà trả nợ phong lưu”. Cái đa tình của con người tài tử trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ có nhiều cung bậc. Những cung bậc tình cảm ấy dường như không định hình được.
Nếu như trong thơ Nguyễn Du hình tượng người phụ nữ được nhắc đến không phải để bày tỏ tình cảm, tình yêu cá nhân, đôi lứa mà chủ yếu là sự cảm thông sâu sắc đối với người phụ nữ, ông đứng về phía họ, bênh vực cho họ. Nguyễn Công Trứ lại khác, nhắc đến người phụ nữ dường như không phải để gửi gắm sự đồng cảm mà là thể hiện tình cảm cá nhân riêng tư mà thôi.
Nguyễn Lộc trong cuốn Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỷ XVIII- hết thế kỷ XIX), xét về tư tưởng hành lạc trong thơ văn Nguyễn Công Trứ cũng cho rằng: “Trong việc hành lạc, điều đáng phê phán nhất ở Nguyễn Công Trứ là thái độ của ông đối với phụ nữ. Trước kia mang nặng tư tưởng Nho giáo Nguyễn Công Trứ tỏ ra khắt khe đối với phụ nữ. Ông lên án Thúy Kiều của Nguyễn Du: “Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm”. Ông phê phán cái chết của người phụ nữ Nam Xương: “Dẫu tình ngay song lý cũng là gian”, Nguyễn Công Trứ tỏ ra không có chút thông cảm nào đối với người phụ nữ xấu số trong xã hội. Về sau đi vào hưởng lạc, ông lại càng coi thường phụ nữ”. [ 8, tr.545]
Yếu tố sắc dục đã ăn sâu vào tâm hồn nhà thơ. Con người tài tử trong thơ ông xem ái tình là “món đồ” thưởng thức của cuộc sống. Vậy tại sao trong cùng thời đại con người tài tử trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ lại lao vào thú hưởng lạc đến cực độ như vậy? Chúng ta đã biết rằng Nguyễn Công Trứ sinh ra và lớn lên trong giai đoạn đất nước khủng hoảng về mọi mặt, trong ảnh hưởng của cuộc loạn thì sự phong hóa suy bại “là rõ rệt và kéo dài dai dẳng nhất”. Lúc loạn ly, con người sống chơ vơ như thuyền không lái, đó là cơ hội thuận lợi nhất cho bản năng phát triển tự do. Nguyễn Công Trứ cũng đã chịu tác động mạnh mẽ từ hoàn cảnh sống đó, đến với nho sĩ tài tử Nguyễn Công Trứ, ông đã biểu hiện thú hành lạc ở yếu tố sắc dục với một tâm hồn phóng khoáng, mạnh mẽ và rất trẻ trung nồng nhiệt:
Liếc trông đáng giá mấy mười mươi
` Đem lạng vàng mua lấy tiếng cười
Cung khuyết nhưng mà trăng chẳng khuyết
Hoa tàn song lại nhị còn tươi
Chia đôi duyên nọ đà hơn một
Mà nét xuân kia vẹn cả mười
Vì chút tình duyên kia đằm thắm
Khéo làm cho bận khách làng chơi
(Bỡn cô đào già)
Nhà thơ lao vào thú hát ả đào không chỉ vì lòng ham thích hát ả đào vốn có trong nhà thơ mà còn vì sự “đa tình” có ở người tài tử. Đến với hát ả đào Nguyễn Công Trứ ngoài việc được thưởng thức tiếng hát, thưởng thức thú chơi nghệ thuật này còn được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của người kĩ nữ. Chỉ gói gọn trong một bài thơ Nôm đường luật thôi nhưng đã bộc lộ được phần nào quan điểm sống của nhà thơ nói chung cũng như triết lý hành lạc trong thơ ông.
Thú hành lạc trong thơ Nguyễn Công Trứ đã được nâng lên thành một triết lý sống cho con người. Con người tài tử trong thơ Nguyễn Du cũng lao vào thú hành lạc nhưng chỉ là cầm kỳ thi họa mà thôi, sau này Cao Bá Quát cũng thế nhưng không đi xa hơn Nguyễn Du là mấy, còn với Nguyễn Công Trứ con người tài tử trong thơ ông không chỉ lao vào thú cầm kỳ thi tửu mà còn lao vào thú hát ả đào, ngưỡng vọng sắc đẹp giai nhân. Có thể nói, quan niệm hành lạc trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ còn rất mới mẽ. Cho đến hôm nay quan niệm ấy vẫn còn tân thời, rất gần gũi trong mỗi một con người chúng ta.
Tư tưởng hành lạc là một quan niệm đi suốt cuộc đời nhà thơ, nó xuất phát từ ban đầu, ngay từ khi ông chưa làm quan cho đến về già. Nguyễn Lộc cho rằng: “Thú hành lạc là một cách để chống lại tầng lớp phú hộ đương thời”. Chúng tôi cho rằng đây chưa phải là nguyên nhân chính, mục đích chính của ông. Nói tới thú hành lạc là nói tới cá tính của con người tài tử, cá tính ấy lại được phát huy hơn trong một môi trường, một thời đại thích hợp.
Nhận biết con người tài tử trong thơ văn Nguyễn Công Trứ tức là đã nhận biết được con người của thời đại lúc bấy giờ. Có thể khẳng định rằng sự hòa hợp giữa tư tưởng Nho giáo và tư tưởng Lão -Trang trong một con người không chỉ có riêng ở Nguyễn Công Trứ mà còn có nhiều ở các nhà thơ trước và cùng thời với ông. Thế nhưng hiếm có ai lại tiếp thu, chịu ảnh hưởng và biết điều tiết một cách hài hòa, hợp lí thống nhất đến như vậy. Mỗi dòng tư tưởng con người trong thơ ông cũng sống hết mình cho lý tưởng và khi đi vào trong tâm hồn của một con người đã tìm được một sự đồng điệu, đầy hợp lí. Bởi vậy, nghiên cứu con người trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ chúng tôi thấy ở đây con người vừa hành đạo tích cực, nhập thế sôi nổi vừa lại là một con người hăm hở trong thú hành lạc của cuộc đời.
2.1.3. Nhà nho ẩn dật
2.1.3.1. Biểu hiện nhà nho ẩn dật trong văn học trung đại
Trong nền văn học trung đại, hình tượng nhà nho ẩn dật xuất hiện nhiều trong thơ của Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Nguyễn Khuyến…Phần lớn các nhà thơ xuất thế bằng con đường ẩn dật, khi họ lâm vào hoàn cảnh bế tắc hoặc bất mãn với triều đình, cũng có khi tuổi tác về già thôi không làm quan nữa. Ở ẩn đối với họ là để được sống thanh nhàn, có khi biểu hiện một thái độ phản ứng lại với sự bất công của chế độ xã hội và giữ tròn danh tiết. Bước vào vòng danh lợi các nhà thơ đều ý thức được thân phận mình đã gửi vào chốn thăng trầm, sóng gió của cuộc đời.
Nguyễn Trãi cho đến Nguyễn Du đều phải chịu “những con oanh trong vườn thượng uyển” đố kỵ, ghen ghét, chịu những oan ức của cuộc đời. Vua không trọng dụng, các trọng thần không giúp đỡ ngược lại còn tìm mọi cách để hảm hại. Nguyễn Trãi vì thế phải tìm đến cuộc sống ẩn dật để được thanh thản.
Nguyễn Trãi đã hứng chịu tất cả, cho nên bên cạnh những tâm sự, trăn trở băn khoăn về vận mệnh của dân tộc như một nhà nho hành đạo mẫu mực, đôi khi con người cá nhân trong thơ ông bắt đầu phải lên tiếng trước những thế lực chèn ép. Trở về sống với thiên nhiên, cây cỏ cũng là cách tốt nhất để con người cá nhân phản ứng lại với cuộc đời. Ca tụng thiên nhiên nơi thôn dã, coi thường công danh phú quý, vui với cuộc sống “an bần lạc đạo”, một cuộc sống thanh bạch, cuộc sống lý tưởng nhất đối với con người ẩn dật trong thơ ông:
Bữa ăn dù có dưa muối
Áo mặc nài chi gấm là
………………….
Vầu làm chèo, trúc làm nhà
Được thú vui ngày tháng qua
(Ngôn chí III)
Dù đời sống vật chất thiếu thốn nhưng con người lại được thảnh thơi, vui thú không phải lo toan để đối phó với những hiềm khích bon chen của cuộc đời. Con người được sống hết mình với thiên nhiên. Nguyễn Trãi đã chọn Côn Sơn - nơi rừng cây suối nước trong sạch để tránh xa chốn quan trường đầy bon chen. Về đến Côn Sơn, ông mơ ước đến một ngày đất nước dẹp yên giặc, ông thấy thèm một giấc ngủ ở hòn đá tảng ven dòng suối quê nhà, con người trong thơ ông chủ trương sống một cuộc sống thanh bình, tĩnh lặng, sớm hôm bầu bạn cùng “mai hạc”, “non xanh” với “núi láng giềng”, “mây khách khứa”. Nhà nghiên cứu Nguyên Lộc đã nhận xét : “Theo quan niệm của Nho giáo, cái mẫu mực thuộc về quá khứ, còn cái trong sạch chủ yếu lại ở trong thiên nhiên. Các nhà nho theo quan niệm xuất - xử của Nho giáo gặp thời thịnh ra làm việc phò vua giúp nước, gặp thời loạn thì lui về ở ẩn lấy thiên nhiên để di dưỡng tinh thần”. Đây là quan niệm mang tính phổ biến trong thời trung đại. Tất nhiên vì Ức trai là nhà nho hành đạo luôn năng động với đời, với nước nên con người ẩn dật trong thơ ông vẫn còn nhiều nỗi niềm khó tả. Nỗi niềm thao thức vì nước, vì dân. Ông mở lòng mình ra với mai trúc, đón ánh trăng vào nhà hay lắng nghe tiếng đàn của gió qua lá trúc rì rào, nhưng không có nghĩa cánh cửa nhìn vào cuộc đời của ông đã bị khép chặt. Đằng sau cuộc sống ẩn dật ấy, con người trong thơ ông vẫn tỉnh táo để lắng nghe những tiếng động của cuộc đời, những đau khổ chồng chất của nhân dân vẫn vang động trong tâm trí của nhà thơ. Cùng với Nguyễn Trãi cũng có nhiều nhà thơ vì chán cảnh quan trường bụi bặm, lòng người ghen ghét, thù hằn hoặc triều đại suy vong mà cảm thấy mình bất tài không còn đủ sức lực để giúp cho đất nước mà rút lui về ở ẩn.
Nguyễn Bỉnh Khiêm thì lại khác, trong bước đường công danh của ông không có gì trắc trở, ông nhận được nhiều ân huệ của triều đình, nhiều trọng thần nhà Mạc ái mộ đức độ của ông. Vốn không phải vì danh lợi mà vướng mắc hoạn đồ, nên sau nhiều năm rong ruổi gắng hết sức mình mà vẫn không xoay nổi được tình thế, đem lại cảnh thài bình thịnh trị cho đất nước. Nguyễn Bỉnh Khiêm đành ngậm ngùi mà thốt lên: “giúp nước thương dân chưa thỏa lòng ta hồi trước, băn khoăn rất thẹn già không có tài” (Trung tân quán ngộ hứng).
Hiện thực không thành, khát vọng bị đỗ vỡ nên nhà thơ cảm thấy mình là người bất tài. Vì vậy, con người trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tự cho mình rút lui về ở ẩn để bảo toàn danh tiết. Bằng cách tự nhận mình là dại, vụng về một cách tự hào, con người trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng thanh thản chẳng kém các bậc tiền nhân của mình :
Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,
Nhìn xem phú quý tự chiêm bao.
(Nhàn)
Con người ở ẩn trong thơ ông cũng tìm đến thiên nhiên, tìm đến một cuộc sống đạm bạc, bình dị. Nhà thơ cảm thấy mình gửi thân đúng chỗ, để có thể thoát ra ngoài hiện thực đen tối nhằm giữ vững được lý tưởng và tiết tháo của bản thân. Bên cạnh đó, tư tưởng cầu nhàn vô sự là một trong những nội dung quan trọng trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Quan niệm nhàn có nhiều sắc thái, nó gắn bó với thời đại và hoàn cảnh riêng của từng tác giả, tác phẩm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm được xem là một trong những nhà nho ẩn dật điển hình của văn học trung đại. Khác với các nhà thơ khác, con người trong thơ ông khi chấp nhận cuộc sống ở ẩn có nghĩa là xa lánh với cỏi đời, không màng đến nhân gian. Vì thế, khi đọc thơ ông chúng ta thấy chất thơ trong sáng, nhẹ nhàng. Điều đó cũng thể hiện sự mãn nguyện về mặt tâm hồn, bằng lòng với cuộc sống hiện tại, bằng lòng với con đường mà mình đã chọn. Đó là cách rút lui tốt nhất với một nhà nho khi không gặp thời.
Trong thế ẩn dật, mỗi người chọn cho mình một cách ứng xử không ai giống ai. Con người ẩn dật trong thơ Nguyễn Khuyến không trốn vào núi rừng mà xa lánh cuộc sống thành thị như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chu Văn An…mà tìm về với quê hương, gia đình, người thân. Tuy nhiên con người trong thơ ông có tư tưởng thoát li hiện thực chốn quan trường. Nhưng không vì thế mà ông trở nên bi quan chán nãn :
Ta về năm sáu năm nay,
Bảy gian nhà ở tháng ngày ung dung.
Tây nam có lạch nước trong,
Cúi xem đàn cá vẫy vùng sớm trưa.
Đông bắc tre mọc đầy bờ,
Rạng ngày hơi mát thoáng đưa song đào.
………………………………..
Gọi con dở sách bi bô
Xa xôi nhớ đến đời vua Toại, Hoàng.
(Hạ nhật ngẫu thành)
Một cuộc sống đạm bạc rất nông thôn phù hợp với con người lánh đục tìm trong. Rượu, thơ, cỏ cây chim muông với người ẩn dật được xem là những “người bạn tri âm, tri kĩ”. Nhất là thứ để con người quên lãng hiện thực mà tim cái “thanh nhàn”. Nguyễn Khuyến cũng luôn mượn thú vui đó để dẹp lo, nén buồn.
Mặc dù có tư tưởng ở ẩn nhưng trong hành động của Nguyễn Khuyến thì chưa dứt khoát cho nên con người ẩn dật trong thơ ông đôi lúc dễ rơi vào tự phủ nhận, tự trào phúng mình.
Nhìn chung, tìm về cuộc sống ẩn dật trong thơ văn của các bậc tiền bối, con người đều muốn xa lánh cuộc sống bon chen danh lợi tìm về cuộc sống ẩn dật để giao hòa với thiên nhiên, cỏ cây đồng nội…để tìm sự thanh thản, trong sạch. Nguyễn Công Trứ cũng không nằm ngoài những ý thức như vậy. Đó cũng là đặc trưng chung của con người ẩn dật trong văn học trung đại.
2.1.3.2. Nhà nho ẩn dật trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ
* Tìm đến những thú vui ở chốn điền viên
Hình tượng nhà nho ẩn dật không phải là đặc trưng đối với thơ Nôm của Nguyễn Công Trứ, bởi ông là một con người hoạt động và tài tử. Thời trẻ Nguyễn Công Trứ ấp ủ nhiều hoài bão lớn lao, ông quyết tâm thi đậu để ra làm quan. Khi đã đậu đạt, ông nhập thế một cách tích cực sôi nổi của một con người hành đạo điển hình. Bước vào chốn quan trường Uy viễn nổi tiếng là một ông quan thanh liêm, chính trực, tài ba hơn người và được vua rất trọng dụng. Vì là có tài nên ông bị những kẻ tiểu nhân tầm thường ghen ghét đố kỵ, vu oan giá họa khiến ông chịu nhiều nỗi oan ức của cuộc đời. Một lúc nào đó, con người sôi nổi là vậy cũng rơi vào trạng thái bi quan, ca ngợi cuộc sống nhàn ẩn “cúc tùng phong nguyệt mới vui sao”, có lúc thì xem danh lợi là vinh, có lúc xem danh lợi là nhục, muốn tìm về làng quê là nơi trú ngụ cho tâm hồn. Bởi vậy, trong thơ ông cũng có xuất hiện con người ẩn dật. Có điều, nó xuất hiện mờ nhạt mà thôi, con người ẩn dật trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ mới chỉ bộc lộ ở tư tưởng, mới chỉ nhen nhóm chứ nó không thể hiện một cách sâu sắc như một số nhà thơ khác trong văn học trung đại. Hình tượng con người ẩn dật trong thơ ông có lúc chỉ chờ đợi cơ hội thuận lợi để thực hiện khát vọng, hoài bão của mình, cũng có lúc bất mãn với hiện thực, quay lưng với hiện thực. Như chúng ta đã biết, lúc nghỉ hưu đến 70 tuổi mà ông vẫn xin ra trận để đánh giặc, điều đó chứng tỏ con người ẩn dật ấy vẫn còn nặng với đời, vẫn còn ấp ủ nhiều hoài bão tốt đẹp. Con người ẩn dật trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ chính là con người thoát khỏi vòng danh lợi. Đây cũng là khí chất của nhà thơ, vì vậy trong thời gian làm quan ông luôn ý thức được nhân cách của mình, luôn đề cao và giữ gìn danh tiết bằng cách sống thanh liêm chính trực:
Vào vòng cương tỏa chân không vướng
Tới cuộc trần ai áo chẳng ven
Chứ những ai hay tình thú ấy
Có chăng Bành Trạch với Thanh Liêm.
(Uống rượu tự vịnh)
Có thể thấy ý thức cá nhân thể hiện rõ nét. Hình tượng nhà nho ẩn dật trong thơ ông cũng thể hiện một cách khác biệt so với các nhà thơ khác. Mặc dù ẩn dật nhưng vẫn hưởng lạc, ẩn dật trong thế chờ thời cơ đến, vẫn luôn đau đáu vì nước vì non.
Cũng như bao nhà thơ khác Nguyễn Công Trứ cũng hướng đến thiên nhiên để được thanh thản, xem đó là chốn để vui thú về mặt tâm hồn. Điều đó cũng dễ hiểu, ngay khi còn làm việc trong triều, thiên nhiên như một người bạn để ông tâm sự giãi bày những uất ức, buồn chán về cuộc đời. Hình ảnh cây tùng, cây bách, cây thông xuất hiện nhiều trong thơ ông tượng trưng cho bản lĩnh, lòng trung trực, trong sáng của người quân tử. Một con người khí phách bản lĩnh như vậy nhưng khi sống trong cảnh bon chen chốn quan trường, những đố kỵ, ghen ghét của người đời đã làm ông chán nản. Trong mấy câu thơ lục bát thể hiện rõ nỗi niềm ấy:
Ngồi buồn mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười
Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
(Vịnh cây thông)
Chối bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý mà trở về khao khát được làm cây thông chính là tượng trưng cho cuộc sống thanh nhàn nhưng rất cao sang, trong sạch của một nhà nho. Trong mọi hoàn cảnh, Nguyễn Công Trứ luôn xác định cho mình tư thế xuất - xử rõ ràng:
Xưa nay xuất xử thường hai lối
Mãi thế rồi ta sẽ tính đây.
(Tự thuật II)
Đây chính là những lúc con người rủ bỏ áo quan, tính đến chuyện rút lui về ở ẩn, lui về sống với chốn điền viên, đó là thú vui muôn thuở của mọi người:
Mãi thế rồi ta sẽ tính đây,
Điền viên vui thú vẫn xưa nay.
Giang hồ bạn lứa câu tan hợp,
Tùng cúc anh em cuộc tỉnh say.
Tòa đá hương công đôi khóm trúc,
Áo xuân Nghiêm Tử một vai cày.
Thái bình vũ trụ càng thông thả,
Chẳng lợi danh chi lại hóa hay.
(Thú điền viên)
Trong văn học trung đại, hình tượng nhà nho ẩn dật thể hiện nhiều sắc thái khác nhau. Có con người trốn tránh hiện thực bằng cách thu mình vào chốn đồi núi, đầm lầy, có người trốn tránh ngay cả khi ở trong triều đình, ở chốn đô thị. Nguyễn Công Trứ thuộc con người này. Con người thoát khỏi vòng danh lợi trong thơ ông không chỉ thể hiện ở những bài thơ được làm khi ông về hưu mà ngay cả khi ông đang làm quan, con người ấy vẫn mơ về cuộc sống bình dị, ca ngợi nhân cách và hành động của họ.
Nghiên cứu thơ Nôm Nguyễn Công Trứ, chúng tôi thấy con người ẩn dật biểu hiện một cách mờ nhạt, không gây được ấn tượng đặc trưng bởi tính cách của nhà thơ không thiên về lối sống ẩn dật. Con người ẩn dật trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau. Con người “ngoài vòng cương tỏa” chứ không còn là kiểu con người bị trói buộc bởi những luật lệ phong kiến. Nói cách khác, con người không còn nằm trong khuôn khổ của xã hội phong kiến nữa mà là con người của tự do. Đến với cuộc sống ẩn dật, nhà thơ dường như đắc ý, thỏa mãn với cuộc sống ấy. Vẻ mãn nguyện ấy bộc lộ qua tư thế, giọng điệu:
Chẳng lợi danh chi lại hóa hay
Chẳng ai phiền lụy, chẳng ai rầy
Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp,
Trong thú yên hà mặt tỉnh say.
Liếc mắt coi chơi người lớn bé,
Vễnh râu bàn những chuyện xưa nay.
Của giời giăng gió kho vô tận,
Cầm hạc tiêu dao đất nước này.
(Thú ẩn dật)
Tư thế con người được miêu tả rất thoải mái: Chân cao thấp, mặt tỉnh say, liếc mắt, vễnh râu…Đó là sự tự thể hiện con người của nhà thơ, một lối sống tự do, tự tại, thỏa mãn với cuộc sống ẩn dật của mình.
Hình tượng con người rút lui khỏi chốn quan trường thể hiện lên vừa bình dị, vừa dân dã nhưng lại vừa có cốt cách cao sang của một nho sĩ. Con người ẩn dật trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ chính là thoát khỏi chốn quan trường đầy “bụi bặm” để đến với thiên nhiên tìm thú vui nơi chốn điền viên. Con người tìm đến thiên nhiên, thoát khỏi vòng danh lợi vừa tìm thấy được niềm vui cho mình, vừa là nơi để an ủi tâm hồn nhưng điều đặc biệt con người ấy còn tạo ra triết lý sống cho mình. Tất nhiên lối sống này không phù hợp mấy với tính cách ngông cuồng, ngất ngưỡng của Nguyễn Công Trứ. Thế nhưng trong hoàn cảnh trớ trêu nhất trên con đường hoạn lộ hoặc vào cuối đời thì nhà thơ phải sống cuộc sống ẩn dật để làm cân bằng cho tâm hồn mình sống nhàn, trong sạch, không vướng bận với công việc chính trị xã hội ở triều chính, sẽ là cho tâm hồn con người phần nào được thanh thản, yên tĩnh hơn. Mặc dù con người ẩn dật trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ là một mảng mờ nhạt nhưng nó cũng có giá trị to lớn góp phần thể hiện được tính cách Nguyễn Công Trứ.
* Hưởng nhàn trong những thú vui tao nhã
Hưởng nhàn là một đề tài không kém phần quan trọng so với Chí nam nhi trong thơ văn Nguyễn Công Trứ. Ở nhiều nhà nho, nhàn là một thái độ xuất thế chán phồn hoa danh lợi, kèm theo một nếp sống thanh đạm, yên lặng để hướng về sự suy tưởng, về đạo. Nhàn là lối sống đặc trưng của con người ẩn dật. Tư tưởng cầu nhàn thể hiện nhiều trong tác phẩm của các nhà thơ như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến…Mỗi nhà thơ có một quan niệm riêng về chữ nhàn và mang những sắc thái khác nhau tạo nên sự đa dạng trong văn học.
Nhàn là trạng thái tinh thần tự do, thoát khỏi danh lợi, tôn trọng trạng thái tự nhiên, tự tại của con người. Hướng đến cuộc sống nhàn tản, Nguyễn Trãi là một trong những con người thể hiện rõ tư tưởng đó, mặc dù ông là một nhà văn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc, là người tích cực tham gia cuộc kháng chiến chống quân Minh, giải phóng đất nước. Nhưng ông luôn mong ước có được cuộc sống nhàn tản với thiên nhiên, xem đó là một dấu hiệu của hạnh phúc để nghỉ ngơi thân xác, thanh thản tâm hồn:
Một phút thanh nhàn trong buổi ấy
Nghìn vàng ước đổi được hay chăng?
(Tự thán VII)
Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông đã nâng tư tưởng nhàn thành một triết lý sống. Ta thấy cái nhàn đầy hương vị thanh khiết trong “Bạch vân thi”, mỗi nhà thơ tìm đến thú nhàn tản làm chỗ trú ngụ cho tâm hồn mình. Có người gửi cái nhàn vào chốn sơn thủy, hòa điệu với thiên nhiên vũ trụ như trong “Côn Sơn ca”, có người gửi nhàn vào những thú chơi thanh tao.
Có thể nói, nhàn trong văn học trung đại được xem như một hoạt động tự do, trong đó mọi thú của kiếp người đều được thể hiện đầy đủ. Các nhà thơ trong văn học trung đại có cách thể hiện tư tưởng nhàn là vậy. Còn Nguyễn Công Trứ thì sao? Với Nguyễn Công Trứ cái nhàn của ông có tính chất hoạt động, ông chán xã hội, chán công danh sự nghiệp để quay sang sống cho cá nhân, cho cảm giác. Lối sống này thường cũng nhộn nhịp, hăng say không kém.
Ở Nguyễn Công Trứ hưởng nhàn gần như đồng nghĩa với hành lạc tức là bày ra những trò vui để hưởng thụ về đường cảm giác. Ông có quan niệm về chữ nhàn hết sức độc đáo:
Tri túc, tiện túc, đãi túc hà thì túc
Tri nhân, tiện nhân, đãi nhàn hà thì nhàn
(Biết đủ thì là đủ, chờ cho đủ biết khi nào cho đủ. Biết nhàn thì nhàn, chờ nhàn biết khi nào mới nhàn.)
Con người trong thơ Uy viễn có hẳn một scách sống nhàn ngay từ đầu chứ không phải mong nhàn, đợi nhàn. Lúc nào Nguyễn Công Trứ cũng ca tụng sự hưởng nhàn. Ông coi nhàn hạ như một cơ hội tốt, lúc nào có thể cũng nên bám lấy để hưởng thụ.
Trong triều chính Nguyễn Công Trứ luôn là một nhà nho nhập thế tích cực, thế nhưng những khi rơi vào hoàn cảnh bi đát nhất ông cũng chỉ quy việc thăng trầm của mình vào thiên mệnh và giữ thái độ “không oán trời, không trách người”. Lúc nghỉ hưu không tham gia công việc triều chính, ông muốn quay về dạy học là nơi trú ẩn của người xưa:
Kẻ ghét song còn có kẻ ưa,
Nghĩ đâu mà lựa được cho vừa.
Khó giàu đã định thời không oán,
Khôn dại đành xưa há dám chừa.
Bể học dò nguồn cho chúng trẻ,
Ngày nhàn vui chuyện với người xưa
Lưng lưng hữu sạch niềm nghiêng ngã
Ngẫm thú phồn hoa đáng thế chưa
(Lúc về già)
Ở đây Nguyễn Công Trứ cũng tìm thấy cái nhàn của một nhà nho dạy học, cái nhàn khi hướng về những người thiên cổ làm bầu bạn với họ qua thơ ca. Có điều vì Nguyễn Công Trứ là người ưa hoạt động, ham thích được cống hiến, hưởng thụ nên xem ra những lúc hưởng nhàn mà tâm trạng ông có phần hụt hửng. Chúng ta thấy hình tượng con người cầu nhàn trong bài thơ dù đã rũ sạch trần ai mà vẫn đặt câu hỏi: “ngẫm thú phồn hoa đáng thế chưa?”. Nhàn nhưng ông vẫn day dứt, còn nuối tiếc những gì đã qua mà mình chưa làm được, đó cũng là khối mâu thuẫn lớn trong con người nhà thơ.
Quan niệm nhàn cũng biểu hiện một phần tư tưởng hưởng thụ cuộc sống dưới mọi hình thức, lấy chữ nhàn làm cốt cách, kẻ sĩ không chỉ tha thiết làm bạn với cầm kỳ thi tửu, thả hồn bay bổng tự do, phóng khoáng cùng với tài năng của mình mà còn hưởng thụ vào cả ái tình - sắc đẹp. Nguyễn Công Trứ đặt nhiều tự hào vào chỗ biết khai thác cái nhàn, biết thưởng thức lạc thú, biết chơi. Cái nhàn trong thơ ông tìm đến những thú vui của cuộc đời từ thú vui thanh cao đến thú vui trần tục nhất đều được bộc lộ rõ:
Từ thú ngao du sơn thủy
Đôi ba chú tiểu đồng lếch thếch
Tiêu dao nơi hàn cốc thâm sơn
(Thú ca nhi)
Đến thú hưởng thụ ở “sắc dục”:
Thú tiêu sầu rượu rót thơ đề
Có yến yến hường hường mới thú.
Khi đắc ý mắt đi mày lại,
Đủ thiên nhiên thập thập thêm nồng.
(Tài tình)
Tư tưởng cầu nhàn ở đây xem ra bị chi phối bởi con người tài tử nhưng thực ra trong hành động, lối sống, cá tính của con người tài tử ấy cũng liên quan đến quan niệm nhàn. Bởi nhàn trong thơ Nguyễn Công Trứ biểu hiện thái độ thoát li khỏi chốn quan trường để về sống riêng cho mình, sống hưởng thụ. Thái độ cầu nhàn trong thơ ông là một biểu hiện của con người ẩn dật, được xem như là “liệu pháp” hữu hiệu nhất khi về già .
Hình tượng tác giả hiện lên trong thơ với phong thái tự do, thái độ bằng lòng, hòa lẫn một chút thỏa mãn của những ngày tìm đến các thú chơi tao nhã của chốn điền viên. Con người cầu nhàn trong thơ Nguyễn Công Trứ đặc sắc, không biểu hiện rõ nét như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến...Nhưng cũng khắc họa được phần nào tư tưởng của nhà thơ vốn đầy mâu thuẫn và phức tạp này.
Trên thực tế, Nguyễn Công Trứ không phải là một nhà nho ẩn dật điển hình nhưng trong thơ văn của ông cũng đã biểu hiện tư tưởng ẩn dật, suy nghĩ và hướng tới cuộc sống ấy. Sống hưởng lạc, thái độ cầu nhàn xuất hiện trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ đều là những biểu hiện của con người ẩn dật. Tư tưởng nhàn và hành lạc đã trở thành một trụ cột vững vàng trong chủ nghĩa nhân sinh của ông.
2.2. Nghệ thuật thể hiện hình tượng nhà nho trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ
2.2.1. Ngôn từ nghệ thuật
Nội dung sẽ chẳng được thể hiện một cách sâu sắc, độc đáo nếu như không có một phương thức nghệ thuật đúng đắn, phù hợp. Nếu nội dung phản ánh được đổi mới thì nghệ thuật biểu hiện cũng phải thay đổi cho phù hợp. Đây cũng là quy luật của các thành tựu mà văn học Việt Nam giai đoạn này đạt được. Văn chương chữ Nôm Nguyễn Công Trứ không nằm ngoài xu thế phát triển này, nó góp thêm một phần cho sự chuyển mình đầy giá trị của cả nền văn học nước nhà nói chung. Nhắc đến Nguyễn Công Trứ cái ấn tượng mạnh mẽ nhất về nghệ thuật sáng tác chính là việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật vào thơ rất thành công và độc đáo.
Trước hết, chúng ta phải khẳng định rằng Nguyễn Công Trứ là một con người có tài, học giỏi, kiến thức uyên thâm, nhưng điều kì lạ là thơ của ông hết sức giản dị, không hề tô vẽ, trau chuốt, cầu kỳ. Ông nghĩ thế nào thì viết ra thế ấy, câu thơ không hề chạm trỗ, đẽo gọt giữ nguyên được vẻ chân chất của sự việc, của ý nghĩ. Mặc dù ngôn ngữ thơ thì có vẻ đơn giản, nhẹ nhàng như vậy nhưng để thể hiện, để khẳng định cái tôi cá nhân, khẳng định bản lĩnh mạnh mẽ của mình giữa cuộc đời Nguyễn Công Trứ đã sử dụng các đại từ vào thơ mình rất thành công.
Các nhà thơ trung đại sử dụng các đại từ vào trong thơ mình một cách linh hoạt và có tác dụng lớn, phần nào nói lên được thái độ tính cách của nhà thơ.
Ta bắt gặp Hồ Xuân Hương với hai câu thơ:
Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương mới quệt rồi
(Mời trầu)
Chúng ta cứ ngỡ rằng chỉ có bà là táo bạo, là một hiện tượng độc đáo của thơ ca. Về sau với sự xuất hiện của nho sĩ tài tử Nguyễn Công Trứ cũng để cho người đọc nhiều điều ngạc nhiên hơn, khâm phục bản lĩnh của ông hơn. Trong văn học trung đại việc xưng tên mình một cách ngạo nghễ vào trong thơ xem như là một điều tối kỵ. Các nhà thơ nếu có sự phá cách để tạo dựng cho mình một cá tính riêng trên thi đàn hoặc thể hiện bản lĩnh cứng cỏi thì cũng chỉ bộc lộc qua nhân vật trữ tình mà thôi. Với Nguyễn Công Trứ chất tài tử lên đến tột đỉnh, thể hiện một cá tính hoàn toàn khác lạ, một bản lĩnh phi thường:
Trời đất cho ta một cái tài
Đại từ “ta” đi vào thơ văn Nguyễn Công Trứ để thể hiện tài năng và bản lĩnh khác thường của mình. Một con người dám khẳng định vị trí, khẳng định cái tài và quyết tâm với mọi thử thách của cuộc đời để hướng tới tương lai:
Trơi đâu riêng khó cho ta mãi
Vinh nhục dù ai cũng một lần
(Vịnh cảnh nghèo)
Còn trời còn đất còn non nước
Có lẽ ta đâu mãi thế này
(Tự thuật I)
Nguyễn Công Trứ đã thể hiện một cách trực tiếp cái nghèo túng của một nhà nho, của một anh nho sinh đang ấp ủ hoài bão. Hình tượng con người xuất hiện trong thơ ông không phải con người cam chịu số phận, hoàn cảnh mà là con người vượt lên mọi hoàn cảnh thực tại, mọi khó khăn để đạt được khát vọng của mình.
Bên cạnh đại từ nhân xưng chỉ trực tiếp bản thân thì Nguyễn Công Trứ còn sử dụng các đại từ như: kẻ, người, tao, mi, mình...xuất hiện khá nhiều trong thơ ông và tất cả đều bộc lộ tính cách con người ông:
Tao ở nhà tao, tao nhớ mi,
Nhớ mi nên phải bước chân đi.
Không đi mi nói rằng không đến,
Đến rồi mi bảo đến làm chi.
Làm chi tao đã làm chi được,
Làm được thì tao đã làm cho.
(Bỡn tình nhân)
Đại từ “ta, tao, mi...”chỉ bản thân đi vào thơ Nôm Nguyễn Công Trứ kết hợp với cả nhịp thơ đã tạo nên một chất giọng thách thức như là một hệ quả tất yếu của một cá tính mạnh mẽ. Trên mọi lĩnh vực, trong mọi nơi, mọi lúc ông luôn muốn khẳng định mình và chứng tỏ mình.
Nhà thơ đặt con người trong mối quan hệ với vũ trụ: thiên- địa- nhân, vũ trụ ở đây là mây nước, trăng gió, núi sông, loài cây, hoa cỏ...Hình tượng nhà nho trong thơ Nguyễn Công Trứ nói chung, trong thơ Nôm nói riêng luôn được đặt trong bối cảnh vũ trụ và thực hiện hoài bão, ý chí của mình cũng mang tính chất vũ trụ. Đây không còn là con người bình thường mà là con người phi thường trong ý chí, tư tưởng.
Khảo sát trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ, bên cạnh việc sử dụng thành công các đại từ thì nhà thơ còn sử dụng rất khéo léo các quan hệ từ vào trong thơ của mình. Những quan hệ từ đi vào thơ Nôm ông không chỉ có tác dụng liên kết câu mà còn có tác dụng lập luận cho câu thơ:
Đã mang tiếng ở trong trời dất,
Phải có danh gì với núi sông.
(Đi thi tự vịnh)
Đã từng tắm gội ơn mưa móc,
Cũng phải xanh xang hội gió mây.
(Tự thuật II)
Trong những câu thơ thể hiện chí làm trai, Nguyễn Công Trứ thường dùng kết cấu nguyên nhân- kết quả như trên. Tất cả những biểu hiện đó đã làm nên một giọng điệu không thể lẫn lộn với bất kì nhà thơ, nhà văn nào.
Tiêu biểu hơn nữa cho kiểu kết cấu mang tính chất lập luận này, có bài thơ “Bỡn cô đào già”:
……………………………
Giăng xế nhưng mà cung chẳng khuyết,
Hoa tàn song lại nhị còn tươi.
Chia đôi duyên nọ đà hơn một,
Mà nét xuân kia vẹn cả mười.
Vì chút tình duyên nên đằm thắm,
Khéo làm cho bận khách làng chơi.
Với những cặp quan hệ từ: nhưng mà- song lại; đà- mà; vì- nên đã tạo nên tính lập luận chặt chẽ cho câu thơ. Nguyễn Công Trứ đã khẳng định vẻ đẹp một thời của cô đào đã từng làm bận lòng người quân tử. Vẻ đẹp đó đến nay vẫn làm nhà thơ rung động bởi cái đằm thắm, tồn tại cùng thời gian của cô gái.
Đọc thơ Nguyễn Công Trứ ta bắt gặp giọng điệu của một người tin chắc vào mục tiêu và lý tưởng của cuộc đời mình đã chọn, không mãy may một chút hoài nghi, do dự, không băn khoăn trước lẻ xuất - xử khi nhập cuộc. Hiếm có ai dõng dạc như ông, luôn tuyên bố, nói to và rõ về quan điểm sống của mình, đặc biệt là quan điểm về công danh sự nghiệp.
Đồng thời với việc sử dụng các đại từ, các quan hệ từ vào trong thơ mình một cách nhuần nhuyễn và linh hoạt, Nguyễn Công Trứ còn sử dụng các lớp từ Hán việt phong phú, đa dạng. Phần lớn bài thơ nào nhà thơ cũng sử dụng lớp từ này, tuy nhiên trong các bài thơ thể hiện tư tưởng của con người ẩn dật thì lớp từ này được nhà thơ đưa vào nhiều và phát huy tác dụng của nó một cách rõ rệt. Chính sự kết hợp hài hòa giữa từ thuần Việt và từ Hán việt tạo nên cho Nguyễn Công Trứ một phong cách thơ vừa dân dã vừa trang trọng. Đi vào khảo sát, thống kê các bài thơ biểu hiện con người ẩn dật chúng tôi thấy tần số xuất hiện của từ Hán việt không nhỏ: xuất, xử, điền viên, cầm kỳ, thi tửu, phồn hoa, yên hà, cương tỏa, cầm hạc, tiêu giao, giang hồ, tan hợp, thái bình…Qua đó làm cho hình tượng con người rút lui khỏi chốn quan trường hiện lên vừa bình dị, dân dã nhưng vừa có cốt cách cao sang của một nho sĩ.
Như chúng ta đã biết, thơ Nguyễn Công Trứ nghĩ thế nào thì viết thế ấy, thơ ông hồn nhiên và chính trực như chính cuộc đời ông vậy. Theo chân của các nhà thơ trước sông như: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…Nguyễn Công Trứ đã vận dụng rất nhiều tục ngữ, ca dao, thành ngữ, tiếng địa phương… vào trong sáng tác của mình để nhằm diễn đạt rất bình dân cho dễ hiểu nhưng lại sinh động và đi sâu vào lòng người. Tư duy thơ ông rất “hồn nhiên”, theo cách tư duy của thành ngữ, của tục ngữ, của lời ăn tiếng nói trong dân gian:
Một lưng một vốc kém chi mô
Mới biết chanh chua khế cũng chua
Đã chắc bữa trưa chừa bữa tối
Mà tham con diếc tiếc con rô
. ……………………………..
(Trò đời)
Hay trong bài Bỡn nhân tình, Thế tình đối với người nghèo…Nguyễn Công Trứ cũng đã vận dụng tục ngữ, ca dao rất tài tình, khéo léo.
Nhìn chung, đọc thơ Nguyễn Công Trứ ta thấy ông viết rất tự nhiên, nó giữ được nét chân chất của sự việc, của ý nghĩ. Thơ của Nguyễn Công Trứ không da công, cầu kỳ nhiều câu thơ mộc mạc, nôm na nhưng vẫn gây xúc cảm đối với người đọc. Đó cũng là thành công, đóng góp về mặt nghệ thuật của ông trong nền văn học dân tộc.
2.2.2. Quan niệm về thời gian và không gian trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ
Thời gian và không gian trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ khi đi vào nghệ thuật được soi rọi bằng tư tưởng, tình cảm, được nhào nặn, tái tạo trở thành một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, thấm đẫm cá tính sáng tạo của nhà thơ. Cảm quan về thời gian và không gian gắn liền với cảm quan về con người và cuộc đời.
GS. Trần Đình Sử cho rằng: “Thời gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với chiều thời gian và hiện tại quá khứ hay tương lai. Thời gian nghệ thuật do nghệ thuật sáng tạo ra nên mang tính chủ quan, gắn với thời gian tâm lý”.
Mỗi người nghệ sĩ lại có cách quan niệm riêng về thời gian. Thời gian trong văn học trung đại cũng có những nét riêng, độc đáo. Các nhà nho thường lấy con người làm chủ, với tinh thần trách nhiệm tiến thủ, nhà nho luôn cảm thấy lo lắng, bối rối trước thời gian trôi nhanh vô tình. Với họ, thiên nhiên vũ trụ là vĩnh hằng, vô hạn, vô thủy, vô chung, còn con người, muôn vật đều ngắn ngủi, hữu hạn. Trước sự trôi chảy của thời gian ấy, con người phải làm gì? Có người tìm cách hòa mình vào thiên nhiên, vũ trụ, có người lại sống gấp, sống vội để cống hiến, hưởng thụ.
Đối với Nguyễn Công Trứ, ý thức thời gian trong thơ Nôm là cảm quan chật hẹp của một đời người. Vì xem hành đạo và hành lạc như những cuộc chơi nên hình tượng con người trong thơ ông cũng khao khát sống, sống hối hã, sống hết mình, thời gian vô hạn đối nghịch với đời người hữu hạn. Con người hăng hái nhập thế hành động, muốn khẳng định vai trò cá nhân trong cuộc thế trăm năm bằng sự nghiệp công danh hiển hách được lưu danh mãi mãi, chứ không để tiêu phí cuộc đời mình trong tăm tối hoặc tầm thường, lụi tàn như cây cỏ.
Để chiến thắng thời gian, để được cùng tồn tại với thời gian, buộc con người phải hành động, lập nên chiến công hiển hách, phải tạo dựng được sự nghiệp để lưu danh muôn đời. Khi nói về kiếp người, các tác giả khác thường dùng cụm từ “trăm năm”:
Trăm năm trong cõi người ta
(Kiều- Nguyễn Du)
Trăm năm còn có gì đâu
(Cung oán ngâm khúc-Nguyễn Gia Thiều)
Thì Nguyễn Công Trứ lại có cách viết khác lạ:
Ba vạn sáu ngàn ngày thấm thoát
(Nợ công danh)
Nhân sinh ba vạn sáu nghìn thôi
Vạn sáu tiêu nhăng đã hết rồi…
(Chí ngao du)
Cách đếm này xuất hiện rất nhiều trong thơ ông như một nỗi ám ẩn của đời người. Thực ra “Ba vạn” cũng là một trăm năm, nhà thơ dùng cách nói ngược như vậy chứng tỏ con người đang tính từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây, hối hã để cống hiến, để làm việc. Có lẽ, vì quá khao khát sống mà cuộc đời lại ngắn ngủi nên ông mới dùng cách nói “Ba vạn sau ngàn ngày” như trên. Con người luôn ao ước thời gian quay trở lại để thỏa chí tang bồng, cách tính thời gian của nhà thơ khá là ngộ nghĩnh. Khát vọng của nhà thơ là khát vọng sống lập sự nghiệp, muốn hưởng những lạc thú của cuộc đời.
Với mọi vật trên thế giới đều tồn tại trong không gian ba chiều rộng, cao, xa. Đối với văn học không gian tồn tại của hình tượng nhệ thuật, đó là điểm nhìn, là góc nhìn, khoảng cách nhất định của tác giả. Bởi vậy quan niệm không gian trong văn học rất đa dạng, phong phú.
Mỗi nhà thơ, nhà văn cũng có quan niệm về không gian không giống nhau. Trong văn học trung đại các nhà thơ luôn đặt con người trong chiều kích không gian rộng lớn, không gian lớn có tác dụng giải phóng tầm nhìn. Các nhà nho mượn không gian bao la, rộng mở để nâng cao tinh thần tiến thủ đó là nét đặc sắc không gian trong thi ca văn học trung đại.
Cùng với thời gian vô hạn, Nguyễn Công Trứ cũng đặt con người trong chiều kích không gian rộng lớn của vũ trụ, của thiên nhiên. Trong không gian vũ trụ ấy, con người vẫy vùng hoạt động không bị tan biến vào giữa thiên nhiên bao la. “Ông hoạt động và không có thời giờ ngồi trầm ngâm tư lự dưới trăng, trong đêm khuya, để mà buồn vì xa nhà, buồn vì những câu chuyện bất bình trong chốn quan trường, vì nhân cách bị chà đạp…Đó là những gì mà nhà thi pháp học có thể thấy trong khi quan sát không gian và thời gian của thơ Nguyễn Công Trứ”[ 16, tr. 29], từ đó ta thấy con người ông say mê hoạt động như thế nào, dù trong cảnh vật tĩnh lặng và gợi cảm xúc vậy mà nhà thơ cũng không có thời gian để chiêm nghiệm, để suy tư về mọi vấn đề trong cuộc sống.
Con người cũng được đặt trong mối quan hệ: thiên- địa- nhân. Con người trong thơ ông sánh ngang cùng vũ trụ, trời đất, sánh ngang cùng lực lượng siêu nhiên. Đó là con người vừa hành động, vừa hưởng thụ, một phong cách tài tử trong thiên hạ. Đó là một trang nam nhi tài ba lỗi lạc. Con người trong thơ ông đứng trên tư thế hiên ngang giữa bao la vũ trụ, vẫy vùng ngang dọc, kiểu con người của anh hùng thời loạn “dọc ngang nào biết trên đời có ai”. Tất nhiên phải là một con người có tài năng thực sự, bản lĩnh khác thường mới đứng được trong lòng chế độ phong kiến khắt khe đến vậy. Con người mới dám thể hiện hành động của mình trong chiều kích không gian rộng lớn như vậy vào trong thơ của mình.
Thế giới nghệ thuật trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ không có những nét đặc sắc nổi bật so với các nhà thơ khác cùng thời nhưng chúng ta vẫn cảm nhận được những đặc điểm khác biệt trong cách nghĩ, cách quan niệm và sự tự thể hiện con người cá nhân trong thơ ông.
KẾT LUẬN
Dù đến sau so với các nhà thơ khác cùng thời nhưng thơ Nôm Nguyễn Công Trứ cũng đã gặt hái được những thành tựu to lớn từ mặt nội dung cho đến hình thức nghệ thuật, đã góp phần quan trọng vào sự phát triển và chuyển biến của nền văn học nước nhà thời trung đại.
Ông đã đặt bút tạo nên những nét chấm phá tài hoa của mình trong cả bức tranh hoành tráng và thấm đẩm nhân bản của văn học dân tộc. Nội dung sáng tác cũng như nghệ thuật biểu hiện của thơ Nôm Nguyễn Công Trứ vừa có nét chung lại vừa có những nét riêng.
Thành tựu văn học giai đoạn này là đã phát hiện ra vấn đề con người và khẳng định giá trị con người thì thơ văn Nguyễn Công Trứ cũng là bài ca về nhân sinh, nhân bản. Nếu ý thức về con người cá nhân đã đem lại một nội dung phản mới mẻ trong văn học thì thơ văn của Nguyễn Công Trứ nói chung và mảng thơ Nôm nói riêng càng khẳng định ý thức cá nhân rõ ràng, mạnh mẽ.
Đọc thơ Nguyễn Công Trứ chúng ta thấy hiện lên con người trong thơ ông là con người có bản lĩnh, khát khao thể hiện cá nhân mình. Con người trong thơ ông là con người hành đạo lấy hành động, sự nghiệp và hưởng thụ làm mục đích sống, đó là con người rất say mê hoạt động, mang nhiệt tâm với đời.
Hình tượng con người trong thơ Nôm của ông còn là con người của thơ ca, của cầm kỳ thi tửu, luôn tìm đến những thú vui tao nhã của người xưa để hưởng thụ. Cái tài đi liền với chữ tình đã tạo nên một bậc phong lưu tài tử khác đời. Nguyễn Công Trứ xem “hành đạo” như là một cuộc chơi và ăn chơi cũng là cách để ông khẳng định tài năng và cái cốt cách đa tình của mình. Cùng với việc tìm đến, hưởng thụ những thú chơi tao nhã thì ông còn tìm đến thú vui nhục dục, vì thế khi tìm đến thú hát ả đào ông không chỉ để thưởng thức tiếng hát mà còn để ngắm sắc đẹp của các cô kĩ nữ, thơ ông cũng viết nhiều về phụ nữ, đó cũng là một điểm khác lạ của con người tài tử trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ.
Khi xuất chính ông ham mê hoạt động, nhập thế tích cực, khi cảm thấy mình không còn đủ sức để phò vua giúp nước. Khi thất bại hay khi cảm thấy không còn đủ tâm lực để giúp đời nữa thì ông cáo quan, lui về ở ẩn, tìm đến một cuộc sống thanh nhàn, đó được xem là cuộc sông tối ưu nhất đối với con người ham mê hoạt động và hưởng thụ này. Con người này còn biết tìm cho mình một lối ứng xử thích hợp trong từng hoàn cảnh cụ thể của xã hội.
Nghiên cứu hình tượng nhà nho trong thơ nôm Nguyễn Công Trứ đó chỉ là một phạm vi nhỏ trong sự nghiệp sáng tác của ông. Nó không chỉ biểu hiện trong thơ Nôm mà còn bộc lộ sâu sắc, phong phú trong các thể loại khác. Bởi vậy, đến với thơ văn Nguyễn Công Trứ vẫn còn nhiều phương diện, nhiều khoảng trống cần phải nghiên cứu, khám phá về con người đầy mâu thuẫn và phức tạp này.
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
2. Hồ Sĩ Hiệp, Lâm Quế Phong (1997), Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, NXB Văn nghệ TPHCM.
3. Chu Trọng Huyến (1996), Nguyễn Công Trứ thơ và đời, NXB Văn học.
4.Trần Đình Hượu (1998), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, NXB Giáo dục.
5. Tạ Ký (1994), Việt Nam thi văn trích giảng, NXB Đồng Tháp.
6. Đặng Thanh Lê, Hoàng hữu Yên (1999), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII- đầu thế kỷ XIX, NXB Giáo dục.
7. Nguyễn Lộc (2001), Văn học Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX, NXB Giáo dục.
8. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII- nửa đầu thế kỷ XIX ( tập 2), NXB Giáo dục.
9. Nguyễn Đăng Na (2003), Đặc điểm văn học Việt Nam trung cận đại những vấn đề, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
10. Nguyễn Đăng Na, (chủ biên) (2007), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam- tập 2, NXB Đại học sư phạm Hà Nội.
11. Nguyễn Phong Nam ( chủ biên) (997), Những vấn đề lịch sử và văn chương Triều Nguyễn, NXB Giáo dục.
12. Nguyễn Phong Nam (2003), Giáo trình văn học Việt Nam, NXB Đại học sư phạm Đà Nẵng.
13. Nguyễn Viết Ngoạn (2002), Nguyễn Công Trứ tác giả, tác phẩm, giai thoại, NXB ĐHQGTPHCM
14. Phạm Thế Ngũ (1997), Văn học Việt Nam sử ước tân biên- tập 2, NXB Đồng Tháp.
15. Vũ Dương Quỹ, (tuyển chọn) (1998), Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường, NXB Giáo dục.
16. Vũ Tiến Quỳnh, (tuyển chọn) (1994), Nguyễn Công Trứ Cao Bá Quát,
NXB văn nghệ TPHCM.
17. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vượng, Trần Nho Thìn- Đoàn Thị Thu Vân (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, NXB Giáo dục.
18. Trần Nho Thìn, (giới thiệu và tuyển chọn), (2003), Nguyễn Công Trứ về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục.
19. Đoàn Thị Thu Vân, (chủ biên) (2008), Văn học trung đại Việt Nam Thế Kỷ X- hết thế kỷ XIX, NXB Giáo dục.
20. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, NXB Khoa học xã hội.
21. Trần Ngọc Vượng (1995), Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB Giáo dục.
22. Trần Ngọc Vượng (1997), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, NXB Giáo dục.
23. Nhiều tác giả (1995), Nguyễn Công Trứ con người- cuộc đời, NXB Hội nhà văn.
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu. 1
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. 5
4. Phương pháp nghiên cứu. 5
5. Bố cục của khóa luận. 5
Chương I: Nguyễn Công Trứ - cuộc đời và sự nghiệp thơ văn. 6
1.1. Nguyễn Công Trứ - cuộc đời và thời đại 6
1.1.1. Cuộc đời 6
1.1.2. Phác thảo một giai đoạn lịch sử.. 8
1.2. Sự nghiệp thơ văn Nguyễn Công Trứ.. 10
1.2.1. Thơ văn Nguyễn Công Trứ.. 10
1.2.2. Đóng góp của Nguyễn Công Trứ đối với nền văn học dân tộc. 12
Chương II: Hình tượng nhà nho và nghệ thuật thể hiện hình tượng nhà nho trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ.. 14
2.1. Hình tượng nhà nho trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ.. 14
2.1.1. Nhà nho hành đạo. 14
2.1.1.1. Nhà nho hành đạo trong văn học trung đại:haha: 14
2.1.1.2. Nhà nho hành đạo trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ.. 16
2.1.2. Nhà nho tài tử.. 23
2.1.2.1. Nhà nho tài tử trong văn học trung đại 23
2.1.2.2. Nguyễn Công Trứ và sự thể hiện con người nhà nho tài tử.. 26
2.1.3. Nhà nho ẩn dật 35
2.1.3.1. Biểu hiện nhà nho ẩn dật trong văn học trung đại 35
2.1.3.2. Nhà nho ẩn dật trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ.. 38
2.2.1. Ngôn từ nghệ thuật 44
2.2.2. Quan niệm về thời gian và không gian trong thơ Nôm Nguyễn Công Trứ.. 48
KẾT LUẬN.. 51
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
:haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha::haha:
.. 52