Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cận Đại ( Giữa thế kỷ XVI - năm 1917)
Ibn Séoud (1881-1953)-Một vị anh hùng nhờ chiến đấu trong nửa thế kỷ mà tạo nên được một quốc gia ở
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Chị Lan" data-source="post: 39430" data-attributes="member: 28779"><p><strong>BÁN ĐẢO Ả RẬP QUA CÁC THỜI ĐẠI</strong></p><p><strong></strong></p><p>Muốn hiểu sự nghiệp của Ibn Séoud, chúng ta cần biết qua về địa thế, dân tộc và lịch sử Ả Rập.</p><p></p><p>Xứ Ả Rập là một bán đảo rộng 2,2 triệu cây số vuông, ba phía là biển, ở giữa là một cao nguyên mênh mông trên cát dưới đá, cháy khô dưới ánh nắng chang chang, đi hàng chục hàng trăm cây số mới gặp một giếng nước, chung quanh có ít cây chà là và vài cái lều của bọn người du mục. Chỉ ở bờ biển mới thấy ruộng rẫy. Hai miền phì nhiêu nhất là miền Yemen ở phía Nam trên cái mỏm, một bên là Hồng Hải (Mer Rouge), một bên là vịnh Aden, và miền Syrie ở phía Bắc, trên bờ Địa Trung Hải. Dân cư miền Yemen rất đông đúc và tăng lên rất mau, mà diện tích trồng trọt được thì có hạn, kỹ nghệ cùng thương mãi tới dầu thế kỷ XX vẫn còn thấp kém nên miền đó luôn luôn bị nạn nhân mãn. Dân chúng nếu vượt biển để qua miền Soudan thì gặp một xứ còn khô khan, hoang dã hơn xứ Ả Rập nữa, sống không nổi; mà cũng không thể ngược theo bờ biển Hồng Hải vì bị các dân tộc khác chận đường, nhất định không cho nhập cảnh, nên họ phải dắt díu nhau di cư vào giữa bán đảo, tới miền Nedjd, miền Quasim, miền Hamad để tìm cách sinh nhai. Thành thử trong hàng chục thế kỷ, có những luồng sóng người cuồn cuộn từ phương Nam tiến lên phương Bắc, rồi phân tán trong sa mạc. Nhưng sa mạc cháy khô làm sao nuôi nổi những bọn người di cư mỗi ngày một đông đó? Họ phải chém giết lẫn nhau để sống, để chiếm một giếng nước, mươi gốc chà là và vài mẫu đồng cỏ. Khắp thế giới không đâu đời sống cực khổ, gay go như ở đây. Phải chiến đấu suốt đời, nên kẻ nào sống sót được cũng là những chiến sĩ gan dạ, rất giỏi chịu cực, chỉ có một bầu nước và một gói chà là, cũng đủ sống ba bốn ngày.</p><p></p><p>Bản đồ Ả Rập Saudi</p><p></p><p>Nhưng khi người ta đã quen với đời sống rồi thì người ta thấy yêu cái cảnh sa mạc hơn là người nông dân yêu đồng ruộng. Một nhà tâm lý nào đó đã nhận xét đúng: cảnh vật càng khô khan, đời sống càng cực khổ bao nhiêu, người ta càng quyến luyến với quê hương bấy nhiêu. Sống giữa sa mạc, người Ả Rập mê những cảnh hoàng hôn rực rỡ, những cảnh cát bụi mịt trời, những cây chà là xanh mướt bên bờ nước, nhất là sau những cơn nắng cháy da, mặt trời đã lặn, gió mát hiu hiu, nằm trên cát, bên cạnh con lạc đà, gối đầu lên cánh tay mà ngắm những ngôi sao lấp lánh trên nên trời thăm thẳm, hoặc nhìn bóng trăng xanh dịu trải lên những động cát thoai thoải, trong một cảnh vô biên, tịch mịch, thì lòng họ rung lên một điệu trầm trầm, họ nhớ lại những thời oanh liệt, mà muốn ca ngợi công lao tổ tiên; hoặc suy nghĩ về cái mênh mông huyền bí của vũ trụ, do đó họ thành một thi sĩ hoặc một nhà tu hành.</p><p></p><p>Tóm lại, sa mạc đã tạo ra ba hạng người: hạng chiến sĩ coi cái chết nhẹ như không; hạng thi sĩ thích một cuộc đời phóng đãng; và hạng tu sĩ kính ngưỡng Thượng đế, muốn hiểu cái bí mật của tương lai. Người Ả Rập tự hào rằng đã tặng cho nhân loại bốn vạn người tiên tri, đã để lại cho chúng ta vô số những lời sấm truyền, mà lịch sử cũng chứng thực rằng ít gì cũng có trên trăm nhà tiên tri sinh trên bãi sa mạc Ả Rập.</p><p></p><p></p><p>Nhà tiên tri nổi danh nhất, ảnh hưởng lớn nhất đến dân tộc Ả Rập là Mahomet (570-632). </p><p>Chẳng những ông là một nhà tiên tri mà còn là một thi sĩ, một chiến sĩ nữa; ông ấp ủ tất cả những hoài bão của dân tộc Ả Rập và có đủ tài, chí để thực hiện những hoài bão đó, nên lập nên công nghiệp rất lớn cho nòi giống.</p><p></p><p>Hồi trẻ nghèo, ông phải làm hướng đạo cho các thương đội qua sa mạc, đi khắp nơi này nơi khác, tiếp xúc với mọi giống người. Ông thấy người Ả Rập chia rẽ, tranh giành nhau, cướp bóc nhau mà đau lòng; nuôi cái mộng một ngày kia quy tụ họ được, thống nhất họ được để tạo nên một quốc gia mạnh mẽ.</p><p></p><p>Năm 25 tuổi, ông vô núi Hira, gần thành Mecque[4] trầm tư trong một thời gian, như Đức Phật dưới gốc Bồ đề, và lần lần ánh sáng hiện ra trong óc ông. Ông nghĩ ra rằng được nếu muốn thống nhất dân tộc thì phải tạo cho họ một tôn giáo chung - hồi đó người Ả Rập còn theo đạo đa thần, mỗi bộ lạc thờ một vị thần riêng - mà muốn cho tôn giáo được mọi người theo thì phải dùng võ lực, chiến thắng tất cả những bộ lạc khác.</p><p></p><p>Tìm được “chánh đạo” rồi, ông “hạ san”, tự xưng là nhà tiên tri, đem truyền bá tư tưởng của mình trong số người thân, rồi trong một nhóm môn đệ gồm ba, bốn chục người. Nhờ hồi trước tiếp xúc với những người theo đạo Ki Tô và Do Thái, ông hiểu được ít nhiều về hai đạo đó, phỏng theo mà lập nên đạo Hồi hồi. Giáo điều căn bản tóm tắt trong câu: “Chỉ có một đức chúa duy nhất là Allah và một tiên tri của ngài là Mahomet”. Sống thì phải phục tùng ý muốn của Chúa. Sự phục tùng ấy gọi là Islam, chết thì phải theo sự phán quyết của Chúa. Đại loại những lời khuyên răn các tín đồ tức là Mulsuman, cũng như các cấm điều trong các tôn giáo khác. Khác hẳn Đạo Phật là điều này: Chiến tranh nào có mục đích truyền bá “chính đạo” sẽ là thánh chiến. Bất kỳ ai, cả những kẻ đui và cụt tay đều phải nhập ngũ để chiến đấu vì Chúa. Chỉ những kẻ điên, con nít và đàn bà là được ở nhà, nhưng có bổn phận phải tố cáo, phải giết những kẻ đào ngũ. Khẩu hiệu của tín đố là: “Thiên đàng ở trước mặt, mà địa ngục ở sau lưng”. </p><p></p><p>Một lần đứng trước một nhóm đồ đệ khoảng bốn chục người, Mahomet tuyên bố:</p><p></p><p>- Từ nay ta sẽ sống và chết với các ngươi, máu của các ngươi là máu của ta, các người thua là ta thua, mà các ngươi thắng là ta thắng.</p><p></p><p>Một người trong đám hỏi:</p><p></p><p>- Nhưng nếu chúng tôi bị giết vì ngài thì được phần thưởng nào?</p><p></p><p>Mahomet đáp liền:</p><p></p><p>- Được lên Thiên đàng.</p><p></p><p>Những cuộc đàm thoại như vậy được tín đồ ghi chép lại Thánh kinh Coran, lời rất trau chuốt, hoa mỹ vì Mahomet có tâm hồn thi sĩ. Ngoài những đoạn giảng về đức tin, kinh còn dạy về khoa học, vệ sinh, luật pháp. Các sử gia hiện nay phải nhận rằng thời Trung cổ, khắp thế giới không có bộ luật nào đầy đủ chi tiết và thực tế như kinh Coran.</p><p></p><p>Khi đã có một số tín đồ cảm tử theo, ông bắt đầu dùng tài cầm quân của mình để đánh cướp các thương đội, gây lực lượng để xâm chiếm các bộ lạc, bắt họ qui phục, theo đạo Hồi hồi. Lần này ông chiếm được Médine, Mecque, và khi lâm chung, hồi 62 tuổi, ông làm chủ toàn xứ Ả Rập. Quốc gia Ả Rập thành lập, và từ đó mỗi ngày một mạnh.</p><p></p><p>Sau Mahomet, Omar tiếp tục công việc xâm lăng để truyền đạo, và tới thế kỷ thứ VIII thì đế quốc Ả Rập toàn thịnh, rộng hơn cả đế quốc Hi Lạp hồi xưa: phía Đông lan qua Ba Tư và một phần Ấn Độ, phía Tây gồm một vùng mênh mông từ Ai Cập tới bán đảo Y Pha Nho, phía Bắc giáp Caucase và Tây Bá Lợi Á, bao nhiêu đảo lớn nhỏ trong Địa Trung Hải đều thuộc Ả Rập cả. Họ tới đâu thắng đấy, bắt kẻ địch phải lựa một trong hai con đường: hoặc thừa nhận Chúa Allah của họ và phục tùng họ, hoặc chết. Họ dám sai sứ qua Trung Hoa buộc hoàng đế Trung Hoa theo đạo họ (khoảng 705-707) nhưng vì xa xôi quá, họ không dám tiến quân. Mãi tới năm 732, họ sắp tới sông Loire trên đất Gaule thì dân tộc Franc dưới sự chỉ huy của Charles Martel đánh cho đại bại ở gần Poitiers. Trận đó đã cứu châu Âu khỏi bị Ả Rập đô hộ, và cứu đạo Ki Tô khỏi bị đạo Hồi lấn áp.</p><p></p><p>Càng thắng, họ càng phục lời tiên tri của Mahomet: “Thiên đàng ở trước mặt, Địa ngục ở sau lưng” là đúng. Họ tiến tới đâu cũng thấy những cảnh rực rỡ, những đời sống vui tươi y như cảnh thiên đàng tả trong Thánh kinh của họ. Trong Thánh kinh cũng có đoạn này đấy ư?</p><p></p><p>“Sau khi giải khát ở hồ nước của đấng Tiên tri, tín đồ sẽ vô Thiên đàng và được hưởng những của cải mênh mông. Mùa xuân ở đó bất tận, vườn tược xanh tốt quanh năm, đủ các thứ suối róc rách dưới tàn cây: suối nước thơm tho, suối rượu, suối sữa, suối mật. Cây thì cao, bóng thì mát mà có đủ các thứ trái. Rồi nem công chả phượng - ba trăm món ăn mỗi bữa- ăn không chán... Thượng đế ban lệnh: “Các con ăn uống cho thỏa thuê đi để bù công khó nhọc ở dưới trần. Bảy mươi hai nàng tiên mắt đen lánh, xiêm y rực rỡ, y như những ngọc trai trong vỏ xa cừ, sẽ múa hát tưng bừng để tăng cái vui cho bữa tiệc”.</p><p></p><p>Những lời hứa hẹn đó làm cho dân Ả Rập đói khát trong sa mạc mơ ước bao lâu nay thì bây giờ, nhờ chiến thắng, nhờ hi sinh cho Chúa, họ được Chúa cho hưởng đủ: này là những suối mật ở Ai Cập, những suối sữa ở Y Pha Nho, những lê, cam ở Ba Tư, nho, táo ở Y Pha Nho và hàng vạn, hàng ức nàng tiên ở Bagdad, ở Caire, ở Byzance, ở Crète, ở Cordoue. Nhìn lại sau lưng họ thì bán đảo Ả Rập toàn đá với cát, quả thực là một cảnh địa ngục! Vạn vạn tuế Mahomet!</p><p></p><p>Một khi đã được lên Thiên đàng thì không còn ai muốn trở lại cảnh Địa ngục nữa, cho nên dân Ả Rập định cư ngay ở những thuộc địa của họ, không nhắc tới những tên Yemen, Nedjid, nơi chôn nhau cắt rốn của họ nữa. Và bãi sa mạc mênh mông yên tĩnh trở lại, gần như bất động, gần như chết hẳn. Chỉ còn ít đoàn du mục đói rách lang thang dưới ánh nắng thiêu người với mấy con lạc đà ốm yếu, đi tìm ít ngụm nước, ít trái chà là chung quanh những giếng nước.</p><p></p><p>Sống xa hoa thì phải suy. Bắt đầu từ thế kỷ thứ XI, những thuộc địa của họ mạnh lên, chống cự lại họ. Trước hết là người Franc chiếm miền Bắc bán đảo: Syrie, Palestine, Transjordanie. Rồi tới những đoàn Thập tự quân tiến tới Médine (cuối thế kỷ XII). Qua thế kỷ sau, những đoàn kỵ sĩ Mông cổ, dưới sự chỉ huy của Gengis Khan[5], Tamerlan, xâm nhập Anatolie, tàn phá Smyrne, Alep, Damas. Sau cùng người Thổ chiếm hết những tỉnh ở bờ biển, dồn họ vào sa mạc, bắt họ phải phục tòng, và dân tộc Ả Rập trở lại tình trạng cũ, trước khi Mahomet ra đời.</p><p></p><p>Cuối thế kỷ XII, một vị anh hùng Ả Rập, Abdul Wahab theo đường lối của Mohamet, dùng đúng chính sách của Mahomet - nghĩa là mượn sức của tôn giáo và của binh sĩ - muốn gây lại thời oanh liệt cũ, thống nhất được xứ Nedjd và Hasa. Qua thế kỷ sau, Séoud[6] chiếm thêm được Hedjaz, vô Thánh địa Mecque, nhưng khi Séoud tử trận, các con bất tài, bị Thổ diệt hết.</p><p></p><p>Dân Ả Rập vẫy vùng được một thời rồi lại nép mình dưới chân Thổ, lại thiêm thiếp ngủ dưới ánh nắng gay gắt, trong một cảnh yên tĩnh, chỉ thỉnh thoảng giật mình vì một tiếng súng nổ hoặc tiếng vó ngựa của một tên cướp đường ban ngày.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Chị Lan, post: 39430, member: 28779"] [B]BÁN ĐẢO Ả RẬP QUA CÁC THỜI ĐẠI [/B] Muốn hiểu sự nghiệp của Ibn Séoud, chúng ta cần biết qua về địa thế, dân tộc và lịch sử Ả Rập. Xứ Ả Rập là một bán đảo rộng 2,2 triệu cây số vuông, ba phía là biển, ở giữa là một cao nguyên mênh mông trên cát dưới đá, cháy khô dưới ánh nắng chang chang, đi hàng chục hàng trăm cây số mới gặp một giếng nước, chung quanh có ít cây chà là và vài cái lều của bọn người du mục. Chỉ ở bờ biển mới thấy ruộng rẫy. Hai miền phì nhiêu nhất là miền Yemen ở phía Nam trên cái mỏm, một bên là Hồng Hải (Mer Rouge), một bên là vịnh Aden, và miền Syrie ở phía Bắc, trên bờ Địa Trung Hải. Dân cư miền Yemen rất đông đúc và tăng lên rất mau, mà diện tích trồng trọt được thì có hạn, kỹ nghệ cùng thương mãi tới dầu thế kỷ XX vẫn còn thấp kém nên miền đó luôn luôn bị nạn nhân mãn. Dân chúng nếu vượt biển để qua miền Soudan thì gặp một xứ còn khô khan, hoang dã hơn xứ Ả Rập nữa, sống không nổi; mà cũng không thể ngược theo bờ biển Hồng Hải vì bị các dân tộc khác chận đường, nhất định không cho nhập cảnh, nên họ phải dắt díu nhau di cư vào giữa bán đảo, tới miền Nedjd, miền Quasim, miền Hamad để tìm cách sinh nhai. Thành thử trong hàng chục thế kỷ, có những luồng sóng người cuồn cuộn từ phương Nam tiến lên phương Bắc, rồi phân tán trong sa mạc. Nhưng sa mạc cháy khô làm sao nuôi nổi những bọn người di cư mỗi ngày một đông đó? Họ phải chém giết lẫn nhau để sống, để chiếm một giếng nước, mươi gốc chà là và vài mẫu đồng cỏ. Khắp thế giới không đâu đời sống cực khổ, gay go như ở đây. Phải chiến đấu suốt đời, nên kẻ nào sống sót được cũng là những chiến sĩ gan dạ, rất giỏi chịu cực, chỉ có một bầu nước và một gói chà là, cũng đủ sống ba bốn ngày. Bản đồ Ả Rập Saudi Nhưng khi người ta đã quen với đời sống rồi thì người ta thấy yêu cái cảnh sa mạc hơn là người nông dân yêu đồng ruộng. Một nhà tâm lý nào đó đã nhận xét đúng: cảnh vật càng khô khan, đời sống càng cực khổ bao nhiêu, người ta càng quyến luyến với quê hương bấy nhiêu. Sống giữa sa mạc, người Ả Rập mê những cảnh hoàng hôn rực rỡ, những cảnh cát bụi mịt trời, những cây chà là xanh mướt bên bờ nước, nhất là sau những cơn nắng cháy da, mặt trời đã lặn, gió mát hiu hiu, nằm trên cát, bên cạnh con lạc đà, gối đầu lên cánh tay mà ngắm những ngôi sao lấp lánh trên nên trời thăm thẳm, hoặc nhìn bóng trăng xanh dịu trải lên những động cát thoai thoải, trong một cảnh vô biên, tịch mịch, thì lòng họ rung lên một điệu trầm trầm, họ nhớ lại những thời oanh liệt, mà muốn ca ngợi công lao tổ tiên; hoặc suy nghĩ về cái mênh mông huyền bí của vũ trụ, do đó họ thành một thi sĩ hoặc một nhà tu hành. Tóm lại, sa mạc đã tạo ra ba hạng người: hạng chiến sĩ coi cái chết nhẹ như không; hạng thi sĩ thích một cuộc đời phóng đãng; và hạng tu sĩ kính ngưỡng Thượng đế, muốn hiểu cái bí mật của tương lai. Người Ả Rập tự hào rằng đã tặng cho nhân loại bốn vạn người tiên tri, đã để lại cho chúng ta vô số những lời sấm truyền, mà lịch sử cũng chứng thực rằng ít gì cũng có trên trăm nhà tiên tri sinh trên bãi sa mạc Ả Rập. Nhà tiên tri nổi danh nhất, ảnh hưởng lớn nhất đến dân tộc Ả Rập là Mahomet (570-632). Chẳng những ông là một nhà tiên tri mà còn là một thi sĩ, một chiến sĩ nữa; ông ấp ủ tất cả những hoài bão của dân tộc Ả Rập và có đủ tài, chí để thực hiện những hoài bão đó, nên lập nên công nghiệp rất lớn cho nòi giống. Hồi trẻ nghèo, ông phải làm hướng đạo cho các thương đội qua sa mạc, đi khắp nơi này nơi khác, tiếp xúc với mọi giống người. Ông thấy người Ả Rập chia rẽ, tranh giành nhau, cướp bóc nhau mà đau lòng; nuôi cái mộng một ngày kia quy tụ họ được, thống nhất họ được để tạo nên một quốc gia mạnh mẽ. Năm 25 tuổi, ông vô núi Hira, gần thành Mecque[4] trầm tư trong một thời gian, như Đức Phật dưới gốc Bồ đề, và lần lần ánh sáng hiện ra trong óc ông. Ông nghĩ ra rằng được nếu muốn thống nhất dân tộc thì phải tạo cho họ một tôn giáo chung - hồi đó người Ả Rập còn theo đạo đa thần, mỗi bộ lạc thờ một vị thần riêng - mà muốn cho tôn giáo được mọi người theo thì phải dùng võ lực, chiến thắng tất cả những bộ lạc khác. Tìm được “chánh đạo” rồi, ông “hạ san”, tự xưng là nhà tiên tri, đem truyền bá tư tưởng của mình trong số người thân, rồi trong một nhóm môn đệ gồm ba, bốn chục người. Nhờ hồi trước tiếp xúc với những người theo đạo Ki Tô và Do Thái, ông hiểu được ít nhiều về hai đạo đó, phỏng theo mà lập nên đạo Hồi hồi. Giáo điều căn bản tóm tắt trong câu: “Chỉ có một đức chúa duy nhất là Allah và một tiên tri của ngài là Mahomet”. Sống thì phải phục tùng ý muốn của Chúa. Sự phục tùng ấy gọi là Islam, chết thì phải theo sự phán quyết của Chúa. Đại loại những lời khuyên răn các tín đồ tức là Mulsuman, cũng như các cấm điều trong các tôn giáo khác. Khác hẳn Đạo Phật là điều này: Chiến tranh nào có mục đích truyền bá “chính đạo” sẽ là thánh chiến. Bất kỳ ai, cả những kẻ đui và cụt tay đều phải nhập ngũ để chiến đấu vì Chúa. Chỉ những kẻ điên, con nít và đàn bà là được ở nhà, nhưng có bổn phận phải tố cáo, phải giết những kẻ đào ngũ. Khẩu hiệu của tín đố là: “Thiên đàng ở trước mặt, mà địa ngục ở sau lưng”. Một lần đứng trước một nhóm đồ đệ khoảng bốn chục người, Mahomet tuyên bố: - Từ nay ta sẽ sống và chết với các ngươi, máu của các ngươi là máu của ta, các người thua là ta thua, mà các ngươi thắng là ta thắng. Một người trong đám hỏi: - Nhưng nếu chúng tôi bị giết vì ngài thì được phần thưởng nào? Mahomet đáp liền: - Được lên Thiên đàng. Những cuộc đàm thoại như vậy được tín đồ ghi chép lại Thánh kinh Coran, lời rất trau chuốt, hoa mỹ vì Mahomet có tâm hồn thi sĩ. Ngoài những đoạn giảng về đức tin, kinh còn dạy về khoa học, vệ sinh, luật pháp. Các sử gia hiện nay phải nhận rằng thời Trung cổ, khắp thế giới không có bộ luật nào đầy đủ chi tiết và thực tế như kinh Coran. Khi đã có một số tín đồ cảm tử theo, ông bắt đầu dùng tài cầm quân của mình để đánh cướp các thương đội, gây lực lượng để xâm chiếm các bộ lạc, bắt họ qui phục, theo đạo Hồi hồi. Lần này ông chiếm được Médine, Mecque, và khi lâm chung, hồi 62 tuổi, ông làm chủ toàn xứ Ả Rập. Quốc gia Ả Rập thành lập, và từ đó mỗi ngày một mạnh. Sau Mahomet, Omar tiếp tục công việc xâm lăng để truyền đạo, và tới thế kỷ thứ VIII thì đế quốc Ả Rập toàn thịnh, rộng hơn cả đế quốc Hi Lạp hồi xưa: phía Đông lan qua Ba Tư và một phần Ấn Độ, phía Tây gồm một vùng mênh mông từ Ai Cập tới bán đảo Y Pha Nho, phía Bắc giáp Caucase và Tây Bá Lợi Á, bao nhiêu đảo lớn nhỏ trong Địa Trung Hải đều thuộc Ả Rập cả. Họ tới đâu thắng đấy, bắt kẻ địch phải lựa một trong hai con đường: hoặc thừa nhận Chúa Allah của họ và phục tùng họ, hoặc chết. Họ dám sai sứ qua Trung Hoa buộc hoàng đế Trung Hoa theo đạo họ (khoảng 705-707) nhưng vì xa xôi quá, họ không dám tiến quân. Mãi tới năm 732, họ sắp tới sông Loire trên đất Gaule thì dân tộc Franc dưới sự chỉ huy của Charles Martel đánh cho đại bại ở gần Poitiers. Trận đó đã cứu châu Âu khỏi bị Ả Rập đô hộ, và cứu đạo Ki Tô khỏi bị đạo Hồi lấn áp. Càng thắng, họ càng phục lời tiên tri của Mahomet: “Thiên đàng ở trước mặt, Địa ngục ở sau lưng” là đúng. Họ tiến tới đâu cũng thấy những cảnh rực rỡ, những đời sống vui tươi y như cảnh thiên đàng tả trong Thánh kinh của họ. Trong Thánh kinh cũng có đoạn này đấy ư? “Sau khi giải khát ở hồ nước của đấng Tiên tri, tín đồ sẽ vô Thiên đàng và được hưởng những của cải mênh mông. Mùa xuân ở đó bất tận, vườn tược xanh tốt quanh năm, đủ các thứ suối róc rách dưới tàn cây: suối nước thơm tho, suối rượu, suối sữa, suối mật. Cây thì cao, bóng thì mát mà có đủ các thứ trái. Rồi nem công chả phượng - ba trăm món ăn mỗi bữa- ăn không chán... Thượng đế ban lệnh: “Các con ăn uống cho thỏa thuê đi để bù công khó nhọc ở dưới trần. Bảy mươi hai nàng tiên mắt đen lánh, xiêm y rực rỡ, y như những ngọc trai trong vỏ xa cừ, sẽ múa hát tưng bừng để tăng cái vui cho bữa tiệc”. Những lời hứa hẹn đó làm cho dân Ả Rập đói khát trong sa mạc mơ ước bao lâu nay thì bây giờ, nhờ chiến thắng, nhờ hi sinh cho Chúa, họ được Chúa cho hưởng đủ: này là những suối mật ở Ai Cập, những suối sữa ở Y Pha Nho, những lê, cam ở Ba Tư, nho, táo ở Y Pha Nho và hàng vạn, hàng ức nàng tiên ở Bagdad, ở Caire, ở Byzance, ở Crète, ở Cordoue. Nhìn lại sau lưng họ thì bán đảo Ả Rập toàn đá với cát, quả thực là một cảnh địa ngục! Vạn vạn tuế Mahomet! Một khi đã được lên Thiên đàng thì không còn ai muốn trở lại cảnh Địa ngục nữa, cho nên dân Ả Rập định cư ngay ở những thuộc địa của họ, không nhắc tới những tên Yemen, Nedjid, nơi chôn nhau cắt rốn của họ nữa. Và bãi sa mạc mênh mông yên tĩnh trở lại, gần như bất động, gần như chết hẳn. Chỉ còn ít đoàn du mục đói rách lang thang dưới ánh nắng thiêu người với mấy con lạc đà ốm yếu, đi tìm ít ngụm nước, ít trái chà là chung quanh những giếng nước. Sống xa hoa thì phải suy. Bắt đầu từ thế kỷ thứ XI, những thuộc địa của họ mạnh lên, chống cự lại họ. Trước hết là người Franc chiếm miền Bắc bán đảo: Syrie, Palestine, Transjordanie. Rồi tới những đoàn Thập tự quân tiến tới Médine (cuối thế kỷ XII). Qua thế kỷ sau, những đoàn kỵ sĩ Mông cổ, dưới sự chỉ huy của Gengis Khan[5], Tamerlan, xâm nhập Anatolie, tàn phá Smyrne, Alep, Damas. Sau cùng người Thổ chiếm hết những tỉnh ở bờ biển, dồn họ vào sa mạc, bắt họ phải phục tòng, và dân tộc Ả Rập trở lại tình trạng cũ, trước khi Mahomet ra đời. Cuối thế kỷ XII, một vị anh hùng Ả Rập, Abdul Wahab theo đường lối của Mohamet, dùng đúng chính sách của Mahomet - nghĩa là mượn sức của tôn giáo và của binh sĩ - muốn gây lại thời oanh liệt cũ, thống nhất được xứ Nedjd và Hasa. Qua thế kỷ sau, Séoud[6] chiếm thêm được Hedjaz, vô Thánh địa Mecque, nhưng khi Séoud tử trận, các con bất tài, bị Thổ diệt hết. Dân Ả Rập vẫy vùng được một thời rồi lại nép mình dưới chân Thổ, lại thiêm thiếp ngủ dưới ánh nắng gay gắt, trong một cảnh yên tĩnh, chỉ thỉnh thoảng giật mình vì một tiếng súng nổ hoặc tiếng vó ngựa của một tên cướp đường ban ngày. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
LỊCH SỬ
Lịch Sử Thế Giới
Thế giới Cận Đại ( Giữa thế kỷ XVI - năm 1917)
Ibn Séoud (1881-1953)-Một vị anh hùng nhờ chiến đấu trong nửa thế kỷ mà tạo nên được một quốc gia ở
Top