lyquochoang
Banned
- Xu
- 0
Địa ngục du ký của Cô Ba cháo gà
Tự Trần:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Mô Phật.
Bạch thầy.
Trước kia con là người đại ác, nhưng sớm thức tỉnh tu hành, theo Phật, Pháp, Tăng, trong lúc hành đạo, con đã trải qua bao nhiêu thử thách đắng cay. Số mình dốt nát, Kinh, Luật chẳng thông, phiền một nỗi tuổi già tu muộn. Ngoài đời khảo đảo, trong đạo mỉa mai, biết mình nghiệp nặng, kiếp trước vụng tu. Nên con có nguyện cùng mười phương chư Phật cho con được trả hết nghiệp trong một kiếp này, mong chờ kiếp sau trong sạch mà đi ngay vào đường đạo. Không còn bị oan gia dẫn dắt, nghiệp chướng kéo lôi.
Vì lời dại nguyện đắc thành, nên Diêm chúa cho bắt hồn con xuống Địa ngục để xử án. Ôi, vì mình tạo ác nên phải trả nghiệp thật quá xót xa tê tái. Nào trầm mình nơi biển lạnh, thân thể cứng đờ, nào bị bầy gà, vịt mổ đá, cắn xé tơi bời, nào nuốt lửa toàn thân lên khói, nào ngất xỉu nơi ngục thứ bảy: Vì thấy sự hình phạt quá gớm ghê, nào phải vào núi lửa ở cửa ngục thứ mười, tưởng đâu thân này ra tro mạt.
Đáng lý con phải chết luôn, nhưng ơn trên thấy chúng sanh đời mạt pháp, tội ác chập chồng không tin nhân quả, tưởng đâu chết rồi là hết, nên cho con sống lại để nói chuyện Địa ngục, hầu nhắc nhở bà con cô bác sớm thức tỉnh tu hành.
Đến khi trở về cõi thế, thân con còn phải mang câm, điếc. Thế mà lắm người nông nổi, cho con là tà đạo, dùng lời giả dối để mê hoặc chúng sanh. Như uống nước: Nóng hay lạnh tự mình biết lấy, chớ việc chánh tà lý đạo đã quá phân minh.
Con nghĩ: Đạo Phật là đạo từ bi, lòng xót thương vạn loài đang lặn hụp trong biển khổ sông mê, đồng thời tìm phương giải cứu, để tận diệt gốc Khổ cho chúng sanh. Xét vậy dù cao hay thấp dù thật hay huyền diệu, điều đồng một mục đích dẫn dắt chúng sanh đến bờ giác ngộ giải thoát.
Mô phật.
Nhưng hôm nay thầy chẳng đắn đo lời thề, gạt bỏ tiếng thị phi, cho phép con kể chuyện Địa ngục cho thầy nghe, nhờ thầy chứng minh cho con, nếu như chánh thì thầy bảo con kể để nhắc nhở bà con, cô bác tu hành, còn như tà thì thầy dạy con không nói nữa.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thích nữ Huệ Hiền Kính bút.
Tục danh Cô Ba Cháo Gà.
Nằm Mộng
Nam mô A Di Đà Phật, nay tôi xin nói chuyện Địa ngục, vì người thế gian ít biết về Địa ngục được. Nhân vì tôi là người đại ác, Diêm chúa cho người bắt tôi xuống Địa ngục, hôm nay tôi đặng về đây là do một đại nguyện và nhân duyên như sau: Trở về Diêm phù này để nói cho cô, bác được rõ những tội phước của tôi như thế nào, tại sao tôi phải đi Địa ngục?
Tôi đi Địa ngục là đền tội lỗi và nhờ lục nguyện có duyên lành để nói lại cho cô, bác biết sự quả báo, phòng tránh làm việc sát sanh hại mạng, không phạm tội sa Địa ngục như tôi. Trước khi đi Địa ngục có nguyên nhân: Vì tôi là Cô Ba Cháo Gà ở chợ Vòng Nhỏ, một vùng chợ Mỹ Tho, danh từ này ai cũng đều biết. Tôi bán cháo gà một thời gian từ năm Ngọ cho đến cuối năm Mùi gần ngót 18 tháng. Ngày 16 tháng 11 rạng 17, tôi định sắp sửa nấu cháo gà. Trong đêm đó tôi nằm mộng thấy cắt cổ một con gà mà nó hiện làm người ta, khi đó tôi nói: “Ủa tại sao ông thành người ta, làm sao tôi nhúng nước sôi cho được?” Ông ấy đáp: “Mày chết! Chớ nhúng nước sôi, tao là ông nội của mày đây!” Tôi hỏi: “Ông nói tôi không tin, ông nội tôi sao lại không giống?” Ông đáp: “Giống sao được, vì hồi còn sống, ông nội sát sanh hại mạng cũng nhiều, khi chết, con cháu lại làm heo, bò, gà, vịt để lo tống táng. Cho nên ông làm thú biết bao nhiêu kiếp mà trả chưa xong, vì thay hồn đổi xác nhiều đời làm sao còn giống được mà con biết.
May nhiều đời trước có chút công tu nên được Diêm Chúa cho về bảo con cháu biết. Con ráng tu đừng sát sanh hại vật phải đọa Địa ngục như ông quá khổ sở”. Tôi hỏi “Ông nói tôi cũng chưa tin, ông tên gì?”. Ông đáp: “Ông là Huỳnh Văn Vấp, cha mày là Huỳnh Văn Thình, mày là Huỳnh Thị Nhi, con tin chưa?” Tôi đáp: “Ông nói đúng sự thật, nhưng thấy tướng mạo tôi còn nghi”. Ông bèn tiếp: “Thôi con ráng tu đi rồi biết, chớ đừng nghi, ông cho con hay, con tội lỗi rất nhiều, vì sát sanh, không những gà vịt mà thôi, cho đến trùng, dế, kiến, chuột bọ, rắn rít đều có tội hết. Con nên cố gắng tu đi, để cầu siêu cho ông với”. Đến đây đồng hồ ré, tôi giựt mình xem đúng 3 giờ khuya. Thường khi nấu cháo gà cũng giờ đó, và ngày đó lại nhầm ngày 17 tháng 11 vía phật A Di Đà. Tôi liền đem gà bán hết và không làm nghề nấu cháo gà nữa, bắt đầu ăn chay trường tụng kinh, trải 6 năm như vậy.
Chết Đi Địa Ngục Lần Thứ Nhất
Thời gian sáu, bảy năm tu cư sĩ tại gia, thường ngày tụng kinh Di Đà, Phổ Môn là niệm Phật, lần lần tụng đến kinh Địa Tạng, Pháp Hoa. Tính ra từ 17 tháng 11 năm Mùi cho đến ngày 23 tháng 4 năm Dần, khi đó vào lúc 6 giờ chiều, tôi đang ngồi niệm Phật, bỗng thấy từ đâu chẳng biết, đứng sững trước mặt tôi một vị mặt đen như than, lớn tợ mâm, bụng bự chòm hòm, muốn chụp tôi. Sợ quá tôi la oai oải, náo động cả xóm, rồi té xuống đất bất tỉnh. Bỗng nghe tiếng con kêu khóc thấy mình đang đứng trước cửa, có một số người rất đông, biết đây là người âm chứ không phải người dương, là ma quỷ gì đây, tôi không rõ. Họ đang xầm xì với nhau. Nhìn trong nhà thấy con đang ôm đầu tôi khóc và kêu: “Má, má” còn lối xóm, người đánh lưng bóp cẳng, thoa tay, cạo gió, đủ thứ. Tôi rất đau lòng biết mình đã chết, có lẽ vì công tu quá ít mà tội lỗi thì nhiều, thôi bây giờ ráng niệm Phật, xin Phật cứu độ cho, chớ không dám nhìn vào xác nữa. Khi nhìn ra ngoài niệm Phật thì thấy các vị thần đổi sắc mặt, vui vẽ kêu tôi: “Sư nữ, Sư nữ, ngài hãy bắt hơi thở đi”. Tôi suy nghĩ có lẽ là ma hay quỷ gạt mình đặng bắt hồn chớ gì, bèn nói: Các ngài làm trước rồi tôi làm sau. Khi ấy tôi thấy các vị thần đều hòa hơi thở như lúc ngồi thiền, tôi liền làm theo. Có một vị cõng tôi lên, các vị khác xách tay tôi bay bỗng lên mây hướng về phía Tây Nam lướt tới có 6 vị đi trước, 6 vị ở giữa với tôi và 6 vị đi sau trải qua mấy lớp mây rồi ra khỏi đáp xuống. Lúc ấy tôi nghe như thần nói đã tới ranh giới nước Mã lai tôi nhìn xuống cũng còn thấy nhà cửa, cây cối, ruộng vườn, kẻ qua người lại, bay một lúc nữa thì thấy biển mênh mông, những cù lao rải rác đó đây, lô nhô dưới biển tàu xuôi ngược, đèn đuốc lập lòe, vì trời đã tối. Bay một đỗi xa hơn, không còn thấy chi nữa, chỉ toàn là biển cả mênh mông, mây nước một màu bầu trời đen thẩm thật lạnh lùng khiếp sợ. Bay một lúc lâu tuyết xuống dày đặc cả mình lạnh buốt, tay chân tê cứng chịu không nổi, nên buông tay nhào xuống biển.
Khi đó chư thần vớt tôi lên đem vào đền vua được biết đây là Long Vương hỏi: Chư thần bắt hồn chúng sanh ở cõi Diêm Phù sao không bỏ trong hồ lô mà để hồn ở ngoài như vậy, đi qua biển lạnh chịu sao nổi? Lúc ấy Chư thần trả lời sao tôi nghe không rõ. Kế đó Long Vương bảo một vị rồng bề ngang độ 3 thước, bề dài hơn trăm thước và tôi cùng 18 vị thần lên lưng ngồi, Xong xuôi rồng bay tới chân núi thì dừng lại, các thần cõng tôi bay xuống. Ngọn núi to lớn vô cùng, xa xa là bể cả, được biết đây là núi Thiết Vị. Khí trời ở đây lạnh lắm, sương sa tuyết đổ, trên chót núi tuyết đóng trắng phau. Cảnh trời u ám. Có một điều lạ là khi tôi đến biển thì trời đã tối mà khi đến núi này lại thấy cảnh mờ mờ. Chư thần cõng tôi bay vòng quanh núi, đến một cửa đá rất lớn, thần gõ 3 tiếng thì cửa đá mở ra. Thần hỏi: “Sư nữ có sao không?” Tôi đáp: “Thưa ngài tôi lạnh lắm chịu không nổi”. Có một vị thần lấy ra cái y ở trong tay áo đưa tôi đắp. Các ngài cùng tôi vào trong núi thì nghe các vị thần nói: “Bồ Tát đến rồi”. Vào trong núi thấy hào quang sáng rực một vùng đầt rộng lớn bao la ở đây nghe ấm áp hơn bên ngoài. Nhìn vào trong thấy đền đài nguy nga, to lớn, trước đền hai cái tháp cao, có hai vị Bồ Tát đang ngồi ngang nhau. Hào quang tua tủa đổ hột. Tưởng mình được về tây phương, lòng mừng khấp khởi, định chạy đến chỗ Bồ Tát ngồi mà lạy.
Quả Báo
Phía ngoài hai vị Bồ Tát ngồi, sau lại có một đàn gà, vịt rất đông, còn phía trong xa là đền rồng của vua Nhứt Diện, vì thấy Bồ Tát tôi quá mừng mà không thấy đàn gà, vịt chận mình phía trước, mỗi con lớn bằng con nghé, tôi vừa đi tới nghe chúng nó nói: “Dữ hôn, chúng tôi đợi nhà ngươi từ tháng 10 năm Sửu đến tháng 4 năm Dần mới gặp. Chúng tôi được nghe Nhứt Điện Tần Quảng Vương nói nhà ngươi đã quy đầu Phật pháp mà tu hành. Nhưng trước kia nhà ngươi ỷ mạng sát hại chúng tôi, nào cắt cổ, nhổ lông, phân thay, xé thịt để đem lại sự giàu có cho mình mà chẳng chút xót thương đến loài sinh vật yếu đuối ngu khờ này. Ngày nay nhà ngươi xuống đây, chúng tôi phải phân thân trả hận”. Nói đến đó, chúng nó ào lại vây quanh, con thì mổ, con thì đá, lớp gà, lớp vịt, mổ bươi cào cấu tôi đau đớn vô cùng. Không còn chịu nổi nữa, liền té quỵ xuống, chúng nó leo lên mình nó chà, nó đạp, bươi, mổ xé, cắn nên tôi ngất đi, nhưng lạ lùng thay, tôi còn nghe văng vẳng tiếng Bồ Tát Quán Âm nói: “Này các con vật kia, hãy ngưng lại mà nghe ta nói hai điều. Điều thứ nhất, là các người tự do trả hận, nhưng tất cả đều phải đứng qua một bên, con này mổ rồi đứng qua bên kia, tới con khác mổ, như vậy mới công bình, số các ngươi là một ngàn mười một con, mà một con cứ mổ hoài, còn con khác không mổ được rồi cứ kiện thưa mãi ai ở đây mà phân xử cho nổi.
Trả thù xong rồi, tùy theo nghiệp lực của các ngươi mà đi đầu thai, con nào còn kiếp thú thì làm thú, con nào mãn kiếp được tiến lên làm người, đó là điều thứ nhất. Còn điều thứ hai là các ngươi không trả hận, để ta cứu nó sống dậy, nó sẽ tụng kinh cầu siêu cho các ngươi tiến lên làm người hết, sau này nó sẽ làm thầy các ngươi mà độ các ngươi tu hành. Trong hai điều, các ngươi muốn điều nào tùy ý, chớ luật công không ép”.
Bồ Tát nói đến đó thì chúng nó dang ra xa và không mổ nữa. Bồ Tát bảo tiếp: “Các ngươi cứ từ từ mà trả hận đi”. Các con vật trả lời: “Bây giờ tôi muốn tên này tỉnh dậy để cầu siêu cho chúng tôi được làm người, chớ mang lớp thú hoài, khổ quá!”. Bồ Tát bèn sai vị thần đem nước rưới vào mình, tôi liền tỉnh dậy. Nhớ lại mình đã cắt cổ gà, vịt quá nhiều lòng hết sức ăn năn, tôi bước tới trước mặt Bồ Tát mà lạy. Bồ Tát Quán Âm dạy rằng: “Nhờ người thức tỉnh tu hành, thọ trì kinh pháp trong 6 năm và cũng may là các con vật này nó họp lại đây kiện ngươi, xin trả thù có một lần. Bằng không, tự nhiên sau này ngươi phải đầu thai làm thú trong một ngàn mười một kiếp để thường mạng, thì biết bao giờ mới trở lại làm người mà tu hành. Vì chúng sanh mê muội, không rõ luật nhân quả, cứ tưởng chết rồi là hết, cho rằng: “Vật phải dưỡng nhơn” rồi thẳng tay sát hại, chừng khi quả báo đến thì kêu Trời, kêu đất ai cứu được. Nhà ngươi có biết các con vật ấy là chi của ngươi không?” Tôi đáp: “Bạch Bồ Tát, con chỉ biết nó chỉ là con vật thôi”. Bồ Tát nói: “Nó là Ông Bà, cha mẹ, nhiều đời, nhiều kiếp. Trước kia nó cũng sát sanh như ngươi nên phải hóa thân làm thú, nay ngươi nhìn chẳng ra nên đành tâm sát hại chúng. Ngày nay ông bà, cha mẹ của ngươi lại kiện cáo ngươi để trả thù, thế gian là trả vay vay trả như vậy đó. Chúng sanh cõi Diêm Phù ưa sát hại sinh vật cho cha mẹ, chồng con ăn bổ dưởng thân thể, hoặc bắt cá cua để nuôi cháu. Vì thương mà hại, đó là mình hại mình, hại luôn cả cha mẹ, thân quyến đều phải chịu tội chung. Bây giờ ngươi hãy tụng kinh cầu siêu cho chúng nó được tiến sanh làm người, giảng cho chúng nó nghe một bài, khuyên chúng nó ráng lo tu Phật và quy y Phật, Pháp, Tăng cho chúng nó.
Kết Án
Xong rồi, tôi trở vào đến ngay Bồ Tát, lại nghe ngài phán rằng: “Người tạo tội ác tày trời, nay dám nguyện trả xong cho một kiếp, có chịu nổi không?” “Bạch, con chịu nổi”. Bồ Tát nói: “Vậy thì vào Nhất Điện Tần Quảng Vương mà lãnh án”. Đến Nhất Điện tôi quỳ xuống nghe ngài phán án: “Tội lỗi của người rất lớn, nay ngươi nguyện trả xong trong một kiếp thì cứ khai đi”. Tôi bèn khai: “Bạch Diêm Chúa, con sát sanh vì con giết vật rất nhiều, tội cắp vì buôn bán gian xảo, tội tà dâm vì có 7 đời chồng, tội nói láo vì con nói láo hơn ai hết đã vậy mà con còn uống rượu nữa”. Nói đến đâu thì có vị phán quan giở sổ xem đến đó, kế Diêm Chúa quở: “Còn tội bán đồ lậu chợ đen sao không khai, mua một bán mười làm cho kẻ nghèo không đủ tiền mua, tội ấy như tội ăn cướp lòng độc như rắn, muốn đầy túi mình, chẳng biết thương ai”. Tôi nói: “Bạch ngài, tôi xin chịu tội”.
Nhất Điện bèn phán: “Tôi sát sanh rất nặng, theo lẽ thì phải thường mạng, nhưng hôm nay ngươi xuống đây cho chúng nó trả hận, và ngươi cầu siêu cho chúng nó như đã xong, xong còn dư báo, nếu sau này ngươi tu hành độ chúng nó thì dứt hết oan gia bằng thối thất thì phải thọ sanh thường mạng.
Nhờ lòng hiếu thảo nên nay trừ được tội gian tham và tội bán đồ lậu. Hằng ngày niệm Phật rất nhiều nên trừ được tội nói láo. Còn dâm dục tuy có tội mà không, vì đó là ngươi trả nghiệp. Vậy ngươi hãy lắng nghe ta nhắc lại tiền kiếp của ngươi: Trong 6 kiếp kia ngươi quy y theo Phật, Pháp, Tăng mà tu hành, nhưng tiếc thay, kiếp vừa qua ngươi xuất gia từ 8 tuổi cho đến 42 tuổi tu hành tinh tấn, giới hạnh thanh tịnh, độ chúng cũng đông cho nên được làm Hòa thượng, trụ trì chùa Tổ Đình vùng Phú Thọ Chợ Lớn. Nhờ công đức năm kiếp trước cho nên kiếp thứ sáu vừa qua được thông minh sáng suốt, tinh thông kinh luật luận, nên được bá tánh sùng bái, các vị tăng ni mến phục. Vì học giỏi được mọi người kính nể, người sanh cống cao ngạo mạn, tưởng mình là Phật, lấy làm tự đắc buông lung, không kềm tâm thúc ý, để tâm ý dong ruổi theo trần cảnh, giới luật buông xuôi, tâm đạo giải đãi, lòng phàm bừng dậy, đắm sắc tham tài, mới phá giới, phạm trai mà tư dâm với cô gái 20 tuổi ở gần chùa. Lấy của thường trụ mà nuôi gái tơ, dụng của Tam Bảo để mua chuộc ái tình cho đến 70 tuổi mới chết. Khi chết xuống đây phải ở địa ngục thứ chín trong 28 năm để đền tội lỗi, từ 42 đến 70 tuổi. Vì lẽ trên nên 7 đời chồng của ngươi trong kiếp này là 7 người đệ tử ruột của ngươi đi đòi nợ trong kiếp vừa qua đã cung phụng cho ngươi đủ thức ngon vật lạ. Theo lẽ kiếp này ngươi phải làm gái ở lầu xanh mà trả nợ bá gia. Nhờ ngươi sớm thức tỉnh tu hành, hồi 17 tuổi có quy y với Đại Đức Thích Hoằng Nghĩa mà ngài dậy ngươi niệm Phật và tụng chú Đại Bi. Nhờ thế mà qua khỏi nghiệp ở lầu xanh, nhưng phải chịu nghèo khổ buôn bán tảo tần để trả nợ.
Chịu Quả Báo
Nhất Điện, Tần Quảng Vương phán tiếp: Ngươi hãy nghe cho rõ lời trẫm phán: Trong lúc làm Hòa Thượng mà còn đắm sắc đàn bà nên lãnh tội đui. Đã là hàng Đại Đức trụ trì ngôi Tam Bảo mà đêm đêm sang nhà gái ăn thịt uống rượu mà miệng còn thốt câu: “Vật dưỡng nhơn”, không làm gương cho người thế, còn xúi người làm ác nên lãnh tội câm. Đã xuất gia đầu Phật còn thích nghe tiếng nỉ non êm ả của đàn bà con gái nên lãnh tội điếc. Theo lẽ kiếp này ngươi phải làm gái ở lầu xanh, kiếp thứ hai làm người đui mù, kiếp thứ ba chịu câm và điếc, nhưng ngươi biết sớm ăn năn tu hành theo Phật và cũng nhờ theo lời đại nguyện của người xin trả nghiệp trong một kiếp, thôi hãy lãnh án mà trở về dương thế làm gương cho người đời, nếu biết ăn năn cố gắng tu hành thì xuống đây sẽ định lại”. Tôi nói: ” Bạch Diêm Chúa, tội câm và điếc tôi xin lãnh, còn tội đui xin Ngài khoan hồng cho tôi”. Nhất Điện phán: “Vì nghiệp lực của ngươi Trẫm không thể nào tha thứ được, ngươi hãy đến Bồ Tát mà xin”. Nghe lời Ngài tôi bèn đến lạy Bồ Tát Quán Âm. Ngài hỏi: “Ngươi muốn sáng mắt để làm gì?” ” Bạch Bồ Tát con thấy chúng sanh nơi địa ngục quá khổ sở nên xin được sáng mắt để tụng kinh Pháp Hoa cầu nguyện cho chúng sanh mau sớm siêu rỗi”. Đức Địa Tạng nói: “Nên có lời đại nguyện phải đốt tâm”. Liền đó có một vị thần bưng cái ô như ô trầu đến quỳ trước Bồ Tát Quán Âm, vị khác đến gắp một cục lửa đem đưa tôi bảo nuốt. Thấy lửa thì sợ nhưng không dám cãi, cứ nhắm mắt, há miệng, cục lửa vừa bỏ vào miệng tôi nghe nó chạy tuốt xuống bụng, liền từ đầu đến chân phát ra lửa ngọn, cả cơ thể tôi rung động thật kinh sợ vô cùng. Khi ấy tôi hối hận nghĩ rằng: “Phải dè đừng xin, vì xin khỏi đui mà chắc phải chết”. Vừa nghĩ thế, vị thần gắp cục lửa thứ hai cho tôi nuốt, lửa cũng bốc lên dữ dội và đến cục thứ ba cũng thế. Làm cho tâm thần tôi tán loạn ngồi không muốn vững. Nghe Bồ Tát bảo: “Nghỉ một chút” tâm trí tôi lúc đó hoang mang, tay chân rụng rời. Vị thần đứng kế bảo: “Ngài ráng tỉnh tâm niệm Phật chớ còn nuốt nữa”. Tôi nghe như vậy định thế nào cũng chết, vì mình là người đại ác nên nay phải trả nghiệp thời đành phải chịu vậy. Vừa nghĩ tới đó kế vị Thần gắp cục lửa bảo tôi nuốt nữa nhưng lạ thay, tới cục lửa thứ tư này nghe trong mình không sao hết, tôi nuốt như mình ăn cơm vậy, dẫu có nuốt bao nhiêu nữa tôi cũng không sợ. Ban đầu còn đếm, một lúc không biết đã nuốt bao nhiêu. Chợt nghe Bồ Tát bảo: “Thôi cho ngươi an tọa”. Tôi liền trở lại chỗ ngồi, lạ một điều là chỗ tôi ngồi khi đi thì ghế mất. Khi ngồi thì ghế lại hiện ra. Ngồi xong có một vị thần ở phía sau bưng hộp ra hiện trước Bồ Tát Quán Âm xem và nói: “Tham, sân, si của người hãy còn, ba cục đem là chỉ lòng tham, sân, si của người đấy! Còn cục đỏ này là chỉ người sẽ sanh lên cõi trời, 36 cục trắng kia chỉ lòng trong sạch của người. Vì người quá sợ tội nên quyết chí tu hành, lòng trần không còn nghĩ đến. Như vậy cũng tốt, nhưng phải tinh tấn tu hành cho ba cục đen này, hóa trắng thì ngươi mới hoàn toàn trong sạch, và vì lời Đại nguyện nên phải khám phá Địa ngục”. Lúc ấy tôi ngẩn ngơ, tôi biết phá Địa ngục bằng cách nào? Nghe chư thần nói: “Ngài hãy dùng gươm Trí huệ mà phá”. Tôi bèn suy nghĩ bây giờ cứ cố gắng niệm Phật, liền đến lãnh ấn nơi Nhất điện cùng các chư thần đi khám phá Địa ngục.
Bảy Tầng Địa Ngục
Ngục Thứ Nhất.
Khi đó hai vị quan đi trước dẫn đầu, 2 quỷ sứ cùng 18 vị thần vào ngục. Trong ngục thứ nhất không có sự hành phạt, chỉ gồm có 4 số người:
1) Số công.
2) Số oan
3) Số ưng.
4) Số phạt.
Số công là mãn số rồi chết và cũng không tạo nghiệp sát nhơn. Số oan là kiếp trước không giết người, nhưng kiếp này bị người giết. Số ưng là vì kiếp trước giết người, nên kiếp này bị người giết lại để trả nghiệp. Còn số phạt là khi chết oan mà không chỉ theo chư thần xuống địa ngục, cứ mãi lẫn trốn ở cõi Diêm Phù tìm người trả hận, hay phá quấy người, bận cho chư thần phải quan sát, nay bị bắt xuống đây để chờ xử phạt. Đó là địa ngục thứ nhất.
Ngục Thứ Hai.
Trong ngục thứ hai cũng có bốn số như ngục thứ nhất, nhưng còn ở ngục thứ nhất là xử án, khi xử án rồi qua ngục thứ hai chờ lãnh án mà đi, hoặc được lên làm người, hoặc vào ngục khác mà chịu tội, hoặc qua ngục nhơn hiền tu thêm. Có một vị quan đi theo nói: “Nếu vong này có lòng hỷ xả, trước kia mình không giết ai, nay bị người giết, sự chết sống ở đời chỉ là giả dối, nay không hận thù, dù vong ấy có tạo tội cũng được ân xá qua cảnh nhơn hiền tu thêm, chỉ có tội ngũ nghịch không trừ được.
Còn vong nào cứ xin đi trả thù thì Nhất điện Tần quảng Vương cho quỷ sứ dẫn vào ngục ngay không xét xử, nếu chúng sanh cứ mãi gây thù kết oán thì cõi ta bà biết ngày nào dứt được chiến tranh đáng thương xót chúng sanh bị giam cầm nơi địa ngục những vong cứ mãi hận thù.
Ngục Thứ Ba.
Trong ngục thứ ba có một số người rất đông sau một thời gian bị hành phạt ở các địa ngục tùy theo tội ác của họ, nay chờ xét lại rồi lãnh án để sanh làm người hay qua cõi nhơn hiền tu thêm. Số người này lo đập gạo nấu cơm (vì hột gạo ở đây như trái dừa khô ở dương thế). Nấu xong, đem phát cho các vong ở các ngục ăn. Mỗi địa ngục rất lớn ước bằng châu thành Mỹ Tho vậy, đó là đại địa ngục. Trong một đại địa ngục chia ra làm 16 tiểu địa ngục. Mỗi địa ngục các vong hồn nhiều thôi vô số, ngồi có hàng có lớp, gục tới gục lui thật là sầu khổ.
Qua ba ngục trên tôi đều khuyên các vong niệm Phật. Tôi nói: “Tôi coi các vong ở địa ngục này như bà con, cô bác của tôi vậy. Cô bác hãy niệm Phật, có niệm Phật tôi mới được tiêu trừ, tôi bèn niệm:
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô tầm thinh cứu khổ cho tất cả chúng sanh nơi địa ngục này Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nhờ lời khuyên của tôi mà các vong đều niệm theo, hễ vong nào chí tâm niệm Phật, thì ra khỏi địa ngục ngay, còn vong nào cứng cỏi hay vì nghiệp chướng quá nặng nề mê muội không niệm được thì vẫn ở trong địa ngục. Nhờ thế mà trong ba ngục đầu các vong được ra rất nhiều.
Ngục Thứ Tư.
Trong ngục thứ tư hành phạt những người hủy hoại cơm gạo, đồ ăn uống, phải chịu tội khổ ăn dòi, chẳng hạn kẻ nhiều người ít. Có người một diệm kẻ một khạp, một lu lớn, cho đến kẻ nặng nhiều không kể xiết, ước nhiều như chợ Mỹ Tho vậy. Được biết tội nhân khi ăn hết dòi đó rồi, nếu còn tội khác phải đến ngục khác chịu tội, như hết thì đi đầu thai chịu quả báo xấu xa, bần cùng khổ sở.
Một số đông người vì tội nấu rượu, không biết bao nhiêu là lu, người một lu, kẻ hai lu đến 5, 6, 7 lu để dài dài ước chừng 3 cây số ngàn, hàng ngàn, hàng trăm chứ không phải đôi ba, được biết khi uống hết rượu trong lu, nếu còn tội khác thì đến ngục khác chịu hành nữa, còn như hết tội đi đầu thai làm thú hay làm người ngu dốt chẳng hạn tùy theo nghiệp.
Tôi thấy như vậy lòng chua xót vô cùng bèn khuyên các vong niệm Phật, hễ ai nghe lời niệm Phật theo tôi thì tự nhiên dòi trong khạp tiêu mất, rượu trong lu vơi cạn, vì thấy sự mầu nhiệm như thế nên nhóm này niệm Phật truyền đến nhóm khác. Tôi cũng bươn bả đi khắp nơi, vừa đi vừa niệm Phật và khuyên các vong hồn niệm Phật. Nhờ thế cửa ngục thứ tư này ra khỏi một số rất đông.
Ngục Thứ Năm.
Khi vào ngục thứ năm, ôi! Vô số người bị mang gông tra cùm, do vì tội phao phản thêm bớt, nói gian dối làm người phải bị tù đày, mang gông đi không nổi, bị quỷ sứ ở sau đánh tới, cứ một bước bị đánh một cái, đến bước không nổi, té xuống thì bị đánh liên tục bất tận đến chết đi sống lại, cũng có một số bị nhốt vào lồng sắt vì lúc còn sống bắt thú nhốt vào lồng để chơi cho vui thích, tôi cũng khuyên bà con niệm Phật, hễ ai niệm theo tôi, thì gông cùm tan rã, lồng sắt vỡ ra. Đây tôi chỉ nói sơ lược ở ngục thứ năm.
Ngục Thứ Sáu.
Vào ngục thứ sáu, được nghe tội báo ở đây là do sát sanh hại mạng để ăn uống như: Trâu, bò, heo, chó, gà, vịt, rắn, rùa,… số nào giết trâu, bò, ngựa, chó thì vít lên núi lửa, giữa núi lửa có một cột đồng rất lớn, lửa cháy hừng hực. Số nào chỉ ăn mà không giết thì vít ở ngoài cột đồng, số nào vừa ăn vừa giết thì vít ngay lên cột đồng, lửa cháy xèo xèo, mùi hôi khét xông lên. Ở đây cũng có một số người bất hiếu chửi cha mắng mẹ hoặc bỏ cha mẹ bơ vơ khổ sở, cũng bị hình phạt như vậy. Thật khó mà khuyên họ niệm Phật vì nghiệp lực quá nặng, chỉ có một số ở ngoài còn khuyên niệm Phật được. Hễ số nào niệm Phật thì ngưng hành hình, còn không niệm thì quỷ sứ cứ tiếp tục hành phạt mãi. Đi một đỗi nữa gặp một số người rất đông: Số thì giữ gà vịt, số thì giữ heo bò, dê ngựa…Tôi cũng lấy làm lạ mà nói: “Ủa? Ở địa ngực cũng có nuôi heo gà, bò dê nữa hay sao?” Có vị quan đi theo trả lời: ” Không phải, đây là những chúng sanh, khi còn sống nuôi bò dê heo gà vịt để sanh hại chớ không sát sanh. Chúng phải ở đây mà giữ số thú này, chừng nào số thú này mãn kiếp thú thì mới được đi đầu thai. Đó là chưa kể những tội khác, mà phải đến các ngục kia mà chịu tội nữa”.
Lại có một số người hay đi nghe những trò hát ca tình tứ khiêu động tình dục làm cho người say mê điên đảo, bị quỷ sứ hát lại cho các người giữ thú xem. Nếu hát được thì thôi, bằng hát không được thì quỷ sứ đập tơi bời. Có vị quan đi theo nói: “Những chúng sanh này khi còn sống được giàu sang rồi ăn xài lãng phí, phải chi chúng nó dùng tiền ấy để bố thí cho người nghèo đói hoặc in kinh, tạc tượng Phật, hoặc cúng chùa hộ quý Tăng Ni tu học thì quý báu biết bao! Lúc chết được sanh về trời hưởng phước tu thêm đặng về cảnh Niết Bàn, chớ có đâu mê muội xài phí đồng tiền vô ích mà nay phải vào địa ngục”.
Đi một đỗi nữa đến cầu Nại Hà bắt ngang qua một cái hầm rộng lớn ước chừng 5 mẫu đất, cầu thì nhỏ tròn như cây cau, ở dưới đủ các loại thú vật có từng đàn, đoạn đầu thì bầy trâu, bầy bò, bầy ngựa, bầy voi, bầy cọp, bầy rắn, kế đến là bầy gà vịt heo dê đủ loại, sau cùng là bầy chó, nếu ai giết thú nào, khi qua cầu, ngang qua bầy thú ấy do nghiệp lực tạo ác của mình mà phải té nhào xuống hố, mặt tình cho chúng nó giày bừa, đá đạp. Hễ giết voi thì bị voi dậm, giết chó thì chó xé, giết heo thì heo ủi, giết gà thì gà mổ, giết rắn thì rắn quấn… Cho đến thân thể nát nhừ hôi thúi rồi đi thường mạng, những người nào không sát hại sinh vật thì đi qua cầu được bình an, vì nhờ đã cầu siêu cho đám gà vịt rồi, khi đó có một con chó chạy theo tôi, cái thân thì người ta mà đầu chó, thấy nó tôi phát run, nó kêu: “Cô Ba, Cô Ba, tôi là chó nô đây, cô quên tôi sao?” Tôi nói: “Ủa nô mày chết lâu rồi sao còn ở đây?” Nó nói: “Tôi kiếp trước là đệ tử của thầy Giác Tân, vì lòng tham lấy của Tam bảo, nên phải làm kiếp chó để giữ chùa, kiếp tôi chưa mãn, bị một người thuốc tôi chết, tôi quyết chờ nó xuống đây, trả hận”. Tôi bèn khuyên: ” Thôi mày xin đi đầu thai đi, thù oán làm gì cho khổ, chẳng lẽ mày đợi mãi sao”. Miệng nói mà chân tôi đi riết.
Ra khỏi ngục, gặp Lục Biện, Ngài nói: “Ngươi thấy chưa, chúng nó vì tội sát sanh hại mạng mà khổ sở như vậy. Khi về cõi Diêm Phù, ráng khuyên người đừng sát sanh hại vật và cũng đừng đốt giấy tiền, vì chỉ có tội chứ không có phước”. Sơ lược như vậy.
Ngục Thứ Bảy
Khi đến Thất điện tôi nghe vua Thất điện dạy rằng: “Sư nữ của các ngươi, oai thần đã giảm, nếu vào ngục có xỉu thì nên đưa ra cấp tốc, kẻo nhiễm khí độc”. Bước vào ngục, tôi thấy tội nhơn bị quỷ sứ móc mắt, bẻ răng, cắt lỗ tai, xẻo lỗ mũi, cắt lưỡi, số người rất đông, tôi cũng còn vững tinh thần, đến chừng thấy người cậu (cậu chết tháng 2, tôi chết tháng 4) bị bẻ răng, móc ruột, máu ra lai láng, tôi xỉu luôn, chư thần liền đưa tôi ra.
Nói Chuyện Với Cậu.
Khi tỉnh lại, tôi liền xin với Thất điện cho tôi tiếp tục đi theo ngục thứ bảy, Ngài nói: “Không đặng vì oai thần của ngươi đã giảm, hãy về tu thêm”. Tôi nói: “Tôi có người cậu chết hôm tháng 2, đang chịu tội trong ngục, xin ngài cho tôi trở lại thăm”. Ngài nói: “Không được, để tôi cho quỷ sứ dẫn cậu ra”. Quỷ sứ đưa cậu ra, tôi hỏi: “Hồi đó cậu nói với tôi cậu tụng kinh Pháp Hoa 40 năm, sao nay cậu còn bị đọa vào địa ngục”. Cậu tôi trả lời: “Vì cậu nói láo nên nay mới bị hành phạt như vầy. Cậu còn cái tội khi dễ người đời, lại thêm hốt thuốc cắt cổ nữa. Vậy con về nói với thằng Khanh, thằng Chình con của cậu, phải bán hết gia sản làm chay bố thí, phóng sanh, hoặc ấn tống kinh cúng chùa mà cầu siêu cho cậu, vì của ấy là của mồ hôi nước mắt của người đời, cậu bóc lột họ nhiều quá”. Tôi nói: “Thôi cậu hãy ráng niệm Phật, khi trở về dương thế, tôi sẽ tụng kinh mà cầu siêu cho cậu, chớ con cậu dễ gì tin theo lời tôi nói”. Lúc ấy Thất Điện có phán: “Chúng sanh ở cõi Diêm phù thật quá mê muội, tưởng chết rồi là mất hết, nên thẳng tay tạo điều ác nghiệp, đến khi chết xuống địa ngục ăn năn cũng muộn. Khi về cõi Diêm phù. Trẫm có đôi lời nhắn nhủ với chúng sanh, mỗi ngày phải ráng tu một giờ, hay nửa giờ hoặc niệm Phật tụng kinh trì chú. Ngươi cũng khuyên chúng sanh đừng đốt giấy tiền mà cầu siêu cho ông bà. Nếu vậy Nhất Điện Tầng Quảng Vương đi ăn hối lộ của người thế hay sao? Muốn cho ông bà cha mẹ được siêu rỗi, phải bố thí cho kẻ nghèo đói, cúng chùa hộ Tăng Ni tu học, in kinh ấn tống, mua vật phóng sanh mà cầu siêu thì cha mẹ ông bà có chết bao nhiêu năm cũng được siêu độ”. Đến đây tôi xin kiếu Ngài để trở lại Nhất Điện.
Trở Về Nhất Điện
Khi về đến Nhất Điện, Ngài phán: “Ngươi khám phá địa ngục, thấy sự trừng phạt có công bình hay không?” Tôi đáp: “Bạch ngài, sự hành phạt rất công bình, nhưng chúng sanh tạo ác lúc nào không biết, nay thấy chúng bị hành phạt khổ sở, lòng cũng quá xót thương”. Ngài nói: “Chúng sanh khi còn sống chỉ lo cung phụng cái xác giả tạm mà gây bao tội ác: Nào sát sinh hại vật, nào cướp của giết người, lòng tham không đáy, muốn ngồi không mà hốt của thiên hạ để cho gia đình, thân tộc bè bạn vui say, cuối cùng, cái thần thức phải rơi vào địa ngục”.
Nhất Điện phán tiếp: “Thay vì nhà ngươi phải lãnh tội đui, câm, điếc mà trởû lại cõi Diêm phù trong 10 năm, nhưng nhờ công phá 7 cửa ngục mà chúng sanh được siêu độ rất nhiều, nên giảm được tội đui, chỉ còn lãnh tội câm và điếc trong vòng 3 năm rồi xuống đây sẽ định lại. Nếu tinh tấn tu hành, gia đình tu thiện, tránh sát sanh thì còn giảm nữa bằng không thì mang tật suốt đời”.
Kế ngài phán: “Nhà ngươi biết nhận tội ăn năn cải sửa, có lắm chúng sanh đến đây mà còn chối tội, trẫm bèn cho kiếng chiếu tiền ảnh thấy việc làm của mình trên trần thế, lúc ấy hết phương chối cãi, cũng có nhiều chúng sanh xin sống lại để đem của tiền bố thí cúng chùa. Nhưng xác thân của chúng đã rã rơi, đâu còn mà trở lại, vì một vong hồn xuất ra, quỷ sứ thâu nhỏ lại bỏ vào hồ lô mang xuống vua Đông Nhạc, kế giải qua Tây Nhạc, đến ngày Trẫm phân xử thì gần cả tháng lúc ấy thây thi đã rã, đâu còn mà trở lại. Nên Trẫm cho lên Nguyệt Cảnh Đài, nhìn về quê quán người thì chồng đã có vợ khác, hoặc vợ đã có chồng khác, của cải bị đám con phá tan, gia tài hao mất, tình nghĩa như đám mây bay, thấy cảnh đời như vậy gục đầu mà khóc”.
Tôi bèn nói: “Bạch ngài, tôi có thể xem các thứ ấy đặng không?” Ngài nói: “Đứa ác còn xem được, huống chi ngươi có ác có thiện”. Ngài vừa nói dứt có vị thần đem kiếng chiếu tiền ảnh ra cho tôi xem. Thật là hay quá: Lúc nào tôi làm gì nói chuyện với ai? Tính toán điều gì? đều hiện ra đầy đủ như ở cõi Diêm Phù ta coi hát vậy. Kế ngài bảo tôi nhắm mắt để lên Nguyệt Cảnh Đài, vừa mở mắt ra thì thấy mình đứng trên một tấm kiếng thật to lớn. Tôi đang nhìn qua ngó lại không biết phải xem cách nào thì bỗng có một vị cốt cách như Tiên, tóc đỏ, râu vàng bước tới. Tôi hỏi: “Ngài ở đâu đến đây?” Ông ấy đáp: “Tôi chẳng phải ở đâu, cũng chẳng phải từ đâu đến, hễ có ngài thì có ta”. Tôi nghe nói thế cũng lặng thinh. Ông bèn dẫn tôi xem về ngôi nhà của tôi thật là tỏ rõ vô cùng, thấy xác tôi nằm trên ván đó, chung quanh có bà con cô bác lân cận, cũng có thằng em của tôi ở Thủ Thừa qua thăm, con tôi nó đứng gần bên xác tôi và đang nói năng điều chi đó.
Xong rồi, người dẫn tôi xem Sài Gòn, cũng thấy nhà cửa, xe chạy, người qua kẻ lại, coi đến những đô thị trên thế giới, các đô thị này thật lộng lẫy nguy nga, lớn hơn Sài Gòn xa lắm. Tôi bèn nói: “Hay quá, thật hay quá. Xem được như vầy dẩu có chết hay sống cũng vui lòng”. Ông Tiên đáp: “Hay mà cũng chưa hay, ngài ráng tu chừng nào mà không cần đứng trên Nguyệt Cảnh Đài này mà thấy được tất cả mới thật là hay”. Đến đây ngài bảo tôi trở về, vì đã hết thời gian ấn định. Ngài vừa nói dứt câu thì thân tôi đứng ngay trước Nhất Điện. Nhất Điện bảo tôi đến lễ Bồ Tát đặng trở về cõi Diêm phù.
Trở Về Dương Thế
Khi đến lễ Bồ Tát vừa muốn bạch thì đã câm ngay. Bồ Tát khuyên: “Khi về cõi Diêm phù, ngươi nhớ lời Đại nguyện mà tinh tấn tu hành ba năm sau xuống đây xét lại”. Chư thần đưa tôi trở lại cung Long Vương, được vua Long vương cho rồng đưa qua bể lạnh, nhờ hơi rồng tôi thấy ấm áp hơn bận đi. Gần đến ranh giới loài người, rồng dừng lại, tôi cùng chư thần tạ ơn rồi bay thẳng vào nội địa. Đến nhà tôi chư thần hạ xuống vào nhà, tôi thấy cái xác của tôi nàm ngay trên ván, không cử động chi, nước da xanh mét, tôi bắt rùng mình. Trước kia tuy tôi tu hành nhưng cũng không chứng được cái hồn của mình như thế nào, ngày nay mới nhận được rõ ràng. Cái xác này là giả dối, có hồn nhập vào thì nói năng, cử động, hồn xuất ra thì cứng đờ xanh mét, rồi theo thời gian mà tan rã, chớ có chắc thật chi đâu. Vừa nghĩ thế thì thấy có một vị thần từ trong xác tôi xuất ra (đó là thần giữ xác điều hòa hơi thở, bằng không thì xác bị hoại, tôi về nhập vô không được). Các vị thần ở ngoài xô tôi nhập vào xác. Lúc còn ở ngoài xác, tôi tỉnh lắm có đâu nhức chi đâu, thế mà khi vào xác tâm hồn mê mẩn như người say ngủ, tay chân lạnh tê nặng nề. Cả mình đau nhức, một lúc nghe gân cốt trong mình chuyển, hơi thở nghe điều hòa tôi bèn mở mắt ra, thì thấy con tôi nó đứng kế bên đó. Lòng tôi buồn rười rượi, tự nhiên nước mắt chảy dài, chớ không nói năng gì được.
Một lúc lâu, tôi bàng hoàng ngồi dậy, thấy bà con đứng xung quanh, tôi chỉ lắc đầu, hai hàng nước mắt cứ tuôn rơi mà miệng không nói chi được hết. Trong mình nhức mỏi, các bắp thịt cứng đờ, cổ khô hốc. Chắc con tôi cũng khổ lắm, nhưng chẳng biết nói gì hơn, chỉ lấy mắt mà nhìn. Lúc ấy đồng hồ chỉ 12 giờ ngày 24 tháng 4 năm Dần. Trọn ngày hôm đó và liên tiếp cho đến ba bốn hôm sau, tôi ăn ngủ không được, lòng như còn hải hùng khiếp sợ, hễ nhắm mắt thì thấy Địa ngục hành hình. Con tôi nó thấy tôi quá khổ sở nên nó cầu nguyện ăn chay một tháng, để tụng kinh Địa Tạng cầu nguyện cho tôi, sau một tháng tôi cũng chưa nói được, nó không thối chí, vẫn tiếp tục ăn chay cầu nguyện. Còn tôi hễ nhớ đến chúng sanh nơi Địa ngục thì lòng đau nhói, hàng ngày tôi tụng kinh Pháp Hoa bằng mắt, bằng tâm, chớ không ra lời. Mội ngày tôi tụng một cuốn hay hai ngày một cuốn, do đó tôi và con tôi tụng luôn sáu tháng.
Xuống Địa Ngục Lần Thứ Nhì
Dần, chư thần xuống rước tôi xuống âm phủ, chư thần cõng tôi qua địa phận loài người thì có rồng chờ sẵn mà đưa ngay vào địa ngục. Hai vị Bồ Tát đã đến lúc nào, thấy hai vị Bồ Tát tôi bèn đến đãnh lễ. Bồ Tát Quán Âm phán: “Quý thay, nhà ngươi giữ tròn lời đại nguyện, về cõi Diêm phù thọ trì kinh Pháp Hoa cầu nguyện cho chúng sanh nơi địa ngục. Ta cho người biết, oai thần kinh Pháp Hoa rất lớn, và cũng nhờ ngươi đem hết thân tâm cầu nguyện nên mỗi bộ được siêu rỗ trên hai ngàn vong linh. Nhà ngươi có đứa con đại hiếu, ăn chay tụng kinh cầu nguyện cho mẹ, tội ngươi được ân xá thêm”. Ngài bèn bảo vị thần đưa tôi chung nước uống và rửa mặt. Lạ thay, rửa mặt xong thì tôi nói được. Bồ Tát nói tiếp: “Oai thần của ngươi đủ sức khám phá địa ngục, hãy đến Nhất Điện Tần Quảng Vương mà lãnh ấn”.
Tôi bèn đến Nhất Điện làm lễ lãnh ấn thì ngài hết vui mừng, từ trên ngai vàng bước xuống mà phán rằng: “Trẫm rất mừng cho Hiền Tăng, tưởng đâu 3 năm mới trở xuống nào ngờ chỉ trong 6 tháng. Ngày nay mới biết rõ tâm ngài vì thương xót chúng sanh nơi Địa ngục không quản nhọc nhằn đem hết tâm trí thọ trì kinh Pháp Hoa để cầu siêu cho chúng, bao nhiêu công đức thọ trì kinh pháp của con ngài, ngài cũng nguyện hồi hướng hết cho chúng sanh, thật quý thay! Một điều nữa, Trẫm muốn cho Hiền Tăng lãnh phần in kinh ấn tống để hộ tăng, ni, tu học và hàng Phật tử có đủ kinh sách tu hành, vậy ngài nghĩ sao?” Tôi nói: “Bạch ngài tôi không sợ khó nhọc, nhưng vì tiền tài không có xin ngài hoan hỷ cho”. Nói đến đó rồi thôi, ngài bèn đóng ấn đưa cho vị quan đặng khám phá địa ngục tiếp.
Phá Tiếp Ngục Thứ Bảy
Chư thần cõng tôi bay thẳng đến ngục thứ bảy vì các ngục kia tôi đã khám phá rồi, khi nào đến Thất Điện, Thất Điện Thái Sơn Vương cũng đón tiếp niềm nở rồi đóng ấn giao cho vị quan để vào ngục thứ bảy.
Trong ngục thứ bảy, có một số người rất đông vì tội gian dâm, đàn bà có chồng mà còn đi ngoại tình, đàn ông có vợ mà còn đi phá gái trinh hoặc gian dâm với vợ người thì bị cưa, cắt, xay giã, bầm quết xong lại bị vít ra đổ đống. Những người mưu mô kế hoạch xảo trá cho vay bạc nợ mượn bạc nát lời, hoặc làm bạc giả, chứa bài bạc, hối lộ gian tà cũng bị hành hình như vậy, chết rồi huờn sống, sống lại bị hành hình cho chết, khổ không thể tả. Khi muốn cho sống dậy quỷ sứ cầm một bình nước rưới lên đống thịt, đống thịt liền hiện hình sống dậy rồi cũng bị chặt bằm nữa. Thấy vậy lòng rất xót thương nên tôi kêu: “Hỡi các vong hồn hãy ráng niệm Phật, tôi cũng niệm Phật để cầu nguyện cho tất cả được siêu thoát, vậy các ngươi hãy niệm Phật đi. Vong nào nghe lời niệm Phật thì khỏi bị hành hình, còn vong nào không niệm thì quỷ sứ cứ tiếp tục hành hình đó là nói sơ lược.
Ngục Thứ Tám
Vào ngục thứ tám này không biết bao nhiêu tội nhơn bị hành hình khổ sở. Một cột đồng thật lớn bề tròn chừng 6 thước lửa đốt cháy rực. Quỷ sứ bắt tội nhơn ôm cột đồng, nếu không ôm chúng lấy chỉa ba đâm và vít vào. Kế là những vạc dầu sôi sắp có hàng rất nhiều, quỷ sứ bắt tội nhơn ném vào đấy, hoặc nắm lấy hai chân nhúng đầu vào vạt dầu, chết rồi huờn sống lại tiếp tục hành hình. Đây là tội mưu mô kế hoạch của kẻ loạn dâm để lấy lợi, dụ dỗ gái để đem bán ở lầu xanh, hiếp dâm đàn bà, con gái hoặc thầy thuốc hốt thuốc giết người, phá thai để lấy tiền. Hoặc ỷ giàu có phao phản hiếp đáp người rồi đem tiền chuộc tội, hoặc xúi người kiện cáo chia rẽ anh em hoặc chửi trời mắng đất khi dễ thánh thần… Tội nhơn này lại bị chim ó, bù cắt, chim ưng mổ xẻ nó ăn còn xương chất đống rồi huờn sống dậy để chịu khổ nữa. Tôi cũng có khuyên các vong niệm Phật, nhưng các vong ở đây vì tội chướng quá nặng nề nên số niệm Phật được rất ít, số nào niệm Phật thì quỷ sứ để cho ngồi nghỉ không hành phạt, còn số kia thì cứ tiếp tục hành.
Ngục Thứ Chín
Tôi cùng chư thần vào đến Cửu Điện Độ Thị Vương ân cần tiếp rước ngài phán: “Trẫm nghe có một người ở cõi Diêm phù xuống phá địa ngục, từ lâu Trẫm cũng có lòng trông, đến nay mới được hội kiến thật quý báu thay!” Tôi nói: “Bạch ngài trước kia tôi đi khám phá đến ngục thứ bảy thì trở về vì oai thần chưa đủ ngày nay khám phá tiếp, xin ngài hoan hỷ chỉ dạy cho”. Ngài nói: “Trẫm cũng đi theo nữa trước kia ngài ở ngục này 28 năm ngài còn nhớ không? Hãy vào đây nhìn xem có ai quen thuộc không?” Vừa nói vừa đi vào ngục thì hỡi ôi! Trong ngục thứ chín này toàn là quý vị tu hành một số thì quỳ trên bàn chông, vì trước kia mang lớp tu hành ỷ mình học giỏi khinh khi các vị Tăng Ni, Đại Đức giới hạnh thanh tịnh. Một số khác quỳ dưới cây đèn lưu ly mà tụng kinh, vì lãnh tụng kinh cho người đời mà tụng không đủ. Một số khác bị hành hình đủ cách như ở các ngục khác tùy theo tội nặng hay nhẹ, Cửu Điện Độ Thị Vương chỉ số bị hành phạt mà nói: “Số này mượn lớp tu hành mà phá chúng lạm dụng của thường trụ mà làm việc riêng tư phi pháp, hoặc phá giới phạm chay ở chùa mà ăn mặn, sát sanh hại vật làm gương ác cho đời, hoặc cống cao ngạo mạn khi dễ Tăng Ni thanh tịnh, hủy hoại của đàn na thí chủ, rẻ rúng Bạch y cư sĩ. Tu mà không kính Phật lại hủy phát, vọng ngữ, chưa được mà nói được, chưa chứng mà nói chứng, tưởng mình là Phật khi dễ Thánh Thần, xem thường Trời Đất cho nên ngày nay bị hành phạt như vậy.
Tôi nghe thế bèn khuyên các vong niệm Phật, tôi nói: “Kính thưa quý ngài, tôi xem quý ngài như thầy của tôi vậy, tôi biết quý ngài học giỏi hơn tôi nhiều lắm, cũng vì một chút lỗi lầm chi đó mà phạm giới, vậy hôm nay quý ngài cùng tôi niệm Phật đặng tiêu nghiệp chướng trở lại cõi Diêm phù mà tu nữa cho đến ngày thành chăn đẳng chánh giác”. Tôi khuyên như vậy đôi ba lần mà các ngài cứ gục đầu không chịu niệm Phật, cho nên Cửu Điện ngài phán tiếp: “Chúng mày thật mê muội, có người đến cứu mình mà mình không chịu cứu mình, nếu gọi đây là Tăng Ni bị hành phạt thì không đúng, mà phải gọi là nam và nữ mượn lớp đạo để phá đạo chớ đâu phải Tăng Ni. Tăng Ni thì giới hạnh thanh tịnh, Tăng Ni thì dắt chúng độ sanh, Tăng Ni thì thương yêu vạn loại, Tăng Ni thì hủy mình vì đạo pháp làm gương cho chúng sanh, Tăng Ni thì về cảnh Niết Bàn, chớ Tăng Ni nào ở nơi địa ngục! Thôi ngài cũng đừng khuyên nữa, chúng đã không sám hối tội lỗi lo niệm Phật thì để chúng nó ở đó mà chịu hành phạt. Trẫm có mấy lời khi về cõi Diêm phù nhắc lại lời Trẫm để chúng sanh thức tỉnh tu hành”. Ngài nói xong tôi bèn kiếu từ để sang ngục thứ mười.
Ngục Thứ Mười.
Vào ngục thứ mười toàn là ngạ quỉ, cái bụng lớn như trống chầu, cái đầu tựa cái nôm, cổ lại nhỏ như cổ tai lợn. Chịu đói chịu khát, lửa dữ thường phát ra cháy thân. Nhưng vì tội keo kiệt, bủn xỉn, tham lam thái hóa, một năm chúng chỉ ăn được ba ngày rằm lớn. Tôi thấy vậy quá khổ sở bèn niệm Phật: Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Tâm thinh cứu khổ cho tất cả chúng sanh nơi địa ngục thứ mười này Quán Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Đại Nguyện Đại Tạng Vương Bồ Tát.
Tôi niệm như vậy không ngừng ngớt chỉ thấy chúng ngóc cổ lên dòm chứ không niệm được, vì khi chúng mở miệng thì lửa từ trong miệng phát ra cháy thân. Một vị Quan nói: “Thấy chúng khổ thì cũng thương nhưng khi chúng ở cõi Diêm phù làm nhiều tội ác, nào cướp của giết người làm đủ thập ác lại còn khi dễ Phật, Pháp, Tăng không tin nhơn quả, thấy người tu hành thì ngạo ố, thấy ai bố thí thì ngạo ố, thấy ai bố thí thì mỉm môi cười lại còn chửi cha mắng mẹ, sát sanh hại vật cũng quá nhiều. Nếu cho chúng trở lại làm người thì hại chúng sanh không sao xiết kể để cho chúng làm ngạ quỷ ở nơi đây cả ngàn năm xong kiếp ngạ quỷ phải đầu thai làm thú cũng không biết bao nhiêu kiếp, mãn kiếp thú được tiến lên làm người ngu độn tối tăm. Chúng sanh mê muội một kiếp làm ác mà ngàn kiếp phải khổ đau”. Tôi thấy không sao cứu chúng được nên tôi ra khỏi ngục thứ 10.
Vào Núi Lửa
Thập Điện phán: “Nay ngài, đến ngục thứ 10 mà oai thần còn đầy đủ bây giờ phải vào núi lửa mới biết đức của người thấp”. Tôi nói: “Bạch ngài! Ở cửa ngục thứ sáu cũng có núi lửa mà không ai bảo tôi vào, sao đến đây đã phá mười ngục mà ngài còn bắt tôi vào núi lửa?” Thập Điện nói: “Núi lửa ở ngục thứ sau là để hành phạt chúng sanh ác quấy. Còn núi lửa này để thức người tu, ngài vào sẽ biết”. Tôi nghĩ: “Thôi vì mình quá ác nên đành cam chịu”. Tôi bèn quỳ xuống mà cầu nguyện: “Nay con xin nguyện cùng mười phương chư Phật chứng minh cho con, nếu như con có bổn phận về cõi Diêm Phù nói chuyện âm phủ cho người nghe mà tu hành thì vào núi lửa này vẫn bình an, còn như con thiếu phước đức thân này có tiêu hoại xin núi lửa cũng tắt theo để sau này không còn chúng sanh nào phải chịu khổ như con nữa”.
Nhìn vào núi lửa thấy cháy hực, cách xa độ trăm thước mà nóng bức vô cùng huống chi vào làm sao toàn vẹn được. Khi sắp vào núi lửa thì chư thần cũng than thở bảo: ” Núi lửa này nhiều người vào đã tiêu tan ra tro mạt”. Tôi bèn hỏi: “Quý ngài dám vào không?”. Thần nói: ” Chỉ có Phật và Bồ Tát vô được mà thôi chứ chúng ta vào cũng tiêu tan hết”. Tôi nghĩ bụng: ” dầu sao mình cũng phải vào”. Tôi bèn chạy bay vô, thế mà lạ thay! Không thấy nóng chi hết, quá mừng tôi đành đi qua, đi lại coi núi lửa bao lớn, khi vòng vào phía trong thì gặp ngay Đức Chuẩn Đế, tôi bèn quỳ xuống làm lễ. Ngài bèn kêu tôi ma nói: “Nhà ngươi vào núi lửa mà thân còn nguyên vẹn là nhờ sáu kiếp tu vừa qua chớ đâu phải công tu hành trong một kiếp này mà được. Nhà ngươi có biết tại sao kiếp này nhà ngươi ngu dốt không? Vì kiếp vừa qua ngươi xuất gia từ 8 tuổi cho đến 42 tuổi trong sạch lại học kinh, luật, luận rất giỏi rồi sanh cống cao giấu Pháp Đại thừa không chịu truyền ra cho ai biết, chỉ để riêng mình biết để người đời sùng bái. Vì vậy kiếp này phải chịu dốt nát u mê đặng đền tội giấu Pháp của Phật. Ta hỏi ngươi, tại sao Nhất Diện, ngươi không lãnh sứ mạng in kinh ấn tống?” Tôi nói: “Bạch Bồ Tát, con không phải sợ mệt nhọc vì không tiền tài làm sao dám lãnh việc lớn được”. Bồ Tát nói: “Không, ta không cần ngươi có tài sản, nếu như ngươi giữ trọn bổn phận không tham của đời, thời ta sẽ cho chư thần ủng hộ, nhà ngươi muốn chi có nấy, miễn vì Phật Pháp ngoài ra không đặng “.
Tôi bèn quỳ bạch: “Bạch Bồ Tát nếu được như vậy thì con nguyện đời đời kiếp kiếp in kinh ấn tống ủng hộ Tăng Ni mãi cho đến khi Đức Phật Di Lạc ra đời con không hề thối chuyển”. Bồ Tát nói: “Lành thay! Ngươi sẽ được như nguyện”. Tôi vừa bước lên thì ngài mất, nhìn lại núi lửa cũng không còn. Khi đó chư thần hết sức mừng rỡ bay đến tán thán không cùng. Trở lại mục ngục thứ mười, vua Thập Điện nói: “Ngài công đức rất lớn đã khám phá mười ngục cứu thoát rất nhiều chúng sanh, nay vì một đại nguyện mà tiêu tan núi lửa. Vậy còn ngục Vô Gián ngài phải khám phá luôn rồi trở lại đây xem Trẫm cho hồn đi đầu thai làm thú”.
Ngục Vô Gián
Vô Gián, ngục này lớn không thể tả, rộng như biển, cao như núi. Trong biển sâu rộng chúng sanh lặn hụp, mấu trào theo nước cuồn cuồn sôi. Vật dưới biển kỳ hình dị tướng, mỏ như sắt, răng như dao, mỏng tựa gươm rượt bắt tội nhơn cào cấu xé thây, chạy lên bị quỷ lùa xuống, kêu gào ơi ơí, thấy mà tán đởm kinh hồn. Tôi ráng niệm Phật nhưng họ không nghe tôi liền kêu lên: “Các thú dưới biển hãy lắng tai nghe tôi nói đây: Vì các ngươi bấy lâu nay tạo tội nên mới làm thú ở nơi đây, các ngươi muốn trả thù cũng chẳng ích gì, chi bằng các ngươi nên yên lặng cho vong linh bình tĩnh nghe tôi niệm Phật sẽ đặng tiến hóa làm người, chớ như vầy tôi thấy khổ sở quá!” Kêu đôi ba lần các con thú nghe lời tôi, nó bỏ lên bờ, vong hồn nào còn bình tĩnh niệm Phật cũng được lên bờ, xem hình như họ ngủ gục. Xong rồi tôi liền qua bên này có một ngục rất lớn tối đen thăm thẳm, chúng sanh trong đó đông thật đông tiếng kêu gào lạc giọng khào khào, ve ve, rần rần vậy, nói chuyện không nghe được. Không biết làm sao tôi bèn cất tiếng niệm:
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát
Địa ngục liền sáng ra, họ thấy tôi. Họ vừa thấy tôi họ ngoắc, tôi ngoắc họ và kêu: “Lại đây! Lại đây!” Khi đó lại lóng nhóng ló đầu ra, tôi liền bảo họ niệm Phật: “Tôi niệm có 4 câu mà địa ngục được sáng, vậy quý vị hãy ráng niệm Phật đi”. Khi họ niệm Phật vang lên thì cửa ngục mở tung.
Tôi lại sang địa ngục phía bên kia, đây cũng là một trong bao nhiêu ngục, ngục này là núi đá nhiều cục. Mỗi cục đá một người nằm, đá lớn người lớn, đá nhỏ người nhỏ, trên thân người có trâu đá, chó đá, ngựa đá cày bừa, cào cấu thấy ghê tởm.
Vì tội lỗi chúng sanh đây không hề hết được nhiều ngục nhiều hình tôi chỉ kể sơ lược thôi. Ở nơi địa ngục tội nhơn bị hành hình muôn lần sống, muôn lần chết không chút ngừng nghỉ gọi là vô gián vì tội ác ngũ nghịch, phải chịu quả báo như vậy.
Hồn Đi Đầu Thai Làm Thú
Bấy giờ tôi cùng chư thần trở về Thập Điện để xem vong đi đầu thai làm thú trả nghiệp. Tôi thấy quá đau lòng, một số người đông lắm đều phải sanh làm thú. Số giết trâu, giết bò, giết ngựa, giết chó, giết dê, giết heo, rắn, gà, vịt… Mỗi số đứng riêng một nhóm có hàng. Khi cho đi đầu thai quỷ sứ dẫn hồn ra sông Ứ nê nơi dòng nước đỏ, đến đó quỷ sứ múc nước đỏ cho vong uống, đương là người mà uống nước rồi hóa thú, kẻ hóa trâu, bò, người hóa ngựa, heo, dê, rắn, gà, vịt… Những vong chưa uống họ sợ quá bịt mắt không dám ngó thật là thảm thiết, quỷ sứ kéo trì, họ vừa khóc vừa uống để phải chịu mọc lông, mọc sừng… Khi hóa thú hết rồi, một số quỷ sứ rất đông cầm một cây như cây cọ chấm vào lưỡi những con vật làm cho nó không biết nói. Quỷ sứ thâu các hồn nhỏ lại để bỏ vào hồ lô đem đi đầu thai. Khi đó tôi làm liều đến trước Thập Điện mà xin tha cho họ. Thập Điện nói: “Vì nghiệp lực của chúng nó quá nặng nề nên phải chịu đầu thai đền mạng. Nhiều đời nhiều kiếp sát hại sanh mạng nhiều không kể xiết, thậm chí cho đến vật không ăn được chúng nó cũng giết rồi bỏ đi. Tội ác tày trời nên chúng nó phải đền mạng không làm sao được, không ai xin hay thay thế được, dẫu cho cha con đi nữa thì cũng tội ai nấy chịu đành như vậy”. Đến đó tôi bèn từ giã Thập Điện để trở về Nhất Điện.
Trở Về Cõi Diêm Phù Đề
Về Nhất Điện tôi đến lễ đức Địa Tạng và đức Quán Âm, Ngài nói: “Ngày nay ngươi khám Địa ngục xong hãy về nói cho người đời nghe lại và phải cố in kinh ấn tống ta hỗ trợ cho. Ngươi có tâm độ người Địa ngục, nhưng chưa bằng độ chúng sanh ở cõi Diêm phù, vì cõi đó chúng sanh còn tạo tội thì Địa ngục không ngày nào cho hết. Hôm nay ta trợ duyên cho ngươi ba chung nước để ngươi định tâm nhớ việc Địa ngục nói cho chúng sanh nghe lo đi tu hành, quy y, giữ giới ăn chay, cữ sát sanh thì không còn sa Địa ngục nữa. Trong kiếp này ngươi vì trả nghiệp nên kinh luật chẳng thông, bởi vậy không được làm thầy ai hết. Sau này ngươi cũng mở đạo, nhưng đạo của ngươi chỉ dụng Pháp “Phá Địa ngục”. Hiện nay nhơn duyên của ngươi phải theo giáo pháp Đại Thừa dùng phương tiện hóa độ chúng sanh và khuyên người chớ lầm mê đốt đồ mã để cầu siêu vô ích. Khuyên người nhớ tụng kinh niệm Phật, cữ sát sanh và in kinh ấn tống mhư vậy rất dễ tiêu nghiệp chướng sớm được giải thoát.
Gặp Thầy Tiền Kiếp
Bồ Tát nói tiếp: “Ngươi có biết Sư trưởng Minh Ngọc không? Sư trưởng Minh Ngọc là thầy của ngươi ở kiếp tu hành thứ ba, nay đang giáo hóa Ni chúng. Vậy ngươi nên tìm đến thọ giáo để hành đạo”. Tôi nói: “Bạch Đức Bồ Tát, con nguyện vâng lời dầu cho khổ sở hay trãi qua muôn ngàn kiếp con cũng không chán nản, con nguyện làm sao cho chúng sanh sớm tỉnh ngộ quay về Phật Pháp là con vui lòng” Bồ Tát nói: “Lời nguyện của ngươi sẽ thành và ngươi sẽ chứng quả”. Tôi bèn lễ Đức Bồ Tát Quán Âm và Bồ Tát Địa Tạng xong rồi đến từ giã Nhất Diện Tần Quảng Vương để trở về cõi thế. Ngài cũng khuyên tôi về ráng độ chúng sanh tu hành theo Phật
Qua Cảnh Long Vương
Tôi cùng chư thần qua cảnh Long Vương để tạ ơn ngài ba phen cho rồng đưa rước, khi vào đến đền Long Vương cung điện nguy nga, cảng trí tốt đẹp xinh tươi muôn vàn rực rở hơn cảnh địa ngục xa lắm. Đức Long Vương từ trên ngai vàng bước xuống đón chào Ngài nói: Hiền tăng nay trở lại cõi Diêm phù xin cũng vì Trẫm mà độ công chúa cn của Trẫm đang bị đọa ở cõi Diêm phù tu hành theo Phập, hiền tăng muốn cần bao nhiêu Long thần hộ trợ Trẫm sẽ giúp cho. Tôi nói: “Bạch ngài việc độ công chúa con của Trẫm đang bị đọa ở cõi Diêm phù tu hành theo Phật, Hiền tăng muốn cần bao nhiêu Long thần hộ trợ Trẫm sẽ giúp cho. Tôi nói: “Bạch ngài việc độ Công chúa tu hành tôi xin lãnh còn việc xin Long thần hộ trợ xin ngài cũng hoan hỉ tôi không dám ước mong”. Kế đó tôi cùng chư thần tạ ơn Long Vương đã ba phen cho rồng đưa rước, và kiếu từ ngài để trở về cõi thế. Đức Long Vương cùng bá quan tiễn đưa ra tận bờ biển rồi ngài cho Thần Rồng đưa chư thần cùng tôi qua biển lạnh. Khi tới ranh giới loài người, sau khi cả tạ Thần Rồng chư thần đưa tôi về nhập xác như kỳ trước, lúc ấy đúng 12 giờ ngày 13 tháng 10 năm Dần.
Thời gian tôi quên sư trưởng Minh Ngọc vì cứ lo nói chuyện Địa ngục cho đến khi có vì Thánh nữ mách bảo trên Quán Âm tu viện không yên và thiếu hụt, nhớ lại lời Bố Tát nói tôi liền tìm thầy tiền kiếp và sư trưởng Minh Ngọc thọ giáo rồi từ đó lo hiệp sức với thầy hoằng dương Phật Pháp.
Tôi cũng khuyên nhiều chị em in kinh ấn tống, nhờ sự gia hộ của Bố Tát nên được nhiều vị hảo tâm đã và đang giúp đỡ tôi làm tròn sứ mạng lớn lao ấy.
Trước khi dứt lời, tôi xin đem phước lành nầy cầu nguyện cho tất cả pháp giới chúng sanh chống quay về bờ giác.
Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Cô Ba Cháo Gà Nói
Thích Nhựt Long lược ký
Lời Khuyên
Lão tử nói: “Ngô hữu đại hoạn do ngô hữu thân, ngược ngô vô thân hà hoạn nhì hữu”. “Ta có hoạn lớn do ta có thân, bằng ta không thân làm gì có hoạn”.
Thật vậy, xét kỹ tội lỗi của thân người mà ghê tởm, thử nghĩ một nghiệp sát sanh mà tội lỗi tày trời như Cô Ba cháo gà, huống các tội khác: Nào là đạo tặc, dâm tà, vọng ngữ si mê còn dường nào. Nay đem một khía cạnh tội ác ra mà luận: Chúng ta có thân này, không biết bao nhiêu mạng chết chỉ nuôi có một mình thân sống này mà thôi, cái bao tử của con người là cái nghĩa địa, trong đó có chôn không biết bao nhiêu xương máu. Một bữa ăn của ta chỉ sát hại một ít sanh mạng, nhưng nhiều bữa ăn thành ngày, nhiều ngày nên tháng, nhiều tháng lên năm, rồi nhiền năm thành đời. Từ vô thỉ đến nay chúng ta sanh lên chết xuống bao nhiêu kiếp, tội sát của mỗi người to như núi, lớn tựa biển, vì vậy cho nên lâu lâu công nghiệp khiến nên giặc giã đao binh sát phạt để thanh toán nợ xương máu cho nhau.
Giặc giã đao binh khổ sở này không có thể đem đổ lỗi cho ai, không phải trời làm, đất tạo không phải ai tất cả, mà chính do chúng ta tạo nghiệp sát đã nhiều đời nhiều kiếp. Hiện nay chúng ta có mặt ở thời chiến tranh này là do nghiệp sát mà có; những người đã chết là họ đã trả nợ máu xương nhiều kiếp nhiều đời. Chúng ta còn sống trong phập phòng sợ hãi, lo âu là cũng vì nợ xương máu nhiêu đời nhiều kiếp, chúng ta còn chút phước lành tạm an lạc rồi cứ xuôi tay theo hai chiều ăn ngủ không lo tu hành thì oan gia không sớm thì muộn nó âm thầm đến.
Không phải chúng ta tạo tội rồi cứ chịu quả báo nhất định, mà theo Phật dạy chúng ta còn có phương pháp cải thiện được không khó.
Nho có câu:
“Thế sự vô nạn sự.
Đô lai tâm bất chuyên.
Tạc sơn thông đại hải.
Phi vu đỗ thanh thiên”.
Nghĩa là:
Ở đời không có việc gì kho.
Đều do tâm không chuyên mà thôi.
Có thể đục núi thông ra biển.
Vén mây mù thấy trời xanh.
Lại có câu: “Nhứt chí động khí, nhơn định thắng thiên”.
Nghĩa là: Quyết chí thì có một năng lực mạnh,
mình định lấy nghiệp mình không phải trời làm.
Chỉ vì chúng ta không làm, cứ xuôi tay theo định nghiệp thì thôi bằng muốn cải thiện cho khỏi tai ương, cũng như quả báo nơi địa ngục thì nên cố gắng tập ăn chay, cử sát sanh, thường ngày tụng kinh, niệm Phật nhờ Phật cầu sanh về tịnh độ chớ có trông chờ. Thân người khó đặng, Phật Pháp khó gặp, sống ngày nay khó bảo đảm ngày mai, thân như cá cạn nước, nào có vui gì mà chẳng lo tu.
Cần yếu nên xuất tiền bố thí, phóng sanh để đền bù tội trước. Vì cái mừng được sống không có mừng nào hơn, ví như có người nào bị bắt oan, sắp bị giết, thế mà nhờ lời nói nào đó được tha bỗng, thử hỏi có mừng nào hơn; loài vật tuy nhỏ nhưng khi được tha, được sống cũng mừng nhự vậy. Kinh gọi là: “Hỷ khí xung thiên”. Cái mừng động lòng trời, đem công đức phóng sanh này cầu gì mà không được.
Vậy quý vị nên làm những việc vừa kể trên nhất là phóng sanh, để cầu siêu cho ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, và cầu hiện tại cho gia đình được tiêu tai nạn, quốc gia được an trị, thế giới sớm hòa bình, nhân dân an lạc.
Cổ Đức có câu:
“Nhất thiết chúng sanh vô sát nghiệp.
Thập phương hà xứ động đao binh.
Gia gia hộ hộ thường tu thiện.
Thiên hạ sầu bất thái bình”.
Nghĩa là:
“Tất cả chúng sanh không nghiệp sát.
Mười phương nào có động đao binh.
Nhà nhà chốn chốn đều tu thiện.
Thiên hạ làm gì chẳng thái bình”.
Mong thay!
Thích Nhựt Long.
Cẩn chí
Du Ký Tiên Long Thiên Cảnh
Cảnh Địa Tiên
Hôm nay tôi xin tiếp tục thuật những cảnh trí thanh tịnh mà tôi đến, tận nơi, mắt thấy, tai nghe một cách tường tận (chỗ nào tôi xin nói rõ là chư thần trục hồn và đưa tôi đi, còn xác tôi thì nằm thiêm thiếp ở nhà như người sắp chết).
Trước khi thuật lại những cảnh thanh tịnh đẹp đẽ này, tôi xin nói rõ lý do mà tôi được đến. Nguyên trước kia tôi là người tội lỗi, nên phải chịu trả nghiệp (xem quyển Địa ngục ký thì rõ), sau khi đã đến tội và nhờ lời đại nguyện, tôi phá xong mười cửa ngục và ngục vô gián. Để khuyến khích tôi tinh tấn trên đường tu hành, và cũng để sau này tôi thuật lại cho đời nghe mà thêm lòng tin vững chắc. Cho nên Nhất điện Tần Quảng Vương phê chiếu chỉ cho tôi được viếng cảnh Địa Tiên, Nhơn Hiền và cảnh Long Vương trước khi về cõi thế.
Sau khi lãnh chiếu chỉ, chư thần đỡ tôi bay bỗng lên mây. Từ cảnh Địa ngục qua cảnh Địa tiên phải vượt qua biển mênh mông chỉ nhìn thấy mây và nước.
Đến nơi chư thần đáp xuống nhìn quang cảnh trí thật là xinh đẹp tưởng như cảnh trời nào vậy. Con người ở đây xinh đẹp và to lớn lạ thường. Khác hẳn người Dương thế nhỏ nhít xấu xa.
Người ở đây (phải gọi là Tiên mới đúng) không già, không chết, không bệnh tật, ốm đâu, sống với thiên nhiên, khỏi phải làm lụng nhọc nhằn vất vã, khỏi bận đến cơm ăn, áo mặc, chỗ ở chi hết. Hàng ngày chỉ lo tu hành, luân lạc nghe thuyết pháp, người tu trước dạy người tu sau, người lớn dạy người nhỏ tiếp tục truyền như vậy. Ngoài ra chỉ ngao du ngoạn cảnh, lượm ngọc, thưởng hoa. Nơi đâycó một kho báu rấy lớn không bút nào tả hết được. Ở giữa ngọc chất cao như núi, nhỏ có, lớn có, đủ màu sắc chiếu lên sáng rực một vòm trời, ngọn núi ngọc này được bao bọc bởi một dãy núi vàng, ngoài là dãy núi bạc bao bọc núi vàng như thành trì kiên cố. Tôi nghĩ bụng: “Ở đây châu ngọc chất thành núi mà chẳng ai dùng, còn ở cõi trần chỉ vì một viên ngọc nhỏ mà làm cho con người sanh tâm ác độc đến chỗ giết hại lẫn nhau thật là mê muội”.
Thấy chúng tôi đằng vân vừa đến, các vị Đại Tiên ở đây ra chào mừng tiếp rước, các ngài tưởng tôi là người ở cõi đã tạo nhiều công đức với đời sau khi mãn số được đắc quả về đây. Lúc ấy chư thần theo tôi đến trình chiếu chỉ của Nhất Điện Tần Quảng Vương, các vị Đại Tiên mới rõ tôi là người đi dạp cảnh và còn trở lại cõi Diêm phù.
Được biết thế các ngài còn tỏ ra ân cần trọng hậu, có vị Đại Tiên phán: “Từ xưa đến nay, nào có ai chết đi mà sống lại, để thuật lại cho chúng sanh biết còn nhiều cõi đẹp đẽ vững chắc muôn đời, vì thế chúng sanh ở cõi Diêm phù sống trong giả cảnh khổ đau mà nào có biết chi chi thật là tội nghiệp. Chúng mê muội quay cuồng trong giả cảnh, và ngoài giả cảnh ấy còn bao nhiêu thật cảnh tốt đẹp đạo đức đời đời. Nơi đây, nơi đây không phải khổ vì sanh, già, bệnh, chết; Không phải khổ vì thiên tai, hỏa hoạn, không phải khổ vì chiến tranh, chết chóc, không phải khổ vì đói rét bức thân. Chứng ấy chúng sanh không bám níu giả cảnh nữa mà đi tìm cảnh thật hạnh phúc này.
Nhưng cũng may thay, nay hiền tăng đã đến đây rồi. Khi trở về cõi thế, tôi xin nhắn nhủ đôi lời với người phàm tục: “Ai cũng có chơn tánh Phật, phải ráng tu hành đặng về cảnh Phật, chớ cảnh Địa Tiên này còn thấp thỏi lắm. Cảnh này cũng còn là tạm, nơi để dìu dắt những bậc hiền nhơn nhưng còn kém phước về đương đạo. Chẳng hạn những người khi còn sống ở cõi thế trọn hiếu, trọn trung, hoặc trọng tiết mà không phạm tội sát sanh hại mạng, không hủy báng Tam Bảo khi chết được về cảnh Địa Tiên, hằng ngày lo học đạo tu thêm lần lần đắc quả về cõi Trời mà lo tu nữa. Như chúng tôi đây hằng ngày khuyên bảo nhau tu hành chớ không dám giải đãi sợ bị đọa trở lại cõi Diêm phù thì khó mà tìm con đường giải thoát. Chúng tôi đây vì biết đạo nên sợ tội lỗi mà tinh tấn tu hành, còn chúng sanh ở cõi Diêm phù bị sắc, tài, danh vọng ám ảnh chẳng khác nào con vật nhỏ bị nhốt trong cái tủ tối om, nào có hay biết gì ngoài cái tủ ấy cả một bầu trời bao la quang đãng. Chúng tôi xin hướng dẫn ngài đi dạo cảnh Đại Tiên khi trở về cõi thế thuật lại và khuyến khích chúng sanh ráng lo tu hành, nếu căn cơ còn kém tu không được thì cố ăn ở sao cho phải đạo làm người đừng sát sanh hại mạng hàng ngày tới lui Tam Bảo học đạo lần lần, khi chết chư thần sẽ đem về cảnh Địa Tiên này mà học đạo tu thêm”.
Nói xong các ngài dẫn chúng tôi đi dạo cảnh. Tôi được biết vị tiên lớn nhất cai quản cõi Địa Tiên mặc áo đỏ râu vàng, chân mày bạc, cởi công. Các vị Tiên bậc trung thì mặc áo hồng hồng, y vàng lợt. Các vị tiên nhỏ thì mặc áo xanh, y trắng và không có râu. Chẳng hạn nam hay nữ ai ở động nào thì vào động đó, nói là động chớ thật ra uy nga như tháp to lớn ở cõi Diêm phù. Nhiều vị tiên ngồi thiền ở dưới những gốc cây to. Mặt đất ở đây như phalê cẩm thạch, trong sạch mát mẻ chớ không giống đất đá ở cõi Diêm phù. Nơi khác nhiều vị tiên đi kinh hành niệm Phật, nhiều chỗ ở các vị tiên tụng kinh như ở cõi Diêm phù.
Ở đây cây cối xum xuê tàn lá rậm rạp, trái đặc cây dùng không hết. Lạ một điều là trái nhiều hơn lá, phía dưới gốc cây không một trái rụng, không một chiếc lá rơi, mặt đất đâu đâu cũng bằng phẳng trong mát. Các vị tiên ở đây chỉ lo tu hành không bận tâm đến miếng ăn vật uống, mỗi tháng chỉ thọ thực 2 lần nhằm ngày 14 và ngày 30. Các vị tiên cho biết mỗi lần thọ thực như vậy no hoài không biết đói mà nghe trong thân khỏe khoắn nhẹ nhàng càng ngày càng lớn càng xinh đẹp, những người mới đắc quả mới về đây còn nhỏ nhít xấu xa nhưng vẫn đẹp hơn người cõi thế.
Các ngài dẫn tôi đi lần ra mé biển, bờ biển toàn là vàng có cục, có khối lăn lốc như đá cuội ở bờ biển cõi đời. Trên bãi biển nào cù, rồng, cua biển, rùa, rắn đủ màu sắc. Nếu chúng sanh ở cõi Diêm phù mà nhìn thấy chắc chết giấc. Một vị rồng bề dài chừng 300 thước, bề ngang độ 6 thước, một con rùa như chiếc xe hơi, con cua biển như xe bò. Dưới nước không biết bao nhiêu là cá đủ màu sắc. Cá có vẫy, cá có lông, cá có 4 mắt, cá có tay, cá có cánh, đó là chỉ nhìn sơ qua chớ không đủ thời giờ mà quan sát cho hết. Còn châu ngọc dưới biển cũng nhiều, chư tiên không có thời giờ để mà lượm, Lúc ấy có một vị tiên đi phăng phăng xuống biển, nước biển rẽ 2 bên thật là lạ, bỗng một luồng bạch quang từ dưới sẹt lên, vị tiên cuối xuống lượm lên một hột châu bèn dâng lên Đại Tiên, ngài dạy đem vào kho núi báu. Tôi thấy vậy bèn hỏi:
Bạch ngài, tại sao nơi đây không xài châu ngọc mà chứa thành núi để làm gì?
Vị tiên trả lời: Ở cõi đời này không xài châu ngọc nhưng Thượng Đế phê chiếu chỉ bảo các vị tiên ở đây phải lượm ngọc để dành, sau này đem về Mỏ thi ở cõi Diêm phù tại làng Kim Sơn mà xây thành núi báu cho chúng sanh ở cõi đó dùng. Từ ngày lãnh chiếu chỉ của Thượng Đế đến nay đã ngót 600 năm, hàng ngày chư tiên phải để ra một ít thời giờ để lượm châu ngọc trong các biển chứa nơi đây ngoài ra còn một ngọn núi báu ở cõi Long Vương nữa. Khi Hiền Tăng đến đó sẽ thấy, vì ngày giờ chưa đến nên chưa đem về xứ Mỏ Thi.
Nghe ngài nói vậy tôi bèn hỏi:
Bạch ngài: Châu ngọc này chừng nào đem về xứ Mỏ Thi, mà Mỏ Thi có phải là Mỹ Tho không ngài?
Vị tiên phán:
Ngày ấy không còn xa nữa, mà cũng chẳng gần, Hiền Tăng ráng tu sẽ thấy và ráng khuyên người đời đừng tham ác thì sau này mới hưởng được.
Kế vị Đại Tiên hướng dẫn tôi đi các nơi khác (nói là đi cho dễ hiểu, chớ thật ra bay như gió, chớ không phải bước từng bước như người cõi thế) nơi nào cũng mát mẽ xinh đẹp, đâu đâu cũng có hoa quả đầy đàng, tháp vàng, tháp ngọc hào quang sáng chói, thật trí phàm không sao nói hết được.
Dạo một đỗi vị Đại Tiên mời tôi cùng chư thần dự yến viên, vị Đại Tiên dẫn chúng tôi đến trung tâm, nơi đây lầu cát nguy nga giữa một vườn hoa rực rỡ, bỗng từ đâu bàn ghế mâm trái đầy dẫy, bình chung bằng châu ngọc để theo hàng, tôi lấy làm kinh ngạc bèn nghĩ bụng: “Người đời làm lụng vất vả mới tạo tác được thứ vật kia vật nọ, thế mà muôn vật có chi bền, rốt cuộc rồi cũng đều hư hoại, thân người rồi cũng già chết nào ai sống được trăm năm. Sao bằng nơi tiên cảnh ngày tháng tiêu dao vui thú trong cảnh nước non trăng gió, cảnh đẹp người xinh, không cần nhọc nhằn tạo tác mà muốn vật sẵn dùng, không già, không chết, sống mãi muôn đời thật là sung sướng biết bao”. Vừa nghĩ thế nghe vị Đại Tiên mời tôi vào bàn dự tiệc, lúc ấy vị thần đi gần tôi bảo:
Mặc dầu vị Đại Tiên có lòng hậu đãi Hiền Tăng, nhưng Hiền Tăng đừng thọ thực vật này, vì Hiền Tăng còn trở lại cõi Diêm phù, nếu dùng của này khi Hiền Tăng trở về nhập xác no hoài không đói thì xác thân sẽ tiều tụy ốm đau làm sao tu hành được.
Lúc ấy vị Đại Tiên tiếp đãi rất trọng hậu, ngài mời mọc tôi đôi ba lần thấy nhiều trái lạ đủ màu sắc, mùi thơm ngào ngạt nhưng chỉ lấy mắt mà nhìn.
Thật ra tôi cũng muốn ăn thử một miếng cho biết, nhưng vì chư thần đã nói trước nên chẳng dám ăn. Trong lúc các vị tiên cùng chư thần vui vầy yến tiệc có một vị tiên tươi cười nói:
Tuy cảnh Địa Tiên này so với cõi Trời còn kém lắm, nhưng lấy cảnh Diêm phù mà sánh thì trăm phần không được một. Nơi cõi Diêm phù dù cho kinh thành hoa lệ tốt đẹp đến đâu cũng là giả tạo do đất đá cấu kết tạo thành. Còn nơi đây lầu cát toàn là châu ngọc, vì theo công đức tu hành cao thấp của các vị Tiên mà có lớn nhỏ xinh liïch khác nhau, cũng khỏi nhọc công xây cất, chỉ do tâm biến hóa tạo thành. Tiểu Tiên này trước kia cũng là người ở cõi Diêm phù, khi làm người, khi làm thú, khi tạo ác phải đọa vào Địa ngục đau khổ biết bao, đến khi đắc được quả tiên này nghỉ ra không biết trăm muôn ngàn kiếp phải chịu sanh tử luân hồi, sự khổ sở không bút mực nào tả hết. May nhờ được gặp minh sư dạy bảo tu hành, nhưng vì tu muộn phước ít nên chỉ đắc được quả tiên. Nay hồi tâm nghĩ lại bắt rùng mình rợn óc sợ cõi trần hơn nước sôi lửa đỏ.
Chúng sanh ở cõi Diêm phù sống say, chết ngủ, khi sống say mê danh lợi nào có lo học đạo tu tâm, khi chết thần thức mê mờ như người mê ngủ nào có biết chi chi, đành để cho nghiệp lực kéo lôi vào đường sanh tử. Chẳng khác nào như trẻ con theo mẹ nào có biết đi đâu và đến nơi nào thật là tội nghiệp. Khi Hiền tăng trở lại cõi Diêm phù, khuyên người đời ráng tu, dẩu chưa đủ phước duyên xuất gia đầu Phật vì còn phải làm việc để trả nợ đời phải tập tánh hiền lành, ăn ngay ở thật, hàng ngày tập ăn chay niệm Phật, khi chết cũng được về cảnh Địa Tiên này. Lúc ấy mới biết có trời, có Phật, có Thánh, có Thần, lúc ấy mắt, tai đều sáng mà nghe pháp tu hành. Chớ như chúng sanh ở cõi diêm phù có mắt như đui, có tai như điếc có thấy biết điều chi, Thánh Thần trước mắt nào có thấy, Pháp bảo vang dộinhư song gầm mà nào có nghe, chẳng qua vì bị trần cảnh nhận chìm, hố sâu danh lợi chôn lấp, tình luyến ái trói buộc khó lòng thoát khỏi. Ôi thôi! Sự mê mờ đau khổ của cuộc đời nói sao cho hết!.
Nghe ngài nói thế tôi ngậm ngùi chua xót cho đời và cũng cho chính mình. Sau khi yến tiệc mãn, tôi cùng chư thần kiếu các ngài để còn qua cảnh khác. đây là sơ lược cảnh Địa Tiên.
Cảnh Nhơn Hiền
Sau khi từ giã các vị Đại Tiên, chư thần dìu tôi đằng vân lên mây bay qua cảnh Nhơn Hiền. Cảnh này vẽ đẹp thua cảnh Địa Tiên, nhưng lâu đài nguy nga sang trọng mường tượng như kinh thành to lớn, nhưng các lâu đài này rời rạc uy nghiêm chớ không khít sát như thành phố cõi Diêm phù, người ở đây như bậc giàu sang ở cõi Diêm phù muốn chi có nấy, chỉ muốn là được chớ khỏi nhọc nhằn vất vả làm lụng chi cả. Người ở đây cũng không còn nạn khổ về sanh, già, bệnh, chết, hễ tu hành tinh tấn thì về cái cõi trời, còn ham vui giã đãi không chĩu tu hành thì trở lại cõi Diêm phù, nhập xác đầu thai làm người.
Tôi được chư thần cho biết, nếu người ở thế gian chỉ biết làm hiền, không hại đời, không phái đạo, sống theo nhơn đạo, hoặc tạo được chút phước mọn chi đó. Khi chết được chư thần rước về cảnh Nhơn Hiền tu thêm. Ở đây hàng ngày chỉ lo tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền lần hồi mới được về cõi trời. Hoặc giã khi chết có con cháu biết đạo, đem tiền bố thí, cúng chùa in kinh, tạt tượng hay mau vật phóng sanh mà hồi hương cho vong linh thì cũng được đắc quả về vời cõi trời hưởng phước.
Dẫu về được cõi Trời cũng phải tu thêm nhiều năm, nhiều kiếp (Kiếp ở đây là nói theo cõi đời, chớ các cõi khác không có sanh và tử) mới được về Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di đà. Còn nếu về trời ham vui không chịu tu hành đến ngày hết phước cũng bị đọa xuống trần gian chịu khổ nữa.
Người ở cõi Nhơn hiền đẹp và cao lớn hơn người ở cõi Diêm phù, một tháng thọ thực hai lần như cõi Địa Tiên. Hằng ngày không phải nhọc nhằn làm lụng chi tiết. Tất cả cảnh trí, cỏ cây, lầu đài đều do công đức tu hành biến hóa thành. Nơi đây khác hẳn với chúng sanh ở cõi Diêm Phù, nhọc nhằn xây dựng mà cũng không bền.
Đi dạo một vòng gặp các chư thần ở đây ra tiếp đón và hướng dẫn tôi đi dạo cảnh. Đi một lúc đến một tháp báu tôi thấy có một người nữ ngồi tụng kinh, lắng tai nghe biết là kinh Địa Tạng nhưng chẳng thấy quyển kinh. Tôi bèn hỏi: “Ở đây cũng tụng kinh nữa sao?” Người nữ đáp: “Thưa ngài, nơi đây rất cần tụng kinh để thâm nhập giáo lý của Đức Phật và để cầu siêu cho cửu huyền thất tổ. Vì ông nội tôi chết còn bị đọa nơi Địa ngục nên tôi phải tụng kinh Địa Tạng mà cầu siêu cho ông tôi.
Người dứt lời tôi xin kiếu từ để đi nơi khác. Lúc ấy nhằm giờ thọ trì kinh pháp và đi kinh hành nên không nói chuyện nhiều với ai được.
Nào tháp, nào chùa nguy nga đồ sộ, chư thần đưa tôi vào một ngôi chùa to lớn vô cùng và cho tôi biết chùa nầy có đến sáu trăm cây cột. Người trong chùa hành đủ pháp môn của Phật, ai hạp với pháp nào thì đến đó mà hành đạo, tùy theo căn cơ mỗi người, có lớp đang học có lớp đang hành, đó là sơ lược cảnh nhơn hiền
Cảnh Long Vương
Khi từ giả cõi Nhơn hiền chư thần cũng dìu tôi đằng vân qua cảnh Long Vương và được các ngài cho biết về nhiệm vụ của Đức Long Vương đối với chúng sanh ở cõi Diêm Phù.
Đức LongVương là một vị Thánh Đế, ngài là chúa tể các vị Long Vương khác ở khắp biển và sông hồ. Ngài có tất cả 17 Hoàng Tử đều làm vua Long Vương ở khắp nơi trong quả địa cầu và 5 vị Công Chúa thường gọi là Ngũ Long Công Chúa. Hiện nay, Đức Long Vương đang hướng về Phật Pháp tu hành nhường sự cai quản lại cho các Hoàng Tử.
Cảnh Long Vương có một cái hang gió, một hang nước, một hang không khí (nói là hang vì nó giống như cái hang chớ thật ra mỗi cái hang to lớn lắm, và mỗi cái lại ăn thông vào một ngọn núi khổng lồ cao ngút tận mây, bên trong là máy nhiệm màu của Trời đất). Hang gió chuyển biến bốn mùa, vì có bốn cửa xoay chuyển tuần hoàn: Xuân, Hạ, Thu, Đông cho hợp thời tiết. Hang nước luân chuyển nguồn nước biển cả cho được điều hòa. Hang không khí đổi thay khí trời cho chúng sanh mới sống được. Hiện nay con người chết yểu vì không khí nhiễm nhiều khí độc làm biến hoại phần nào không khí thiên nhiên đó là ba hang cần yếu cho con người, thú vật và cây cỏ. Cảnh Long Vương chư thần đông vô số, nào thần rồng, thần rắn, thần rùa, các chư thần này có bổn phận biến chuyển nước và không khí. Còn riêng Đại thần tức thần Long Vương lo hộ trì Phật Pháp các nơi như: Chùa, tháp, những nơi có xá lợi, có tượng Phật, có kinh pháp và hộ trì các vị đại đức tăng ni tu hành chánh pháp, nghiêm trì giới luật. Các Long thần cũng hộ trì cư sĩ giữ tròn năm giới. Người đời gọi là ông tiên hay Long thần chớ thật là Đại thần Long Vương.
Cảnh Long Vương to tát hơn cảnh Địa Tiên, nhưng vì các hang gió, hang nước, hang không khí choáng mất đi nhiều.
Tôi cùng chư thần vào yết kiến Đức Long Vương ngài vô cùng mừng rỡ bèn cho sứ giả thỉnh Hoàng Hậu đến để hướng dẫn tôi dạo cảnh.
Cảnh Long Vương vô cùng xinh đẹp chẳng thua gì cảnh Địa Tiên, trăm hoa đua nở đủ màu sắc, rồng chầu, hổ phục khắp nơi. Hoàng hậu dẫn tôi đi ngay vào cung điện của các vị Công chúa. Một vị Công chúa hiện bị đọa ở cõi Diêm phù còn 4 vị nữa điều đi tu. Cung điện rất to lớn nguy nga, châu ngọc sáng lòe, nào quạt ngọc, chiếu ngà, bình báu đủ loại, cung nữ hằng ngày vẫn còn lo săn sóc cung điện. Bốn vị đi tu nhưng thỉnh thoảng còn trở về thăm cung điện, còn riêng vị bị đọa ở cõi Diêm phù thì bịt đường không còn lui tới. Vì Đức Long Vương sợ con ngài đắm đuối cõi trần không chịu tu hành làm sao trở về ngôi cũ thì ngài sẽ hổ thẹn với trăm quan cùng mười vua thập điện. Bởi cớ ấy nên Hoàng Hậu hết sức thiết tha yêu cầu tôi cố gắng độ cho Công chúa tu hành.
Hoàng Hậu cùng tôi ra khỏi cung điện, đến bãi Rồng, Rồng lớn có, nhỏ có đủ màu sắc rất oai nghi. Nhìn một lúc bắt rùng mình, sợ quá tôi bạch cùng Hoàng Hậu xin đi nơi khác. Dọc theo bãi cát không biết bao nhiêu là rùa, con nào con nấy bằng chiếc xe hơi, nào là kỳ đà, cua biển cỡ chiếc xe bò. Hoàng Hậu dẫn tôi đến một cái hồ rộng lớn chung quanh cây cối um tùm. Dưới hồ nhiều loại cá đủ màu, Hoàng Hậu cất tiếng bảo: “Các ngươi lội cho Hiền Tăng xem”. Tự nhiên thấy cá gom lại màu nào theo màu nấy, mỗi màu thành một đoàn, đoàn này nối tiếp đoàn kia có hàng lối chỉnh tề trông rất đep mắt, như đoàn quân diễn hành tong ngày đại lễ. Mặt nước đang phẳng lặng bỗng dợn sóng ào ào. Khi chúng đua giáp vòng trở lại, chúng vọt mình lên khỏi mặt nước như reo vui chào đón.
Hoàng Hậu bảo:
Các ngươi tiếp tục diễn đi.
Tiếng Hoàng Hậu vừa dứt, thấy chúng lội đứng kết nhau thành vòng tròn, mỗi vòng một màu riêng biệt, kế những vòng tròn chuyển động, vòng sắc này lẫn lộn với vòng sắc khác như một đóa hoa khổng lồ trăm màu lẫn lộn. Thấy vậy tôi hết lời khen và nói: “Bạch Hoàng Hậu! Còn kiểu nào nữa bảo chúng làm luôn cho vui mắt”. Ngài bảo: “Các ngươi quạt nước cho êm”. Bầy cá liền nằm nghiêng trên mặt nước, con này nối đuôi con kia có dọc có hàng ngay ngắn như vải lụa đủ màu dài vô tận. Xem hoài không biết chán, thật công phu tập luyện rất nhiều, nay nhắc lại mà lòng còn vui thích. Kế Hoàng Hậu cho chúng nghỉ, chúng bèn lội lộn lại đủ màu, Hoàng Hậu phán:
Số cá này bắt ở biển đem về đây hàng ngày chư thần đến huấn luyện tập tành chúng, rồi tụng kinh chú nguyện cho chúng nó, dạy chúng nó lần đầu trong thời gian ba trăm sáu chục năm, lúc ấy cho chúng nó uống nước cam lồ rồi đọc chú thì chúng hóa thân người. Khi đã được thành người đem giáo pháp của Phật mà dạy chúng tu hành, đồng thời dạy về pháp hộ trì, đằng vân giá vỏ, khi chúng thông thuộc rồi mới cho đi độ đời đặng đắp bồi công đức. Lớp nào giỏi thì cho đi hộ trì Phật Pháp, số nào kém thì chuyển qua thần cây, thần nông, thần gió, thần nước, thần lửa…
Hễ lớp này tiến hóa lên thì bắt lớp cá khác vào hồ mà dạy nữa. Vì thế từ xưa đến nay cõi Long Vương này đào tạo không biết bao nhiêu Thần để đọ chúng sanh ở cõi Diêm Phù. Một số thần có bổn phận ghi chép điều ác, số khác ghi thiện. Một số hộ trì những vị tu hành và quan sát việc hành đạo của từng người như hàng ngày tụng kinh? Được bao nhiêu? Tu giờ nào? Nghỉ giờ nào? Niệm Phật lúc nào? Được bao nhiêu? Có nghiêm trì với luật hay không? Giữ tròn được giới đạo? Phạm giới nào rồi ghi vào sổ hàng tháng về tâu Thượng Đế. Chư thần ở cõi Diêm Phù tính ra còn đông hơn chúng sanh ở cõi ấy, nếu vị nào tu hành tinh tấn, tham thiền nhật định thì mắt thấy chư thần rõ ràng, như thấy vật ban ngày. Sở dĩ chúng sanh không nhìn thấy được chư thần vì bị sắc, tài, danh lợi làm mê mờ chơn tánh.
Hoàng Hậu phán xong tôi liền từ giã đoàn cá và khuyên chúng tu hành, bỗng chúng ngóc đầu lên khỏi mặt nước và đồng thanh niệm: ” Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát” ba lần, làm tôi giật mình không ngờ lòai cá mà nói được, thật là lạ lùng! Làm Hòang Hậu cười xòa. Tôi thấy chúng khôn ngoan như vậy bèn dừng lại chú nguyện và Quy Y Phật, Pháp, Tăng cho chúng, trong lúc tôi quy cho chúng thấy chúng nghiêng đầu niệm Phật làm tôi cảm động vô cùng. Hoàng Hậu dẫn tôi đến một ngọn núi sáng rực hào quang tua tủa, tôi bèn hỏi:
Bạch Hoàng Hậu đó là núi chi vậy?
Hoàng Hậu đáp:
Không phải là núi mà chính là kho châu vật.
Vì vua Long Vương được chiếu chỉ của Thượng Đế phải cho thần quan sát lượm châu ngọc trong bể cá về chứa tại đây chớ lịnh Thượng Đế đem về bỏ đất Mõ thì ở cõi Diêm Phù, nay đã hơn sáu trăm năm rồi mà chưa được lịnh nên chư thần cứ tiếp tục lượm hoài. Nhưng kho này nhỏ hơn kho báu ở cõi Địa Tiên, chắc Hiền tăng đã được thấy. Kế Hoàng Hậu phán tiếp: “Khi Hiền Tăng trở lại cõi Diêm Phù khuyên chúng sanh ráng lo tu hành trong thời gian chẳng bao lâu nữa thì được hưởng của này. Bây giờ đừng tham ác làm chi mà gây tội lỗi sa vào Địa Ngục ngàn năm”.
Tôi bèn hỏi:
- Bạch ngài chừng nào chúng sanh ở cõi Diêm Phù mới được hưởng của này?
Ngài bảo:
- Cơ Trời chẳng khá nói nhiều, đến năm Quý dậu thì thành công.
Nghe vậy tôi không hỏi nữa, Ngài bèn dẫn tôi đi chung quanh kho báu, tôi thấy nào là sư tử, cọp, rắn, kỳ đà, sấu và nhiều loại thú khác nữa to lớn có sừng, có nanh trôn rất ghê sợ mà tôi không biết tên chi. Con nào con nấy quá lớn làm tôi rùng mình rởn óc, nhưng nhìn lại thấy chúng hiền lành tôi cũng vững tâm. Mỗi khi Hoàng Hậu và tôi đi ngang qua con nào thì chúng đứng lên hai chân trước chắp lại, đầu gục gặc như xá chào, miệng niệm:
Mô Phật, mô Phật!
Tôi lấy làm lạ mà hỏi:
Nơi đây là cảnh thanh tịnh sao có thú quá nhiều?
Ngài đáp:
Đó cũng là sự tiến hóa lần lần, lớp này tiến lên làm người thì lớp khác tiến lên làm thú luôn luôn tiếp nối như vậy.
Tôi thấy lớp thú này khôn ngoan nên cũng dừng chân chú nguyện và quy y Phật Pháp Tăng cho chúng nó và khuyên chúng tinh tấn tu hành đặng sau này tiến lên làm người mà tu nữa.
Đến đó Hoàng Hậu đưa tôi về đến rồng vua Long Vương. Đức Long Vương từ trên ngai vàng bước xuống niềm nở đón chào, kế ngài phán cho trăm quan ra khỏi đền rồng truyền lệnh cho bốn vị Long thần đảo vô cho tôi xem.
Được lệnh bốn vị Long thần hiện hình rồng to lớn vọt thẳng lên mây múa lộn xem thật là đẹp mắt. Ban đầu còn thấy mình rồng rõ ràng lần lần không còn thấy nữa mà chỉ thấy như một cuộn mây lớn chuyển vận lộn nhào tới lui. Lúc ấy giông gió ào ào sóng biển trào lên có cuộn trong thật kinh thiên động địa. Các vị khác đứng xem vững vàng còn riêng tôi như muốn quay cuồng theo gió bèn hạ xuống bàn cẩm thạch mà ngồi nhưng lòng còn hãi hùng khiếp sợ không dám nhìn nữa. Thấy tôi như vậy đức Long Vương bèn truyền lệnh cho Lonh Thần ngưng đão võ. Ngài cùng Hoàng Hậu và trăm quan đưa tôi ra tận mé biển để trở lại cõi Diêm phù. Đây là sơ lược cảnh Long Vương.
Cõi Tứ Thiên Vương
Trong lúc khám phá mười ngục cùng ngục Vô gián, và trong lúc viếng cảnh Địa Tiên, Nhơn hiền cùng cảnh Long Vương, tôi cũng có chú ý tìm mẹ tôi nhưng không gặp, tôi bèn đến Nhất điện Tần Quảng Vương mà bạch:
- Bạch ngài! Tôi có người mẹ tên là Lê Thị Thêm chết ngày 18 tháng 10 năm Tý, đến nay cũng gần mãn tang, tôi cố ý kiếm tìm nhưng không gặp, xin ngài từ bi chỉ dạy cho tôi biết mẹ tôi hiện nay ở đâu?
Nhất điện Tần Quảng Vương phán:
- Cũng nhờ Hiền tăng có lòng chí hiếu, thọ trì kinh Địa Tạng hồi hướng cầu nguyện cho mẹ, nên thân mẫu của Hiền Tăng được về cõi Trời Tứ Thiên Vương hưởng phước mà cữu huyền thái tổ cũng được siêu sanh.
Nghe vậy tôi bèn quỳ xuống bạch:
- Bạch ngài! Tôi có thể về cõi trời Tứ Thiên Vương để tìm mẹ cho thỏa lòng ao ước được không?
Ngài phán:
- Quý thay! Nếu Hiền Tăng muốn đi tìm mẹ thì phải chí tâm cầu nguyện, chừng nào ơn trên ứng chứng mới được đi.
Được Nhất điện Tần Quảng Vương dạy bảo, tôi từ giả ngài để trở về cõi Diêm phù.
Chư thần đưa tôi về đến ngôi gia thì tôi nhập xác, hàng ngày tôi chí tâm cầu nguyện được về cõi Trời Tứ Thiên Vương tìm mẹ. Tôi nguyện như vậy trong thời gian ba tháng. Đến ngày 9 tháng giêng năm Mẹo. Thượng Đế Tứ Thiên Vương phê chiếu chỉ cho chư thần xuống trục hồi tôi ra khỏi xác rồi dẫn hồn tôi về thăm mẹ.
Chư thần dìu tôi bay lên mây đi được một lúc lâu nhìn xuống thấy núi non trùng điệp, đi một lúc nữa chỉ thấy mây đủ màu sắc rất đẹp mà không thấy chi nữa. Nhìn mặt trời thấy to lớn quá, các ngôi sao cũng thật lớn. Tôi định bụng chắc tại nơi đây gần mặt trời và các vì sao hơn cõi thế nên mình thấy lớn. đi một lúc lâu gặp một số Thánh thần đang đứng trên mây, các chư thần dẫn tôi đến trình chiếu chỉ. Các vị này cho đi qua và lấy làm hoan hỉ lắm.
Tôi được các vị thần cho biết đó là cửa Trời, nhưng tôi nhìn lại không thấy cửa nẽo thành trì chi hết mà chỉ thấy khoảng không mây phủ lớp lớp. Đi một lúc nữa thấy cảnh trí trang nghêm xinh đẹp hiện ra thật vô cùng rực rỡ, cây cối ngay hàng, lâu đài uy nghiêm lố nhố. Chứ thần cùng tôi hạ xuống lại trình chiếu chỉ lại một lần nữa rồi bay thẳng đến đền Rồng của Tứ Thiên Vương. Một đền Rồng to tát hiện ra, chung quanh đền đài lớp lớp đồ sộ uy nghiêm đẹp đẽ vô cùng, ánh sang đủ màu trong các đền đài tua tủa chiếu ra như ánh đèn ban đêm nơi đô thị. Nhưng ánh sang ở đây mát mẽ và suốt thấu tận các tầng mây. Mùi hương lạ ngạt ngào làm tâm hồn tôi nửa say nửa tỉnh, tiếng nhạc trời du dương trằm bổng văng vẳng từ xa vọng lại, thật cảnh thiên đường vui đẹp không cùng. Trước đền rồng có rồng chầu, hổ phục, long, lân, qui, phụng đứng có hàng. Những con vật này vừa to vừa đẹp nhiều màu sắc khác lạ cõi đời, chúng thỉnh thoảng rùng mình uốn khúc, con rờ râu mép, con vẫy đuôi múa, xem vẽ ung dung nhàn hạ lắm.
Khi tôi cùng chư thần vào, chúng đồng đứng dậy đón chào. Bước vào trong tôi thấy đền rồng cao vòi vọi rộng lớn vô cùng, xây cất bằng châu báu. Người ở đây sao to lớn quá, thân tôi sánh với người cõi Trời chẳng khác nào con cóc sánh với người ở thế gian, thấy mình bé nhỏ lòng hơi khiếp sợ. Được chư thần cho biết vị Trời chánh đế cao hai mươi bốn thước, mặt y đỏ, mão đỏ, hia đỏ: Vị Trời thường cao mười hai thước, mặt áo trắng, mão trắng, hia trắng. Vị đại Tiên cao mười sáu thước. Người Tiên đẹp hơn người Trời nhưng dưới quyền Trời chánh đế. Còn các vị tiên nhỏ màu sắc đủ lọai, tùy theo cấp bậc về công đức tu hành (Tuy cao nhưng đồng thanh đồng thủ).
Thẳng vào chánh điện xa xa, một vị to lớn mặc đồ đỏ đang ngự giữa, tôi biết ngay là Trời Tứ Thiên Vương bèn cùng chư thần tiến vào bái yết tung hô (tôi đã được chư thần dạy trước). Yết kiến xong Tứ Thiên Vương phán cho ngồi, tiếng ngài sang sảng như tiếng chuông đồng, kế ngài phán:
Hiền Tăng tuy người trọng tội, nhờ lời đại nguyện phá xong mười ngục cứu độ chúng sanh cũng nhiều, đức kia rất lớn. Nay vì lòng hiếu thảo cầu xin về trời gặp mẹ trẩm cũng rộng hồng ân. Hơn nữa, trẫm cũng muốn cho Hiền tăng về trời cho biết, sau nói lại cho chúng sanh nghe đặng chúng biết có Trời, có Phật, có Thánh, có Thần, để chúng sanh khỏi lầm tưởng ngoài cõi đời không còn ai nữa rồi mặc tình làm ác mà phải sa vào địa ngục.
Nay trẫm phán đôi lời cho Hiền Tăng rõ: Chúng sanh ở cõi Diêm Phù lòng tham ác dẫy đầy, nghiệp sát sanh quá nặng, cho nên chiến tranh khói lửa không ngừng. Đã thế còn loạn dâm, hủy đạo, ngổ nghịch, bất hiếu, bất trung, mở miệng ra là cống cao ngạo mạn, chửi Trời mắng đất, khi dễ Thánh Thấn. Hàng tháng chư thần về tâu tội lỗi của chúng sanh tràn ngập, còn người thiện về cõi khác rồi cho thần lôi thần hỏa tiêu hủy thế gian đặng lập lại đời thượng cổ cho người hiền chung hưởng. Nhưng đức Quán Âm vì lòng từ bi đã bao lần ngăn cản để ngài tìm cách cứu độ chúng sanh, nếu làm như vậy thì chúng sanh chết khổ tội nghiệp.
Cũng may, hiện nay nhiều vị Bồ tát ở cõi Trời Đâu suất vì lòng độ tha nên đã giáng trần độ thế rất nhiều. Nhờ các vị Bồ Tát giảng thuyết Kinh pháp nên chúng sanh biết đường tu tỉnh, ăn chay, niệm Phật, thọ trì Kinh pháp. Trẫm phán cho Hiền Tăng rõ: “Người nào giữ trọn tam quy ngũ giới, khi chết trẫm cho kim đồng ngọc nữ rước về cõi trời Tứ Thiên Vương này hưởng phước tu thêm. Còn từ năm giới tới mười giới thì được về các cõi Trời trên, hoặc về cõi Trời Đâu suất gặp Đức Phật Di Lặc giáo hóa tu thêm. Riêng những vị Tăng Ni Đại Đức khi bổn nguyện đã viên mãn thì về ngay cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Còn những người vào hàng Phật Tử mà phá đạo, hại đời hoặc đã xuất gia thọ giới mà phá giới, phạm trai hoặc loạn dâm, đắm sắc khi chết bị đọa vào địa ngục không biết bao nhiêu năm để đền tội.
Còn những vị mặc dầu ở tại gia nhưng một lòng vì đạo, kiến thiết chùa chiền, in kinh ấn tống, ủng hộ tăng ni tu học, đó là hàng Bồ Tát tại gia. Phước báo này đến chổ vô lậu, cứ tô bồi công đức như vậy lần lần đến quả vị Niết Bàn. Vì ủng hộ tăng ni tức bảo tồn tăng bảo thường trụ. Thay mặt đức Như Lai giáo hóa chúng sanh. In kinh ấn tống là bảo tồn pháp bảo thường trụ ở thế gian để chúng sanh nương theo kinh pháp mà tu hành. Tuy nhiên, những vị tu bồi công đức trên phải luôn luôn khiêm nhường, đừng sanh tâm cống cao ngạo mạng mà tiêu mòn phước báu đi rất uổng.
Tất cả các Đức Phật đều muốn cho chúng sanh về đất Phật, tất cả các cõi trời đều muốn cho chúng sanh đặng về trời. Thế mà chúng sanh cứ mà làm ác, lao đầu vào địa ngục, thật là mê muội. Tuy biết rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tánh Phật ấy như hột giống vậy. Hột giống này phải được trồng trong đất đạo đức, hàng ngày phải được vun tước bằng pháp của Phật thì hột mới nẩy mầm lên cây, đơm bông kết trái Phật, tức thành Phật. Chớ như mê muội đem hột giống bỏ vào sình lầy tham ác, bỏ vào lửa đỏ bạo tàn, ngang ngược thì mọng thúi, hoặc ra tro, cuối cùng thành súc sanh ngạ quỷ chịu thống khổ nuôn đời. Trẫm phán bấy nhiêu lời Hiền Tăng cố nhớ về nói lại cho chúng sanh nghe”.
Phán xong Ngài cho hai vị Tiên nữ gọi mẹ tôi đến, sau khi bái yết tung hô xong mẹ của tôi được tự tiện hàn huyên.
Tôi không nhìn được mẹ tôi vì bà cao lớn và xinh đẹp quá, nhưng nhờ tiếng nói không đổi nên tôi nhận ra. Còn mẹ tôi vừa thấy tôi bà mừng quá chạy lại ôm tôi bà nói: “Ủa Nhi, (vì tôi tên Nhi) con cũng được về trời nữa sao, vậy thì tâu tới tứ Thiên Vương cho mẹ con mình ở chung một chỗ để cùng tu hành. Nhi ạ! ở cõi trời vui lắm, các vị Bồ Tát ở cõi trời Đâu suất thường xuống đây thuyết pháp, hào quang các ngài sáng ánh tua tủa, ban đầu mẹ tưởng là Phật, mẹ mừng quá, mẹ lạy hoài không thôi, sau nhờ các vị Tiên nói mẹ mới biết là Bồ Tát. Mẹ nhờ con biết tu hành cầu siêu cho mẹ mới được về trời, thật con có hiếu với mẹ quá, bằng không mẹ còn khổ nữa biết ngày nào được ở đây.
Mẹ ở tận núi Hoa, chổ mẹ ở đẹp hơn đây nhiều lắm, một ngày ở đây dài lắm mẹ nghe các vị Tiên cho biết bằn gmột năm ở cõi thế. Lúc mẹ chết thằng Thinh (vì em tôi tên Thinh) làm một con bò va một con heo để làm đám ma, nếu không có con cầu siêu cho chúng nó hóa thân làm người thì mẹ phải đầu thai một kiếp làm bò và một kiếp làm heo để đền mạng. Ôi! Khổ biết bao nhiêu, thằng Thinh ngu quá nó tưởng làm như vậy là báo hiếu cho mẹ, nào ngờ nó làm hại mẹ phải làm súc sanh thật là đâu đớn. Nhưng việc đã qua rồi không nhắc lại làm chi, con hãy tâu với Tứ Thiên Vương xin về ở chung với mẹ đi, ở đây tu hành vui lắm, khỏi phải làm lụng gì hết.
Mẹ con mình ráng tu rồi sẽ được trở về cõi Trời đầu suất, mẹ nghe các vị Tiên nói ở Trời Đâu suất có Phật Di Lạc, nhờ ngài giáo hóa mình tu thêm sau một thời gian lâu mới về được cõi cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Nè! Con thấy mẹ không, lúc này mẹ đẹp lắm phải không! Hồi mẹ mới về trời cũng giống như con ngày nay thật là nhỏ nhoi xấu xí quá chừng, thôi con đừng buồn, ở đây ít lâu rồi cũng lớn đẹp như mẹ vậy. Con ạ! Ở đây cúng dường lạ lắm, hễ tâm mình muống cúng dường vị Bồ Tát đang thuyết pháp loại hoa nào tự nhiên loại hoa ấy từ trên hư không đổ xuống tua tủa như mưa thật là vui. Mới về cõi Trời mẹ tâm tưởng để cúng dường như vậy chưa được, phải tu một thời gian sau mẹ mới cúng dường bằng cách tâm tưởng sang hoa.
Cõi Trời vui lắm, để rồi con thấy mẹ không nói sai đâu. Lúc mẹ còn sống thường mở máy thâu thanh để nghe và thích nhất tuồng hát bội, nhưng ở đây các vị Tiên nữ múa hát hay gấp bội lần, còn trên hư không nhạc trời tự nhiên trỗi thật hay mẹ nóikhông hết được. Thôi con đến xin cùng tứ Thiên Vương cho mẹ con mình ở chung rồi con sẽ thấy lời mẹ nói thật, còn nữa, còn nhiều chuyện lạ nữa, đến xin đi con”. Bà nói huyên thuyên không ngừng nghỉ, vì lòng phàm còn nặng nên khi thấy mẹ tôi vui mừng kể lễ làm tôi mủi lòng nước mắt dầm dề.
Chư thần bèn cho mẹ tôi biết là tôi chưa chết vì lòng hiếu thảo muốn tìm mẹ mà thôi.
Vừa lúc ấy Tứ Thiên Vương phê chiếu chỉ cho phép tôi được dạo cảnh trời, tôi cùng chư thần yết kiến Tứ Thiên Vương rồi ra khỏi đền Rồng để dạo cảnh. Cảnh trời đẹp hơn cảnh Địa Tiên rất nhiều, tiếng gió thổi, chim kêu man mác nhẹ nhàng tưởng chừng như cảnh Tây Phương. Các vị Tiên cõi lạc, cõi công bay lơ lững trên không. Tiếng ống tiêu, ống sáo nghe thâm trầm, các loại chim hạt, chim công, chim quy cùng nhiều loại chim khác nữa mà tôi không biết tên đang nhảy múa ca hát tiếng cười, làm tôi ngây ngất tâm hồn, không muốn trở lại cõi trần đầy đâu khổ.
Các vị Tiên nữ từng nhóm, từng đoàn đủ màu sặc sở đang tung tăng múa hát. Cỏ hoa xinh đẹp nhiều đóa hoa to lớn như cái mâm mùi thơm bát ngát, cây cối đầy đàn thẳng tấp, thân cây trong sáng hoa quả đặc cành, không một gợi bụi không một chiếc lá rơi, không một cành cỏ dại, đất như pha lê cẩm thạch. Lầu ngà tháp ngọc vòi vọi tận mây, gió hây hây thổi mang hương thơm ngào ngạt hòa lẩn với tiếng sáo du dương, tiếng chim ca hát, tiếng lãnh lót của các vị tiên nữ làm tâm hồn tôi ngây ngất muốn bay bổng lên tận hư không. Nghĩ lại cảnh đời đua chen xô xát mà ngán ngẩm, nghĩ đến chiến tranh ly loạn ở cõi đời mà tê tái cõi lòng. Tôi hết muốn trở lại trần gian, nhưng nhớ đến lời đại nguyện tôi nhất quyết phải trở lại cảnh diêm phù. Trước là trả xong nghiệp quả, sau cho trọn lời đại nguyện, rồi tôi từ giã mẹ tôi để trở lại đền Rồng tâu cùng Tứ Thiên Vương phê chiếu chỉ cho tôi trở về cõi thế.
Đến nơi Tứ Thiên Vương phán: “Tuy cõi trời rộng bao la, tốt đẹp vô ngần, các vị Bồ Tát ở cõi trời Đâu suất thường đến thuyết pháp dạy đạo, song chúng tiên cứ mãi say sưa trong cảnh đẹp ít chịu tu hành. Nay trẫm thỉnh Hiền Tăng đến pháp đài giảng cho chúng tiên một thời pháp về cái khổ ở thế gian và nơi địa gục, đặng chúng tiên sanh tâm lo sợ mà tinh tấn tu hành, kẻo chúng tiên cứ mãi vui chơi đến ngày hết thuốc bị đọa lại trần gian thì tội lắm! Hiền Tăng đến ngay tháp đài ở núi hoa, tháp này có mười tám tầng dành cho các vị Bồ Tát đến thuyết pháp, nhưng khi đến nơi Hiền Tăng chỉ ngồi ở tầng thứ mười thuyết một thời pháp cho chúng tiên nghe”. Được lệnh chư thần đưa tôi bay đến tháp đài. Tháp này cao vòi vọi. Không biết xây bằng thứ gì mà trong sáng lạ thường. Chung quanh tháp đài một khoảng trống mênh mông mặt đất như vàng ròng. Tôi đến ngồi ở tầng thứ mười thấy các vị tiên bốn phía từng đoàn, từng lũ đằng vân về tháp đông đảo như ngày hội.
Sau các vị Tiên ngồi theo thứ lớp, tôi nhìn xuống thấy thật có thứ tự màu áo nào ngồi theo nhóm nấy không xen lẫn lộn. Hết lớp này đến lớp khác đều đặng trang nghiêm.
Tôi bèn cất tiếng giảng về những điều khổ ở thế gian: (Ở đây tôi xin tóm lược nhựng điểm cốt yếu) nào cái khổ còn từ trong bào thai tối đen ngộp thở, nào cái khổ từ lúc mới sinh ra dại khờ ngu tối, yếu đuối sống nhờ nơi cha mẹ, nào cái khổ khi lớn lên tạo lập gia đình, lam lũ nhọc nhằn, đổ mồ hô, sôi nước mắt mới có miếng ăn, áo mặc, nhà ở. Nào những lúc bệnh tật ốm đau dày vò, nào những lúc già yếu, chân mỏi, da dùn, mắt lờ, tai điếc. Nào khi chết bức khổ than tâm. Còn bao nhiêu cái khổ thiên tai, hỏa hoạn, cái khổ về chiến tranh tàn phá, chết chóc, đến những cái khổ về tù đày, sanh ly tử biệt. Kế tôi nói về sự đâu khổ ở địa ngục.
Lúc ấy tôi thấy các vị Tiên nơm nớp lo sợ. Sau khi tôi giảng xong các vị Tiên tụ tập từng nhóm bàn tán với nhau, thấy vậy tôi bèn lân la với các vị Tiên, các ngài nói: “Nếu không có Hiền Tăng nói rõ về cảnh khổ ở thế gian chúng tôi đâu biết. Chúng tôi tưởng ở thế gian cũng sung sướng như ở cõi nầy nào ngờ khổ quá.
Chúng tôi ở đây nào có nghĩ tới năm tháng nào có thấy ai già, ai chết bao giờ, hễ bị tội là Thượng Đế đọa xuống trần gian, nhưng tưởng là đi du ngoạn một lúc vậy thôi nào ngờ khổ quá. Các vị Bồ Tát thường đến đây thuyết pháp mà chúng tôi nào có tin lời. Còn Hiền Tăng từ cõi thế lên đây nói rõ cảnh đời khổ sở làm chúng tôi thức tỉnh. Thôi chúng tôi bắt đầu tu theo Phật kẻo bị đọa xuống trần gian khổ lắm chịu sao cho nổi.
Một vị khác tiếp: “Thỉnh thoảng Hiền Tăng lên đây một lần nhắc nhở chúng Tiên tu hành tinh tấn chớ các chư thần thường xuống cõi Diêm phù quan sát về nói lại lắm lúc chúng Tiên cũng chẳng mấy làm tin lắm”.
Tôi bèn cáo biệt các vị Tiên, trở lại đền rồng lãnh chiếu chỉ trở về dương thế.
Đến nơi tôi bái yết xong, Tứ Thiên Vương phán: “Hôm nay Hiền Tăng đã toại nguyện khi trở về khi trở về cõi Diêm phù nhắc nhở chúng sanh tin tấn tu hành, cảnh đẹp ở cõi trời rất rộng đang chờ đón chúng sanh tu thiện. Hiền Tăng nhắc nhở chúng sanh đừng đắm đuối theo xác thân giả tạm, thời gian nó cũng tiêu hoại, phải lo phần hồn là cái chắc thật lâu dài, phải nuôi phần hồn bằng giáo pháp của Phật, phải biết quên mình vì kẻ khác đửng ích kỷ thì cửa trời đang mở rộng đón chờ”.
Phán xong ngài phê chiếu chỉ cho chư thần đưa tôi về cõi thế.
Mô Phật, đây là lời sơ lược về cảnh trời Tứ Thiên Vương, nếu nói cho hết thì chẳng cùng, hơn nữa tôi chỉ đằng vân ở trên đi lướt qua các cảnh chớ không có thời giờ quan sát tỉ mỉ từng chi tiết một, và ở cõi trời nhiều vật đẹp lạ mà thế gian không có nên tôi cũng không biết gọi là gì.
Cõi trời là cõi thật, muôn đời nghìn kiếp chẳng đổi thay, nơi thánh nhân đầy đủ phước duyên hưởng thọ, trí phàm như tôi không sao tả cho tường tận được. Nếu chư vị Phật tử nào còn nghi ngờ điều chi trong quyển này xin đến Liên Hoa tịnh thất Mỹ Tho chúng tôi vui lòng hầu chuyện cùng quý vị.
Chúng tôi nguyện đem công đức này hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sanh đồng quay về bờ giác.
Viết xong ngày 28-11-1971
Nhằm ngày 11 tháng 10 năm Tân Hợi
Thích nữ Huệ Hiền Kính bút
Khuyến Thiện
Hiện nay chúng ta đang sống giữa cõi đời đua chen, tranh đấu để dành sự sống, chúng ta mãi lo cho ta, lo cho gia đình ta, rồi lại lo cho thân bằng quyến thuộc. Lo hoài, lo mãi nhưng nào ai đã xong việc.
Thật vậy, cha mẹ vợ con rồi cũng chết, nhà cửa, ruộng vườn rồi cũng không còn, chính thân ta còn không thật có, vì nào ai chắc sống đến ngày mai, nào ai làm chủ được thân mình.
Sở dĩ chúng ta lo không xong, không rồi, vì chúng ta chỉ lo cái giả, mà chúng ta chưa lo đến cái thật.
Xác thân này dễ hư hoại, chỉ gặp chút nghịch duyên thì hồn lìa khỏi xác, cha mẹ vợ con như kẻ bạn đường, của tiền nghề nghiệp chỉ là phương tiện sanh nhai nào có chi chắc thật.
Cái chắc thật là linh hồn, còn gọi là thần thức, chỉ có linh hồn mới là cái ta thật, nhưng nào có ai nghĩ đến. Dù chúng ta tạo tội phải ở địa ngục ngàn năm, hay phải làm súc sanh muôn kiếp, lúc làm trời, khi làm người, chỉ vì chúng ta quên nó chớ linh hồn không thây đổi biến dời.
Hiện nay chúng ta đang đứng giữa hai con đường: Con đường nuôi thân ích kỹ, tham lam, ác độc, si mê dẩn đến địa ngục khổ đau! Con đường nuôi tâm vị tha, bố thí, từ bi, sáng suốt dẩn đến Thiên đường an lạc.
Nếu chúng ta theo con đường nuôi thân tội lỗi thì thân chúng ta phạm ba tội: Sát sanh, trộm cắp và dâm dục. Miệng phạm bốn lỗi: Nói láo, nói thêm, bớt, nói đâm thọc và chửi mắng. Ý chúng ta cũng phạm ba lỗi: Tham lam, sân giận và cuồng si.
Bây giờ chúng ta quay về nẻo thiên để nuôi tâm, thì thân miệng và ý chí quay đầu trở lại, thân không sát sanh mà phóng sanh, giúp người mà trong sạch. Miệng nói lời chân thật, đúng đắn, hòa giải và dịu dàng. Ý không tham lam mà phải bố thí, từ bi và sáng suốt.
Ở đây vì đức mỏng tội dầy nên chúng ta chưa dám nghĩ đến cảnh Niết Bàn của chư Phật đầy đủ bốn đức: Chơn thường, chơn lạc, chơn ngã, chơn tịnh, mà chúng ta chỉ bàn đến ác và thiện, khổ và vui để định rõ hai nẻo đường mà chúng ta đã vạch sẵn.
Mười phương chư Phật, hằng sa Bồ Tát, Hiền, Thánh, Tăng ba đời bước đầu cũng khỏi tu mười nghiệp thiện này.
Hỡi ai là bậc trí giả, hãy tự chọn lấy con đường mà đi.
Trần Tình
Trong quyển “Du Ký Tiên, Long, Thiên cảnh” đoạn tả cảnh Địa Tiên và cảnh Long Vương có nói sau này núi châu báu sẽ đem về sứ Mõ Thi ở làng Kim Sơn, nên có nhiều vị hỏi:
- Mõ Thi có phải là tiếng nói của từ Mỹ Tho mà ra không?
Xin đáp:
- Không! Tiếng Mỹ Tho là địa danh do người đời đặt ra, còn tiếng Mõ Thi, do ơn trên đặt để từ lâu. Tiếng Mõ Thi hàm chứa ý nghĩa sâu xa bí ẩn để chi nơi tụ hội của các bậc Thánh hiền. Khởi đầu từ năm Quý Dậu ánh đạo vàng hưng thịnh lan tràng khấp thế giới, có ảnh hưởng cả muôn năm! điều nầy chắc chắn như vậy! Quý vị cố gắng tu hành sẽ sống sót hưởng đời thượng cổ, chỉ vắn tắt ít lời không thể nói nhiều hơn được.
Có người lại nói:
- Vì cô Ba tức là Huệ Hiền ở Mỹ Tho, nên nói núi châu báu sau này về đất Mõ Thi để quan trọng hóa vấn đề có tính cách ích kỷ?
Tôi xin thưa:
- Biết rằng núi châu báu sau này về đất Mõ Thi là nơi chánh (như đoạn nói trên). Nhưng tôi phải chỉ riêng xứ Mõ Thi có châu báu mà tất cả nhà nhà, chốn chốn toàn thế giới, nơi nào có người tu hành chánh pháp đều có châu báu, mặt tình tiêu dùng hưởng lạc muôn năm. Lúc ấy cõi Ta Bà này như cõi Địa Tiên.
Cố gắng lên! Cố gắng lên! Tinh tấn tu hành sẽ đến thành công mỹ mãn.
Chúc quý vị Phật Tử bốn phương tinh tấn tu hành hưởng đời an lạc.
Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tá Ma Ha Tat
Thích Nữ Huệ Hiền.
Luật Trời
Nếu… Người làm việc chẳng lành
Mà sau hiển đạt vang danh lẫy lừng
Người dầu không hại, không trừng
Luật trời ắt chẳng bao dung được nào.
Ham Thích Điều Lành
Điều lành điều phải khá nên ham
Việc ác đừng vui, chớ kiếm tâm
Gặp được điều lành như giải khát
Nghe điều hung giữ tránh xa xăm
Làm lành rất được an vui
Đạo lành to lớn như trời bao la.
Lời Lành
Ta nói lời lành đẹp da nhau
Đừng nen nặng nhẹ khiến người đau
Đừng nên đâm thọc cho sanh chuyện
Đừng ỷ thế thần giọng thấp cao
Lời nói thanh bai ý diệu hiền
Đượm màu chơn thật, đượm tâm thiền
Nghe như giọt nước cam lồ rưới…
Mát mẽ tâm lòng tạo thiện duyên.
Sấm Ông Đồ
Người sanh trong cõi Nam Hoàng,
Không phen đài các, cũng hàng Lạc Long
Muốn cho rạng vẽ Tiên Rồng,
Muốn bình thên hạ trước phòng quốc gia.
Muốn cho lợi nước yên nhà,
Trước lo sửa trị gia hòa khiêm cung.
Muốn cho gia đạo hiền hùng,
Tự thân trước phải tư dung nhân hiền.
Nhàn xem sách vở luân thường,
Thầy đồ người ở hậu trường Sài Châu.
Trăng khuya băm sáu tuôi đầu,
Thế thời gặp phải gió âu phong trần.
Mặc Tôn dầu đặng cái lân,
Lòng son Cử trị lãnh phần long đong.
Ra đi vừa lố mặt hồng,
Dường mòn ngoắc ngoẻo như lòng quăn queo.
Trời trưa nắng đổ trên đéo,
Gợi lòng thêm chạnh phận nghèo đắn đo.
Nghĩ mình xưa cũng yên cho,
Chức làm thầy ký dưới trò hoạn quan.
Gia đình cũng khỏi cơ hàn,
Vợ là lương thị tánh nàng xa hoa.
Nàng ưa quý của sang nhà,
Thấy chồng chơn thật sanh ra hẫn hờ.
Trách ông không rõ thời cơ,
Oai như ông Thượng cuốn cờ theo Tây.
Ta nên giả điếc giả ngây,
Thánh hiền chi đó cho tầy khô bao.
Ông Y, ông Doãn thế nào,
Ôm cầy cuốc bẩm con gào vợ than!
Anh tài như cụ họ Phan,
Hết lưu hải ngọai bàng giang ngồi tù.
Anh hùng Yên Bái công phu,
Sa cơ còn phải mạng tru tan tành.
Tài tình như cụ Phan Thanh,
Ba Đình nhất thủ cũng đành co tay.
Trở cờ một sánh ấy hay,
Xu thời theo thế là tài lập an.
Kìa xem ông lớn nhà quan,
Biết tôn người Pháp mà sang mà giàu.
Quan thời kín cổng lầu cao,
Tới chi dân giả mà đâu mà lòng.
Chỉ theo thời thế lập công,
Cúi đầu mọp xá cho xong lẽ nào.
Ông mà không nghĩ trước sau,
Con thơ bốn đứa ai hầu đảm đang.
Buồn đời lại gặp vợ gàn,
Đến quan gai mắt về nhà xốn xang.
Bỗng nghe thiên hạ nhôn nhàng,
Dân nghèo trốn thuế, lính làng nên ghê.
Chú cai, thầy Đội nhùn trề,
Đánh thôi không kể chửi điên nhiếc mờ.
Thảm thương cho đám dân khờ,
U đầu sưng mặt biết nhờ cậy ai.
Cúi xin ông Đội thầy Cai,
Hưởng vài kỳ hạn chúng tôi chạy tiền.
Vợ con đau ốm liên miên,
Mùa màng thất bát làm phiền các ông.
Cha già, mẹ yếu, của không,
Sở làm chẳng có biết phòng cậy ai.
Áo cơm thiếu hụt hằng ngày,
Cúi xin quan lớn nới tay khoan hồng.
“Đồ khốn! Lũ bây cuồng ngông,
Muốn làm cách mạng không tuân lệnh làng.
Ký đồ đem sổ trước quan,
Hãy làm biên bản tống giam lũ này.”
Đồ rằng: “Cớ sự như vầy,
Dân nghèo đói khổ tội này bởi quan.
Nhớ xưa dân chúng cơ hàn,
Ông vũ coi việc khai đàng sông Thương.
Cho nước khỏi ngập ruộng vườn,
Vì dân vì nước lòng thường siêng năng.
Thế mà ông còn bảo rằng,
Nếu dân bị lụt tội này về ông.
Ông tắc coi việc điền công,
Đốt trầm đuổi thú cho dân cày bừa.
Ông rằng nếu dân thất mùa,
Vợ con đói khổ tội này về ông.
Người hiền mãi lo việc công,
Kẻ khôn! Chỉ muốn ở không làm nền.
Đinh, Lê, Lý chúa Nam Hoàng,
Khuyếch trương kinh tế dân làng ấm no.
Thuế sưu đơn giản nhẹ lo,
Nay vì quan lớn ăn no ngồi rồi.
Cướp bóc, hà khắc đủ điều,
Phần mùa thất bát thế nào cho dân.
Thương người như thể thương thân,
Quan trên xin thử cân phân thế nào.
Dẫu cho tước trọng quyền cao,
Cũng thương lấy chút đồng bào dân ta.
Ham chi chút bã lang sa,
Mà gây lắm nỗi phong ba bất bình”.
Thấu tai quan nổi lôi đình,
“Khá khen thầy ký dám kình với ta,
Linh quyền lột chức đuổi ra,
Tẩy chai cho nó khôn qua đóng tiền”.
Thôi rồi thế sự ngửa nghiêng,
Từ đây con vợ than phiền đến đâu.
Éo le đơn khảy mấy câu,
Nước xao mấy lượn nghĩ âu nực cười.
Cho hay vậy cũng là người,
Con Hồng cháu Lạc hồ ngươi chẳng là.
Trời Nam một dãy sơn hà,
Linh đinh bể cả biết mà về đâu.
Ba Đồ một vẽ âu sầu,
Khi buồn khi tức câu mâu đủ điều:
Kia nhà phú quý quan liêu,
Thiếm Cai bà Đội đủ điều phong dinh.
Quan oai kẻ bẩm người trình,
Phủ đường có lính có binh gác hầu.
Bà lớn sang biết là bao,
Ra đường thiên hạ cúi đầu sợ oai.
Đi thời xe cộ hẳn hoi,
Trùm làng vòn nể mựu đòi thứ dân.
Ông Đồ là người bất nhân,
Học đòi liêm sĩ giết lần vợ con.
Nhẫn tâm một chút chịu lòn,
Nã dân lập nghiệp vợ con nó nhờ.
Ông không xét rõ thời cơ:
Thử xem thiên hạ bây giờ có ai,
Nhìn kỹ quan liêu ngày nay,
Phần đông môn đệ học tài với ông.
Cớ sao nó lại nên công,
Còn ông thì lại tay không chân rồi.
Chúng con khi dễ đến tôi,
Xem ông như rác đưng ngồi với ai.
Pháp định gặc đức tranh tài,
Quan trên bắt lính để bài tồng quân.
Ông ra gánh vác chút phần,
Làm sổ biên bản lập thân với đời.
Ấm no thê tử vui tươi,
Tệ chi lắm lệ trời ơi là trời.
Hết khuyên rồi lại lắm lời,
Mắng chồng rồi lại tơi bời đánh con.
Tội chi mà phải chịu đòn,
Áo cơm không có lại còn vọt roi.
Trẻ thơ lắm nỗi đắng cay,
Nhìn cha, cha thảm, nhìn mẹ, mẹ sầu.
Sợ mẹ hồn vía lên đầu,
Bồng em chạy trốn dãi dầu thảm thê.
Ác vàng nhựt tợ ngoại kề,
Cánh buồm bao quản bốn bề gió xiêu.
Ông Đồ một mực chuộng chiều,
Tìm lời to nhỏ cho yên qua ngày.
Rằng: “Xem thiên hạ thời nay,
Biết bác cơ cần đọa đầy thảm thương!
Thuê sưu ép ngặt đủ đường,
Lâm cơn nghèo thiếu lại vương lao tù.
Ta có nghèo đói mặc dù,
Cũng là chia sẽ nổi buồn cùng ai”.
Thất nghiệp ngày tháng loay hoay,
Lần hồi sự nghiệp gia tài sạch không.
Con thơ đói rách long đong,
Bạn bè xa lánh biết trong cậy ai.
Hết phương tính một liệu hai,
Hết lời to nhỏ hết nài hết lơn.
Bà Đồ tột độ căm hờn,
Dân mâm xán chén dặm chơn kêu trời.
“Mặt này cũng tại vì ai,
Làm ra mặt phải có tài được không?”.
Thầm cho lũ trẻ bập bồng,
Bữa râu bữa cháo bữa lòng vắng hoe.
Xin cơm, mượn gạo lăm le,
Bữa có bữa chẳng rách te áo quần.
Chôi con lọng gió tưng bừng,
Ngẩn ngơ trúc tử khôn ngừng dòng châu.
Hoa non trời nở mưa ngâu,
E cho tan tác mái đầu non non.
Gió đông thổi buốt lòng son,
Làm cho con én đầu non dật dờ.
Bèn tan rã cánh lờ đờ,
Ngẩn ngơ hồn bướm biết nhờ vào đâu.
Đau lòng lụy nhỏ thấm bâu,
Ông đồ nhỏ nhẹ rầu thốt ra.
Bà cùng con ở lại nhà,
Hẩm hiu rau cháo cho qua tháng ngày.
Tôi ra miền Trung phần ngoài,
Tìm sở làm mướn một vài tháng qua.
May nhờ phước dư ông bà,
Bay tiền chi độ chẳng là ấm no.
Dứt lời bà hứ tiếng to:
“Cái bộ ông đó sớm lo ở tù”
Hết lời biện bạch trí ngu,
Nói nhiều thêm oán chác thù ích chi.
Một hai gì cũng phải đi,
Đi cho khuất mắt huốn chi ở nhà.
Chơn ông vừa mới bước ra,
Lũ trẽ triều mến xót xa khôn cùng.
“Cha ơi! Cho con đi chung,
Ra về sớm tối con cùng bên cha”.
Rằng: “Con tạm ở lại nhà,
Cha đi giây lát mua quà cho con.
Gượng vui kẻo mà bị đòn,
Khi về cha ẫm cha bồng cha cưng”.
Ngỡ cha nó đi cầm chừng,
Không dè biền biệt Thê lương tháng ngày.
Chợt nhìn trời tối mới hay,
Ông Đồ mãn nhớ mãn gay mãn sầu.
Ở đây là ở đâu đây?
Gió hòa thông khóc, nước reo nhạc sầu.
Vang vang vượn hú non đầu,
Như say mới tỉnh giây lâu bên đàng.
Xem chừng làng xóm thôn trang,
Lần đến đầu ngõ ngỡ ngàng bước vô.
Thưa cùng anh chị cậu cô,
Tôi người thất nghiệp đạo đồ lang thang.
Hỏi ra mới biết xóm làng,
Gần đến Phan Thiết, Nha Trang ranh ngoài.
Ngàn năm một thuở là may,
Có ông Triệu phú mới hay thầy Đồ.
Mời vế thăm hỏi tề mô,
Rược cơm trà nước lại phô ý mình.
“Nhà tôi có lũ Môn sinh,
Vốn dòng con cháu Nho Kinh gia đường.
Ngặt nổi lối đi vào trường,
Xa xôi e ngại thêm đường rừng hoang.
Gặp thầy tôi cũng đặng an,
Xin thầy ở lại mở trang phá ngư.
Ơn thầy tôi cũng đền bù,
Năm đồng mỗi tháng công phu của thầy”.
Như vầy thì cũng là hay,
Ông đồ vui dạ tỏ ngay cùng là.
Vừa dạy vừa cũng dò la,
Tìm hiểu Tiệu phú giàu mà làm sao.
Rõ rồi lòng cũng nao nao:
Ai ai nước đục cũng ào thả câu.
Việc người đành mặt người âu,
Xây dựng lũ trẻ chút câu nhân tình.
Những khi cơm nước linh đình,
Nhớ đến gia đạo nổi mình mà đau.
Giờ này con ra làm sao?
Bà Đồ xoay trở lẽ nào có hay!
Ở đây đời việc ngoài tai,
Nhớ thì thêm ghét, sầu thì hay thương.
“Thương là thương đấng cang cường,
Anh hùng trụy lạc ẩn tường nơi nao.
Thương cho huynh đệ đồng bào,
Sưu cao thế nặng lâm vào nạn tai”.
Thương rồi ghét đắng ghét cay,
“Ghét là ghét kẻ bất tài mị dân.
Ghét thay cái lũ vô ân,
Giả danh bảo hộ lột trần dân ta”.
Nghĩ gần rồi lại nghĩ xa,
Ghét thương, thương ghét không ra kẽ nào.
Ngủ thời thiêm thiếp chiêm bao,
Ăn thời như thế cho vào đặng no.
Dạy thời! Liêm là thẳng, Chi là cho,
Nhân là hiền, Cang là cưng, Gia là nhà, Bất là không.
Cơm thời miễn đặng no lòng,
Tiên thời mỗi tháng năm đồng còn nguyên.
Gượng cười gượng nói cho yên,
Đúng kỳ ba tháng ta đành hồi quê.
Còn năm ngày nữa gần kề,
Đến rằm tháng chạp công thuê mãn kỳ.
Bãi trường từ giã chẳng trì,
Cơm khô gói sẵn phòng khi thượng hành.
Bến tàu dừng lại nghĩ quanh,
“Nếu đi tàu hỏa tiền dành mẻ đi.
Âu ta cuốc bộ một khi,
Tiền lương ba tháng chớ tiêu đồng nào.
Về xem con, vợ làm sao,
Bặt tin ba tháng âm hoa chưa tường.
Để cho con, vợ nó mừng,
Mười lăm đồng bạc tết từng cũng vui.
Thôi thì ta cũng làm nguôi,
Ba phải thời thế cho xuôi lòng bà”.
Tinh gần rồi lại nghĩ xa,
Đói ăn cơm rán khát hòa nước sông.
Trời xuân con én đưa song,
Ai ngồi bên cửa trông chồng ru con.
Tiếng luồng theo gió nỉ non,
Hòa theo đơn suối chảy lòn cầu lam.
“Lỡ tay trót đã nhúng chàm,
Đánh liều nhúng hết hai bàn cho xong.
Gió tây chuyền ngọn đòng đòng,
Sông nam gợn sóng biết lòng vào đâu.
Ù ơ ví dẫu ví dầu,
Bí bầu chê ghét biết đâu về chiều.
Mẹ gà con vịt chít chiu,
Mấy đời mẹ ghẻ thương yêu con chồng”.
Bước qua đàng vắng xa xong,
Còn nghe văng vẳng tiếng đồng như tơ.
Trời chiều quạnh quẽ như tờ,
Ngư về viễn Phố Mục về cô thôn.
Thu không tiếng mõ đầu đền,
Đèn nhà lắp lóe hoàng hôn phủ đằng.
Bóng cầu đen vắt sông ngang,
Sao in đấy nước chớp làn sống châu.
Rảo chơn vừa quá nhịp cầu,
Chợt nhìn thấy bóng người đâu lẹ làng.
Đàn bà bụng lại có mang,
Đâm sầm xuống mé muốn toan liều mình.
Kính hồn Đồ chạy tới nhìn.
Nắm áo níu lại sự tình hỏi han.
“Rằng tôi nhiều nỗi ức oan,
Chết đi cho mất sống càng khổ thân.
Chồng tôi là kẻ thường nhân,
Thất mùa chư đóng thuế thân bị đầy.
Phần tôi thai nghén gần ngày,
Một mình đói khổ ai hoài hẩm hiu.
Nuôi một con heo sớm chiều,
Phòng bán nuôi sống, đở nghèo khi sanh.
Nào ngờ gặp đứa lưu manh,
Mua heo với giá bạc đành mười lăm.
Bắt heo tiền trả tôi cầm,
Sáng ngày ra chợ toan tầm mua than.
Mới hay bạc giả kinh hoàng,
Lính làng đòi phạt đòi răn sỗ sàng.
Đầu đuôi tôi phải kêu oan,
“Xin làng cho kẻ truy tầm bắt giam”.
Làng rằng: “Làng mắc việc quan,
Công đâu mà tính chuyện gàn bông lông”.
Về nhà ngồi đứng không xong,
Đếng này sinh sản hết trông phương rồi.
Bà con không có ai nuôi,
Cô thân chỉ có mình tôi khổ đời.
Mồ cha nó bắt chồng tôi,
Bằng không đâu có lôi thôi thế này.
Đồ hay cớ sự như vầy,
Lòng đau như cắt biết tài nào cao.
Rằng: “Đâu bạc giả làm sao?
Đưa tôi xem thử lẽ nào cho minh”.
Xoay qua phía khác cho minh,
Trao đưa bạc thiệt tỏ tình nguồn cơn.
Thôi thôi tôi cũng làm ơn,
Giúp giùm cho nó khỏi cơn nguy nàn.
Vốn tôi là thầy Lỗ Ban,
Thư phù bạc giả hóa thành bạc chơn.
Nàng rằng: “Còn có chi hơn,
Tôi xin ghi dạ đội ơn muôn đời”.
Cầm tiền từ giã đôi lời,
Ông Đồ đứng ngó thương người dân quê.
“Thật thà chơn chất, vụng về,
Dốt nát thiên hạ, dễ bề gian tham.
Cơ mưu họ khéo dụng tâm,
Cho dân ngu dốt dễ lầm dễ sai.
Bảo tin kẻo bị tội đày,
Bảo sợ kẻo bị hình hài phat răn.
Chẳng hề lo việc mở mang,
Để cho dân chúng bị tòn yêu ma.
Ngồi không vẽ lắm điêu ngoa,
Nghĩ sưu toan kế cho ra tùi tiền.
Dân nghèo chạy ngửa chạy nghiêng,
Ráng cho ra tốp dưới quyền quát la.
Vừa suy vừa nghĩ gần xa,
Chợt liền nhớ lại thân ta thêm phiền:
“Mười lăm bạc giả cầm nguyên,
Về đây biết nói biết yêu lẽ nào.
Làm sao thì mặc làm sao,
Người chết ta nỡ lòng nào làm ngơ”.
Trời đêm lặng lẽ như tơ,
Vạc kêu đồng nội trống hơ đầu thôn.
Nhá nhem nhà cửa tối om,
Dò theo lối cũ quanh chòm trúc thưa.
Xơ rơ một mái nhà xưa,
Vách hay rước gió chái thừa trút mưa.
Xác xao cành liễu đồng đưa,
Âm thầm đứng tựa vách thưa nhìn vào.
Ngạc nhiên ông đồ thở phào!
Bà đồ nay khác biết bao cho cùng.
Áo quần rách rưới lạnh lùng,
Thế mà bình tỉnh vô cùng hiền lương.
Con ba bốn đứa trần truồng,
Ngồi kề bên mẹ ra tuồng thương yêu.
Xưa thầy phát ghét bao nhiêu,
Nay xem gương mặt yêu kiều dễ thương.
Ai dạy bà ở hiền lương,
Ai bảo bà sửa khác thường hơn xưa.
Trước kia gương mặt chẳng vừa,
Thấy mà phát tởn có ưa được nào.
Nói thời như tát nước vào,
Con thời bị đánh la gòa thất thanh.
Mà nay xem vẽ hiền lành,
Mẹ con xúm xít xem đành biết bao.
Làm sao chưa hẳn làm sao,
Thoạt nghe trẻ nhỏ bều bào nói ra:
“Mẹ ơi! Con bụng xót xa,
Vì đói lạnh quá! Nhớ cha vô cùng”.
Mặt bà điềm đạm ung dung,
“Con ôi! Vì bởi bần cùng phải cam.
Bạc tiền ai lại chẳng ham,
Nhưng của phi nghĩa mà tham làm gì.
Mẹ mà xưa biết lễ nghi,
Thì cha con chẳng ra đi xa đàng.
Phụ tử tình nghĩa đã mang,
Cha con bao nỡ dứt đàng hay sao.
Chờ năm ba bữa chẳng lâu,
Sắp đến ngày tết bắt đầu sang năm.
Cha con chắc sẽ về thăm,
Chẳng nhiều cũng ít chị em con mừng”.
Ông Đồ đứng dửng dừng dưng,
Muốn bỏ đi trốn bước dừng dở dang.
Bỗng thấy bà đứng gần bàn,
Ngước lên liền thấy ngang hàng mõ, chuông.
Đốt hương bà nguyện buồn buồn,
Mấy đứa nhỏ cũng sắp hàng quỳ theo.
Cắm hương chuông, mõ tụng reo,
“Ờ! Ra bà đã quên nghèo vì tu.
Thật là đạo cả công phu,
Như vậy thật đáng đền bù công ơn.
Nghĩ mình xưa lỗi đường chơn,
Chẳng hiểu Phật pháp thật hơn đâu màng.
Cho rằng: Mê tín dị đoan,
Cho rằng: Cái đạo làm càn mị dân.
Cho rằng: Những kẻ chán trần,
Vào chùa chuông mõ lãnh phần chuối xôi.
Lại cho cái đạo mị đời,
Tín càn không có ít thời chi chi.
Coi thường các bực tu trì,
Rằng: Từ bi ấy ngoa nghi bỏ quàng.
Nào hay đạo cả thinh thang,
Bao nhiêu cũng đủ đáp toàn lời ta.
Thật là phước đức không xa,
Mới hay đạo Phật vốn là tại tâm.
Bao nhiêu cũng rõ thậm thâm,
Thật nước cam lộ rải nhằm đến ta.
Từ bi phước đức hà sa,
Còn hơn phú quý mà đa tham tàn.
Cúi lạy đức Phật trên bàn,
Từ bi tế độ muôn vàn khổ đau.
Thật tôi có phước làm sao,
Đạo Phật xây dựng thế nào mà hay.
Nhớ ơn đức Phật cao dày,
Độ người ám muội ngày này quang minh”.
Nghe bà vừa dứt lời kinh,
Cất tiếng phục nguyện lại in tấm lòng.
“Nguyện mười phương Phật chứng minh,
Cho trong lệ tội tình tiêu tan.
Hết cơn vẫn bị tai nạn,
Thoát cơn ác quỷ lạm đàng nhiễu nhương.
Cầu hồn xiêu lạc bốn phương,
Diệt hết phiền não Tây phương sớm gần.
Nguyện chư Bồ tát ai lân,
Độ ông Đồ mạnh tinh thần bằng an”.
Thành tâm vừa nguyện vừa van,
Ông đồ ngoài cửa lại càng phục lăn.
Phục bà thật có thiện căng,
Cảm Phật lại kính chư Tăng hoàng triều.
Tự quy bà đứng lạy liền,
Mấy đứa nhỏ cũng ngoan hiền lạy theo.
Ngoài thềm năm vóc cũng gieo,
Như có thần lực nào đeo bên mình.
Cũng cúi cũng xá cũng quỳ,
Ông Đồ như tỉnh qua thì cơn say.
Đằng hằng lên tiếng bên ngoài,
Mẹ con mở cửa loay hoay đón mừng.
Giờ đây náo nhiệt tưng bừng,
Lũ trẻ lăn líu tươi cười lắm thay.
Gượng cười dòng lệ chảy ngay,
“Mừng bà được khỏe con rày bình an”.
Vuốt ve trẻ nhỏ dịu dàng,
Thầy bà vui vẽ lòng càng vững yên.
Bà không hỏi tới bạc tiền,
Mà hỏi: “Ông đặng bình yên chẳng là?
Bây giờ tôi mới sáng ra,
Bây lâu có một như lòa khác chi.
Ông thật coa quý ai bì,
Thanh tao liêm sĩ đáng vì nêu cao.
Thế mà tôi đã hỗn hào,
Xin ông tha thứ cho bao lỗi lầm.
Si mê trót đã tối tâm,
Đuốc từ vừa nhóm phóng tầm quang huy.
“Lạ chưa bà thật nên hay,
Lẽ ra tội ấy tôi gây thêm buồn.
Bỏ con bỏ vợ luôn tuồng,
Thế mà bà lại chẳng buồn chi tôi.
Việc rồi đã qua thì thôi,
Bà tu chừ đặng bao hỡi mà cao.
Tôi xem bà thắm tương chao,
Ai dạy cách thức làm sao hở bà?”
Đứa nào bập bẹ khoe khoang,
“Mẹ con niệm Phật không la khỏi rấy.
Tay mẹ mềm mại thế này,
Khác hơn khi trước như cây như chà”.
Rầy em: “Đừng nói ba hoa,
Để mẹ kể lại cho cha nghe cùng”.
Bà rằng: “Đạo cả bao dung,
Duyên lành gặp đặng phước tùng hậu lai.
Vì đời lầm lạc mê say,
Đọa cao siêu lại xem bày dị đoan.
Pha trò phù thủy phá hoàng,
Giấy tiền vàng mã lập đàn làm chay.
Ở chùa phạm giới phá trai,
Theo trò danh lợi làm sai chơn truyền.
Làm cho hoen ố cửa thiền,
Bởi nhà thực trị chính nghiêng mưu thần.
Mặc cho dân chúng sai lầm,
Cố cho dân tộc nhân tâm suy đồi.
Đạo đời vướng phải lôi thôi,
Cho dễ tự ý ghế ngồi vững yên.
May mà còn chút thiện duyên,
Con Hồng cháu Lạc còn truyền chơn sư.
Đứng lên cố xúyt vô từ,
Cùng hàng trí thức quyết trừ tà mê.
Từ Nam chí Bắc nhất tề,
Đại sư thiện đức cụ Lê Khánh Hòa.
Nam kỳ Phật học mở ra,
Lương Xuyên Phật học, phước Hòa Trà Vinh.
Các Tổ Huệ Quang, Khánh Anh,
Rồi đến họat động tại thành Sài Châu.
Tăng già giáo hội cầm đầu,
Như lai sứ giả khắp châu hoàng truyền.
Xa nhà may có thiện duyên,
Khai đàn diễn giảng trước niên đình làng.
Tôi được nghe giảng mãn đàn,
Mười bài thuyết pháp chơn toàn phổ thông.
Mới rõ tà cánh đục trong,
Đạo, đời chơn chán ngỏ hòng mở mang.
Phật dạy nhơn quả rõ ràng,
Phá mê dân chúng tự cường cách tân.
Từ bi tỏa khắp nhân dân,
Tôn trọng bình đẳng không phân sang hèn.
Tại gia năm giới tập rèn,
Tự mình tu luyện như đèn nhà đêm.
Năm giới trong đó phân tìm,
Cũng làm căn bản đời thêm thái bình.
Thử xem gia đạo của mình,
Gia không có đạo thế tình ra sao.
Năm điều ai cũng ước ao,
Sống, giàu, đẹp đẽ, trí cao ngôn từ.
Áp dụng năm giới phước dư,
Muốn sống đừng sát nhơn từ chi hơn.
Muốn giàu bố thì làm nhơn,
Muốn đẹp tà hạnh sạch trơn trong lòng.
Muốn thông vọng ngữ phải phòng,
Muốn có trí tuệ mưu hòng say sưa.
Chuyển lòng niệm Phật sớm trưa,
Chay lạt tu tập dứt chưa sân sì.
Tự thân lấy đó làm nghi,
Trị gia lấy đó làm quy tông đàng.
Trị quốc nhờ đó bằng an,
Năm điều yếu tố nhân gian hòa bình.
Xét chút thế sự nhân tình,
Xưa nay lọan, trị lưu truyền sử sanh.
Loạn hết tới trị an ninh,
Trị hết đến loạn thế tìng đâu sai.
Trị là nhân kẻ thảo ngay,
Loạn là phạt kẻ dày tiền thân.
Ai tu cứ giữ đạo chân,
Nghe chi nói thánh nói thần rộn tai.
Thấy dân khổ sở hoang mang,
Xưng thần xưng thánh rằng toan cứu đời.
Rằng sắp tận thế tới nơi,
Thay trời đổi đất rót rồi đều sai.
Phật dạy thiện, ác chiêu lai,
Hết loạn đến trị xưa nay lẽ thường.
Trịnh, Nguyễn xưa cắt biên cương,
Ba mươi năm loạn đủ đường đắng cay.
Nghĩ xưa mà ghét ngày nay,
Đừng nghe mà mị rầy tai hư mình.
Tu thì cứ học luật kinh,
Chớ tu đâu cứ luận tình thế gian.
Bàn tán nói dọc nói ngang,
Cũng đừng luyện xác tập đoan cầu kỳ.
Ăn ngay ở thật theo thì,
Rộng lòng tế độ hay vì phân minh.
Sửa mình sớm kệ chiều kinh,
Ăn chay niệm phật giàu tình từ bi.
Dẹp hết phiền não sầu si,
Diệt sạch nghiệp chướng ràn vì phát minh.
Giáo lý cao cả thinh thinh,
Thắm nghe tôi lại giật mình thở ra.
Bấy lâu bèn hạ xấu xa,
Tham, sàn, si, chướng mới ra nỗi này.
Nhờ thầy chỉ dạy như vầy,
Tam quy làm hướng đoạn dây tam đồ.
Năm giới phước đức tài bồi,
Như vầy ai dâm nhọ bôi đạo nhà.
Tinh hoa vốn đạo ông bà,
Học Phật thờ Phật con nhà Lạc Long.
Ông nghe mát dạ vừa lòng,
Êm như gió thoảng đẹp bằng tráng thu.
“Như vầy ai lại không tu,
Như vầy thật đáng công phu sĩ hiền.
Như vầy ai lại không kiêng,
Văn hào trí thức còn khuyên nễ vì.
Đạo mâu huyền diệu tri tri.
Phước này con có phước gì cho hơn.
Dù cho giàu có tước quờn,
Mà thiếu đạo đức chuốc hờn ích chi.
“Sao ông ngồi mãi nghĩ suy,
Không phân chẳng luận tiếng chi lại thù.
Ông đi cớ sự hà như?
Khi về lộ vẽ ưu tư bàng hoàng”.
Giờ đây ông đồ ngở ngàng.
Rằng: “Tôi làm nướn vì nàng vì con.
Tiền lương ba tháng vẹn toàn,
Đem về định để vợ con nó mừng.
Hôm chiều gặp việc dửng dưng,
Thấy người lâm nạn tạm dừng hỏi ra”.
Đầu đuôi kể lại gần xa,
Vừa nói vừa lên coi bà xem sao.
Bà không buồn giận chút nào,
Lại còn cười nói am nào đầu đuôi.
“Bạc tiền tiêu đặng bao lâu?
Vợ con ăn hết còn đâu phước lành.
Ông làm điều ấy phước dành,
Con ông nhờ đó nên danh với đời.
Vậy là điều đáng vui mừng,
Cớ sao ông lại lộ người lo âu.
Sống theo đạo đức nhiệm màu,
Sốn mạnh sống rộng cao sâu vô cùng.
Sống mạnh là đức đại hùng,
Diệt hết phiền náo hung sùnh nơi tâm.
Mạnh dạn nhìn nhận lỗi lầm,
Khi người chỉ lỗi không câm chẳng hờn.
Văn vương là phụ chi dân,
Nghe lờinói phải ân cần kính vâng.
Người dầu sức mạnh ngàn cân,
Trăm trận trăm thắng tài bằng Hạng Vương.
Dường ấy chưa phải đại hùng,
Tự thăng dục vọng tâm trung ai bằng.
Diệt sạch phiền não ác căn,
Mới là sống mạnh tài bằng pháp vương.
Sống rộng là mở lòng thương,
Thương người thương vật tai ương đọa đầy.
San phẳng hầm hố chông gai,
Xá hết oán giận còn ai tranh giành.
Lo gì không dứt chiến tranh,
Sống mà dường ấy sử xanh còn hoài.
Sống chừng vài tháng cũng hay,
Sống lâu vô nghĩa như cây trên rừng.
Ngàn năm no sống đã từng,
Hai lẽ sống ấy ông ưng lẽ nào?
Ông sống ý nghĩa đã cao,
Cớ nào ông lại nghĩ sao mà rầu.
Ông Đồ nhẹ nhõm tới đâu,
Trong lòng quả cảm đạo màu thênh thang.
Nếu bà không tu để an,
Ít ra bà cũng tụng tan cả ngày.
Thế mà bà lại cười dài,
Làm cho đáng phục nhắc hoài không thôi.
Tu sao nhẩn nại vô hồi,
Tu sao bà lại thật thôi hiền hòa.
Lại thêm rộng lượng hài hòa,
Từ bi hỷ xả bao la tội đời.
Dầu cho lở đất long trời,
Mà vẫn bình tĩnh không lời núng nao.
Đói rách khổ đến làm sao,
Cũng vẫn yên tĩnh anh hào ai qua.
Trăm năm trong cõi người ta,
Quý chăng một chữ ấy là chữ tu.
Phiền não u uất từ lâu,
Bỗng tan theo gió mạch sầu sạch trơn.
Như vầy con có chi hơn,
Khen bà đã đáng hiền nhơn trên đời.
Con vui bà lại tươi cười,
Thế là gia đạo đẹp mười từ đây.
Một nhà đặng như thế này,
Mười nhà rồi đến đông, tay thẩy đều.
Thấm nhuần đạo đức cao siêu,
Quốc gia thạnh trị quan liêu nhân từ.
Lo gì đời chẳng an cư,
Làm gì xã hội chẳng như thái bình.
Gác tay nghĩ lại gia đình,
Xuân nhựt sắp đến liệu tình làm sao.
Nát óc xoay xở lẽ nào,
Của đâu sắm mặc làm sao no lòng.
Trẻ thơ tuổi dại đèo bồng,
Áo cơm không có dưa hồng cũng không.
Thế nào giải quyết cho xong,
Chợt nghe gà gấy hừng đông rộn ràng.
Giấy hồng vuông gói rôn gàng,
Kêu bà thức dậy tính toan lẽ này.
“Gói nầy vật quý trong đây,
Bà mau cầm lấy ra ngay chợ làng.
Chiều qua tôi vừa đi ngang,
Thấy tiệm đề bảng khai trương cầm đồ.
Sáng nay bà sớm bước vô,
Đưa gói xin gởi món đồ cầm cho.
Bà đừng cấn biết căn do,
Cứ y như vậy chớ lo ngại gì.
Tôi bảo bà chớ hoài nghi,
Cứ như thế ấy bà đi là vừa.
Chần chờ kẻo trời quá trưa,
Lại sợ hư việc bà thừa lời ông.
Cầm đi lòng lại hỏi lòng,
Lạ thay không hiểu ý ông hế nào.
Mình nghèo đèn chí tử nguy,
Nào có của báo vật gì lạ thay.
Cầm thì nhẹ hỏng trên tay,
Sao ông cấm mở bảo ngay cứ cầm.
Vừa đi vừa nghĩ lầm thầm,
Vừa đến trước cửa xin cầm đưa vô.
Ông chủ tiếp lầy gói đồ,
Mở xem trịnh trọng cất vô văn phòng.
Hỏi bà muốn cầm bao đồng,
Bà Đố lúng túng biết hồng bao nhiêu.
Nhớ ông nói chuyện hồi chiều,
Ý chừng theo đó nói liều mười lăm.
Bà theo giá đó xin cầm,
Vui trao ba tấm bạc năm cho bà.
Đặng bạc bà liền bước ra,
Nghĩ đi nghĩ lại lạ mà làm sao.
Định về hỏi ổng thế nào,
Buộc ổng phải nói âm hao cho tường.
Cằn nhằn đón hỏi đủ đường,
Túng ông phải nói chuyện thường có chi.
Người ta quý chữ xưa nay,
Khai trương có chữ khéo hay là mừng.
Cho rằng! Đó là điềm hưng,
Tôi đà toan tính liệu chừng xa xăm.
Viết khéo hai chư õ”Chánh Tâm”
Sai bà cầm lấy đầu năm sắm quà.
Nghe xong bà lại xuýt xao,
Ấy chết như vậy mất mà Chánh Tâm.
Rồi chỉ còn lại tà tâm,
Người tu thà chết ai cầm thế ni.
Dầu cho nghèo đói chẳng chi,
Mang lấy tiếng thẹn còn gì ông ơi.
Đời ta nghiệp chướng nhiều rồi,
Vì mê vọng ngã chuyền dời lăng xăng.
Ai cùng sợ khổ tham ăn,
Vì chưa diệt vọng chấp càn mà ra.
Nếu mà diệt được cái Ta,
Thì không như có khổ mà như không.
Phải ngộ bản tánh chơn không,
Nào có chi khổ chẳng hòng chi vui.
Khổ vui thoát ra thật rồi,
Dẫu cho khốnđốn vẫn cười vẫn cam.
Gặp lúc sang trọng chẳng ham,
Khổ, vui giả tạm có can chi mình.
Như như không động đinh ninh,
Thì làm chi có nhơn tình lôi thôi.
Một hai gì cũng phải thôi,
Tôi xin đi chuộc “Tấm rồi mới an”.
Nói xong bà đi vội vàng,
Ông Đồ chết sửng không rằng lời chi.
Đã tâm khốn khổ thế thì,
Cho đến tiếng nói có chi không bằng.
Người ta chịu đấm mà ăn,
Dầu bị sỉ vả mắng răng mặc tình.
Miễn cho no ấm gia đình,
Luồn cuối bợ đỡ mặc tình thị phi.
Ham mê nào biết lỗi nghì,
Mặt chai mày đá ngu ai đến cùng.
Bà nhà theo tánh đại hùng,
Tiếng gọi cầm chữ tâm trung vẫn còn.
Thế mà bà thật sắc son,
Mang tiếng một chút ý còn đón ngăn.
Làm ta lòng cũng băng khoăn,
Người mà đường ấy ai bằng được chăng.
Nam nhi đáng thẹn vô ngần,
Ta thật cương trực chưa bằng nữ nhơn.
Đến tiệm bà tỏ thiệt hơn,
“Làm người xin giữ tâm chơn mà dùng”.
Chủ tiệm vui vẻ lạ lùng,
Nghe nói như vậy ông vùng cười khan.
“Hay bà chê rẻ phàn nàn,
Muốn thêm thì nói cho bằng thì thôi.
Không không xin ông cho hồi,
Để cho tôi giữ trọn rồi “Chơn tâm”.
Trácg lòng ai nỡ đem cầm,
Rằng: “Không tôi cũng hồi tâm cho bà.
Nhà bà cách đây gần xa”,
Hỏi thăm sau trước dò la rõ ràng.
Về nhà bà Đồ mới an,
Ông Đồ hết tính lại toan gãi đầu.
Nãy giờ cũng chẳng bao lâu,
Chợt thấy ông chủ ngỏ hầu bước vô.
Gia đình ông nghèo thế mô,
Dò xem tôi biết bà Đồ người ngay.
Ông trời tuồng chữ đại tài,
Chồng tài, vợ đức trên đời mấy ai.
Người đời mù mắt ù tai,
Vì danh vì lợi biết ai ngu hiền.
Kẻ giàu họ tưởng như tiên,
Thấy nghèo họ thị như điên như khờ.
Tôi người có mắt xem đời,
Biết người có đức gặp thời nạn tai.
Như vầy còn có chi hay,
Tiệm thiếu tài phú ông rày giúp tôi.
Tiền lương mỗi tháng đáp bồi,
Mười lăm đồng lẽ thì tôi sẳn mà.
Đồ rằng: “Đức ở nơi bà,
Tôi người thường thế có ra nổi gì.
Chủ rằng: Xưa nay hành vì,
Vợ mà chơn chánh chồng vì hiền lương.
Vợ gàn xuôi chồng tầm thường,
Vợ ác chồng cũng theo đường tà gian.
Vợ người Vương Bỉnh tham sang,
Xúi chồng lạm hối phải mang lao đề.
Vợ anh xa phu nước Tề,
Khích chồng liêm sĩ chức đề Đại phu.
Đơn bà nhân đức khéo tu.
Gia đình ảnh hưởng phước bù xuê xang.
Vợ ngay xúi chồng đàng hoàng,
Vợ chồng có đức thì an cửa nhà.
Tết nhứt nay đã đến ngày,
Giúp trước hai tháng ông xài đầu năm.
Ông Đồ cũng vừa an tâm,
Bà Đồ nhận bạc đầu năm ăn mừng.
Trẻ nhỏ nhảy nhót tưng bừng,
Mừng nay đã có gạo ăn vừa xài.
Cuộc đời bỉ cực thới lai,
Hết cơn vận bĩ tới ngày vinh sang.
Nom na góp để ít hàng,
Cầu cho trăm họ khi nhàn ngâm nga.
Chúc đời mau sớm âu ca,
Lấy lòng nhơn đức xây tòa non sông.
Tự Trần:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật Mô Phật.
Bạch thầy.
Trước kia con là người đại ác, nhưng sớm thức tỉnh tu hành, theo Phật, Pháp, Tăng, trong lúc hành đạo, con đã trải qua bao nhiêu thử thách đắng cay. Số mình dốt nát, Kinh, Luật chẳng thông, phiền một nỗi tuổi già tu muộn. Ngoài đời khảo đảo, trong đạo mỉa mai, biết mình nghiệp nặng, kiếp trước vụng tu. Nên con có nguyện cùng mười phương chư Phật cho con được trả hết nghiệp trong một kiếp này, mong chờ kiếp sau trong sạch mà đi ngay vào đường đạo. Không còn bị oan gia dẫn dắt, nghiệp chướng kéo lôi.
Vì lời dại nguyện đắc thành, nên Diêm chúa cho bắt hồn con xuống Địa ngục để xử án. Ôi, vì mình tạo ác nên phải trả nghiệp thật quá xót xa tê tái. Nào trầm mình nơi biển lạnh, thân thể cứng đờ, nào bị bầy gà, vịt mổ đá, cắn xé tơi bời, nào nuốt lửa toàn thân lên khói, nào ngất xỉu nơi ngục thứ bảy: Vì thấy sự hình phạt quá gớm ghê, nào phải vào núi lửa ở cửa ngục thứ mười, tưởng đâu thân này ra tro mạt.
Đáng lý con phải chết luôn, nhưng ơn trên thấy chúng sanh đời mạt pháp, tội ác chập chồng không tin nhân quả, tưởng đâu chết rồi là hết, nên cho con sống lại để nói chuyện Địa ngục, hầu nhắc nhở bà con cô bác sớm thức tỉnh tu hành.
Đến khi trở về cõi thế, thân con còn phải mang câm, điếc. Thế mà lắm người nông nổi, cho con là tà đạo, dùng lời giả dối để mê hoặc chúng sanh. Như uống nước: Nóng hay lạnh tự mình biết lấy, chớ việc chánh tà lý đạo đã quá phân minh.
Con nghĩ: Đạo Phật là đạo từ bi, lòng xót thương vạn loài đang lặn hụp trong biển khổ sông mê, đồng thời tìm phương giải cứu, để tận diệt gốc Khổ cho chúng sanh. Xét vậy dù cao hay thấp dù thật hay huyền diệu, điều đồng một mục đích dẫn dắt chúng sanh đến bờ giác ngộ giải thoát.
Mô phật.
Nhưng hôm nay thầy chẳng đắn đo lời thề, gạt bỏ tiếng thị phi, cho phép con kể chuyện Địa ngục cho thầy nghe, nhờ thầy chứng minh cho con, nếu như chánh thì thầy bảo con kể để nhắc nhở bà con, cô bác tu hành, còn như tà thì thầy dạy con không nói nữa.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thích nữ Huệ Hiền Kính bút.
Tục danh Cô Ba Cháo Gà.
Nằm Mộng
Nam mô A Di Đà Phật, nay tôi xin nói chuyện Địa ngục, vì người thế gian ít biết về Địa ngục được. Nhân vì tôi là người đại ác, Diêm chúa cho người bắt tôi xuống Địa ngục, hôm nay tôi đặng về đây là do một đại nguyện và nhân duyên như sau: Trở về Diêm phù này để nói cho cô, bác được rõ những tội phước của tôi như thế nào, tại sao tôi phải đi Địa ngục?
Tôi đi Địa ngục là đền tội lỗi và nhờ lục nguyện có duyên lành để nói lại cho cô, bác biết sự quả báo, phòng tránh làm việc sát sanh hại mạng, không phạm tội sa Địa ngục như tôi. Trước khi đi Địa ngục có nguyên nhân: Vì tôi là Cô Ba Cháo Gà ở chợ Vòng Nhỏ, một vùng chợ Mỹ Tho, danh từ này ai cũng đều biết. Tôi bán cháo gà một thời gian từ năm Ngọ cho đến cuối năm Mùi gần ngót 18 tháng. Ngày 16 tháng 11 rạng 17, tôi định sắp sửa nấu cháo gà. Trong đêm đó tôi nằm mộng thấy cắt cổ một con gà mà nó hiện làm người ta, khi đó tôi nói: “Ủa tại sao ông thành người ta, làm sao tôi nhúng nước sôi cho được?” Ông ấy đáp: “Mày chết! Chớ nhúng nước sôi, tao là ông nội của mày đây!” Tôi hỏi: “Ông nói tôi không tin, ông nội tôi sao lại không giống?” Ông đáp: “Giống sao được, vì hồi còn sống, ông nội sát sanh hại mạng cũng nhiều, khi chết, con cháu lại làm heo, bò, gà, vịt để lo tống táng. Cho nên ông làm thú biết bao nhiêu kiếp mà trả chưa xong, vì thay hồn đổi xác nhiều đời làm sao còn giống được mà con biết.
May nhiều đời trước có chút công tu nên được Diêm Chúa cho về bảo con cháu biết. Con ráng tu đừng sát sanh hại vật phải đọa Địa ngục như ông quá khổ sở”. Tôi hỏi “Ông nói tôi cũng chưa tin, ông tên gì?”. Ông đáp: “Ông là Huỳnh Văn Vấp, cha mày là Huỳnh Văn Thình, mày là Huỳnh Thị Nhi, con tin chưa?” Tôi đáp: “Ông nói đúng sự thật, nhưng thấy tướng mạo tôi còn nghi”. Ông bèn tiếp: “Thôi con ráng tu đi rồi biết, chớ đừng nghi, ông cho con hay, con tội lỗi rất nhiều, vì sát sanh, không những gà vịt mà thôi, cho đến trùng, dế, kiến, chuột bọ, rắn rít đều có tội hết. Con nên cố gắng tu đi, để cầu siêu cho ông với”. Đến đây đồng hồ ré, tôi giựt mình xem đúng 3 giờ khuya. Thường khi nấu cháo gà cũng giờ đó, và ngày đó lại nhầm ngày 17 tháng 11 vía phật A Di Đà. Tôi liền đem gà bán hết và không làm nghề nấu cháo gà nữa, bắt đầu ăn chay trường tụng kinh, trải 6 năm như vậy.
Chết Đi Địa Ngục Lần Thứ Nhất
Thời gian sáu, bảy năm tu cư sĩ tại gia, thường ngày tụng kinh Di Đà, Phổ Môn là niệm Phật, lần lần tụng đến kinh Địa Tạng, Pháp Hoa. Tính ra từ 17 tháng 11 năm Mùi cho đến ngày 23 tháng 4 năm Dần, khi đó vào lúc 6 giờ chiều, tôi đang ngồi niệm Phật, bỗng thấy từ đâu chẳng biết, đứng sững trước mặt tôi một vị mặt đen như than, lớn tợ mâm, bụng bự chòm hòm, muốn chụp tôi. Sợ quá tôi la oai oải, náo động cả xóm, rồi té xuống đất bất tỉnh. Bỗng nghe tiếng con kêu khóc thấy mình đang đứng trước cửa, có một số người rất đông, biết đây là người âm chứ không phải người dương, là ma quỷ gì đây, tôi không rõ. Họ đang xầm xì với nhau. Nhìn trong nhà thấy con đang ôm đầu tôi khóc và kêu: “Má, má” còn lối xóm, người đánh lưng bóp cẳng, thoa tay, cạo gió, đủ thứ. Tôi rất đau lòng biết mình đã chết, có lẽ vì công tu quá ít mà tội lỗi thì nhiều, thôi bây giờ ráng niệm Phật, xin Phật cứu độ cho, chớ không dám nhìn vào xác nữa. Khi nhìn ra ngoài niệm Phật thì thấy các vị thần đổi sắc mặt, vui vẽ kêu tôi: “Sư nữ, Sư nữ, ngài hãy bắt hơi thở đi”. Tôi suy nghĩ có lẽ là ma hay quỷ gạt mình đặng bắt hồn chớ gì, bèn nói: Các ngài làm trước rồi tôi làm sau. Khi ấy tôi thấy các vị thần đều hòa hơi thở như lúc ngồi thiền, tôi liền làm theo. Có một vị cõng tôi lên, các vị khác xách tay tôi bay bỗng lên mây hướng về phía Tây Nam lướt tới có 6 vị đi trước, 6 vị ở giữa với tôi và 6 vị đi sau trải qua mấy lớp mây rồi ra khỏi đáp xuống. Lúc ấy tôi nghe như thần nói đã tới ranh giới nước Mã lai tôi nhìn xuống cũng còn thấy nhà cửa, cây cối, ruộng vườn, kẻ qua người lại, bay một lúc nữa thì thấy biển mênh mông, những cù lao rải rác đó đây, lô nhô dưới biển tàu xuôi ngược, đèn đuốc lập lòe, vì trời đã tối. Bay một đỗi xa hơn, không còn thấy chi nữa, chỉ toàn là biển cả mênh mông, mây nước một màu bầu trời đen thẩm thật lạnh lùng khiếp sợ. Bay một lúc lâu tuyết xuống dày đặc cả mình lạnh buốt, tay chân tê cứng chịu không nổi, nên buông tay nhào xuống biển.
Khi đó chư thần vớt tôi lên đem vào đền vua được biết đây là Long Vương hỏi: Chư thần bắt hồn chúng sanh ở cõi Diêm Phù sao không bỏ trong hồ lô mà để hồn ở ngoài như vậy, đi qua biển lạnh chịu sao nổi? Lúc ấy Chư thần trả lời sao tôi nghe không rõ. Kế đó Long Vương bảo một vị rồng bề ngang độ 3 thước, bề dài hơn trăm thước và tôi cùng 18 vị thần lên lưng ngồi, Xong xuôi rồng bay tới chân núi thì dừng lại, các thần cõng tôi bay xuống. Ngọn núi to lớn vô cùng, xa xa là bể cả, được biết đây là núi Thiết Vị. Khí trời ở đây lạnh lắm, sương sa tuyết đổ, trên chót núi tuyết đóng trắng phau. Cảnh trời u ám. Có một điều lạ là khi tôi đến biển thì trời đã tối mà khi đến núi này lại thấy cảnh mờ mờ. Chư thần cõng tôi bay vòng quanh núi, đến một cửa đá rất lớn, thần gõ 3 tiếng thì cửa đá mở ra. Thần hỏi: “Sư nữ có sao không?” Tôi đáp: “Thưa ngài tôi lạnh lắm chịu không nổi”. Có một vị thần lấy ra cái y ở trong tay áo đưa tôi đắp. Các ngài cùng tôi vào trong núi thì nghe các vị thần nói: “Bồ Tát đến rồi”. Vào trong núi thấy hào quang sáng rực một vùng đầt rộng lớn bao la ở đây nghe ấm áp hơn bên ngoài. Nhìn vào trong thấy đền đài nguy nga, to lớn, trước đền hai cái tháp cao, có hai vị Bồ Tát đang ngồi ngang nhau. Hào quang tua tủa đổ hột. Tưởng mình được về tây phương, lòng mừng khấp khởi, định chạy đến chỗ Bồ Tát ngồi mà lạy.
Quả Báo
Phía ngoài hai vị Bồ Tát ngồi, sau lại có một đàn gà, vịt rất đông, còn phía trong xa là đền rồng của vua Nhứt Diện, vì thấy Bồ Tát tôi quá mừng mà không thấy đàn gà, vịt chận mình phía trước, mỗi con lớn bằng con nghé, tôi vừa đi tới nghe chúng nó nói: “Dữ hôn, chúng tôi đợi nhà ngươi từ tháng 10 năm Sửu đến tháng 4 năm Dần mới gặp. Chúng tôi được nghe Nhứt Điện Tần Quảng Vương nói nhà ngươi đã quy đầu Phật pháp mà tu hành. Nhưng trước kia nhà ngươi ỷ mạng sát hại chúng tôi, nào cắt cổ, nhổ lông, phân thay, xé thịt để đem lại sự giàu có cho mình mà chẳng chút xót thương đến loài sinh vật yếu đuối ngu khờ này. Ngày nay nhà ngươi xuống đây, chúng tôi phải phân thân trả hận”. Nói đến đó, chúng nó ào lại vây quanh, con thì mổ, con thì đá, lớp gà, lớp vịt, mổ bươi cào cấu tôi đau đớn vô cùng. Không còn chịu nổi nữa, liền té quỵ xuống, chúng nó leo lên mình nó chà, nó đạp, bươi, mổ xé, cắn nên tôi ngất đi, nhưng lạ lùng thay, tôi còn nghe văng vẳng tiếng Bồ Tát Quán Âm nói: “Này các con vật kia, hãy ngưng lại mà nghe ta nói hai điều. Điều thứ nhất, là các người tự do trả hận, nhưng tất cả đều phải đứng qua một bên, con này mổ rồi đứng qua bên kia, tới con khác mổ, như vậy mới công bình, số các ngươi là một ngàn mười một con, mà một con cứ mổ hoài, còn con khác không mổ được rồi cứ kiện thưa mãi ai ở đây mà phân xử cho nổi.
Trả thù xong rồi, tùy theo nghiệp lực của các ngươi mà đi đầu thai, con nào còn kiếp thú thì làm thú, con nào mãn kiếp được tiến lên làm người, đó là điều thứ nhất. Còn điều thứ hai là các ngươi không trả hận, để ta cứu nó sống dậy, nó sẽ tụng kinh cầu siêu cho các ngươi tiến lên làm người hết, sau này nó sẽ làm thầy các ngươi mà độ các ngươi tu hành. Trong hai điều, các ngươi muốn điều nào tùy ý, chớ luật công không ép”.
Bồ Tát nói đến đó thì chúng nó dang ra xa và không mổ nữa. Bồ Tát bảo tiếp: “Các ngươi cứ từ từ mà trả hận đi”. Các con vật trả lời: “Bây giờ tôi muốn tên này tỉnh dậy để cầu siêu cho chúng tôi được làm người, chớ mang lớp thú hoài, khổ quá!”. Bồ Tát bèn sai vị thần đem nước rưới vào mình, tôi liền tỉnh dậy. Nhớ lại mình đã cắt cổ gà, vịt quá nhiều lòng hết sức ăn năn, tôi bước tới trước mặt Bồ Tát mà lạy. Bồ Tát Quán Âm dạy rằng: “Nhờ người thức tỉnh tu hành, thọ trì kinh pháp trong 6 năm và cũng may là các con vật này nó họp lại đây kiện ngươi, xin trả thù có một lần. Bằng không, tự nhiên sau này ngươi phải đầu thai làm thú trong một ngàn mười một kiếp để thường mạng, thì biết bao giờ mới trở lại làm người mà tu hành. Vì chúng sanh mê muội, không rõ luật nhân quả, cứ tưởng chết rồi là hết, cho rằng: “Vật phải dưỡng nhơn” rồi thẳng tay sát hại, chừng khi quả báo đến thì kêu Trời, kêu đất ai cứu được. Nhà ngươi có biết các con vật ấy là chi của ngươi không?” Tôi đáp: “Bạch Bồ Tát, con chỉ biết nó chỉ là con vật thôi”. Bồ Tát nói: “Nó là Ông Bà, cha mẹ, nhiều đời, nhiều kiếp. Trước kia nó cũng sát sanh như ngươi nên phải hóa thân làm thú, nay ngươi nhìn chẳng ra nên đành tâm sát hại chúng. Ngày nay ông bà, cha mẹ của ngươi lại kiện cáo ngươi để trả thù, thế gian là trả vay vay trả như vậy đó. Chúng sanh cõi Diêm Phù ưa sát hại sinh vật cho cha mẹ, chồng con ăn bổ dưởng thân thể, hoặc bắt cá cua để nuôi cháu. Vì thương mà hại, đó là mình hại mình, hại luôn cả cha mẹ, thân quyến đều phải chịu tội chung. Bây giờ ngươi hãy tụng kinh cầu siêu cho chúng nó được tiến sanh làm người, giảng cho chúng nó nghe một bài, khuyên chúng nó ráng lo tu Phật và quy y Phật, Pháp, Tăng cho chúng nó.
Kết Án
Xong rồi, tôi trở vào đến ngay Bồ Tát, lại nghe ngài phán rằng: “Người tạo tội ác tày trời, nay dám nguyện trả xong cho một kiếp, có chịu nổi không?” “Bạch, con chịu nổi”. Bồ Tát nói: “Vậy thì vào Nhất Điện Tần Quảng Vương mà lãnh án”. Đến Nhất Điện tôi quỳ xuống nghe ngài phán án: “Tội lỗi của người rất lớn, nay ngươi nguyện trả xong trong một kiếp thì cứ khai đi”. Tôi bèn khai: “Bạch Diêm Chúa, con sát sanh vì con giết vật rất nhiều, tội cắp vì buôn bán gian xảo, tội tà dâm vì có 7 đời chồng, tội nói láo vì con nói láo hơn ai hết đã vậy mà con còn uống rượu nữa”. Nói đến đâu thì có vị phán quan giở sổ xem đến đó, kế Diêm Chúa quở: “Còn tội bán đồ lậu chợ đen sao không khai, mua một bán mười làm cho kẻ nghèo không đủ tiền mua, tội ấy như tội ăn cướp lòng độc như rắn, muốn đầy túi mình, chẳng biết thương ai”. Tôi nói: “Bạch ngài, tôi xin chịu tội”.
Nhất Điện bèn phán: “Tôi sát sanh rất nặng, theo lẽ thì phải thường mạng, nhưng hôm nay ngươi xuống đây cho chúng nó trả hận, và ngươi cầu siêu cho chúng nó như đã xong, xong còn dư báo, nếu sau này ngươi tu hành độ chúng nó thì dứt hết oan gia bằng thối thất thì phải thọ sanh thường mạng.
Nhờ lòng hiếu thảo nên nay trừ được tội gian tham và tội bán đồ lậu. Hằng ngày niệm Phật rất nhiều nên trừ được tội nói láo. Còn dâm dục tuy có tội mà không, vì đó là ngươi trả nghiệp. Vậy ngươi hãy lắng nghe ta nhắc lại tiền kiếp của ngươi: Trong 6 kiếp kia ngươi quy y theo Phật, Pháp, Tăng mà tu hành, nhưng tiếc thay, kiếp vừa qua ngươi xuất gia từ 8 tuổi cho đến 42 tuổi tu hành tinh tấn, giới hạnh thanh tịnh, độ chúng cũng đông cho nên được làm Hòa thượng, trụ trì chùa Tổ Đình vùng Phú Thọ Chợ Lớn. Nhờ công đức năm kiếp trước cho nên kiếp thứ sáu vừa qua được thông minh sáng suốt, tinh thông kinh luật luận, nên được bá tánh sùng bái, các vị tăng ni mến phục. Vì học giỏi được mọi người kính nể, người sanh cống cao ngạo mạn, tưởng mình là Phật, lấy làm tự đắc buông lung, không kềm tâm thúc ý, để tâm ý dong ruổi theo trần cảnh, giới luật buông xuôi, tâm đạo giải đãi, lòng phàm bừng dậy, đắm sắc tham tài, mới phá giới, phạm trai mà tư dâm với cô gái 20 tuổi ở gần chùa. Lấy của thường trụ mà nuôi gái tơ, dụng của Tam Bảo để mua chuộc ái tình cho đến 70 tuổi mới chết. Khi chết xuống đây phải ở địa ngục thứ chín trong 28 năm để đền tội lỗi, từ 42 đến 70 tuổi. Vì lẽ trên nên 7 đời chồng của ngươi trong kiếp này là 7 người đệ tử ruột của ngươi đi đòi nợ trong kiếp vừa qua đã cung phụng cho ngươi đủ thức ngon vật lạ. Theo lẽ kiếp này ngươi phải làm gái ở lầu xanh mà trả nợ bá gia. Nhờ ngươi sớm thức tỉnh tu hành, hồi 17 tuổi có quy y với Đại Đức Thích Hoằng Nghĩa mà ngài dậy ngươi niệm Phật và tụng chú Đại Bi. Nhờ thế mà qua khỏi nghiệp ở lầu xanh, nhưng phải chịu nghèo khổ buôn bán tảo tần để trả nợ.
Chịu Quả Báo
Nhất Điện, Tần Quảng Vương phán tiếp: Ngươi hãy nghe cho rõ lời trẫm phán: Trong lúc làm Hòa Thượng mà còn đắm sắc đàn bà nên lãnh tội đui. Đã là hàng Đại Đức trụ trì ngôi Tam Bảo mà đêm đêm sang nhà gái ăn thịt uống rượu mà miệng còn thốt câu: “Vật dưỡng nhơn”, không làm gương cho người thế, còn xúi người làm ác nên lãnh tội câm. Đã xuất gia đầu Phật còn thích nghe tiếng nỉ non êm ả của đàn bà con gái nên lãnh tội điếc. Theo lẽ kiếp này ngươi phải làm gái ở lầu xanh, kiếp thứ hai làm người đui mù, kiếp thứ ba chịu câm và điếc, nhưng ngươi biết sớm ăn năn tu hành theo Phật và cũng nhờ theo lời đại nguyện của người xin trả nghiệp trong một kiếp, thôi hãy lãnh án mà trở về dương thế làm gương cho người đời, nếu biết ăn năn cố gắng tu hành thì xuống đây sẽ định lại”. Tôi nói: ” Bạch Diêm Chúa, tội câm và điếc tôi xin lãnh, còn tội đui xin Ngài khoan hồng cho tôi”. Nhất Điện phán: “Vì nghiệp lực của ngươi Trẫm không thể nào tha thứ được, ngươi hãy đến Bồ Tát mà xin”. Nghe lời Ngài tôi bèn đến lạy Bồ Tát Quán Âm. Ngài hỏi: “Ngươi muốn sáng mắt để làm gì?” ” Bạch Bồ Tát con thấy chúng sanh nơi địa ngục quá khổ sở nên xin được sáng mắt để tụng kinh Pháp Hoa cầu nguyện cho chúng sanh mau sớm siêu rỗi”. Đức Địa Tạng nói: “Nên có lời đại nguyện phải đốt tâm”. Liền đó có một vị thần bưng cái ô như ô trầu đến quỳ trước Bồ Tát Quán Âm, vị khác đến gắp một cục lửa đem đưa tôi bảo nuốt. Thấy lửa thì sợ nhưng không dám cãi, cứ nhắm mắt, há miệng, cục lửa vừa bỏ vào miệng tôi nghe nó chạy tuốt xuống bụng, liền từ đầu đến chân phát ra lửa ngọn, cả cơ thể tôi rung động thật kinh sợ vô cùng. Khi ấy tôi hối hận nghĩ rằng: “Phải dè đừng xin, vì xin khỏi đui mà chắc phải chết”. Vừa nghĩ thế, vị thần gắp cục lửa thứ hai cho tôi nuốt, lửa cũng bốc lên dữ dội và đến cục thứ ba cũng thế. Làm cho tâm thần tôi tán loạn ngồi không muốn vững. Nghe Bồ Tát bảo: “Nghỉ một chút” tâm trí tôi lúc đó hoang mang, tay chân rụng rời. Vị thần đứng kế bảo: “Ngài ráng tỉnh tâm niệm Phật chớ còn nuốt nữa”. Tôi nghe như vậy định thế nào cũng chết, vì mình là người đại ác nên nay phải trả nghiệp thời đành phải chịu vậy. Vừa nghĩ tới đó kế vị Thần gắp cục lửa bảo tôi nuốt nữa nhưng lạ thay, tới cục lửa thứ tư này nghe trong mình không sao hết, tôi nuốt như mình ăn cơm vậy, dẫu có nuốt bao nhiêu nữa tôi cũng không sợ. Ban đầu còn đếm, một lúc không biết đã nuốt bao nhiêu. Chợt nghe Bồ Tát bảo: “Thôi cho ngươi an tọa”. Tôi liền trở lại chỗ ngồi, lạ một điều là chỗ tôi ngồi khi đi thì ghế mất. Khi ngồi thì ghế lại hiện ra. Ngồi xong có một vị thần ở phía sau bưng hộp ra hiện trước Bồ Tát Quán Âm xem và nói: “Tham, sân, si của người hãy còn, ba cục đem là chỉ lòng tham, sân, si của người đấy! Còn cục đỏ này là chỉ người sẽ sanh lên cõi trời, 36 cục trắng kia chỉ lòng trong sạch của người. Vì người quá sợ tội nên quyết chí tu hành, lòng trần không còn nghĩ đến. Như vậy cũng tốt, nhưng phải tinh tấn tu hành cho ba cục đen này, hóa trắng thì ngươi mới hoàn toàn trong sạch, và vì lời Đại nguyện nên phải khám phá Địa ngục”. Lúc ấy tôi ngẩn ngơ, tôi biết phá Địa ngục bằng cách nào? Nghe chư thần nói: “Ngài hãy dùng gươm Trí huệ mà phá”. Tôi bèn suy nghĩ bây giờ cứ cố gắng niệm Phật, liền đến lãnh ấn nơi Nhất điện cùng các chư thần đi khám phá Địa ngục.
Bảy Tầng Địa Ngục
Ngục Thứ Nhất.
Khi đó hai vị quan đi trước dẫn đầu, 2 quỷ sứ cùng 18 vị thần vào ngục. Trong ngục thứ nhất không có sự hành phạt, chỉ gồm có 4 số người:
1) Số công.
2) Số oan
3) Số ưng.
4) Số phạt.
Số công là mãn số rồi chết và cũng không tạo nghiệp sát nhơn. Số oan là kiếp trước không giết người, nhưng kiếp này bị người giết. Số ưng là vì kiếp trước giết người, nên kiếp này bị người giết lại để trả nghiệp. Còn số phạt là khi chết oan mà không chỉ theo chư thần xuống địa ngục, cứ mãi lẫn trốn ở cõi Diêm Phù tìm người trả hận, hay phá quấy người, bận cho chư thần phải quan sát, nay bị bắt xuống đây để chờ xử phạt. Đó là địa ngục thứ nhất.
Ngục Thứ Hai.
Trong ngục thứ hai cũng có bốn số như ngục thứ nhất, nhưng còn ở ngục thứ nhất là xử án, khi xử án rồi qua ngục thứ hai chờ lãnh án mà đi, hoặc được lên làm người, hoặc vào ngục khác mà chịu tội, hoặc qua ngục nhơn hiền tu thêm. Có một vị quan đi theo nói: “Nếu vong này có lòng hỷ xả, trước kia mình không giết ai, nay bị người giết, sự chết sống ở đời chỉ là giả dối, nay không hận thù, dù vong ấy có tạo tội cũng được ân xá qua cảnh nhơn hiền tu thêm, chỉ có tội ngũ nghịch không trừ được.
Còn vong nào cứ xin đi trả thù thì Nhất điện Tần quảng Vương cho quỷ sứ dẫn vào ngục ngay không xét xử, nếu chúng sanh cứ mãi gây thù kết oán thì cõi ta bà biết ngày nào dứt được chiến tranh đáng thương xót chúng sanh bị giam cầm nơi địa ngục những vong cứ mãi hận thù.
Ngục Thứ Ba.
Trong ngục thứ ba có một số người rất đông sau một thời gian bị hành phạt ở các địa ngục tùy theo tội ác của họ, nay chờ xét lại rồi lãnh án để sanh làm người hay qua cõi nhơn hiền tu thêm. Số người này lo đập gạo nấu cơm (vì hột gạo ở đây như trái dừa khô ở dương thế). Nấu xong, đem phát cho các vong ở các ngục ăn. Mỗi địa ngục rất lớn ước bằng châu thành Mỹ Tho vậy, đó là đại địa ngục. Trong một đại địa ngục chia ra làm 16 tiểu địa ngục. Mỗi địa ngục các vong hồn nhiều thôi vô số, ngồi có hàng có lớp, gục tới gục lui thật là sầu khổ.
Qua ba ngục trên tôi đều khuyên các vong niệm Phật. Tôi nói: “Tôi coi các vong ở địa ngục này như bà con, cô bác của tôi vậy. Cô bác hãy niệm Phật, có niệm Phật tôi mới được tiêu trừ, tôi bèn niệm:
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô tầm thinh cứu khổ cho tất cả chúng sanh nơi địa ngục này Quán Thế Âm Bồ Tát.
Nam mô Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát.
Nhờ lời khuyên của tôi mà các vong đều niệm theo, hễ vong nào chí tâm niệm Phật, thì ra khỏi địa ngục ngay, còn vong nào cứng cỏi hay vì nghiệp chướng quá nặng nề mê muội không niệm được thì vẫn ở trong địa ngục. Nhờ thế mà trong ba ngục đầu các vong được ra rất nhiều.
Ngục Thứ Tư.
Trong ngục thứ tư hành phạt những người hủy hoại cơm gạo, đồ ăn uống, phải chịu tội khổ ăn dòi, chẳng hạn kẻ nhiều người ít. Có người một diệm kẻ một khạp, một lu lớn, cho đến kẻ nặng nhiều không kể xiết, ước nhiều như chợ Mỹ Tho vậy. Được biết tội nhân khi ăn hết dòi đó rồi, nếu còn tội khác phải đến ngục khác chịu tội, như hết thì đi đầu thai chịu quả báo xấu xa, bần cùng khổ sở.
Một số đông người vì tội nấu rượu, không biết bao nhiêu là lu, người một lu, kẻ hai lu đến 5, 6, 7 lu để dài dài ước chừng 3 cây số ngàn, hàng ngàn, hàng trăm chứ không phải đôi ba, được biết khi uống hết rượu trong lu, nếu còn tội khác thì đến ngục khác chịu hành nữa, còn như hết tội đi đầu thai làm thú hay làm người ngu dốt chẳng hạn tùy theo nghiệp.
Tôi thấy như vậy lòng chua xót vô cùng bèn khuyên các vong niệm Phật, hễ ai nghe lời niệm Phật theo tôi thì tự nhiên dòi trong khạp tiêu mất, rượu trong lu vơi cạn, vì thấy sự mầu nhiệm như thế nên nhóm này niệm Phật truyền đến nhóm khác. Tôi cũng bươn bả đi khắp nơi, vừa đi vừa niệm Phật và khuyên các vong hồn niệm Phật. Nhờ thế cửa ngục thứ tư này ra khỏi một số rất đông.
Ngục Thứ Năm.
Khi vào ngục thứ năm, ôi! Vô số người bị mang gông tra cùm, do vì tội phao phản thêm bớt, nói gian dối làm người phải bị tù đày, mang gông đi không nổi, bị quỷ sứ ở sau đánh tới, cứ một bước bị đánh một cái, đến bước không nổi, té xuống thì bị đánh liên tục bất tận đến chết đi sống lại, cũng có một số bị nhốt vào lồng sắt vì lúc còn sống bắt thú nhốt vào lồng để chơi cho vui thích, tôi cũng khuyên bà con niệm Phật, hễ ai niệm theo tôi, thì gông cùm tan rã, lồng sắt vỡ ra. Đây tôi chỉ nói sơ lược ở ngục thứ năm.
Ngục Thứ Sáu.
Vào ngục thứ sáu, được nghe tội báo ở đây là do sát sanh hại mạng để ăn uống như: Trâu, bò, heo, chó, gà, vịt, rắn, rùa,… số nào giết trâu, bò, ngựa, chó thì vít lên núi lửa, giữa núi lửa có một cột đồng rất lớn, lửa cháy hừng hực. Số nào chỉ ăn mà không giết thì vít ở ngoài cột đồng, số nào vừa ăn vừa giết thì vít ngay lên cột đồng, lửa cháy xèo xèo, mùi hôi khét xông lên. Ở đây cũng có một số người bất hiếu chửi cha mắng mẹ hoặc bỏ cha mẹ bơ vơ khổ sở, cũng bị hình phạt như vậy. Thật khó mà khuyên họ niệm Phật vì nghiệp lực quá nặng, chỉ có một số ở ngoài còn khuyên niệm Phật được. Hễ số nào niệm Phật thì ngưng hành hình, còn không niệm thì quỷ sứ cứ tiếp tục hành phạt mãi. Đi một đỗi nữa gặp một số người rất đông: Số thì giữ gà vịt, số thì giữ heo bò, dê ngựa…Tôi cũng lấy làm lạ mà nói: “Ủa? Ở địa ngực cũng có nuôi heo gà, bò dê nữa hay sao?” Có vị quan đi theo trả lời: ” Không phải, đây là những chúng sanh, khi còn sống nuôi bò dê heo gà vịt để sanh hại chớ không sát sanh. Chúng phải ở đây mà giữ số thú này, chừng nào số thú này mãn kiếp thú thì mới được đi đầu thai. Đó là chưa kể những tội khác, mà phải đến các ngục kia mà chịu tội nữa”.
Lại có một số người hay đi nghe những trò hát ca tình tứ khiêu động tình dục làm cho người say mê điên đảo, bị quỷ sứ hát lại cho các người giữ thú xem. Nếu hát được thì thôi, bằng hát không được thì quỷ sứ đập tơi bời. Có vị quan đi theo nói: “Những chúng sanh này khi còn sống được giàu sang rồi ăn xài lãng phí, phải chi chúng nó dùng tiền ấy để bố thí cho người nghèo đói hoặc in kinh, tạc tượng Phật, hoặc cúng chùa hộ quý Tăng Ni tu học thì quý báu biết bao! Lúc chết được sanh về trời hưởng phước tu thêm đặng về cảnh Niết Bàn, chớ có đâu mê muội xài phí đồng tiền vô ích mà nay phải vào địa ngục”.
Đi một đỗi nữa đến cầu Nại Hà bắt ngang qua một cái hầm rộng lớn ước chừng 5 mẫu đất, cầu thì nhỏ tròn như cây cau, ở dưới đủ các loại thú vật có từng đàn, đoạn đầu thì bầy trâu, bầy bò, bầy ngựa, bầy voi, bầy cọp, bầy rắn, kế đến là bầy gà vịt heo dê đủ loại, sau cùng là bầy chó, nếu ai giết thú nào, khi qua cầu, ngang qua bầy thú ấy do nghiệp lực tạo ác của mình mà phải té nhào xuống hố, mặt tình cho chúng nó giày bừa, đá đạp. Hễ giết voi thì bị voi dậm, giết chó thì chó xé, giết heo thì heo ủi, giết gà thì gà mổ, giết rắn thì rắn quấn… Cho đến thân thể nát nhừ hôi thúi rồi đi thường mạng, những người nào không sát hại sinh vật thì đi qua cầu được bình an, vì nhờ đã cầu siêu cho đám gà vịt rồi, khi đó có một con chó chạy theo tôi, cái thân thì người ta mà đầu chó, thấy nó tôi phát run, nó kêu: “Cô Ba, Cô Ba, tôi là chó nô đây, cô quên tôi sao?” Tôi nói: “Ủa nô mày chết lâu rồi sao còn ở đây?” Nó nói: “Tôi kiếp trước là đệ tử của thầy Giác Tân, vì lòng tham lấy của Tam bảo, nên phải làm kiếp chó để giữ chùa, kiếp tôi chưa mãn, bị một người thuốc tôi chết, tôi quyết chờ nó xuống đây, trả hận”. Tôi bèn khuyên: ” Thôi mày xin đi đầu thai đi, thù oán làm gì cho khổ, chẳng lẽ mày đợi mãi sao”. Miệng nói mà chân tôi đi riết.
Ra khỏi ngục, gặp Lục Biện, Ngài nói: “Ngươi thấy chưa, chúng nó vì tội sát sanh hại mạng mà khổ sở như vậy. Khi về cõi Diêm Phù, ráng khuyên người đừng sát sanh hại vật và cũng đừng đốt giấy tiền, vì chỉ có tội chứ không có phước”. Sơ lược như vậy.
Ngục Thứ Bảy
Khi đến Thất điện tôi nghe vua Thất điện dạy rằng: “Sư nữ của các ngươi, oai thần đã giảm, nếu vào ngục có xỉu thì nên đưa ra cấp tốc, kẻo nhiễm khí độc”. Bước vào ngục, tôi thấy tội nhơn bị quỷ sứ móc mắt, bẻ răng, cắt lỗ tai, xẻo lỗ mũi, cắt lưỡi, số người rất đông, tôi cũng còn vững tinh thần, đến chừng thấy người cậu (cậu chết tháng 2, tôi chết tháng 4) bị bẻ răng, móc ruột, máu ra lai láng, tôi xỉu luôn, chư thần liền đưa tôi ra.
Nói Chuyện Với Cậu.
Khi tỉnh lại, tôi liền xin với Thất điện cho tôi tiếp tục đi theo ngục thứ bảy, Ngài nói: “Không đặng vì oai thần của ngươi đã giảm, hãy về tu thêm”. Tôi nói: “Tôi có người cậu chết hôm tháng 2, đang chịu tội trong ngục, xin ngài cho tôi trở lại thăm”. Ngài nói: “Không được, để tôi cho quỷ sứ dẫn cậu ra”. Quỷ sứ đưa cậu ra, tôi hỏi: “Hồi đó cậu nói với tôi cậu tụng kinh Pháp Hoa 40 năm, sao nay cậu còn bị đọa vào địa ngục”. Cậu tôi trả lời: “Vì cậu nói láo nên nay mới bị hành phạt như vầy. Cậu còn cái tội khi dễ người đời, lại thêm hốt thuốc cắt cổ nữa. Vậy con về nói với thằng Khanh, thằng Chình con của cậu, phải bán hết gia sản làm chay bố thí, phóng sanh, hoặc ấn tống kinh cúng chùa mà cầu siêu cho cậu, vì của ấy là của mồ hôi nước mắt của người đời, cậu bóc lột họ nhiều quá”. Tôi nói: “Thôi cậu hãy ráng niệm Phật, khi trở về dương thế, tôi sẽ tụng kinh mà cầu siêu cho cậu, chớ con cậu dễ gì tin theo lời tôi nói”. Lúc ấy Thất Điện có phán: “Chúng sanh ở cõi Diêm phù thật quá mê muội, tưởng chết rồi là mất hết, nên thẳng tay tạo điều ác nghiệp, đến khi chết xuống địa ngục ăn năn cũng muộn. Khi về cõi Diêm phù. Trẫm có đôi lời nhắn nhủ với chúng sanh, mỗi ngày phải ráng tu một giờ, hay nửa giờ hoặc niệm Phật tụng kinh trì chú. Ngươi cũng khuyên chúng sanh đừng đốt giấy tiền mà cầu siêu cho ông bà. Nếu vậy Nhất Điện Tầng Quảng Vương đi ăn hối lộ của người thế hay sao? Muốn cho ông bà cha mẹ được siêu rỗi, phải bố thí cho kẻ nghèo đói, cúng chùa hộ Tăng Ni tu học, in kinh ấn tống, mua vật phóng sanh mà cầu siêu thì cha mẹ ông bà có chết bao nhiêu năm cũng được siêu độ”. Đến đây tôi xin kiếu Ngài để trở lại Nhất Điện.
Trở Về Nhất Điện
Khi về đến Nhất Điện, Ngài phán: “Ngươi khám phá địa ngục, thấy sự trừng phạt có công bình hay không?” Tôi đáp: “Bạch ngài, sự hành phạt rất công bình, nhưng chúng sanh tạo ác lúc nào không biết, nay thấy chúng bị hành phạt khổ sở, lòng cũng quá xót thương”. Ngài nói: “Chúng sanh khi còn sống chỉ lo cung phụng cái xác giả tạm mà gây bao tội ác: Nào sát sinh hại vật, nào cướp của giết người, lòng tham không đáy, muốn ngồi không mà hốt của thiên hạ để cho gia đình, thân tộc bè bạn vui say, cuối cùng, cái thần thức phải rơi vào địa ngục”.
Nhất Điện phán tiếp: “Thay vì nhà ngươi phải lãnh tội đui, câm, điếc mà trởû lại cõi Diêm phù trong 10 năm, nhưng nhờ công phá 7 cửa ngục mà chúng sanh được siêu độ rất nhiều, nên giảm được tội đui, chỉ còn lãnh tội câm và điếc trong vòng 3 năm rồi xuống đây sẽ định lại. Nếu tinh tấn tu hành, gia đình tu thiện, tránh sát sanh thì còn giảm nữa bằng không thì mang tật suốt đời”.
Kế ngài phán: “Nhà ngươi biết nhận tội ăn năn cải sửa, có lắm chúng sanh đến đây mà còn chối tội, trẫm bèn cho kiếng chiếu tiền ảnh thấy việc làm của mình trên trần thế, lúc ấy hết phương chối cãi, cũng có nhiều chúng sanh xin sống lại để đem của tiền bố thí cúng chùa. Nhưng xác thân của chúng đã rã rơi, đâu còn mà trở lại, vì một vong hồn xuất ra, quỷ sứ thâu nhỏ lại bỏ vào hồ lô mang xuống vua Đông Nhạc, kế giải qua Tây Nhạc, đến ngày Trẫm phân xử thì gần cả tháng lúc ấy thây thi đã rã, đâu còn mà trở lại. Nên Trẫm cho lên Nguyệt Cảnh Đài, nhìn về quê quán người thì chồng đã có vợ khác, hoặc vợ đã có chồng khác, của cải bị đám con phá tan, gia tài hao mất, tình nghĩa như đám mây bay, thấy cảnh đời như vậy gục đầu mà khóc”.
Tôi bèn nói: “Bạch ngài, tôi có thể xem các thứ ấy đặng không?” Ngài nói: “Đứa ác còn xem được, huống chi ngươi có ác có thiện”. Ngài vừa nói dứt có vị thần đem kiếng chiếu tiền ảnh ra cho tôi xem. Thật là hay quá: Lúc nào tôi làm gì nói chuyện với ai? Tính toán điều gì? đều hiện ra đầy đủ như ở cõi Diêm Phù ta coi hát vậy. Kế ngài bảo tôi nhắm mắt để lên Nguyệt Cảnh Đài, vừa mở mắt ra thì thấy mình đứng trên một tấm kiếng thật to lớn. Tôi đang nhìn qua ngó lại không biết phải xem cách nào thì bỗng có một vị cốt cách như Tiên, tóc đỏ, râu vàng bước tới. Tôi hỏi: “Ngài ở đâu đến đây?” Ông ấy đáp: “Tôi chẳng phải ở đâu, cũng chẳng phải từ đâu đến, hễ có ngài thì có ta”. Tôi nghe nói thế cũng lặng thinh. Ông bèn dẫn tôi xem về ngôi nhà của tôi thật là tỏ rõ vô cùng, thấy xác tôi nằm trên ván đó, chung quanh có bà con cô bác lân cận, cũng có thằng em của tôi ở Thủ Thừa qua thăm, con tôi nó đứng gần bên xác tôi và đang nói năng điều chi đó.
Xong rồi, người dẫn tôi xem Sài Gòn, cũng thấy nhà cửa, xe chạy, người qua kẻ lại, coi đến những đô thị trên thế giới, các đô thị này thật lộng lẫy nguy nga, lớn hơn Sài Gòn xa lắm. Tôi bèn nói: “Hay quá, thật hay quá. Xem được như vầy dẩu có chết hay sống cũng vui lòng”. Ông Tiên đáp: “Hay mà cũng chưa hay, ngài ráng tu chừng nào mà không cần đứng trên Nguyệt Cảnh Đài này mà thấy được tất cả mới thật là hay”. Đến đây ngài bảo tôi trở về, vì đã hết thời gian ấn định. Ngài vừa nói dứt câu thì thân tôi đứng ngay trước Nhất Điện. Nhất Điện bảo tôi đến lễ Bồ Tát đặng trở về cõi Diêm phù.
Trở Về Dương Thế
Khi đến lễ Bồ Tát vừa muốn bạch thì đã câm ngay. Bồ Tát khuyên: “Khi về cõi Diêm phù, ngươi nhớ lời Đại nguyện mà tinh tấn tu hành ba năm sau xuống đây xét lại”. Chư thần đưa tôi trở lại cung Long Vương, được vua Long vương cho rồng đưa qua bể lạnh, nhờ hơi rồng tôi thấy ấm áp hơn bận đi. Gần đến ranh giới loài người, rồng dừng lại, tôi cùng chư thần tạ ơn rồi bay thẳng vào nội địa. Đến nhà tôi chư thần hạ xuống vào nhà, tôi thấy cái xác của tôi nàm ngay trên ván, không cử động chi, nước da xanh mét, tôi bắt rùng mình. Trước kia tuy tôi tu hành nhưng cũng không chứng được cái hồn của mình như thế nào, ngày nay mới nhận được rõ ràng. Cái xác này là giả dối, có hồn nhập vào thì nói năng, cử động, hồn xuất ra thì cứng đờ xanh mét, rồi theo thời gian mà tan rã, chớ có chắc thật chi đâu. Vừa nghĩ thế thì thấy có một vị thần từ trong xác tôi xuất ra (đó là thần giữ xác điều hòa hơi thở, bằng không thì xác bị hoại, tôi về nhập vô không được). Các vị thần ở ngoài xô tôi nhập vào xác. Lúc còn ở ngoài xác, tôi tỉnh lắm có đâu nhức chi đâu, thế mà khi vào xác tâm hồn mê mẩn như người say ngủ, tay chân lạnh tê nặng nề. Cả mình đau nhức, một lúc nghe gân cốt trong mình chuyển, hơi thở nghe điều hòa tôi bèn mở mắt ra, thì thấy con tôi nó đứng kế bên đó. Lòng tôi buồn rười rượi, tự nhiên nước mắt chảy dài, chớ không nói năng gì được.
Một lúc lâu, tôi bàng hoàng ngồi dậy, thấy bà con đứng xung quanh, tôi chỉ lắc đầu, hai hàng nước mắt cứ tuôn rơi mà miệng không nói chi được hết. Trong mình nhức mỏi, các bắp thịt cứng đờ, cổ khô hốc. Chắc con tôi cũng khổ lắm, nhưng chẳng biết nói gì hơn, chỉ lấy mắt mà nhìn. Lúc ấy đồng hồ chỉ 12 giờ ngày 24 tháng 4 năm Dần. Trọn ngày hôm đó và liên tiếp cho đến ba bốn hôm sau, tôi ăn ngủ không được, lòng như còn hải hùng khiếp sợ, hễ nhắm mắt thì thấy Địa ngục hành hình. Con tôi nó thấy tôi quá khổ sở nên nó cầu nguyện ăn chay một tháng, để tụng kinh Địa Tạng cầu nguyện cho tôi, sau một tháng tôi cũng chưa nói được, nó không thối chí, vẫn tiếp tục ăn chay cầu nguyện. Còn tôi hễ nhớ đến chúng sanh nơi Địa ngục thì lòng đau nhói, hàng ngày tôi tụng kinh Pháp Hoa bằng mắt, bằng tâm, chớ không ra lời. Mội ngày tôi tụng một cuốn hay hai ngày một cuốn, do đó tôi và con tôi tụng luôn sáu tháng.
Xuống Địa Ngục Lần Thứ Nhì
Dần, chư thần xuống rước tôi xuống âm phủ, chư thần cõng tôi qua địa phận loài người thì có rồng chờ sẵn mà đưa ngay vào địa ngục. Hai vị Bồ Tát đã đến lúc nào, thấy hai vị Bồ Tát tôi bèn đến đãnh lễ. Bồ Tát Quán Âm phán: “Quý thay, nhà ngươi giữ tròn lời đại nguyện, về cõi Diêm phù thọ trì kinh Pháp Hoa cầu nguyện cho chúng sanh nơi địa ngục. Ta cho người biết, oai thần kinh Pháp Hoa rất lớn, và cũng nhờ ngươi đem hết thân tâm cầu nguyện nên mỗi bộ được siêu rỗ trên hai ngàn vong linh. Nhà ngươi có đứa con đại hiếu, ăn chay tụng kinh cầu nguyện cho mẹ, tội ngươi được ân xá thêm”. Ngài bèn bảo vị thần đưa tôi chung nước uống và rửa mặt. Lạ thay, rửa mặt xong thì tôi nói được. Bồ Tát nói tiếp: “Oai thần của ngươi đủ sức khám phá địa ngục, hãy đến Nhất Điện Tần Quảng Vương mà lãnh ấn”.
Tôi bèn đến Nhất Điện làm lễ lãnh ấn thì ngài hết vui mừng, từ trên ngai vàng bước xuống mà phán rằng: “Trẫm rất mừng cho Hiền Tăng, tưởng đâu 3 năm mới trở xuống nào ngờ chỉ trong 6 tháng. Ngày nay mới biết rõ tâm ngài vì thương xót chúng sanh nơi Địa ngục không quản nhọc nhằn đem hết tâm trí thọ trì kinh Pháp Hoa để cầu siêu cho chúng, bao nhiêu công đức thọ trì kinh pháp của con ngài, ngài cũng nguyện hồi hướng hết cho chúng sanh, thật quý thay! Một điều nữa, Trẫm muốn cho Hiền Tăng lãnh phần in kinh ấn tống để hộ tăng, ni, tu học và hàng Phật tử có đủ kinh sách tu hành, vậy ngài nghĩ sao?” Tôi nói: “Bạch ngài tôi không sợ khó nhọc, nhưng vì tiền tài không có xin ngài hoan hỷ cho”. Nói đến đó rồi thôi, ngài bèn đóng ấn đưa cho vị quan đặng khám phá địa ngục tiếp.
Phá Tiếp Ngục Thứ Bảy
Chư thần cõng tôi bay thẳng đến ngục thứ bảy vì các ngục kia tôi đã khám phá rồi, khi nào đến Thất Điện, Thất Điện Thái Sơn Vương cũng đón tiếp niềm nở rồi đóng ấn giao cho vị quan để vào ngục thứ bảy.
Trong ngục thứ bảy, có một số người rất đông vì tội gian dâm, đàn bà có chồng mà còn đi ngoại tình, đàn ông có vợ mà còn đi phá gái trinh hoặc gian dâm với vợ người thì bị cưa, cắt, xay giã, bầm quết xong lại bị vít ra đổ đống. Những người mưu mô kế hoạch xảo trá cho vay bạc nợ mượn bạc nát lời, hoặc làm bạc giả, chứa bài bạc, hối lộ gian tà cũng bị hành hình như vậy, chết rồi huờn sống, sống lại bị hành hình cho chết, khổ không thể tả. Khi muốn cho sống dậy quỷ sứ cầm một bình nước rưới lên đống thịt, đống thịt liền hiện hình sống dậy rồi cũng bị chặt bằm nữa. Thấy vậy lòng rất xót thương nên tôi kêu: “Hỡi các vong hồn hãy ráng niệm Phật, tôi cũng niệm Phật để cầu nguyện cho tất cả được siêu thoát, vậy các ngươi hãy niệm Phật đi. Vong nào nghe lời niệm Phật thì khỏi bị hành hình, còn vong nào không niệm thì quỷ sứ cứ tiếp tục hành hình đó là nói sơ lược.
Ngục Thứ Tám
Vào ngục thứ tám này không biết bao nhiêu tội nhơn bị hành hình khổ sở. Một cột đồng thật lớn bề tròn chừng 6 thước lửa đốt cháy rực. Quỷ sứ bắt tội nhơn ôm cột đồng, nếu không ôm chúng lấy chỉa ba đâm và vít vào. Kế là những vạc dầu sôi sắp có hàng rất nhiều, quỷ sứ bắt tội nhơn ném vào đấy, hoặc nắm lấy hai chân nhúng đầu vào vạt dầu, chết rồi huờn sống lại tiếp tục hành hình. Đây là tội mưu mô kế hoạch của kẻ loạn dâm để lấy lợi, dụ dỗ gái để đem bán ở lầu xanh, hiếp dâm đàn bà, con gái hoặc thầy thuốc hốt thuốc giết người, phá thai để lấy tiền. Hoặc ỷ giàu có phao phản hiếp đáp người rồi đem tiền chuộc tội, hoặc xúi người kiện cáo chia rẽ anh em hoặc chửi trời mắng đất khi dễ thánh thần… Tội nhơn này lại bị chim ó, bù cắt, chim ưng mổ xẻ nó ăn còn xương chất đống rồi huờn sống dậy để chịu khổ nữa. Tôi cũng có khuyên các vong niệm Phật, nhưng các vong ở đây vì tội chướng quá nặng nề nên số niệm Phật được rất ít, số nào niệm Phật thì quỷ sứ để cho ngồi nghỉ không hành phạt, còn số kia thì cứ tiếp tục hành.
Ngục Thứ Chín
Tôi cùng chư thần vào đến Cửu Điện Độ Thị Vương ân cần tiếp rước ngài phán: “Trẫm nghe có một người ở cõi Diêm phù xuống phá địa ngục, từ lâu Trẫm cũng có lòng trông, đến nay mới được hội kiến thật quý báu thay!” Tôi nói: “Bạch ngài trước kia tôi đi khám phá đến ngục thứ bảy thì trở về vì oai thần chưa đủ ngày nay khám phá tiếp, xin ngài hoan hỷ chỉ dạy cho”. Ngài nói: “Trẫm cũng đi theo nữa trước kia ngài ở ngục này 28 năm ngài còn nhớ không? Hãy vào đây nhìn xem có ai quen thuộc không?” Vừa nói vừa đi vào ngục thì hỡi ôi! Trong ngục thứ chín này toàn là quý vị tu hành một số thì quỳ trên bàn chông, vì trước kia mang lớp tu hành ỷ mình học giỏi khinh khi các vị Tăng Ni, Đại Đức giới hạnh thanh tịnh. Một số khác quỳ dưới cây đèn lưu ly mà tụng kinh, vì lãnh tụng kinh cho người đời mà tụng không đủ. Một số khác bị hành hình đủ cách như ở các ngục khác tùy theo tội nặng hay nhẹ, Cửu Điện Độ Thị Vương chỉ số bị hành phạt mà nói: “Số này mượn lớp tu hành mà phá chúng lạm dụng của thường trụ mà làm việc riêng tư phi pháp, hoặc phá giới phạm chay ở chùa mà ăn mặn, sát sanh hại vật làm gương ác cho đời, hoặc cống cao ngạo mạn khi dễ Tăng Ni thanh tịnh, hủy hoại của đàn na thí chủ, rẻ rúng Bạch y cư sĩ. Tu mà không kính Phật lại hủy phát, vọng ngữ, chưa được mà nói được, chưa chứng mà nói chứng, tưởng mình là Phật khi dễ Thánh Thần, xem thường Trời Đất cho nên ngày nay bị hành phạt như vậy.
Tôi nghe thế bèn khuyên các vong niệm Phật, tôi nói: “Kính thưa quý ngài, tôi xem quý ngài như thầy của tôi vậy, tôi biết quý ngài học giỏi hơn tôi nhiều lắm, cũng vì một chút lỗi lầm chi đó mà phạm giới, vậy hôm nay quý ngài cùng tôi niệm Phật đặng tiêu nghiệp chướng trở lại cõi Diêm phù mà tu nữa cho đến ngày thành chăn đẳng chánh giác”. Tôi khuyên như vậy đôi ba lần mà các ngài cứ gục đầu không chịu niệm Phật, cho nên Cửu Điện ngài phán tiếp: “Chúng mày thật mê muội, có người đến cứu mình mà mình không chịu cứu mình, nếu gọi đây là Tăng Ni bị hành phạt thì không đúng, mà phải gọi là nam và nữ mượn lớp đạo để phá đạo chớ đâu phải Tăng Ni. Tăng Ni thì giới hạnh thanh tịnh, Tăng Ni thì dắt chúng độ sanh, Tăng Ni thì thương yêu vạn loại, Tăng Ni thì hủy mình vì đạo pháp làm gương cho chúng sanh, Tăng Ni thì về cảnh Niết Bàn, chớ Tăng Ni nào ở nơi địa ngục! Thôi ngài cũng đừng khuyên nữa, chúng đã không sám hối tội lỗi lo niệm Phật thì để chúng nó ở đó mà chịu hành phạt. Trẫm có mấy lời khi về cõi Diêm phù nhắc lại lời Trẫm để chúng sanh thức tỉnh tu hành”. Ngài nói xong tôi bèn kiếu từ để sang ngục thứ mười.
Ngục Thứ Mười.
Vào ngục thứ mười toàn là ngạ quỉ, cái bụng lớn như trống chầu, cái đầu tựa cái nôm, cổ lại nhỏ như cổ tai lợn. Chịu đói chịu khát, lửa dữ thường phát ra cháy thân. Nhưng vì tội keo kiệt, bủn xỉn, tham lam thái hóa, một năm chúng chỉ ăn được ba ngày rằm lớn. Tôi thấy vậy quá khổ sở bèn niệm Phật: Nam mô A Di Đà Phật.
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam mô Tâm thinh cứu khổ cho tất cả chúng sanh nơi địa ngục thứ mười này Quán Thế Âm Bồ Tát. Nam mô Đại Nguyện Đại Tạng Vương Bồ Tát.
Tôi niệm như vậy không ngừng ngớt chỉ thấy chúng ngóc cổ lên dòm chứ không niệm được, vì khi chúng mở miệng thì lửa từ trong miệng phát ra cháy thân. Một vị Quan nói: “Thấy chúng khổ thì cũng thương nhưng khi chúng ở cõi Diêm phù làm nhiều tội ác, nào cướp của giết người làm đủ thập ác lại còn khi dễ Phật, Pháp, Tăng không tin nhơn quả, thấy người tu hành thì ngạo ố, thấy ai bố thí thì ngạo ố, thấy ai bố thí thì mỉm môi cười lại còn chửi cha mắng mẹ, sát sanh hại vật cũng quá nhiều. Nếu cho chúng trở lại làm người thì hại chúng sanh không sao xiết kể để cho chúng làm ngạ quỷ ở nơi đây cả ngàn năm xong kiếp ngạ quỷ phải đầu thai làm thú cũng không biết bao nhiêu kiếp, mãn kiếp thú được tiến lên làm người ngu độn tối tăm. Chúng sanh mê muội một kiếp làm ác mà ngàn kiếp phải khổ đau”. Tôi thấy không sao cứu chúng được nên tôi ra khỏi ngục thứ 10.
Vào Núi Lửa
Thập Điện phán: “Nay ngài, đến ngục thứ 10 mà oai thần còn đầy đủ bây giờ phải vào núi lửa mới biết đức của người thấp”. Tôi nói: “Bạch ngài! Ở cửa ngục thứ sáu cũng có núi lửa mà không ai bảo tôi vào, sao đến đây đã phá mười ngục mà ngài còn bắt tôi vào núi lửa?” Thập Điện nói: “Núi lửa ở ngục thứ sau là để hành phạt chúng sanh ác quấy. Còn núi lửa này để thức người tu, ngài vào sẽ biết”. Tôi nghĩ: “Thôi vì mình quá ác nên đành cam chịu”. Tôi bèn quỳ xuống mà cầu nguyện: “Nay con xin nguyện cùng mười phương chư Phật chứng minh cho con, nếu như con có bổn phận về cõi Diêm Phù nói chuyện âm phủ cho người nghe mà tu hành thì vào núi lửa này vẫn bình an, còn như con thiếu phước đức thân này có tiêu hoại xin núi lửa cũng tắt theo để sau này không còn chúng sanh nào phải chịu khổ như con nữa”.
Nhìn vào núi lửa thấy cháy hực, cách xa độ trăm thước mà nóng bức vô cùng huống chi vào làm sao toàn vẹn được. Khi sắp vào núi lửa thì chư thần cũng than thở bảo: ” Núi lửa này nhiều người vào đã tiêu tan ra tro mạt”. Tôi bèn hỏi: “Quý ngài dám vào không?”. Thần nói: ” Chỉ có Phật và Bồ Tát vô được mà thôi chứ chúng ta vào cũng tiêu tan hết”. Tôi nghĩ bụng: ” dầu sao mình cũng phải vào”. Tôi bèn chạy bay vô, thế mà lạ thay! Không thấy nóng chi hết, quá mừng tôi đành đi qua, đi lại coi núi lửa bao lớn, khi vòng vào phía trong thì gặp ngay Đức Chuẩn Đế, tôi bèn quỳ xuống làm lễ. Ngài bèn kêu tôi ma nói: “Nhà ngươi vào núi lửa mà thân còn nguyên vẹn là nhờ sáu kiếp tu vừa qua chớ đâu phải công tu hành trong một kiếp này mà được. Nhà ngươi có biết tại sao kiếp này nhà ngươi ngu dốt không? Vì kiếp vừa qua ngươi xuất gia từ 8 tuổi cho đến 42 tuổi trong sạch lại học kinh, luật, luận rất giỏi rồi sanh cống cao giấu Pháp Đại thừa không chịu truyền ra cho ai biết, chỉ để riêng mình biết để người đời sùng bái. Vì vậy kiếp này phải chịu dốt nát u mê đặng đền tội giấu Pháp của Phật. Ta hỏi ngươi, tại sao Nhất Diện, ngươi không lãnh sứ mạng in kinh ấn tống?” Tôi nói: “Bạch Bồ Tát, con không phải sợ mệt nhọc vì không tiền tài làm sao dám lãnh việc lớn được”. Bồ Tát nói: “Không, ta không cần ngươi có tài sản, nếu như ngươi giữ trọn bổn phận không tham của đời, thời ta sẽ cho chư thần ủng hộ, nhà ngươi muốn chi có nấy, miễn vì Phật Pháp ngoài ra không đặng “.
Tôi bèn quỳ bạch: “Bạch Bồ Tát nếu được như vậy thì con nguyện đời đời kiếp kiếp in kinh ấn tống ủng hộ Tăng Ni mãi cho đến khi Đức Phật Di Lạc ra đời con không hề thối chuyển”. Bồ Tát nói: “Lành thay! Ngươi sẽ được như nguyện”. Tôi vừa bước lên thì ngài mất, nhìn lại núi lửa cũng không còn. Khi đó chư thần hết sức mừng rỡ bay đến tán thán không cùng. Trở lại mục ngục thứ mười, vua Thập Điện nói: “Ngài công đức rất lớn đã khám phá mười ngục cứu thoát rất nhiều chúng sanh, nay vì một đại nguyện mà tiêu tan núi lửa. Vậy còn ngục Vô Gián ngài phải khám phá luôn rồi trở lại đây xem Trẫm cho hồn đi đầu thai làm thú”.
Ngục Vô Gián
Vô Gián, ngục này lớn không thể tả, rộng như biển, cao như núi. Trong biển sâu rộng chúng sanh lặn hụp, mấu trào theo nước cuồn cuồn sôi. Vật dưới biển kỳ hình dị tướng, mỏ như sắt, răng như dao, mỏng tựa gươm rượt bắt tội nhơn cào cấu xé thây, chạy lên bị quỷ lùa xuống, kêu gào ơi ơí, thấy mà tán đởm kinh hồn. Tôi ráng niệm Phật nhưng họ không nghe tôi liền kêu lên: “Các thú dưới biển hãy lắng tai nghe tôi nói đây: Vì các ngươi bấy lâu nay tạo tội nên mới làm thú ở nơi đây, các ngươi muốn trả thù cũng chẳng ích gì, chi bằng các ngươi nên yên lặng cho vong linh bình tĩnh nghe tôi niệm Phật sẽ đặng tiến hóa làm người, chớ như vầy tôi thấy khổ sở quá!” Kêu đôi ba lần các con thú nghe lời tôi, nó bỏ lên bờ, vong hồn nào còn bình tĩnh niệm Phật cũng được lên bờ, xem hình như họ ngủ gục. Xong rồi tôi liền qua bên này có một ngục rất lớn tối đen thăm thẳm, chúng sanh trong đó đông thật đông tiếng kêu gào lạc giọng khào khào, ve ve, rần rần vậy, nói chuyện không nghe được. Không biết làm sao tôi bèn cất tiếng niệm:
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát
Nam mô Đại nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát
Địa ngục liền sáng ra, họ thấy tôi. Họ vừa thấy tôi họ ngoắc, tôi ngoắc họ và kêu: “Lại đây! Lại đây!” Khi đó lại lóng nhóng ló đầu ra, tôi liền bảo họ niệm Phật: “Tôi niệm có 4 câu mà địa ngục được sáng, vậy quý vị hãy ráng niệm Phật đi”. Khi họ niệm Phật vang lên thì cửa ngục mở tung.
Tôi lại sang địa ngục phía bên kia, đây cũng là một trong bao nhiêu ngục, ngục này là núi đá nhiều cục. Mỗi cục đá một người nằm, đá lớn người lớn, đá nhỏ người nhỏ, trên thân người có trâu đá, chó đá, ngựa đá cày bừa, cào cấu thấy ghê tởm.
Vì tội lỗi chúng sanh đây không hề hết được nhiều ngục nhiều hình tôi chỉ kể sơ lược thôi. Ở nơi địa ngục tội nhơn bị hành hình muôn lần sống, muôn lần chết không chút ngừng nghỉ gọi là vô gián vì tội ác ngũ nghịch, phải chịu quả báo như vậy.
Hồn Đi Đầu Thai Làm Thú
Bấy giờ tôi cùng chư thần trở về Thập Điện để xem vong đi đầu thai làm thú trả nghiệp. Tôi thấy quá đau lòng, một số người đông lắm đều phải sanh làm thú. Số giết trâu, giết bò, giết ngựa, giết chó, giết dê, giết heo, rắn, gà, vịt… Mỗi số đứng riêng một nhóm có hàng. Khi cho đi đầu thai quỷ sứ dẫn hồn ra sông Ứ nê nơi dòng nước đỏ, đến đó quỷ sứ múc nước đỏ cho vong uống, đương là người mà uống nước rồi hóa thú, kẻ hóa trâu, bò, người hóa ngựa, heo, dê, rắn, gà, vịt… Những vong chưa uống họ sợ quá bịt mắt không dám ngó thật là thảm thiết, quỷ sứ kéo trì, họ vừa khóc vừa uống để phải chịu mọc lông, mọc sừng… Khi hóa thú hết rồi, một số quỷ sứ rất đông cầm một cây như cây cọ chấm vào lưỡi những con vật làm cho nó không biết nói. Quỷ sứ thâu các hồn nhỏ lại để bỏ vào hồ lô đem đi đầu thai. Khi đó tôi làm liều đến trước Thập Điện mà xin tha cho họ. Thập Điện nói: “Vì nghiệp lực của chúng nó quá nặng nề nên phải chịu đầu thai đền mạng. Nhiều đời nhiều kiếp sát hại sanh mạng nhiều không kể xiết, thậm chí cho đến vật không ăn được chúng nó cũng giết rồi bỏ đi. Tội ác tày trời nên chúng nó phải đền mạng không làm sao được, không ai xin hay thay thế được, dẫu cho cha con đi nữa thì cũng tội ai nấy chịu đành như vậy”. Đến đó tôi bèn từ giã Thập Điện để trở về Nhất Điện.
Trở Về Cõi Diêm Phù Đề
Về Nhất Điện tôi đến lễ đức Địa Tạng và đức Quán Âm, Ngài nói: “Ngày nay ngươi khám Địa ngục xong hãy về nói cho người đời nghe lại và phải cố in kinh ấn tống ta hỗ trợ cho. Ngươi có tâm độ người Địa ngục, nhưng chưa bằng độ chúng sanh ở cõi Diêm phù, vì cõi đó chúng sanh còn tạo tội thì Địa ngục không ngày nào cho hết. Hôm nay ta trợ duyên cho ngươi ba chung nước để ngươi định tâm nhớ việc Địa ngục nói cho chúng sanh nghe lo đi tu hành, quy y, giữ giới ăn chay, cữ sát sanh thì không còn sa Địa ngục nữa. Trong kiếp này ngươi vì trả nghiệp nên kinh luật chẳng thông, bởi vậy không được làm thầy ai hết. Sau này ngươi cũng mở đạo, nhưng đạo của ngươi chỉ dụng Pháp “Phá Địa ngục”. Hiện nay nhơn duyên của ngươi phải theo giáo pháp Đại Thừa dùng phương tiện hóa độ chúng sanh và khuyên người chớ lầm mê đốt đồ mã để cầu siêu vô ích. Khuyên người nhớ tụng kinh niệm Phật, cữ sát sanh và in kinh ấn tống mhư vậy rất dễ tiêu nghiệp chướng sớm được giải thoát.
Gặp Thầy Tiền Kiếp
Bồ Tát nói tiếp: “Ngươi có biết Sư trưởng Minh Ngọc không? Sư trưởng Minh Ngọc là thầy của ngươi ở kiếp tu hành thứ ba, nay đang giáo hóa Ni chúng. Vậy ngươi nên tìm đến thọ giáo để hành đạo”. Tôi nói: “Bạch Đức Bồ Tát, con nguyện vâng lời dầu cho khổ sở hay trãi qua muôn ngàn kiếp con cũng không chán nản, con nguyện làm sao cho chúng sanh sớm tỉnh ngộ quay về Phật Pháp là con vui lòng” Bồ Tát nói: “Lời nguyện của ngươi sẽ thành và ngươi sẽ chứng quả”. Tôi bèn lễ Đức Bồ Tát Quán Âm và Bồ Tát Địa Tạng xong rồi đến từ giã Nhất Diện Tần Quảng Vương để trở về cõi thế. Ngài cũng khuyên tôi về ráng độ chúng sanh tu hành theo Phật
Qua Cảnh Long Vương
Tôi cùng chư thần qua cảnh Long Vương để tạ ơn ngài ba phen cho rồng đưa rước, khi vào đến đền Long Vương cung điện nguy nga, cảng trí tốt đẹp xinh tươi muôn vàn rực rở hơn cảnh địa ngục xa lắm. Đức Long Vương từ trên ngai vàng bước xuống đón chào Ngài nói: Hiền tăng nay trở lại cõi Diêm phù xin cũng vì Trẫm mà độ công chúa cn của Trẫm đang bị đọa ở cõi Diêm phù tu hành theo Phập, hiền tăng muốn cần bao nhiêu Long thần hộ trợ Trẫm sẽ giúp cho. Tôi nói: “Bạch ngài việc độ công chúa con của Trẫm đang bị đọa ở cõi Diêm phù tu hành theo Phật, Hiền tăng muốn cần bao nhiêu Long thần hộ trợ Trẫm sẽ giúp cho. Tôi nói: “Bạch ngài việc độ Công chúa tu hành tôi xin lãnh còn việc xin Long thần hộ trợ xin ngài cũng hoan hỉ tôi không dám ước mong”. Kế đó tôi cùng chư thần tạ ơn Long Vương đã ba phen cho rồng đưa rước, và kiếu từ ngài để trở về cõi thế. Đức Long Vương cùng bá quan tiễn đưa ra tận bờ biển rồi ngài cho Thần Rồng đưa chư thần cùng tôi qua biển lạnh. Khi tới ranh giới loài người, sau khi cả tạ Thần Rồng chư thần đưa tôi về nhập xác như kỳ trước, lúc ấy đúng 12 giờ ngày 13 tháng 10 năm Dần.
Thời gian tôi quên sư trưởng Minh Ngọc vì cứ lo nói chuyện Địa ngục cho đến khi có vì Thánh nữ mách bảo trên Quán Âm tu viện không yên và thiếu hụt, nhớ lại lời Bố Tát nói tôi liền tìm thầy tiền kiếp và sư trưởng Minh Ngọc thọ giáo rồi từ đó lo hiệp sức với thầy hoằng dương Phật Pháp.
Tôi cũng khuyên nhiều chị em in kinh ấn tống, nhờ sự gia hộ của Bố Tát nên được nhiều vị hảo tâm đã và đang giúp đỡ tôi làm tròn sứ mạng lớn lao ấy.
Trước khi dứt lời, tôi xin đem phước lành nầy cầu nguyện cho tất cả pháp giới chúng sanh chống quay về bờ giác.
Nam Mô Bổ Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Cô Ba Cháo Gà Nói
Thích Nhựt Long lược ký
Lời Khuyên
Lão tử nói: “Ngô hữu đại hoạn do ngô hữu thân, ngược ngô vô thân hà hoạn nhì hữu”. “Ta có hoạn lớn do ta có thân, bằng ta không thân làm gì có hoạn”.
Thật vậy, xét kỹ tội lỗi của thân người mà ghê tởm, thử nghĩ một nghiệp sát sanh mà tội lỗi tày trời như Cô Ba cháo gà, huống các tội khác: Nào là đạo tặc, dâm tà, vọng ngữ si mê còn dường nào. Nay đem một khía cạnh tội ác ra mà luận: Chúng ta có thân này, không biết bao nhiêu mạng chết chỉ nuôi có một mình thân sống này mà thôi, cái bao tử của con người là cái nghĩa địa, trong đó có chôn không biết bao nhiêu xương máu. Một bữa ăn của ta chỉ sát hại một ít sanh mạng, nhưng nhiều bữa ăn thành ngày, nhiều ngày nên tháng, nhiều tháng lên năm, rồi nhiền năm thành đời. Từ vô thỉ đến nay chúng ta sanh lên chết xuống bao nhiêu kiếp, tội sát của mỗi người to như núi, lớn tựa biển, vì vậy cho nên lâu lâu công nghiệp khiến nên giặc giã đao binh sát phạt để thanh toán nợ xương máu cho nhau.
Giặc giã đao binh khổ sở này không có thể đem đổ lỗi cho ai, không phải trời làm, đất tạo không phải ai tất cả, mà chính do chúng ta tạo nghiệp sát đã nhiều đời nhiều kiếp. Hiện nay chúng ta có mặt ở thời chiến tranh này là do nghiệp sát mà có; những người đã chết là họ đã trả nợ máu xương nhiều kiếp nhiều đời. Chúng ta còn sống trong phập phòng sợ hãi, lo âu là cũng vì nợ xương máu nhiêu đời nhiều kiếp, chúng ta còn chút phước lành tạm an lạc rồi cứ xuôi tay theo hai chiều ăn ngủ không lo tu hành thì oan gia không sớm thì muộn nó âm thầm đến.
Không phải chúng ta tạo tội rồi cứ chịu quả báo nhất định, mà theo Phật dạy chúng ta còn có phương pháp cải thiện được không khó.
Nho có câu:
“Thế sự vô nạn sự.
Đô lai tâm bất chuyên.
Tạc sơn thông đại hải.
Phi vu đỗ thanh thiên”.
Nghĩa là:
Ở đời không có việc gì kho.
Đều do tâm không chuyên mà thôi.
Có thể đục núi thông ra biển.
Vén mây mù thấy trời xanh.
Lại có câu: “Nhứt chí động khí, nhơn định thắng thiên”.
Nghĩa là: Quyết chí thì có một năng lực mạnh,
mình định lấy nghiệp mình không phải trời làm.
Chỉ vì chúng ta không làm, cứ xuôi tay theo định nghiệp thì thôi bằng muốn cải thiện cho khỏi tai ương, cũng như quả báo nơi địa ngục thì nên cố gắng tập ăn chay, cử sát sanh, thường ngày tụng kinh, niệm Phật nhờ Phật cầu sanh về tịnh độ chớ có trông chờ. Thân người khó đặng, Phật Pháp khó gặp, sống ngày nay khó bảo đảm ngày mai, thân như cá cạn nước, nào có vui gì mà chẳng lo tu.
Cần yếu nên xuất tiền bố thí, phóng sanh để đền bù tội trước. Vì cái mừng được sống không có mừng nào hơn, ví như có người nào bị bắt oan, sắp bị giết, thế mà nhờ lời nói nào đó được tha bỗng, thử hỏi có mừng nào hơn; loài vật tuy nhỏ nhưng khi được tha, được sống cũng mừng nhự vậy. Kinh gọi là: “Hỷ khí xung thiên”. Cái mừng động lòng trời, đem công đức phóng sanh này cầu gì mà không được.
Vậy quý vị nên làm những việc vừa kể trên nhất là phóng sanh, để cầu siêu cho ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, và cầu hiện tại cho gia đình được tiêu tai nạn, quốc gia được an trị, thế giới sớm hòa bình, nhân dân an lạc.
Cổ Đức có câu:
“Nhất thiết chúng sanh vô sát nghiệp.
Thập phương hà xứ động đao binh.
Gia gia hộ hộ thường tu thiện.
Thiên hạ sầu bất thái bình”.
Nghĩa là:
“Tất cả chúng sanh không nghiệp sát.
Mười phương nào có động đao binh.
Nhà nhà chốn chốn đều tu thiện.
Thiên hạ làm gì chẳng thái bình”.
Mong thay!
Thích Nhựt Long.
Cẩn chí
Du Ký Tiên Long Thiên Cảnh
Cảnh Địa Tiên
Hôm nay tôi xin tiếp tục thuật những cảnh trí thanh tịnh mà tôi đến, tận nơi, mắt thấy, tai nghe một cách tường tận (chỗ nào tôi xin nói rõ là chư thần trục hồn và đưa tôi đi, còn xác tôi thì nằm thiêm thiếp ở nhà như người sắp chết).
Trước khi thuật lại những cảnh thanh tịnh đẹp đẽ này, tôi xin nói rõ lý do mà tôi được đến. Nguyên trước kia tôi là người tội lỗi, nên phải chịu trả nghiệp (xem quyển Địa ngục ký thì rõ), sau khi đã đến tội và nhờ lời đại nguyện, tôi phá xong mười cửa ngục và ngục vô gián. Để khuyến khích tôi tinh tấn trên đường tu hành, và cũng để sau này tôi thuật lại cho đời nghe mà thêm lòng tin vững chắc. Cho nên Nhất điện Tần Quảng Vương phê chiếu chỉ cho tôi được viếng cảnh Địa Tiên, Nhơn Hiền và cảnh Long Vương trước khi về cõi thế.
Sau khi lãnh chiếu chỉ, chư thần đỡ tôi bay bỗng lên mây. Từ cảnh Địa ngục qua cảnh Địa tiên phải vượt qua biển mênh mông chỉ nhìn thấy mây và nước.
Đến nơi chư thần đáp xuống nhìn quang cảnh trí thật là xinh đẹp tưởng như cảnh trời nào vậy. Con người ở đây xinh đẹp và to lớn lạ thường. Khác hẳn người Dương thế nhỏ nhít xấu xa.
Người ở đây (phải gọi là Tiên mới đúng) không già, không chết, không bệnh tật, ốm đâu, sống với thiên nhiên, khỏi phải làm lụng nhọc nhằn vất vã, khỏi bận đến cơm ăn, áo mặc, chỗ ở chi hết. Hàng ngày chỉ lo tu hành, luân lạc nghe thuyết pháp, người tu trước dạy người tu sau, người lớn dạy người nhỏ tiếp tục truyền như vậy. Ngoài ra chỉ ngao du ngoạn cảnh, lượm ngọc, thưởng hoa. Nơi đâycó một kho báu rấy lớn không bút nào tả hết được. Ở giữa ngọc chất cao như núi, nhỏ có, lớn có, đủ màu sắc chiếu lên sáng rực một vòm trời, ngọn núi ngọc này được bao bọc bởi một dãy núi vàng, ngoài là dãy núi bạc bao bọc núi vàng như thành trì kiên cố. Tôi nghĩ bụng: “Ở đây châu ngọc chất thành núi mà chẳng ai dùng, còn ở cõi trần chỉ vì một viên ngọc nhỏ mà làm cho con người sanh tâm ác độc đến chỗ giết hại lẫn nhau thật là mê muội”.
Thấy chúng tôi đằng vân vừa đến, các vị Đại Tiên ở đây ra chào mừng tiếp rước, các ngài tưởng tôi là người ở cõi đã tạo nhiều công đức với đời sau khi mãn số được đắc quả về đây. Lúc ấy chư thần theo tôi đến trình chiếu chỉ của Nhất Điện Tần Quảng Vương, các vị Đại Tiên mới rõ tôi là người đi dạp cảnh và còn trở lại cõi Diêm phù.
Được biết thế các ngài còn tỏ ra ân cần trọng hậu, có vị Đại Tiên phán: “Từ xưa đến nay, nào có ai chết đi mà sống lại, để thuật lại cho chúng sanh biết còn nhiều cõi đẹp đẽ vững chắc muôn đời, vì thế chúng sanh ở cõi Diêm phù sống trong giả cảnh khổ đau mà nào có biết chi chi thật là tội nghiệp. Chúng mê muội quay cuồng trong giả cảnh, và ngoài giả cảnh ấy còn bao nhiêu thật cảnh tốt đẹp đạo đức đời đời. Nơi đây, nơi đây không phải khổ vì sanh, già, bệnh, chết; Không phải khổ vì thiên tai, hỏa hoạn, không phải khổ vì chiến tranh, chết chóc, không phải khổ vì đói rét bức thân. Chứng ấy chúng sanh không bám níu giả cảnh nữa mà đi tìm cảnh thật hạnh phúc này.
Nhưng cũng may thay, nay hiền tăng đã đến đây rồi. Khi trở về cõi thế, tôi xin nhắn nhủ đôi lời với người phàm tục: “Ai cũng có chơn tánh Phật, phải ráng tu hành đặng về cảnh Phật, chớ cảnh Địa Tiên này còn thấp thỏi lắm. Cảnh này cũng còn là tạm, nơi để dìu dắt những bậc hiền nhơn nhưng còn kém phước về đương đạo. Chẳng hạn những người khi còn sống ở cõi thế trọn hiếu, trọn trung, hoặc trọng tiết mà không phạm tội sát sanh hại mạng, không hủy báng Tam Bảo khi chết được về cảnh Địa Tiên, hằng ngày lo học đạo tu thêm lần lần đắc quả về cõi Trời mà lo tu nữa. Như chúng tôi đây hằng ngày khuyên bảo nhau tu hành chớ không dám giải đãi sợ bị đọa trở lại cõi Diêm phù thì khó mà tìm con đường giải thoát. Chúng tôi đây vì biết đạo nên sợ tội lỗi mà tinh tấn tu hành, còn chúng sanh ở cõi Diêm phù bị sắc, tài, danh vọng ám ảnh chẳng khác nào con vật nhỏ bị nhốt trong cái tủ tối om, nào có hay biết gì ngoài cái tủ ấy cả một bầu trời bao la quang đãng. Chúng tôi xin hướng dẫn ngài đi dạo cảnh Đại Tiên khi trở về cõi thế thuật lại và khuyến khích chúng sanh ráng lo tu hành, nếu căn cơ còn kém tu không được thì cố ăn ở sao cho phải đạo làm người đừng sát sanh hại mạng hàng ngày tới lui Tam Bảo học đạo lần lần, khi chết chư thần sẽ đem về cảnh Địa Tiên này mà học đạo tu thêm”.
Nói xong các ngài dẫn chúng tôi đi dạo cảnh. Tôi được biết vị tiên lớn nhất cai quản cõi Địa Tiên mặc áo đỏ râu vàng, chân mày bạc, cởi công. Các vị Tiên bậc trung thì mặc áo hồng hồng, y vàng lợt. Các vị tiên nhỏ thì mặc áo xanh, y trắng và không có râu. Chẳng hạn nam hay nữ ai ở động nào thì vào động đó, nói là động chớ thật ra uy nga như tháp to lớn ở cõi Diêm phù. Nhiều vị tiên ngồi thiền ở dưới những gốc cây to. Mặt đất ở đây như phalê cẩm thạch, trong sạch mát mẻ chớ không giống đất đá ở cõi Diêm phù. Nơi khác nhiều vị tiên đi kinh hành niệm Phật, nhiều chỗ ở các vị tiên tụng kinh như ở cõi Diêm phù.
Ở đây cây cối xum xuê tàn lá rậm rạp, trái đặc cây dùng không hết. Lạ một điều là trái nhiều hơn lá, phía dưới gốc cây không một trái rụng, không một chiếc lá rơi, mặt đất đâu đâu cũng bằng phẳng trong mát. Các vị tiên ở đây chỉ lo tu hành không bận tâm đến miếng ăn vật uống, mỗi tháng chỉ thọ thực 2 lần nhằm ngày 14 và ngày 30. Các vị tiên cho biết mỗi lần thọ thực như vậy no hoài không biết đói mà nghe trong thân khỏe khoắn nhẹ nhàng càng ngày càng lớn càng xinh đẹp, những người mới đắc quả mới về đây còn nhỏ nhít xấu xa nhưng vẫn đẹp hơn người cõi thế.
Các ngài dẫn tôi đi lần ra mé biển, bờ biển toàn là vàng có cục, có khối lăn lốc như đá cuội ở bờ biển cõi đời. Trên bãi biển nào cù, rồng, cua biển, rùa, rắn đủ màu sắc. Nếu chúng sanh ở cõi Diêm phù mà nhìn thấy chắc chết giấc. Một vị rồng bề dài chừng 300 thước, bề ngang độ 6 thước, một con rùa như chiếc xe hơi, con cua biển như xe bò. Dưới nước không biết bao nhiêu là cá đủ màu sắc. Cá có vẫy, cá có lông, cá có 4 mắt, cá có tay, cá có cánh, đó là chỉ nhìn sơ qua chớ không đủ thời giờ mà quan sát cho hết. Còn châu ngọc dưới biển cũng nhiều, chư tiên không có thời giờ để mà lượm, Lúc ấy có một vị tiên đi phăng phăng xuống biển, nước biển rẽ 2 bên thật là lạ, bỗng một luồng bạch quang từ dưới sẹt lên, vị tiên cuối xuống lượm lên một hột châu bèn dâng lên Đại Tiên, ngài dạy đem vào kho núi báu. Tôi thấy vậy bèn hỏi:
Bạch ngài, tại sao nơi đây không xài châu ngọc mà chứa thành núi để làm gì?
Vị tiên trả lời: Ở cõi đời này không xài châu ngọc nhưng Thượng Đế phê chiếu chỉ bảo các vị tiên ở đây phải lượm ngọc để dành, sau này đem về Mỏ thi ở cõi Diêm phù tại làng Kim Sơn mà xây thành núi báu cho chúng sanh ở cõi đó dùng. Từ ngày lãnh chiếu chỉ của Thượng Đế đến nay đã ngót 600 năm, hàng ngày chư tiên phải để ra một ít thời giờ để lượm châu ngọc trong các biển chứa nơi đây ngoài ra còn một ngọn núi báu ở cõi Long Vương nữa. Khi Hiền Tăng đến đó sẽ thấy, vì ngày giờ chưa đến nên chưa đem về xứ Mỏ Thi.
Nghe ngài nói vậy tôi bèn hỏi:
Bạch ngài: Châu ngọc này chừng nào đem về xứ Mỏ Thi, mà Mỏ Thi có phải là Mỹ Tho không ngài?
Vị tiên phán:
Ngày ấy không còn xa nữa, mà cũng chẳng gần, Hiền Tăng ráng tu sẽ thấy và ráng khuyên người đời đừng tham ác thì sau này mới hưởng được.
Kế vị Đại Tiên hướng dẫn tôi đi các nơi khác (nói là đi cho dễ hiểu, chớ thật ra bay như gió, chớ không phải bước từng bước như người cõi thế) nơi nào cũng mát mẽ xinh đẹp, đâu đâu cũng có hoa quả đầy đàng, tháp vàng, tháp ngọc hào quang sáng chói, thật trí phàm không sao nói hết được.
Dạo một đỗi vị Đại Tiên mời tôi cùng chư thần dự yến viên, vị Đại Tiên dẫn chúng tôi đến trung tâm, nơi đây lầu cát nguy nga giữa một vườn hoa rực rỡ, bỗng từ đâu bàn ghế mâm trái đầy dẫy, bình chung bằng châu ngọc để theo hàng, tôi lấy làm kinh ngạc bèn nghĩ bụng: “Người đời làm lụng vất vả mới tạo tác được thứ vật kia vật nọ, thế mà muôn vật có chi bền, rốt cuộc rồi cũng đều hư hoại, thân người rồi cũng già chết nào ai sống được trăm năm. Sao bằng nơi tiên cảnh ngày tháng tiêu dao vui thú trong cảnh nước non trăng gió, cảnh đẹp người xinh, không cần nhọc nhằn tạo tác mà muốn vật sẵn dùng, không già, không chết, sống mãi muôn đời thật là sung sướng biết bao”. Vừa nghĩ thế nghe vị Đại Tiên mời tôi vào bàn dự tiệc, lúc ấy vị thần đi gần tôi bảo:
Mặc dầu vị Đại Tiên có lòng hậu đãi Hiền Tăng, nhưng Hiền Tăng đừng thọ thực vật này, vì Hiền Tăng còn trở lại cõi Diêm phù, nếu dùng của này khi Hiền Tăng trở về nhập xác no hoài không đói thì xác thân sẽ tiều tụy ốm đau làm sao tu hành được.
Lúc ấy vị Đại Tiên tiếp đãi rất trọng hậu, ngài mời mọc tôi đôi ba lần thấy nhiều trái lạ đủ màu sắc, mùi thơm ngào ngạt nhưng chỉ lấy mắt mà nhìn.
Thật ra tôi cũng muốn ăn thử một miếng cho biết, nhưng vì chư thần đã nói trước nên chẳng dám ăn. Trong lúc các vị tiên cùng chư thần vui vầy yến tiệc có một vị tiên tươi cười nói:
Tuy cảnh Địa Tiên này so với cõi Trời còn kém lắm, nhưng lấy cảnh Diêm phù mà sánh thì trăm phần không được một. Nơi cõi Diêm phù dù cho kinh thành hoa lệ tốt đẹp đến đâu cũng là giả tạo do đất đá cấu kết tạo thành. Còn nơi đây lầu cát toàn là châu ngọc, vì theo công đức tu hành cao thấp của các vị Tiên mà có lớn nhỏ xinh liïch khác nhau, cũng khỏi nhọc công xây cất, chỉ do tâm biến hóa tạo thành. Tiểu Tiên này trước kia cũng là người ở cõi Diêm phù, khi làm người, khi làm thú, khi tạo ác phải đọa vào Địa ngục đau khổ biết bao, đến khi đắc được quả tiên này nghỉ ra không biết trăm muôn ngàn kiếp phải chịu sanh tử luân hồi, sự khổ sở không bút mực nào tả hết. May nhờ được gặp minh sư dạy bảo tu hành, nhưng vì tu muộn phước ít nên chỉ đắc được quả tiên. Nay hồi tâm nghĩ lại bắt rùng mình rợn óc sợ cõi trần hơn nước sôi lửa đỏ.
Chúng sanh ở cõi Diêm phù sống say, chết ngủ, khi sống say mê danh lợi nào có lo học đạo tu tâm, khi chết thần thức mê mờ như người mê ngủ nào có biết chi chi, đành để cho nghiệp lực kéo lôi vào đường sanh tử. Chẳng khác nào như trẻ con theo mẹ nào có biết đi đâu và đến nơi nào thật là tội nghiệp. Khi Hiền tăng trở lại cõi Diêm phù, khuyên người đời ráng tu, dẩu chưa đủ phước duyên xuất gia đầu Phật vì còn phải làm việc để trả nợ đời phải tập tánh hiền lành, ăn ngay ở thật, hàng ngày tập ăn chay niệm Phật, khi chết cũng được về cảnh Địa Tiên này. Lúc ấy mới biết có trời, có Phật, có Thánh, có Thần, lúc ấy mắt, tai đều sáng mà nghe pháp tu hành. Chớ như chúng sanh ở cõi diêm phù có mắt như đui, có tai như điếc có thấy biết điều chi, Thánh Thần trước mắt nào có thấy, Pháp bảo vang dộinhư song gầm mà nào có nghe, chẳng qua vì bị trần cảnh nhận chìm, hố sâu danh lợi chôn lấp, tình luyến ái trói buộc khó lòng thoát khỏi. Ôi thôi! Sự mê mờ đau khổ của cuộc đời nói sao cho hết!.
Nghe ngài nói thế tôi ngậm ngùi chua xót cho đời và cũng cho chính mình. Sau khi yến tiệc mãn, tôi cùng chư thần kiếu các ngài để còn qua cảnh khác. đây là sơ lược cảnh Địa Tiên.
Cảnh Nhơn Hiền
Sau khi từ giã các vị Đại Tiên, chư thần dìu tôi đằng vân lên mây bay qua cảnh Nhơn Hiền. Cảnh này vẽ đẹp thua cảnh Địa Tiên, nhưng lâu đài nguy nga sang trọng mường tượng như kinh thành to lớn, nhưng các lâu đài này rời rạc uy nghiêm chớ không khít sát như thành phố cõi Diêm phù, người ở đây như bậc giàu sang ở cõi Diêm phù muốn chi có nấy, chỉ muốn là được chớ khỏi nhọc nhằn vất vả làm lụng chi cả. Người ở đây cũng không còn nạn khổ về sanh, già, bệnh, chết, hễ tu hành tinh tấn thì về cái cõi trời, còn ham vui giã đãi không chĩu tu hành thì trở lại cõi Diêm phù, nhập xác đầu thai làm người.
Tôi được chư thần cho biết, nếu người ở thế gian chỉ biết làm hiền, không hại đời, không phái đạo, sống theo nhơn đạo, hoặc tạo được chút phước mọn chi đó. Khi chết được chư thần rước về cảnh Nhơn Hiền tu thêm. Ở đây hàng ngày chỉ lo tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền lần hồi mới được về cõi trời. Hoặc giã khi chết có con cháu biết đạo, đem tiền bố thí, cúng chùa in kinh, tạt tượng hay mau vật phóng sanh mà hồi hương cho vong linh thì cũng được đắc quả về vời cõi trời hưởng phước.
Dẫu về được cõi Trời cũng phải tu thêm nhiều năm, nhiều kiếp (Kiếp ở đây là nói theo cõi đời, chớ các cõi khác không có sanh và tử) mới được về Tây Phương Cực Lạc của Đức Phật A Di đà. Còn nếu về trời ham vui không chịu tu hành đến ngày hết phước cũng bị đọa xuống trần gian chịu khổ nữa.
Người ở cõi Nhơn hiền đẹp và cao lớn hơn người ở cõi Diêm phù, một tháng thọ thực hai lần như cõi Địa Tiên. Hằng ngày không phải nhọc nhằn làm lụng chi tiết. Tất cả cảnh trí, cỏ cây, lầu đài đều do công đức tu hành biến hóa thành. Nơi đây khác hẳn với chúng sanh ở cõi Diêm Phù, nhọc nhằn xây dựng mà cũng không bền.
Đi dạo một vòng gặp các chư thần ở đây ra tiếp đón và hướng dẫn tôi đi dạo cảnh. Đi một lúc đến một tháp báu tôi thấy có một người nữ ngồi tụng kinh, lắng tai nghe biết là kinh Địa Tạng nhưng chẳng thấy quyển kinh. Tôi bèn hỏi: “Ở đây cũng tụng kinh nữa sao?” Người nữ đáp: “Thưa ngài, nơi đây rất cần tụng kinh để thâm nhập giáo lý của Đức Phật và để cầu siêu cho cửu huyền thất tổ. Vì ông nội tôi chết còn bị đọa nơi Địa ngục nên tôi phải tụng kinh Địa Tạng mà cầu siêu cho ông tôi.
Người dứt lời tôi xin kiếu từ để đi nơi khác. Lúc ấy nhằm giờ thọ trì kinh pháp và đi kinh hành nên không nói chuyện nhiều với ai được.
Nào tháp, nào chùa nguy nga đồ sộ, chư thần đưa tôi vào một ngôi chùa to lớn vô cùng và cho tôi biết chùa nầy có đến sáu trăm cây cột. Người trong chùa hành đủ pháp môn của Phật, ai hạp với pháp nào thì đến đó mà hành đạo, tùy theo căn cơ mỗi người, có lớp đang học có lớp đang hành, đó là sơ lược cảnh nhơn hiền
Cảnh Long Vương
Khi từ giả cõi Nhơn hiền chư thần cũng dìu tôi đằng vân qua cảnh Long Vương và được các ngài cho biết về nhiệm vụ của Đức Long Vương đối với chúng sanh ở cõi Diêm Phù.
Đức LongVương là một vị Thánh Đế, ngài là chúa tể các vị Long Vương khác ở khắp biển và sông hồ. Ngài có tất cả 17 Hoàng Tử đều làm vua Long Vương ở khắp nơi trong quả địa cầu và 5 vị Công Chúa thường gọi là Ngũ Long Công Chúa. Hiện nay, Đức Long Vương đang hướng về Phật Pháp tu hành nhường sự cai quản lại cho các Hoàng Tử.
Cảnh Long Vương có một cái hang gió, một hang nước, một hang không khí (nói là hang vì nó giống như cái hang chớ thật ra mỗi cái hang to lớn lắm, và mỗi cái lại ăn thông vào một ngọn núi khổng lồ cao ngút tận mây, bên trong là máy nhiệm màu của Trời đất). Hang gió chuyển biến bốn mùa, vì có bốn cửa xoay chuyển tuần hoàn: Xuân, Hạ, Thu, Đông cho hợp thời tiết. Hang nước luân chuyển nguồn nước biển cả cho được điều hòa. Hang không khí đổi thay khí trời cho chúng sanh mới sống được. Hiện nay con người chết yểu vì không khí nhiễm nhiều khí độc làm biến hoại phần nào không khí thiên nhiên đó là ba hang cần yếu cho con người, thú vật và cây cỏ. Cảnh Long Vương chư thần đông vô số, nào thần rồng, thần rắn, thần rùa, các chư thần này có bổn phận biến chuyển nước và không khí. Còn riêng Đại thần tức thần Long Vương lo hộ trì Phật Pháp các nơi như: Chùa, tháp, những nơi có xá lợi, có tượng Phật, có kinh pháp và hộ trì các vị đại đức tăng ni tu hành chánh pháp, nghiêm trì giới luật. Các Long thần cũng hộ trì cư sĩ giữ tròn năm giới. Người đời gọi là ông tiên hay Long thần chớ thật là Đại thần Long Vương.
Cảnh Long Vương to tát hơn cảnh Địa Tiên, nhưng vì các hang gió, hang nước, hang không khí choáng mất đi nhiều.
Tôi cùng chư thần vào yết kiến Đức Long Vương ngài vô cùng mừng rỡ bèn cho sứ giả thỉnh Hoàng Hậu đến để hướng dẫn tôi dạo cảnh.
Cảnh Long Vương vô cùng xinh đẹp chẳng thua gì cảnh Địa Tiên, trăm hoa đua nở đủ màu sắc, rồng chầu, hổ phục khắp nơi. Hoàng hậu dẫn tôi đi ngay vào cung điện của các vị Công chúa. Một vị Công chúa hiện bị đọa ở cõi Diêm phù còn 4 vị nữa điều đi tu. Cung điện rất to lớn nguy nga, châu ngọc sáng lòe, nào quạt ngọc, chiếu ngà, bình báu đủ loại, cung nữ hằng ngày vẫn còn lo săn sóc cung điện. Bốn vị đi tu nhưng thỉnh thoảng còn trở về thăm cung điện, còn riêng vị bị đọa ở cõi Diêm phù thì bịt đường không còn lui tới. Vì Đức Long Vương sợ con ngài đắm đuối cõi trần không chịu tu hành làm sao trở về ngôi cũ thì ngài sẽ hổ thẹn với trăm quan cùng mười vua thập điện. Bởi cớ ấy nên Hoàng Hậu hết sức thiết tha yêu cầu tôi cố gắng độ cho Công chúa tu hành.
Hoàng Hậu cùng tôi ra khỏi cung điện, đến bãi Rồng, Rồng lớn có, nhỏ có đủ màu sắc rất oai nghi. Nhìn một lúc bắt rùng mình, sợ quá tôi bạch cùng Hoàng Hậu xin đi nơi khác. Dọc theo bãi cát không biết bao nhiêu là rùa, con nào con nấy bằng chiếc xe hơi, nào là kỳ đà, cua biển cỡ chiếc xe bò. Hoàng Hậu dẫn tôi đến một cái hồ rộng lớn chung quanh cây cối um tùm. Dưới hồ nhiều loại cá đủ màu, Hoàng Hậu cất tiếng bảo: “Các ngươi lội cho Hiền Tăng xem”. Tự nhiên thấy cá gom lại màu nào theo màu nấy, mỗi màu thành một đoàn, đoàn này nối tiếp đoàn kia có hàng lối chỉnh tề trông rất đep mắt, như đoàn quân diễn hành tong ngày đại lễ. Mặt nước đang phẳng lặng bỗng dợn sóng ào ào. Khi chúng đua giáp vòng trở lại, chúng vọt mình lên khỏi mặt nước như reo vui chào đón.
Hoàng Hậu bảo:
Các ngươi tiếp tục diễn đi.
Tiếng Hoàng Hậu vừa dứt, thấy chúng lội đứng kết nhau thành vòng tròn, mỗi vòng một màu riêng biệt, kế những vòng tròn chuyển động, vòng sắc này lẫn lộn với vòng sắc khác như một đóa hoa khổng lồ trăm màu lẫn lộn. Thấy vậy tôi hết lời khen và nói: “Bạch Hoàng Hậu! Còn kiểu nào nữa bảo chúng làm luôn cho vui mắt”. Ngài bảo: “Các ngươi quạt nước cho êm”. Bầy cá liền nằm nghiêng trên mặt nước, con này nối đuôi con kia có dọc có hàng ngay ngắn như vải lụa đủ màu dài vô tận. Xem hoài không biết chán, thật công phu tập luyện rất nhiều, nay nhắc lại mà lòng còn vui thích. Kế Hoàng Hậu cho chúng nghỉ, chúng bèn lội lộn lại đủ màu, Hoàng Hậu phán:
Số cá này bắt ở biển đem về đây hàng ngày chư thần đến huấn luyện tập tành chúng, rồi tụng kinh chú nguyện cho chúng nó, dạy chúng nó lần đầu trong thời gian ba trăm sáu chục năm, lúc ấy cho chúng nó uống nước cam lồ rồi đọc chú thì chúng hóa thân người. Khi đã được thành người đem giáo pháp của Phật mà dạy chúng tu hành, đồng thời dạy về pháp hộ trì, đằng vân giá vỏ, khi chúng thông thuộc rồi mới cho đi độ đời đặng đắp bồi công đức. Lớp nào giỏi thì cho đi hộ trì Phật Pháp, số nào kém thì chuyển qua thần cây, thần nông, thần gió, thần nước, thần lửa…
Hễ lớp này tiến hóa lên thì bắt lớp cá khác vào hồ mà dạy nữa. Vì thế từ xưa đến nay cõi Long Vương này đào tạo không biết bao nhiêu Thần để đọ chúng sanh ở cõi Diêm Phù. Một số thần có bổn phận ghi chép điều ác, số khác ghi thiện. Một số hộ trì những vị tu hành và quan sát việc hành đạo của từng người như hàng ngày tụng kinh? Được bao nhiêu? Tu giờ nào? Nghỉ giờ nào? Niệm Phật lúc nào? Được bao nhiêu? Có nghiêm trì với luật hay không? Giữ tròn được giới đạo? Phạm giới nào rồi ghi vào sổ hàng tháng về tâu Thượng Đế. Chư thần ở cõi Diêm Phù tính ra còn đông hơn chúng sanh ở cõi ấy, nếu vị nào tu hành tinh tấn, tham thiền nhật định thì mắt thấy chư thần rõ ràng, như thấy vật ban ngày. Sở dĩ chúng sanh không nhìn thấy được chư thần vì bị sắc, tài, danh lợi làm mê mờ chơn tánh.
Hoàng Hậu phán xong tôi liền từ giã đoàn cá và khuyên chúng tu hành, bỗng chúng ngóc đầu lên khỏi mặt nước và đồng thanh niệm: ” Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát” ba lần, làm tôi giật mình không ngờ lòai cá mà nói được, thật là lạ lùng! Làm Hòang Hậu cười xòa. Tôi thấy chúng khôn ngoan như vậy bèn dừng lại chú nguyện và Quy Y Phật, Pháp, Tăng cho chúng, trong lúc tôi quy cho chúng thấy chúng nghiêng đầu niệm Phật làm tôi cảm động vô cùng. Hoàng Hậu dẫn tôi đến một ngọn núi sáng rực hào quang tua tủa, tôi bèn hỏi:
Bạch Hoàng Hậu đó là núi chi vậy?
Hoàng Hậu đáp:
Không phải là núi mà chính là kho châu vật.
Vì vua Long Vương được chiếu chỉ của Thượng Đế phải cho thần quan sát lượm châu ngọc trong bể cá về chứa tại đây chớ lịnh Thượng Đế đem về bỏ đất Mõ thì ở cõi Diêm Phù, nay đã hơn sáu trăm năm rồi mà chưa được lịnh nên chư thần cứ tiếp tục lượm hoài. Nhưng kho này nhỏ hơn kho báu ở cõi Địa Tiên, chắc Hiền tăng đã được thấy. Kế Hoàng Hậu phán tiếp: “Khi Hiền Tăng trở lại cõi Diêm Phù khuyên chúng sanh ráng lo tu hành trong thời gian chẳng bao lâu nữa thì được hưởng của này. Bây giờ đừng tham ác làm chi mà gây tội lỗi sa vào Địa Ngục ngàn năm”.
Tôi bèn hỏi:
- Bạch ngài chừng nào chúng sanh ở cõi Diêm Phù mới được hưởng của này?
Ngài bảo:
- Cơ Trời chẳng khá nói nhiều, đến năm Quý dậu thì thành công.
Nghe vậy tôi không hỏi nữa, Ngài bèn dẫn tôi đi chung quanh kho báu, tôi thấy nào là sư tử, cọp, rắn, kỳ đà, sấu và nhiều loại thú khác nữa to lớn có sừng, có nanh trôn rất ghê sợ mà tôi không biết tên chi. Con nào con nấy quá lớn làm tôi rùng mình rởn óc, nhưng nhìn lại thấy chúng hiền lành tôi cũng vững tâm. Mỗi khi Hoàng Hậu và tôi đi ngang qua con nào thì chúng đứng lên hai chân trước chắp lại, đầu gục gặc như xá chào, miệng niệm:
Mô Phật, mô Phật!
Tôi lấy làm lạ mà hỏi:
Nơi đây là cảnh thanh tịnh sao có thú quá nhiều?
Ngài đáp:
Đó cũng là sự tiến hóa lần lần, lớp này tiến lên làm người thì lớp khác tiến lên làm thú luôn luôn tiếp nối như vậy.
Tôi thấy lớp thú này khôn ngoan nên cũng dừng chân chú nguyện và quy y Phật Pháp Tăng cho chúng nó và khuyên chúng tinh tấn tu hành đặng sau này tiến lên làm người mà tu nữa.
Đến đó Hoàng Hậu đưa tôi về đến rồng vua Long Vương. Đức Long Vương từ trên ngai vàng bước xuống niềm nở đón chào, kế ngài phán cho trăm quan ra khỏi đền rồng truyền lệnh cho bốn vị Long thần đảo vô cho tôi xem.
Được lệnh bốn vị Long thần hiện hình rồng to lớn vọt thẳng lên mây múa lộn xem thật là đẹp mắt. Ban đầu còn thấy mình rồng rõ ràng lần lần không còn thấy nữa mà chỉ thấy như một cuộn mây lớn chuyển vận lộn nhào tới lui. Lúc ấy giông gió ào ào sóng biển trào lên có cuộn trong thật kinh thiên động địa. Các vị khác đứng xem vững vàng còn riêng tôi như muốn quay cuồng theo gió bèn hạ xuống bàn cẩm thạch mà ngồi nhưng lòng còn hãi hùng khiếp sợ không dám nhìn nữa. Thấy tôi như vậy đức Long Vương bèn truyền lệnh cho Lonh Thần ngưng đão võ. Ngài cùng Hoàng Hậu và trăm quan đưa tôi ra tận mé biển để trở lại cõi Diêm phù. Đây là sơ lược cảnh Long Vương.
Cõi Tứ Thiên Vương
Trong lúc khám phá mười ngục cùng ngục Vô gián, và trong lúc viếng cảnh Địa Tiên, Nhơn hiền cùng cảnh Long Vương, tôi cũng có chú ý tìm mẹ tôi nhưng không gặp, tôi bèn đến Nhất điện Tần Quảng Vương mà bạch:
- Bạch ngài! Tôi có người mẹ tên là Lê Thị Thêm chết ngày 18 tháng 10 năm Tý, đến nay cũng gần mãn tang, tôi cố ý kiếm tìm nhưng không gặp, xin ngài từ bi chỉ dạy cho tôi biết mẹ tôi hiện nay ở đâu?
Nhất điện Tần Quảng Vương phán:
- Cũng nhờ Hiền tăng có lòng chí hiếu, thọ trì kinh Địa Tạng hồi hướng cầu nguyện cho mẹ, nên thân mẫu của Hiền Tăng được về cõi Trời Tứ Thiên Vương hưởng phước mà cữu huyền thái tổ cũng được siêu sanh.
Nghe vậy tôi bèn quỳ xuống bạch:
- Bạch ngài! Tôi có thể về cõi trời Tứ Thiên Vương để tìm mẹ cho thỏa lòng ao ước được không?
Ngài phán:
- Quý thay! Nếu Hiền Tăng muốn đi tìm mẹ thì phải chí tâm cầu nguyện, chừng nào ơn trên ứng chứng mới được đi.
Được Nhất điện Tần Quảng Vương dạy bảo, tôi từ giả ngài để trở về cõi Diêm phù.
Chư thần đưa tôi về đến ngôi gia thì tôi nhập xác, hàng ngày tôi chí tâm cầu nguyện được về cõi Trời Tứ Thiên Vương tìm mẹ. Tôi nguyện như vậy trong thời gian ba tháng. Đến ngày 9 tháng giêng năm Mẹo. Thượng Đế Tứ Thiên Vương phê chiếu chỉ cho chư thần xuống trục hồi tôi ra khỏi xác rồi dẫn hồn tôi về thăm mẹ.
Chư thần dìu tôi bay lên mây đi được một lúc lâu nhìn xuống thấy núi non trùng điệp, đi một lúc nữa chỉ thấy mây đủ màu sắc rất đẹp mà không thấy chi nữa. Nhìn mặt trời thấy to lớn quá, các ngôi sao cũng thật lớn. Tôi định bụng chắc tại nơi đây gần mặt trời và các vì sao hơn cõi thế nên mình thấy lớn. đi một lúc lâu gặp một số Thánh thần đang đứng trên mây, các chư thần dẫn tôi đến trình chiếu chỉ. Các vị này cho đi qua và lấy làm hoan hỉ lắm.
Tôi được các vị thần cho biết đó là cửa Trời, nhưng tôi nhìn lại không thấy cửa nẽo thành trì chi hết mà chỉ thấy khoảng không mây phủ lớp lớp. Đi một lúc nữa thấy cảnh trí trang nghêm xinh đẹp hiện ra thật vô cùng rực rỡ, cây cối ngay hàng, lâu đài uy nghiêm lố nhố. Chứ thần cùng tôi hạ xuống lại trình chiếu chỉ lại một lần nữa rồi bay thẳng đến đền Rồng của Tứ Thiên Vương. Một đền Rồng to tát hiện ra, chung quanh đền đài lớp lớp đồ sộ uy nghiêm đẹp đẽ vô cùng, ánh sang đủ màu trong các đền đài tua tủa chiếu ra như ánh đèn ban đêm nơi đô thị. Nhưng ánh sang ở đây mát mẽ và suốt thấu tận các tầng mây. Mùi hương lạ ngạt ngào làm tâm hồn tôi nửa say nửa tỉnh, tiếng nhạc trời du dương trằm bổng văng vẳng từ xa vọng lại, thật cảnh thiên đường vui đẹp không cùng. Trước đền rồng có rồng chầu, hổ phục, long, lân, qui, phụng đứng có hàng. Những con vật này vừa to vừa đẹp nhiều màu sắc khác lạ cõi đời, chúng thỉnh thoảng rùng mình uốn khúc, con rờ râu mép, con vẫy đuôi múa, xem vẽ ung dung nhàn hạ lắm.
Khi tôi cùng chư thần vào, chúng đồng đứng dậy đón chào. Bước vào trong tôi thấy đền rồng cao vòi vọi rộng lớn vô cùng, xây cất bằng châu báu. Người ở đây sao to lớn quá, thân tôi sánh với người cõi Trời chẳng khác nào con cóc sánh với người ở thế gian, thấy mình bé nhỏ lòng hơi khiếp sợ. Được chư thần cho biết vị Trời chánh đế cao hai mươi bốn thước, mặt y đỏ, mão đỏ, hia đỏ: Vị Trời thường cao mười hai thước, mặt áo trắng, mão trắng, hia trắng. Vị đại Tiên cao mười sáu thước. Người Tiên đẹp hơn người Trời nhưng dưới quyền Trời chánh đế. Còn các vị tiên nhỏ màu sắc đủ lọai, tùy theo cấp bậc về công đức tu hành (Tuy cao nhưng đồng thanh đồng thủ).
Thẳng vào chánh điện xa xa, một vị to lớn mặc đồ đỏ đang ngự giữa, tôi biết ngay là Trời Tứ Thiên Vương bèn cùng chư thần tiến vào bái yết tung hô (tôi đã được chư thần dạy trước). Yết kiến xong Tứ Thiên Vương phán cho ngồi, tiếng ngài sang sảng như tiếng chuông đồng, kế ngài phán:
Hiền Tăng tuy người trọng tội, nhờ lời đại nguyện phá xong mười ngục cứu độ chúng sanh cũng nhiều, đức kia rất lớn. Nay vì lòng hiếu thảo cầu xin về trời gặp mẹ trẩm cũng rộng hồng ân. Hơn nữa, trẫm cũng muốn cho Hiền tăng về trời cho biết, sau nói lại cho chúng sanh nghe đặng chúng biết có Trời, có Phật, có Thánh, có Thần, để chúng sanh khỏi lầm tưởng ngoài cõi đời không còn ai nữa rồi mặc tình làm ác mà phải sa vào địa ngục.
Nay trẫm phán đôi lời cho Hiền Tăng rõ: Chúng sanh ở cõi Diêm Phù lòng tham ác dẫy đầy, nghiệp sát sanh quá nặng, cho nên chiến tranh khói lửa không ngừng. Đã thế còn loạn dâm, hủy đạo, ngổ nghịch, bất hiếu, bất trung, mở miệng ra là cống cao ngạo mạn, chửi Trời mắng đất, khi dễ Thánh Thấn. Hàng tháng chư thần về tâu tội lỗi của chúng sanh tràn ngập, còn người thiện về cõi khác rồi cho thần lôi thần hỏa tiêu hủy thế gian đặng lập lại đời thượng cổ cho người hiền chung hưởng. Nhưng đức Quán Âm vì lòng từ bi đã bao lần ngăn cản để ngài tìm cách cứu độ chúng sanh, nếu làm như vậy thì chúng sanh chết khổ tội nghiệp.
Cũng may, hiện nay nhiều vị Bồ tát ở cõi Trời Đâu suất vì lòng độ tha nên đã giáng trần độ thế rất nhiều. Nhờ các vị Bồ Tát giảng thuyết Kinh pháp nên chúng sanh biết đường tu tỉnh, ăn chay, niệm Phật, thọ trì Kinh pháp. Trẫm phán cho Hiền Tăng rõ: “Người nào giữ trọn tam quy ngũ giới, khi chết trẫm cho kim đồng ngọc nữ rước về cõi trời Tứ Thiên Vương này hưởng phước tu thêm. Còn từ năm giới tới mười giới thì được về các cõi Trời trên, hoặc về cõi Trời Đâu suất gặp Đức Phật Di Lặc giáo hóa tu thêm. Riêng những vị Tăng Ni Đại Đức khi bổn nguyện đã viên mãn thì về ngay cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Còn những người vào hàng Phật Tử mà phá đạo, hại đời hoặc đã xuất gia thọ giới mà phá giới, phạm trai hoặc loạn dâm, đắm sắc khi chết bị đọa vào địa ngục không biết bao nhiêu năm để đền tội.
Còn những vị mặc dầu ở tại gia nhưng một lòng vì đạo, kiến thiết chùa chiền, in kinh ấn tống, ủng hộ tăng ni tu học, đó là hàng Bồ Tát tại gia. Phước báo này đến chổ vô lậu, cứ tô bồi công đức như vậy lần lần đến quả vị Niết Bàn. Vì ủng hộ tăng ni tức bảo tồn tăng bảo thường trụ. Thay mặt đức Như Lai giáo hóa chúng sanh. In kinh ấn tống là bảo tồn pháp bảo thường trụ ở thế gian để chúng sanh nương theo kinh pháp mà tu hành. Tuy nhiên, những vị tu bồi công đức trên phải luôn luôn khiêm nhường, đừng sanh tâm cống cao ngạo mạng mà tiêu mòn phước báu đi rất uổng.
Tất cả các Đức Phật đều muốn cho chúng sanh về đất Phật, tất cả các cõi trời đều muốn cho chúng sanh đặng về trời. Thế mà chúng sanh cứ mà làm ác, lao đầu vào địa ngục, thật là mê muội. Tuy biết rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, tánh Phật ấy như hột giống vậy. Hột giống này phải được trồng trong đất đạo đức, hàng ngày phải được vun tước bằng pháp của Phật thì hột mới nẩy mầm lên cây, đơm bông kết trái Phật, tức thành Phật. Chớ như mê muội đem hột giống bỏ vào sình lầy tham ác, bỏ vào lửa đỏ bạo tàn, ngang ngược thì mọng thúi, hoặc ra tro, cuối cùng thành súc sanh ngạ quỷ chịu thống khổ nuôn đời. Trẫm phán bấy nhiêu lời Hiền Tăng cố nhớ về nói lại cho chúng sanh nghe”.
Phán xong Ngài cho hai vị Tiên nữ gọi mẹ tôi đến, sau khi bái yết tung hô xong mẹ của tôi được tự tiện hàn huyên.
Tôi không nhìn được mẹ tôi vì bà cao lớn và xinh đẹp quá, nhưng nhờ tiếng nói không đổi nên tôi nhận ra. Còn mẹ tôi vừa thấy tôi bà mừng quá chạy lại ôm tôi bà nói: “Ủa Nhi, (vì tôi tên Nhi) con cũng được về trời nữa sao, vậy thì tâu tới tứ Thiên Vương cho mẹ con mình ở chung một chỗ để cùng tu hành. Nhi ạ! ở cõi trời vui lắm, các vị Bồ Tát ở cõi trời Đâu suất thường xuống đây thuyết pháp, hào quang các ngài sáng ánh tua tủa, ban đầu mẹ tưởng là Phật, mẹ mừng quá, mẹ lạy hoài không thôi, sau nhờ các vị Tiên nói mẹ mới biết là Bồ Tát. Mẹ nhờ con biết tu hành cầu siêu cho mẹ mới được về trời, thật con có hiếu với mẹ quá, bằng không mẹ còn khổ nữa biết ngày nào được ở đây.
Mẹ ở tận núi Hoa, chổ mẹ ở đẹp hơn đây nhiều lắm, một ngày ở đây dài lắm mẹ nghe các vị Tiên cho biết bằn gmột năm ở cõi thế. Lúc mẹ chết thằng Thinh (vì em tôi tên Thinh) làm một con bò va một con heo để làm đám ma, nếu không có con cầu siêu cho chúng nó hóa thân làm người thì mẹ phải đầu thai một kiếp làm bò và một kiếp làm heo để đền mạng. Ôi! Khổ biết bao nhiêu, thằng Thinh ngu quá nó tưởng làm như vậy là báo hiếu cho mẹ, nào ngờ nó làm hại mẹ phải làm súc sanh thật là đâu đớn. Nhưng việc đã qua rồi không nhắc lại làm chi, con hãy tâu với Tứ Thiên Vương xin về ở chung với mẹ đi, ở đây tu hành vui lắm, khỏi phải làm lụng gì hết.
Mẹ con mình ráng tu rồi sẽ được trở về cõi Trời đầu suất, mẹ nghe các vị Tiên nói ở Trời Đâu suất có Phật Di Lạc, nhờ ngài giáo hóa mình tu thêm sau một thời gian lâu mới về được cõi cực lạc của Đức Phật A Di Đà. Nè! Con thấy mẹ không, lúc này mẹ đẹp lắm phải không! Hồi mẹ mới về trời cũng giống như con ngày nay thật là nhỏ nhoi xấu xí quá chừng, thôi con đừng buồn, ở đây ít lâu rồi cũng lớn đẹp như mẹ vậy. Con ạ! Ở đây cúng dường lạ lắm, hễ tâm mình muống cúng dường vị Bồ Tát đang thuyết pháp loại hoa nào tự nhiên loại hoa ấy từ trên hư không đổ xuống tua tủa như mưa thật là vui. Mới về cõi Trời mẹ tâm tưởng để cúng dường như vậy chưa được, phải tu một thời gian sau mẹ mới cúng dường bằng cách tâm tưởng sang hoa.
Cõi Trời vui lắm, để rồi con thấy mẹ không nói sai đâu. Lúc mẹ còn sống thường mở máy thâu thanh để nghe và thích nhất tuồng hát bội, nhưng ở đây các vị Tiên nữ múa hát hay gấp bội lần, còn trên hư không nhạc trời tự nhiên trỗi thật hay mẹ nóikhông hết được. Thôi con đến xin cùng tứ Thiên Vương cho mẹ con mình ở chung rồi con sẽ thấy lời mẹ nói thật, còn nữa, còn nhiều chuyện lạ nữa, đến xin đi con”. Bà nói huyên thuyên không ngừng nghỉ, vì lòng phàm còn nặng nên khi thấy mẹ tôi vui mừng kể lễ làm tôi mủi lòng nước mắt dầm dề.
Chư thần bèn cho mẹ tôi biết là tôi chưa chết vì lòng hiếu thảo muốn tìm mẹ mà thôi.
Vừa lúc ấy Tứ Thiên Vương phê chiếu chỉ cho phép tôi được dạo cảnh trời, tôi cùng chư thần yết kiến Tứ Thiên Vương rồi ra khỏi đền Rồng để dạo cảnh. Cảnh trời đẹp hơn cảnh Địa Tiên rất nhiều, tiếng gió thổi, chim kêu man mác nhẹ nhàng tưởng chừng như cảnh Tây Phương. Các vị Tiên cõi lạc, cõi công bay lơ lững trên không. Tiếng ống tiêu, ống sáo nghe thâm trầm, các loại chim hạt, chim công, chim quy cùng nhiều loại chim khác nữa mà tôi không biết tên đang nhảy múa ca hát tiếng cười, làm tôi ngây ngất tâm hồn, không muốn trở lại cõi trần đầy đâu khổ.
Các vị Tiên nữ từng nhóm, từng đoàn đủ màu sặc sở đang tung tăng múa hát. Cỏ hoa xinh đẹp nhiều đóa hoa to lớn như cái mâm mùi thơm bát ngát, cây cối đầy đàn thẳng tấp, thân cây trong sáng hoa quả đặc cành, không một gợi bụi không một chiếc lá rơi, không một cành cỏ dại, đất như pha lê cẩm thạch. Lầu ngà tháp ngọc vòi vọi tận mây, gió hây hây thổi mang hương thơm ngào ngạt hòa lẩn với tiếng sáo du dương, tiếng chim ca hát, tiếng lãnh lót của các vị tiên nữ làm tâm hồn tôi ngây ngất muốn bay bổng lên tận hư không. Nghĩ lại cảnh đời đua chen xô xát mà ngán ngẩm, nghĩ đến chiến tranh ly loạn ở cõi đời mà tê tái cõi lòng. Tôi hết muốn trở lại trần gian, nhưng nhớ đến lời đại nguyện tôi nhất quyết phải trở lại cảnh diêm phù. Trước là trả xong nghiệp quả, sau cho trọn lời đại nguyện, rồi tôi từ giã mẹ tôi để trở lại đền Rồng tâu cùng Tứ Thiên Vương phê chiếu chỉ cho tôi trở về cõi thế.
Đến nơi Tứ Thiên Vương phán: “Tuy cõi trời rộng bao la, tốt đẹp vô ngần, các vị Bồ Tát ở cõi trời Đâu suất thường đến thuyết pháp dạy đạo, song chúng tiên cứ mãi say sưa trong cảnh đẹp ít chịu tu hành. Nay trẫm thỉnh Hiền Tăng đến pháp đài giảng cho chúng tiên một thời pháp về cái khổ ở thế gian và nơi địa gục, đặng chúng tiên sanh tâm lo sợ mà tinh tấn tu hành, kẻo chúng tiên cứ mãi vui chơi đến ngày hết thuốc bị đọa lại trần gian thì tội lắm! Hiền Tăng đến ngay tháp đài ở núi hoa, tháp này có mười tám tầng dành cho các vị Bồ Tát đến thuyết pháp, nhưng khi đến nơi Hiền Tăng chỉ ngồi ở tầng thứ mười thuyết một thời pháp cho chúng tiên nghe”. Được lệnh chư thần đưa tôi bay đến tháp đài. Tháp này cao vòi vọi. Không biết xây bằng thứ gì mà trong sáng lạ thường. Chung quanh tháp đài một khoảng trống mênh mông mặt đất như vàng ròng. Tôi đến ngồi ở tầng thứ mười thấy các vị tiên bốn phía từng đoàn, từng lũ đằng vân về tháp đông đảo như ngày hội.
Sau các vị Tiên ngồi theo thứ lớp, tôi nhìn xuống thấy thật có thứ tự màu áo nào ngồi theo nhóm nấy không xen lẫn lộn. Hết lớp này đến lớp khác đều đặng trang nghiêm.
Tôi bèn cất tiếng giảng về những điều khổ ở thế gian: (Ở đây tôi xin tóm lược nhựng điểm cốt yếu) nào cái khổ còn từ trong bào thai tối đen ngộp thở, nào cái khổ từ lúc mới sinh ra dại khờ ngu tối, yếu đuối sống nhờ nơi cha mẹ, nào cái khổ khi lớn lên tạo lập gia đình, lam lũ nhọc nhằn, đổ mồ hô, sôi nước mắt mới có miếng ăn, áo mặc, nhà ở. Nào những lúc bệnh tật ốm đau dày vò, nào những lúc già yếu, chân mỏi, da dùn, mắt lờ, tai điếc. Nào khi chết bức khổ than tâm. Còn bao nhiêu cái khổ thiên tai, hỏa hoạn, cái khổ về chiến tranh tàn phá, chết chóc, đến những cái khổ về tù đày, sanh ly tử biệt. Kế tôi nói về sự đâu khổ ở địa ngục.
Lúc ấy tôi thấy các vị Tiên nơm nớp lo sợ. Sau khi tôi giảng xong các vị Tiên tụ tập từng nhóm bàn tán với nhau, thấy vậy tôi bèn lân la với các vị Tiên, các ngài nói: “Nếu không có Hiền Tăng nói rõ về cảnh khổ ở thế gian chúng tôi đâu biết. Chúng tôi tưởng ở thế gian cũng sung sướng như ở cõi nầy nào ngờ khổ quá.
Chúng tôi ở đây nào có nghĩ tới năm tháng nào có thấy ai già, ai chết bao giờ, hễ bị tội là Thượng Đế đọa xuống trần gian, nhưng tưởng là đi du ngoạn một lúc vậy thôi nào ngờ khổ quá. Các vị Bồ Tát thường đến đây thuyết pháp mà chúng tôi nào có tin lời. Còn Hiền Tăng từ cõi thế lên đây nói rõ cảnh đời khổ sở làm chúng tôi thức tỉnh. Thôi chúng tôi bắt đầu tu theo Phật kẻo bị đọa xuống trần gian khổ lắm chịu sao cho nổi.
Một vị khác tiếp: “Thỉnh thoảng Hiền Tăng lên đây một lần nhắc nhở chúng Tiên tu hành tinh tấn chớ các chư thần thường xuống cõi Diêm phù quan sát về nói lại lắm lúc chúng Tiên cũng chẳng mấy làm tin lắm”.
Tôi bèn cáo biệt các vị Tiên, trở lại đền rồng lãnh chiếu chỉ trở về dương thế.
Đến nơi tôi bái yết xong, Tứ Thiên Vương phán: “Hôm nay Hiền Tăng đã toại nguyện khi trở về khi trở về cõi Diêm phù nhắc nhở chúng sanh tin tấn tu hành, cảnh đẹp ở cõi trời rất rộng đang chờ đón chúng sanh tu thiện. Hiền Tăng nhắc nhở chúng sanh đừng đắm đuối theo xác thân giả tạm, thời gian nó cũng tiêu hoại, phải lo phần hồn là cái chắc thật lâu dài, phải nuôi phần hồn bằng giáo pháp của Phật, phải biết quên mình vì kẻ khác đửng ích kỷ thì cửa trời đang mở rộng đón chờ”.
Phán xong ngài phê chiếu chỉ cho chư thần đưa tôi về cõi thế.
Mô Phật, đây là lời sơ lược về cảnh trời Tứ Thiên Vương, nếu nói cho hết thì chẳng cùng, hơn nữa tôi chỉ đằng vân ở trên đi lướt qua các cảnh chớ không có thời giờ quan sát tỉ mỉ từng chi tiết một, và ở cõi trời nhiều vật đẹp lạ mà thế gian không có nên tôi cũng không biết gọi là gì.
Cõi trời là cõi thật, muôn đời nghìn kiếp chẳng đổi thay, nơi thánh nhân đầy đủ phước duyên hưởng thọ, trí phàm như tôi không sao tả cho tường tận được. Nếu chư vị Phật tử nào còn nghi ngờ điều chi trong quyển này xin đến Liên Hoa tịnh thất Mỹ Tho chúng tôi vui lòng hầu chuyện cùng quý vị.
Chúng tôi nguyện đem công đức này hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sanh đồng quay về bờ giác.
Viết xong ngày 28-11-1971
Nhằm ngày 11 tháng 10 năm Tân Hợi
Thích nữ Huệ Hiền Kính bút
Khuyến Thiện
Hiện nay chúng ta đang sống giữa cõi đời đua chen, tranh đấu để dành sự sống, chúng ta mãi lo cho ta, lo cho gia đình ta, rồi lại lo cho thân bằng quyến thuộc. Lo hoài, lo mãi nhưng nào ai đã xong việc.
Thật vậy, cha mẹ vợ con rồi cũng chết, nhà cửa, ruộng vườn rồi cũng không còn, chính thân ta còn không thật có, vì nào ai chắc sống đến ngày mai, nào ai làm chủ được thân mình.
Sở dĩ chúng ta lo không xong, không rồi, vì chúng ta chỉ lo cái giả, mà chúng ta chưa lo đến cái thật.
Xác thân này dễ hư hoại, chỉ gặp chút nghịch duyên thì hồn lìa khỏi xác, cha mẹ vợ con như kẻ bạn đường, của tiền nghề nghiệp chỉ là phương tiện sanh nhai nào có chi chắc thật.
Cái chắc thật là linh hồn, còn gọi là thần thức, chỉ có linh hồn mới là cái ta thật, nhưng nào có ai nghĩ đến. Dù chúng ta tạo tội phải ở địa ngục ngàn năm, hay phải làm súc sanh muôn kiếp, lúc làm trời, khi làm người, chỉ vì chúng ta quên nó chớ linh hồn không thây đổi biến dời.
Hiện nay chúng ta đang đứng giữa hai con đường: Con đường nuôi thân ích kỹ, tham lam, ác độc, si mê dẩn đến địa ngục khổ đau! Con đường nuôi tâm vị tha, bố thí, từ bi, sáng suốt dẩn đến Thiên đường an lạc.
Nếu chúng ta theo con đường nuôi thân tội lỗi thì thân chúng ta phạm ba tội: Sát sanh, trộm cắp và dâm dục. Miệng phạm bốn lỗi: Nói láo, nói thêm, bớt, nói đâm thọc và chửi mắng. Ý chúng ta cũng phạm ba lỗi: Tham lam, sân giận và cuồng si.
Bây giờ chúng ta quay về nẻo thiên để nuôi tâm, thì thân miệng và ý chí quay đầu trở lại, thân không sát sanh mà phóng sanh, giúp người mà trong sạch. Miệng nói lời chân thật, đúng đắn, hòa giải và dịu dàng. Ý không tham lam mà phải bố thí, từ bi và sáng suốt.
Ở đây vì đức mỏng tội dầy nên chúng ta chưa dám nghĩ đến cảnh Niết Bàn của chư Phật đầy đủ bốn đức: Chơn thường, chơn lạc, chơn ngã, chơn tịnh, mà chúng ta chỉ bàn đến ác và thiện, khổ và vui để định rõ hai nẻo đường mà chúng ta đã vạch sẵn.
Mười phương chư Phật, hằng sa Bồ Tát, Hiền, Thánh, Tăng ba đời bước đầu cũng khỏi tu mười nghiệp thiện này.
Hỡi ai là bậc trí giả, hãy tự chọn lấy con đường mà đi.
Trần Tình
Trong quyển “Du Ký Tiên, Long, Thiên cảnh” đoạn tả cảnh Địa Tiên và cảnh Long Vương có nói sau này núi châu báu sẽ đem về sứ Mõ Thi ở làng Kim Sơn, nên có nhiều vị hỏi:
- Mõ Thi có phải là tiếng nói của từ Mỹ Tho mà ra không?
Xin đáp:
- Không! Tiếng Mỹ Tho là địa danh do người đời đặt ra, còn tiếng Mõ Thi, do ơn trên đặt để từ lâu. Tiếng Mõ Thi hàm chứa ý nghĩa sâu xa bí ẩn để chi nơi tụ hội của các bậc Thánh hiền. Khởi đầu từ năm Quý Dậu ánh đạo vàng hưng thịnh lan tràng khấp thế giới, có ảnh hưởng cả muôn năm! điều nầy chắc chắn như vậy! Quý vị cố gắng tu hành sẽ sống sót hưởng đời thượng cổ, chỉ vắn tắt ít lời không thể nói nhiều hơn được.
Có người lại nói:
- Vì cô Ba tức là Huệ Hiền ở Mỹ Tho, nên nói núi châu báu sau này về đất Mõ Thi để quan trọng hóa vấn đề có tính cách ích kỷ?
Tôi xin thưa:
- Biết rằng núi châu báu sau này về đất Mõ Thi là nơi chánh (như đoạn nói trên). Nhưng tôi phải chỉ riêng xứ Mõ Thi có châu báu mà tất cả nhà nhà, chốn chốn toàn thế giới, nơi nào có người tu hành chánh pháp đều có châu báu, mặt tình tiêu dùng hưởng lạc muôn năm. Lúc ấy cõi Ta Bà này như cõi Địa Tiên.
Cố gắng lên! Cố gắng lên! Tinh tấn tu hành sẽ đến thành công mỹ mãn.
Chúc quý vị Phật Tử bốn phương tinh tấn tu hành hưởng đời an lạc.
Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tá Ma Ha Tat
Thích Nữ Huệ Hiền.
Luật Trời
Nếu… Người làm việc chẳng lành
Mà sau hiển đạt vang danh lẫy lừng
Người dầu không hại, không trừng
Luật trời ắt chẳng bao dung được nào.
Ham Thích Điều Lành
Điều lành điều phải khá nên ham
Việc ác đừng vui, chớ kiếm tâm
Gặp được điều lành như giải khát
Nghe điều hung giữ tránh xa xăm
Làm lành rất được an vui
Đạo lành to lớn như trời bao la.
Lời Lành
Ta nói lời lành đẹp da nhau
Đừng nen nặng nhẹ khiến người đau
Đừng nên đâm thọc cho sanh chuyện
Đừng ỷ thế thần giọng thấp cao
Lời nói thanh bai ý diệu hiền
Đượm màu chơn thật, đượm tâm thiền
Nghe như giọt nước cam lồ rưới…
Mát mẽ tâm lòng tạo thiện duyên.
Sấm Ông Đồ
Người sanh trong cõi Nam Hoàng,
Không phen đài các, cũng hàng Lạc Long
Muốn cho rạng vẽ Tiên Rồng,
Muốn bình thên hạ trước phòng quốc gia.
Muốn cho lợi nước yên nhà,
Trước lo sửa trị gia hòa khiêm cung.
Muốn cho gia đạo hiền hùng,
Tự thân trước phải tư dung nhân hiền.
Nhàn xem sách vở luân thường,
Thầy đồ người ở hậu trường Sài Châu.
Trăng khuya băm sáu tuôi đầu,
Thế thời gặp phải gió âu phong trần.
Mặc Tôn dầu đặng cái lân,
Lòng son Cử trị lãnh phần long đong.
Ra đi vừa lố mặt hồng,
Dường mòn ngoắc ngoẻo như lòng quăn queo.
Trời trưa nắng đổ trên đéo,
Gợi lòng thêm chạnh phận nghèo đắn đo.
Nghĩ mình xưa cũng yên cho,
Chức làm thầy ký dưới trò hoạn quan.
Gia đình cũng khỏi cơ hàn,
Vợ là lương thị tánh nàng xa hoa.
Nàng ưa quý của sang nhà,
Thấy chồng chơn thật sanh ra hẫn hờ.
Trách ông không rõ thời cơ,
Oai như ông Thượng cuốn cờ theo Tây.
Ta nên giả điếc giả ngây,
Thánh hiền chi đó cho tầy khô bao.
Ông Y, ông Doãn thế nào,
Ôm cầy cuốc bẩm con gào vợ than!
Anh tài như cụ họ Phan,
Hết lưu hải ngọai bàng giang ngồi tù.
Anh hùng Yên Bái công phu,
Sa cơ còn phải mạng tru tan tành.
Tài tình như cụ Phan Thanh,
Ba Đình nhất thủ cũng đành co tay.
Trở cờ một sánh ấy hay,
Xu thời theo thế là tài lập an.
Kìa xem ông lớn nhà quan,
Biết tôn người Pháp mà sang mà giàu.
Quan thời kín cổng lầu cao,
Tới chi dân giả mà đâu mà lòng.
Chỉ theo thời thế lập công,
Cúi đầu mọp xá cho xong lẽ nào.
Ông mà không nghĩ trước sau,
Con thơ bốn đứa ai hầu đảm đang.
Buồn đời lại gặp vợ gàn,
Đến quan gai mắt về nhà xốn xang.
Bỗng nghe thiên hạ nhôn nhàng,
Dân nghèo trốn thuế, lính làng nên ghê.
Chú cai, thầy Đội nhùn trề,
Đánh thôi không kể chửi điên nhiếc mờ.
Thảm thương cho đám dân khờ,
U đầu sưng mặt biết nhờ cậy ai.
Cúi xin ông Đội thầy Cai,
Hưởng vài kỳ hạn chúng tôi chạy tiền.
Vợ con đau ốm liên miên,
Mùa màng thất bát làm phiền các ông.
Cha già, mẹ yếu, của không,
Sở làm chẳng có biết phòng cậy ai.
Áo cơm thiếu hụt hằng ngày,
Cúi xin quan lớn nới tay khoan hồng.
“Đồ khốn! Lũ bây cuồng ngông,
Muốn làm cách mạng không tuân lệnh làng.
Ký đồ đem sổ trước quan,
Hãy làm biên bản tống giam lũ này.”
Đồ rằng: “Cớ sự như vầy,
Dân nghèo đói khổ tội này bởi quan.
Nhớ xưa dân chúng cơ hàn,
Ông vũ coi việc khai đàng sông Thương.
Cho nước khỏi ngập ruộng vườn,
Vì dân vì nước lòng thường siêng năng.
Thế mà ông còn bảo rằng,
Nếu dân bị lụt tội này về ông.
Ông tắc coi việc điền công,
Đốt trầm đuổi thú cho dân cày bừa.
Ông rằng nếu dân thất mùa,
Vợ con đói khổ tội này về ông.
Người hiền mãi lo việc công,
Kẻ khôn! Chỉ muốn ở không làm nền.
Đinh, Lê, Lý chúa Nam Hoàng,
Khuyếch trương kinh tế dân làng ấm no.
Thuế sưu đơn giản nhẹ lo,
Nay vì quan lớn ăn no ngồi rồi.
Cướp bóc, hà khắc đủ điều,
Phần mùa thất bát thế nào cho dân.
Thương người như thể thương thân,
Quan trên xin thử cân phân thế nào.
Dẫu cho tước trọng quyền cao,
Cũng thương lấy chút đồng bào dân ta.
Ham chi chút bã lang sa,
Mà gây lắm nỗi phong ba bất bình”.
Thấu tai quan nổi lôi đình,
“Khá khen thầy ký dám kình với ta,
Linh quyền lột chức đuổi ra,
Tẩy chai cho nó khôn qua đóng tiền”.
Thôi rồi thế sự ngửa nghiêng,
Từ đây con vợ than phiền đến đâu.
Éo le đơn khảy mấy câu,
Nước xao mấy lượn nghĩ âu nực cười.
Cho hay vậy cũng là người,
Con Hồng cháu Lạc hồ ngươi chẳng là.
Trời Nam một dãy sơn hà,
Linh đinh bể cả biết mà về đâu.
Ba Đồ một vẽ âu sầu,
Khi buồn khi tức câu mâu đủ điều:
Kia nhà phú quý quan liêu,
Thiếm Cai bà Đội đủ điều phong dinh.
Quan oai kẻ bẩm người trình,
Phủ đường có lính có binh gác hầu.
Bà lớn sang biết là bao,
Ra đường thiên hạ cúi đầu sợ oai.
Đi thời xe cộ hẳn hoi,
Trùm làng vòn nể mựu đòi thứ dân.
Ông Đồ là người bất nhân,
Học đòi liêm sĩ giết lần vợ con.
Nhẫn tâm một chút chịu lòn,
Nã dân lập nghiệp vợ con nó nhờ.
Ông không xét rõ thời cơ:
Thử xem thiên hạ bây giờ có ai,
Nhìn kỹ quan liêu ngày nay,
Phần đông môn đệ học tài với ông.
Cớ sao nó lại nên công,
Còn ông thì lại tay không chân rồi.
Chúng con khi dễ đến tôi,
Xem ông như rác đưng ngồi với ai.
Pháp định gặc đức tranh tài,
Quan trên bắt lính để bài tồng quân.
Ông ra gánh vác chút phần,
Làm sổ biên bản lập thân với đời.
Ấm no thê tử vui tươi,
Tệ chi lắm lệ trời ơi là trời.
Hết khuyên rồi lại lắm lời,
Mắng chồng rồi lại tơi bời đánh con.
Tội chi mà phải chịu đòn,
Áo cơm không có lại còn vọt roi.
Trẻ thơ lắm nỗi đắng cay,
Nhìn cha, cha thảm, nhìn mẹ, mẹ sầu.
Sợ mẹ hồn vía lên đầu,
Bồng em chạy trốn dãi dầu thảm thê.
Ác vàng nhựt tợ ngoại kề,
Cánh buồm bao quản bốn bề gió xiêu.
Ông Đồ một mực chuộng chiều,
Tìm lời to nhỏ cho yên qua ngày.
Rằng: “Xem thiên hạ thời nay,
Biết bác cơ cần đọa đầy thảm thương!
Thuê sưu ép ngặt đủ đường,
Lâm cơn nghèo thiếu lại vương lao tù.
Ta có nghèo đói mặc dù,
Cũng là chia sẽ nổi buồn cùng ai”.
Thất nghiệp ngày tháng loay hoay,
Lần hồi sự nghiệp gia tài sạch không.
Con thơ đói rách long đong,
Bạn bè xa lánh biết trong cậy ai.
Hết phương tính một liệu hai,
Hết lời to nhỏ hết nài hết lơn.
Bà Đồ tột độ căm hờn,
Dân mâm xán chén dặm chơn kêu trời.
“Mặt này cũng tại vì ai,
Làm ra mặt phải có tài được không?”.
Thầm cho lũ trẻ bập bồng,
Bữa râu bữa cháo bữa lòng vắng hoe.
Xin cơm, mượn gạo lăm le,
Bữa có bữa chẳng rách te áo quần.
Chôi con lọng gió tưng bừng,
Ngẩn ngơ trúc tử khôn ngừng dòng châu.
Hoa non trời nở mưa ngâu,
E cho tan tác mái đầu non non.
Gió đông thổi buốt lòng son,
Làm cho con én đầu non dật dờ.
Bèn tan rã cánh lờ đờ,
Ngẩn ngơ hồn bướm biết nhờ vào đâu.
Đau lòng lụy nhỏ thấm bâu,
Ông đồ nhỏ nhẹ rầu thốt ra.
Bà cùng con ở lại nhà,
Hẩm hiu rau cháo cho qua tháng ngày.
Tôi ra miền Trung phần ngoài,
Tìm sở làm mướn một vài tháng qua.
May nhờ phước dư ông bà,
Bay tiền chi độ chẳng là ấm no.
Dứt lời bà hứ tiếng to:
“Cái bộ ông đó sớm lo ở tù”
Hết lời biện bạch trí ngu,
Nói nhiều thêm oán chác thù ích chi.
Một hai gì cũng phải đi,
Đi cho khuất mắt huốn chi ở nhà.
Chơn ông vừa mới bước ra,
Lũ trẽ triều mến xót xa khôn cùng.
“Cha ơi! Cho con đi chung,
Ra về sớm tối con cùng bên cha”.
Rằng: “Con tạm ở lại nhà,
Cha đi giây lát mua quà cho con.
Gượng vui kẻo mà bị đòn,
Khi về cha ẫm cha bồng cha cưng”.
Ngỡ cha nó đi cầm chừng,
Không dè biền biệt Thê lương tháng ngày.
Chợt nhìn trời tối mới hay,
Ông Đồ mãn nhớ mãn gay mãn sầu.
Ở đây là ở đâu đây?
Gió hòa thông khóc, nước reo nhạc sầu.
Vang vang vượn hú non đầu,
Như say mới tỉnh giây lâu bên đàng.
Xem chừng làng xóm thôn trang,
Lần đến đầu ngõ ngỡ ngàng bước vô.
Thưa cùng anh chị cậu cô,
Tôi người thất nghiệp đạo đồ lang thang.
Hỏi ra mới biết xóm làng,
Gần đến Phan Thiết, Nha Trang ranh ngoài.
Ngàn năm một thuở là may,
Có ông Triệu phú mới hay thầy Đồ.
Mời vế thăm hỏi tề mô,
Rược cơm trà nước lại phô ý mình.
“Nhà tôi có lũ Môn sinh,
Vốn dòng con cháu Nho Kinh gia đường.
Ngặt nổi lối đi vào trường,
Xa xôi e ngại thêm đường rừng hoang.
Gặp thầy tôi cũng đặng an,
Xin thầy ở lại mở trang phá ngư.
Ơn thầy tôi cũng đền bù,
Năm đồng mỗi tháng công phu của thầy”.
Như vầy thì cũng là hay,
Ông đồ vui dạ tỏ ngay cùng là.
Vừa dạy vừa cũng dò la,
Tìm hiểu Tiệu phú giàu mà làm sao.
Rõ rồi lòng cũng nao nao:
Ai ai nước đục cũng ào thả câu.
Việc người đành mặt người âu,
Xây dựng lũ trẻ chút câu nhân tình.
Những khi cơm nước linh đình,
Nhớ đến gia đạo nổi mình mà đau.
Giờ này con ra làm sao?
Bà Đồ xoay trở lẽ nào có hay!
Ở đây đời việc ngoài tai,
Nhớ thì thêm ghét, sầu thì hay thương.
“Thương là thương đấng cang cường,
Anh hùng trụy lạc ẩn tường nơi nao.
Thương cho huynh đệ đồng bào,
Sưu cao thế nặng lâm vào nạn tai”.
Thương rồi ghét đắng ghét cay,
“Ghét là ghét kẻ bất tài mị dân.
Ghét thay cái lũ vô ân,
Giả danh bảo hộ lột trần dân ta”.
Nghĩ gần rồi lại nghĩ xa,
Ghét thương, thương ghét không ra kẽ nào.
Ngủ thời thiêm thiếp chiêm bao,
Ăn thời như thế cho vào đặng no.
Dạy thời! Liêm là thẳng, Chi là cho,
Nhân là hiền, Cang là cưng, Gia là nhà, Bất là không.
Cơm thời miễn đặng no lòng,
Tiên thời mỗi tháng năm đồng còn nguyên.
Gượng cười gượng nói cho yên,
Đúng kỳ ba tháng ta đành hồi quê.
Còn năm ngày nữa gần kề,
Đến rằm tháng chạp công thuê mãn kỳ.
Bãi trường từ giã chẳng trì,
Cơm khô gói sẵn phòng khi thượng hành.
Bến tàu dừng lại nghĩ quanh,
“Nếu đi tàu hỏa tiền dành mẻ đi.
Âu ta cuốc bộ một khi,
Tiền lương ba tháng chớ tiêu đồng nào.
Về xem con, vợ làm sao,
Bặt tin ba tháng âm hoa chưa tường.
Để cho con, vợ nó mừng,
Mười lăm đồng bạc tết từng cũng vui.
Thôi thì ta cũng làm nguôi,
Ba phải thời thế cho xuôi lòng bà”.
Tinh gần rồi lại nghĩ xa,
Đói ăn cơm rán khát hòa nước sông.
Trời xuân con én đưa song,
Ai ngồi bên cửa trông chồng ru con.
Tiếng luồng theo gió nỉ non,
Hòa theo đơn suối chảy lòn cầu lam.
“Lỡ tay trót đã nhúng chàm,
Đánh liều nhúng hết hai bàn cho xong.
Gió tây chuyền ngọn đòng đòng,
Sông nam gợn sóng biết lòng vào đâu.
Ù ơ ví dẫu ví dầu,
Bí bầu chê ghét biết đâu về chiều.
Mẹ gà con vịt chít chiu,
Mấy đời mẹ ghẻ thương yêu con chồng”.
Bước qua đàng vắng xa xong,
Còn nghe văng vẳng tiếng đồng như tơ.
Trời chiều quạnh quẽ như tờ,
Ngư về viễn Phố Mục về cô thôn.
Thu không tiếng mõ đầu đền,
Đèn nhà lắp lóe hoàng hôn phủ đằng.
Bóng cầu đen vắt sông ngang,
Sao in đấy nước chớp làn sống châu.
Rảo chơn vừa quá nhịp cầu,
Chợt nhìn thấy bóng người đâu lẹ làng.
Đàn bà bụng lại có mang,
Đâm sầm xuống mé muốn toan liều mình.
Kính hồn Đồ chạy tới nhìn.
Nắm áo níu lại sự tình hỏi han.
“Rằng tôi nhiều nỗi ức oan,
Chết đi cho mất sống càng khổ thân.
Chồng tôi là kẻ thường nhân,
Thất mùa chư đóng thuế thân bị đầy.
Phần tôi thai nghén gần ngày,
Một mình đói khổ ai hoài hẩm hiu.
Nuôi một con heo sớm chiều,
Phòng bán nuôi sống, đở nghèo khi sanh.
Nào ngờ gặp đứa lưu manh,
Mua heo với giá bạc đành mười lăm.
Bắt heo tiền trả tôi cầm,
Sáng ngày ra chợ toan tầm mua than.
Mới hay bạc giả kinh hoàng,
Lính làng đòi phạt đòi răn sỗ sàng.
Đầu đuôi tôi phải kêu oan,
“Xin làng cho kẻ truy tầm bắt giam”.
Làng rằng: “Làng mắc việc quan,
Công đâu mà tính chuyện gàn bông lông”.
Về nhà ngồi đứng không xong,
Đếng này sinh sản hết trông phương rồi.
Bà con không có ai nuôi,
Cô thân chỉ có mình tôi khổ đời.
Mồ cha nó bắt chồng tôi,
Bằng không đâu có lôi thôi thế này.
Đồ hay cớ sự như vầy,
Lòng đau như cắt biết tài nào cao.
Rằng: “Đâu bạc giả làm sao?
Đưa tôi xem thử lẽ nào cho minh”.
Xoay qua phía khác cho minh,
Trao đưa bạc thiệt tỏ tình nguồn cơn.
Thôi thôi tôi cũng làm ơn,
Giúp giùm cho nó khỏi cơn nguy nàn.
Vốn tôi là thầy Lỗ Ban,
Thư phù bạc giả hóa thành bạc chơn.
Nàng rằng: “Còn có chi hơn,
Tôi xin ghi dạ đội ơn muôn đời”.
Cầm tiền từ giã đôi lời,
Ông Đồ đứng ngó thương người dân quê.
“Thật thà chơn chất, vụng về,
Dốt nát thiên hạ, dễ bề gian tham.
Cơ mưu họ khéo dụng tâm,
Cho dân ngu dốt dễ lầm dễ sai.
Bảo tin kẻo bị tội đày,
Bảo sợ kẻo bị hình hài phat răn.
Chẳng hề lo việc mở mang,
Để cho dân chúng bị tòn yêu ma.
Ngồi không vẽ lắm điêu ngoa,
Nghĩ sưu toan kế cho ra tùi tiền.
Dân nghèo chạy ngửa chạy nghiêng,
Ráng cho ra tốp dưới quyền quát la.
Vừa suy vừa nghĩ gần xa,
Chợt liền nhớ lại thân ta thêm phiền:
“Mười lăm bạc giả cầm nguyên,
Về đây biết nói biết yêu lẽ nào.
Làm sao thì mặc làm sao,
Người chết ta nỡ lòng nào làm ngơ”.
Trời đêm lặng lẽ như tơ,
Vạc kêu đồng nội trống hơ đầu thôn.
Nhá nhem nhà cửa tối om,
Dò theo lối cũ quanh chòm trúc thưa.
Xơ rơ một mái nhà xưa,
Vách hay rước gió chái thừa trút mưa.
Xác xao cành liễu đồng đưa,
Âm thầm đứng tựa vách thưa nhìn vào.
Ngạc nhiên ông đồ thở phào!
Bà đồ nay khác biết bao cho cùng.
Áo quần rách rưới lạnh lùng,
Thế mà bình tỉnh vô cùng hiền lương.
Con ba bốn đứa trần truồng,
Ngồi kề bên mẹ ra tuồng thương yêu.
Xưa thầy phát ghét bao nhiêu,
Nay xem gương mặt yêu kiều dễ thương.
Ai dạy bà ở hiền lương,
Ai bảo bà sửa khác thường hơn xưa.
Trước kia gương mặt chẳng vừa,
Thấy mà phát tởn có ưa được nào.
Nói thời như tát nước vào,
Con thời bị đánh la gòa thất thanh.
Mà nay xem vẽ hiền lành,
Mẹ con xúm xít xem đành biết bao.
Làm sao chưa hẳn làm sao,
Thoạt nghe trẻ nhỏ bều bào nói ra:
“Mẹ ơi! Con bụng xót xa,
Vì đói lạnh quá! Nhớ cha vô cùng”.
Mặt bà điềm đạm ung dung,
“Con ôi! Vì bởi bần cùng phải cam.
Bạc tiền ai lại chẳng ham,
Nhưng của phi nghĩa mà tham làm gì.
Mẹ mà xưa biết lễ nghi,
Thì cha con chẳng ra đi xa đàng.
Phụ tử tình nghĩa đã mang,
Cha con bao nỡ dứt đàng hay sao.
Chờ năm ba bữa chẳng lâu,
Sắp đến ngày tết bắt đầu sang năm.
Cha con chắc sẽ về thăm,
Chẳng nhiều cũng ít chị em con mừng”.
Ông Đồ đứng dửng dừng dưng,
Muốn bỏ đi trốn bước dừng dở dang.
Bỗng thấy bà đứng gần bàn,
Ngước lên liền thấy ngang hàng mõ, chuông.
Đốt hương bà nguyện buồn buồn,
Mấy đứa nhỏ cũng sắp hàng quỳ theo.
Cắm hương chuông, mõ tụng reo,
“Ờ! Ra bà đã quên nghèo vì tu.
Thật là đạo cả công phu,
Như vậy thật đáng đền bù công ơn.
Nghĩ mình xưa lỗi đường chơn,
Chẳng hiểu Phật pháp thật hơn đâu màng.
Cho rằng: Mê tín dị đoan,
Cho rằng: Cái đạo làm càn mị dân.
Cho rằng: Những kẻ chán trần,
Vào chùa chuông mõ lãnh phần chuối xôi.
Lại cho cái đạo mị đời,
Tín càn không có ít thời chi chi.
Coi thường các bực tu trì,
Rằng: Từ bi ấy ngoa nghi bỏ quàng.
Nào hay đạo cả thinh thang,
Bao nhiêu cũng đủ đáp toàn lời ta.
Thật là phước đức không xa,
Mới hay đạo Phật vốn là tại tâm.
Bao nhiêu cũng rõ thậm thâm,
Thật nước cam lộ rải nhằm đến ta.
Từ bi phước đức hà sa,
Còn hơn phú quý mà đa tham tàn.
Cúi lạy đức Phật trên bàn,
Từ bi tế độ muôn vàn khổ đau.
Thật tôi có phước làm sao,
Đạo Phật xây dựng thế nào mà hay.
Nhớ ơn đức Phật cao dày,
Độ người ám muội ngày này quang minh”.
Nghe bà vừa dứt lời kinh,
Cất tiếng phục nguyện lại in tấm lòng.
“Nguyện mười phương Phật chứng minh,
Cho trong lệ tội tình tiêu tan.
Hết cơn vẫn bị tai nạn,
Thoát cơn ác quỷ lạm đàng nhiễu nhương.
Cầu hồn xiêu lạc bốn phương,
Diệt hết phiền não Tây phương sớm gần.
Nguyện chư Bồ tát ai lân,
Độ ông Đồ mạnh tinh thần bằng an”.
Thành tâm vừa nguyện vừa van,
Ông đồ ngoài cửa lại càng phục lăn.
Phục bà thật có thiện căng,
Cảm Phật lại kính chư Tăng hoàng triều.
Tự quy bà đứng lạy liền,
Mấy đứa nhỏ cũng ngoan hiền lạy theo.
Ngoài thềm năm vóc cũng gieo,
Như có thần lực nào đeo bên mình.
Cũng cúi cũng xá cũng quỳ,
Ông Đồ như tỉnh qua thì cơn say.
Đằng hằng lên tiếng bên ngoài,
Mẹ con mở cửa loay hoay đón mừng.
Giờ đây náo nhiệt tưng bừng,
Lũ trẻ lăn líu tươi cười lắm thay.
Gượng cười dòng lệ chảy ngay,
“Mừng bà được khỏe con rày bình an”.
Vuốt ve trẻ nhỏ dịu dàng,
Thầy bà vui vẽ lòng càng vững yên.
Bà không hỏi tới bạc tiền,
Mà hỏi: “Ông đặng bình yên chẳng là?
Bây giờ tôi mới sáng ra,
Bây lâu có một như lòa khác chi.
Ông thật coa quý ai bì,
Thanh tao liêm sĩ đáng vì nêu cao.
Thế mà tôi đã hỗn hào,
Xin ông tha thứ cho bao lỗi lầm.
Si mê trót đã tối tâm,
Đuốc từ vừa nhóm phóng tầm quang huy.
“Lạ chưa bà thật nên hay,
Lẽ ra tội ấy tôi gây thêm buồn.
Bỏ con bỏ vợ luôn tuồng,
Thế mà bà lại chẳng buồn chi tôi.
Việc rồi đã qua thì thôi,
Bà tu chừ đặng bao hỡi mà cao.
Tôi xem bà thắm tương chao,
Ai dạy cách thức làm sao hở bà?”
Đứa nào bập bẹ khoe khoang,
“Mẹ con niệm Phật không la khỏi rấy.
Tay mẹ mềm mại thế này,
Khác hơn khi trước như cây như chà”.
Rầy em: “Đừng nói ba hoa,
Để mẹ kể lại cho cha nghe cùng”.
Bà rằng: “Đạo cả bao dung,
Duyên lành gặp đặng phước tùng hậu lai.
Vì đời lầm lạc mê say,
Đọa cao siêu lại xem bày dị đoan.
Pha trò phù thủy phá hoàng,
Giấy tiền vàng mã lập đàn làm chay.
Ở chùa phạm giới phá trai,
Theo trò danh lợi làm sai chơn truyền.
Làm cho hoen ố cửa thiền,
Bởi nhà thực trị chính nghiêng mưu thần.
Mặc cho dân chúng sai lầm,
Cố cho dân tộc nhân tâm suy đồi.
Đạo đời vướng phải lôi thôi,
Cho dễ tự ý ghế ngồi vững yên.
May mà còn chút thiện duyên,
Con Hồng cháu Lạc còn truyền chơn sư.
Đứng lên cố xúyt vô từ,
Cùng hàng trí thức quyết trừ tà mê.
Từ Nam chí Bắc nhất tề,
Đại sư thiện đức cụ Lê Khánh Hòa.
Nam kỳ Phật học mở ra,
Lương Xuyên Phật học, phước Hòa Trà Vinh.
Các Tổ Huệ Quang, Khánh Anh,
Rồi đến họat động tại thành Sài Châu.
Tăng già giáo hội cầm đầu,
Như lai sứ giả khắp châu hoàng truyền.
Xa nhà may có thiện duyên,
Khai đàn diễn giảng trước niên đình làng.
Tôi được nghe giảng mãn đàn,
Mười bài thuyết pháp chơn toàn phổ thông.
Mới rõ tà cánh đục trong,
Đạo, đời chơn chán ngỏ hòng mở mang.
Phật dạy nhơn quả rõ ràng,
Phá mê dân chúng tự cường cách tân.
Từ bi tỏa khắp nhân dân,
Tôn trọng bình đẳng không phân sang hèn.
Tại gia năm giới tập rèn,
Tự mình tu luyện như đèn nhà đêm.
Năm giới trong đó phân tìm,
Cũng làm căn bản đời thêm thái bình.
Thử xem gia đạo của mình,
Gia không có đạo thế tình ra sao.
Năm điều ai cũng ước ao,
Sống, giàu, đẹp đẽ, trí cao ngôn từ.
Áp dụng năm giới phước dư,
Muốn sống đừng sát nhơn từ chi hơn.
Muốn giàu bố thì làm nhơn,
Muốn đẹp tà hạnh sạch trơn trong lòng.
Muốn thông vọng ngữ phải phòng,
Muốn có trí tuệ mưu hòng say sưa.
Chuyển lòng niệm Phật sớm trưa,
Chay lạt tu tập dứt chưa sân sì.
Tự thân lấy đó làm nghi,
Trị gia lấy đó làm quy tông đàng.
Trị quốc nhờ đó bằng an,
Năm điều yếu tố nhân gian hòa bình.
Xét chút thế sự nhân tình,
Xưa nay lọan, trị lưu truyền sử sanh.
Loạn hết tới trị an ninh,
Trị hết đến loạn thế tìng đâu sai.
Trị là nhân kẻ thảo ngay,
Loạn là phạt kẻ dày tiền thân.
Ai tu cứ giữ đạo chân,
Nghe chi nói thánh nói thần rộn tai.
Thấy dân khổ sở hoang mang,
Xưng thần xưng thánh rằng toan cứu đời.
Rằng sắp tận thế tới nơi,
Thay trời đổi đất rót rồi đều sai.
Phật dạy thiện, ác chiêu lai,
Hết loạn đến trị xưa nay lẽ thường.
Trịnh, Nguyễn xưa cắt biên cương,
Ba mươi năm loạn đủ đường đắng cay.
Nghĩ xưa mà ghét ngày nay,
Đừng nghe mà mị rầy tai hư mình.
Tu thì cứ học luật kinh,
Chớ tu đâu cứ luận tình thế gian.
Bàn tán nói dọc nói ngang,
Cũng đừng luyện xác tập đoan cầu kỳ.
Ăn ngay ở thật theo thì,
Rộng lòng tế độ hay vì phân minh.
Sửa mình sớm kệ chiều kinh,
Ăn chay niệm phật giàu tình từ bi.
Dẹp hết phiền não sầu si,
Diệt sạch nghiệp chướng ràn vì phát minh.
Giáo lý cao cả thinh thinh,
Thắm nghe tôi lại giật mình thở ra.
Bấy lâu bèn hạ xấu xa,
Tham, sàn, si, chướng mới ra nỗi này.
Nhờ thầy chỉ dạy như vầy,
Tam quy làm hướng đoạn dây tam đồ.
Năm giới phước đức tài bồi,
Như vầy ai dâm nhọ bôi đạo nhà.
Tinh hoa vốn đạo ông bà,
Học Phật thờ Phật con nhà Lạc Long.
Ông nghe mát dạ vừa lòng,
Êm như gió thoảng đẹp bằng tráng thu.
“Như vầy ai lại không tu,
Như vầy thật đáng công phu sĩ hiền.
Như vầy ai lại không kiêng,
Văn hào trí thức còn khuyên nễ vì.
Đạo mâu huyền diệu tri tri.
Phước này con có phước gì cho hơn.
Dù cho giàu có tước quờn,
Mà thiếu đạo đức chuốc hờn ích chi.
“Sao ông ngồi mãi nghĩ suy,
Không phân chẳng luận tiếng chi lại thù.
Ông đi cớ sự hà như?
Khi về lộ vẽ ưu tư bàng hoàng”.
Giờ đây ông đồ ngở ngàng.
Rằng: “Tôi làm nướn vì nàng vì con.
Tiền lương ba tháng vẹn toàn,
Đem về định để vợ con nó mừng.
Hôm chiều gặp việc dửng dưng,
Thấy người lâm nạn tạm dừng hỏi ra”.
Đầu đuôi kể lại gần xa,
Vừa nói vừa lên coi bà xem sao.
Bà không buồn giận chút nào,
Lại còn cười nói am nào đầu đuôi.
“Bạc tiền tiêu đặng bao lâu?
Vợ con ăn hết còn đâu phước lành.
Ông làm điều ấy phước dành,
Con ông nhờ đó nên danh với đời.
Vậy là điều đáng vui mừng,
Cớ sao ông lại lộ người lo âu.
Sống theo đạo đức nhiệm màu,
Sốn mạnh sống rộng cao sâu vô cùng.
Sống mạnh là đức đại hùng,
Diệt hết phiền náo hung sùnh nơi tâm.
Mạnh dạn nhìn nhận lỗi lầm,
Khi người chỉ lỗi không câm chẳng hờn.
Văn vương là phụ chi dân,
Nghe lờinói phải ân cần kính vâng.
Người dầu sức mạnh ngàn cân,
Trăm trận trăm thắng tài bằng Hạng Vương.
Dường ấy chưa phải đại hùng,
Tự thăng dục vọng tâm trung ai bằng.
Diệt sạch phiền não ác căn,
Mới là sống mạnh tài bằng pháp vương.
Sống rộng là mở lòng thương,
Thương người thương vật tai ương đọa đầy.
San phẳng hầm hố chông gai,
Xá hết oán giận còn ai tranh giành.
Lo gì không dứt chiến tranh,
Sống mà dường ấy sử xanh còn hoài.
Sống chừng vài tháng cũng hay,
Sống lâu vô nghĩa như cây trên rừng.
Ngàn năm no sống đã từng,
Hai lẽ sống ấy ông ưng lẽ nào?
Ông sống ý nghĩa đã cao,
Cớ nào ông lại nghĩ sao mà rầu.
Ông Đồ nhẹ nhõm tới đâu,
Trong lòng quả cảm đạo màu thênh thang.
Nếu bà không tu để an,
Ít ra bà cũng tụng tan cả ngày.
Thế mà bà lại cười dài,
Làm cho đáng phục nhắc hoài không thôi.
Tu sao nhẩn nại vô hồi,
Tu sao bà lại thật thôi hiền hòa.
Lại thêm rộng lượng hài hòa,
Từ bi hỷ xả bao la tội đời.
Dầu cho lở đất long trời,
Mà vẫn bình tĩnh không lời núng nao.
Đói rách khổ đến làm sao,
Cũng vẫn yên tĩnh anh hào ai qua.
Trăm năm trong cõi người ta,
Quý chăng một chữ ấy là chữ tu.
Phiền não u uất từ lâu,
Bỗng tan theo gió mạch sầu sạch trơn.
Như vầy con có chi hơn,
Khen bà đã đáng hiền nhơn trên đời.
Con vui bà lại tươi cười,
Thế là gia đạo đẹp mười từ đây.
Một nhà đặng như thế này,
Mười nhà rồi đến đông, tay thẩy đều.
Thấm nhuần đạo đức cao siêu,
Quốc gia thạnh trị quan liêu nhân từ.
Lo gì đời chẳng an cư,
Làm gì xã hội chẳng như thái bình.
Gác tay nghĩ lại gia đình,
Xuân nhựt sắp đến liệu tình làm sao.
Nát óc xoay xở lẽ nào,
Của đâu sắm mặc làm sao no lòng.
Trẻ thơ tuổi dại đèo bồng,
Áo cơm không có dưa hồng cũng không.
Thế nào giải quyết cho xong,
Chợt nghe gà gấy hừng đông rộn ràng.
Giấy hồng vuông gói rôn gàng,
Kêu bà thức dậy tính toan lẽ này.
“Gói nầy vật quý trong đây,
Bà mau cầm lấy ra ngay chợ làng.
Chiều qua tôi vừa đi ngang,
Thấy tiệm đề bảng khai trương cầm đồ.
Sáng nay bà sớm bước vô,
Đưa gói xin gởi món đồ cầm cho.
Bà đừng cấn biết căn do,
Cứ y như vậy chớ lo ngại gì.
Tôi bảo bà chớ hoài nghi,
Cứ như thế ấy bà đi là vừa.
Chần chờ kẻo trời quá trưa,
Lại sợ hư việc bà thừa lời ông.
Cầm đi lòng lại hỏi lòng,
Lạ thay không hiểu ý ông hế nào.
Mình nghèo đèn chí tử nguy,
Nào có của báo vật gì lạ thay.
Cầm thì nhẹ hỏng trên tay,
Sao ông cấm mở bảo ngay cứ cầm.
Vừa đi vừa nghĩ lầm thầm,
Vừa đến trước cửa xin cầm đưa vô.
Ông chủ tiếp lầy gói đồ,
Mở xem trịnh trọng cất vô văn phòng.
Hỏi bà muốn cầm bao đồng,
Bà Đố lúng túng biết hồng bao nhiêu.
Nhớ ông nói chuyện hồi chiều,
Ý chừng theo đó nói liều mười lăm.
Bà theo giá đó xin cầm,
Vui trao ba tấm bạc năm cho bà.
Đặng bạc bà liền bước ra,
Nghĩ đi nghĩ lại lạ mà làm sao.
Định về hỏi ổng thế nào,
Buộc ổng phải nói âm hao cho tường.
Cằn nhằn đón hỏi đủ đường,
Túng ông phải nói chuyện thường có chi.
Người ta quý chữ xưa nay,
Khai trương có chữ khéo hay là mừng.
Cho rằng! Đó là điềm hưng,
Tôi đà toan tính liệu chừng xa xăm.
Viết khéo hai chư õ”Chánh Tâm”
Sai bà cầm lấy đầu năm sắm quà.
Nghe xong bà lại xuýt xao,
Ấy chết như vậy mất mà Chánh Tâm.
Rồi chỉ còn lại tà tâm,
Người tu thà chết ai cầm thế ni.
Dầu cho nghèo đói chẳng chi,
Mang lấy tiếng thẹn còn gì ông ơi.
Đời ta nghiệp chướng nhiều rồi,
Vì mê vọng ngã chuyền dời lăng xăng.
Ai cùng sợ khổ tham ăn,
Vì chưa diệt vọng chấp càn mà ra.
Nếu mà diệt được cái Ta,
Thì không như có khổ mà như không.
Phải ngộ bản tánh chơn không,
Nào có chi khổ chẳng hòng chi vui.
Khổ vui thoát ra thật rồi,
Dẫu cho khốnđốn vẫn cười vẫn cam.
Gặp lúc sang trọng chẳng ham,
Khổ, vui giả tạm có can chi mình.
Như như không động đinh ninh,
Thì làm chi có nhơn tình lôi thôi.
Một hai gì cũng phải thôi,
Tôi xin đi chuộc “Tấm rồi mới an”.
Nói xong bà đi vội vàng,
Ông Đồ chết sửng không rằng lời chi.
Đã tâm khốn khổ thế thì,
Cho đến tiếng nói có chi không bằng.
Người ta chịu đấm mà ăn,
Dầu bị sỉ vả mắng răng mặc tình.
Miễn cho no ấm gia đình,
Luồn cuối bợ đỡ mặc tình thị phi.
Ham mê nào biết lỗi nghì,
Mặt chai mày đá ngu ai đến cùng.
Bà nhà theo tánh đại hùng,
Tiếng gọi cầm chữ tâm trung vẫn còn.
Thế mà bà thật sắc son,
Mang tiếng một chút ý còn đón ngăn.
Làm ta lòng cũng băng khoăn,
Người mà đường ấy ai bằng được chăng.
Nam nhi đáng thẹn vô ngần,
Ta thật cương trực chưa bằng nữ nhơn.
Đến tiệm bà tỏ thiệt hơn,
“Làm người xin giữ tâm chơn mà dùng”.
Chủ tiệm vui vẻ lạ lùng,
Nghe nói như vậy ông vùng cười khan.
“Hay bà chê rẻ phàn nàn,
Muốn thêm thì nói cho bằng thì thôi.
Không không xin ông cho hồi,
Để cho tôi giữ trọn rồi “Chơn tâm”.
Trácg lòng ai nỡ đem cầm,
Rằng: “Không tôi cũng hồi tâm cho bà.
Nhà bà cách đây gần xa”,
Hỏi thăm sau trước dò la rõ ràng.
Về nhà bà Đồ mới an,
Ông Đồ hết tính lại toan gãi đầu.
Nãy giờ cũng chẳng bao lâu,
Chợt thấy ông chủ ngỏ hầu bước vô.
Gia đình ông nghèo thế mô,
Dò xem tôi biết bà Đồ người ngay.
Ông trời tuồng chữ đại tài,
Chồng tài, vợ đức trên đời mấy ai.
Người đời mù mắt ù tai,
Vì danh vì lợi biết ai ngu hiền.
Kẻ giàu họ tưởng như tiên,
Thấy nghèo họ thị như điên như khờ.
Tôi người có mắt xem đời,
Biết người có đức gặp thời nạn tai.
Như vầy còn có chi hay,
Tiệm thiếu tài phú ông rày giúp tôi.
Tiền lương mỗi tháng đáp bồi,
Mười lăm đồng lẽ thì tôi sẳn mà.
Đồ rằng: “Đức ở nơi bà,
Tôi người thường thế có ra nổi gì.
Chủ rằng: Xưa nay hành vì,
Vợ mà chơn chánh chồng vì hiền lương.
Vợ gàn xuôi chồng tầm thường,
Vợ ác chồng cũng theo đường tà gian.
Vợ người Vương Bỉnh tham sang,
Xúi chồng lạm hối phải mang lao đề.
Vợ anh xa phu nước Tề,
Khích chồng liêm sĩ chức đề Đại phu.
Đơn bà nhân đức khéo tu.
Gia đình ảnh hưởng phước bù xuê xang.
Vợ ngay xúi chồng đàng hoàng,
Vợ chồng có đức thì an cửa nhà.
Tết nhứt nay đã đến ngày,
Giúp trước hai tháng ông xài đầu năm.
Ông Đồ cũng vừa an tâm,
Bà Đồ nhận bạc đầu năm ăn mừng.
Trẻ nhỏ nhảy nhót tưng bừng,
Mừng nay đã có gạo ăn vừa xài.
Cuộc đời bỉ cực thới lai,
Hết cơn vận bĩ tới ngày vinh sang.
Nom na góp để ít hàng,
Cầu cho trăm họ khi nhàn ngâm nga.
Chúc đời mau sớm âu ca,
Lấy lòng nhơn đức xây tòa non sông.