Địa hình Việt Nam

Chị Lan

New member
ĐỊA HÌNH VIỆT NAM


I. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA ĐỊA HÌNH VIỆT NAM


– Địa hình là một yếu tố quan trọng trong tự nhiên ví nó có hình dáng nổi bật nhất và chi phối mạnh mẽ đến các yếu tố tự nhiên khác, là nơi diễn biến các yếu tố tự nhiên, riêng bản thân nó thì khá bền vững và ít thay đổi.


– VN nằm ở vùng nội chí tuyến đáng lẽ ít có sự phân hoá theo không gian, nhưng sự phân hoá Đông Tây, Bắc – Nam, thấp lên cao làm cho tự nhiên Việt Nam vốn đã phức tạp lại càng phức tạp hơn do có sự đóng góp của địa hình.


– Địa hình là nơi diễn ra mọi hoạt động sản xuất của xã hội, làm cho địa hình ngày càng thay đổi, làm mất đi vẻ nguyên sinh, hình thành nên dạng địa hình mới là dạng nhân sinh, phần lớn địa hình VN ngày nay là dạng địa hình nhân sinh.


1. Đồi núi là một bộ phận quan trọng của địa hình Việt Nam


– Chiếm ¾ diện tích địa hình và trở thành yếu tố quan trọng trong tự nhiên, cụ thể miền đồi núi Việt Bắc, Đông Bắc, Tây Bắc, Trường Sơn Bắc, Trường Sơn Nam và Tây Nguyên. Còn lại ¼ là đồng bằng: bao gồm 2 đồng bằng châu thổ là đồng bằng Bắc Bộ và đồng bằng Nam Bộ, tiếp theo là đồng bằng duyên hải và một số ít đồng bằng chân núi, chân các cao nguyên.


– Thung lụng sông Hồng là ranh giới giữa hai khu vực núi có hương khác nhau.


– Phía bắc sông Hồng: núi có dạng cánh cung, qui tụ về dãy Tam Đảo, dạng nan quạt, núi không cao lắm và hơi nghiêng theo hướng TB – ĐN.


– Vùng đồi núi phía nam sông Hồng: hướng núi dạng dải ( kéo dài không liên tục ), bao gồm các dãy núi thuộc Tây Bắc, Trường Sơn Bắc, Trường Sơn Nam với các hướng TB – ĐN, B-N, hay ĐB – TN tạo thành một vòng cung nối tiếp nhau, lưng quay ra biển và ôm lấy dải cao nguyên bazan ở phía tây.


– Hai cấu trức dang dải và vòng cung nối tiếp nhau tạo thành hình chữ S. riêng ĐNB và Bắc Bộ hình thành trên miền võng uốn nếp nên dủ khá bằng phẳng nhưng xung quanh vẫn còn nhiều đồi núi sót


2. Đồi núi Việt Nam thuộc loại già được Tân Kiến Tạo làm trẻ lại


– Trong thời kì Cổ Sinh và Trung Sinh các vận động kiến tạo như Celodoni, Hecxini, Indosini, Kimeri đã tạo nên địa hình đồi núi cổ có độ cao khác nhau và hướng khác nhau. Sau đó sang giai đoạn TKT bắt đầu giai đoạn bán bình nguyên hoá làm san bằng địa hình cổ hình thành dạng địa hình mới là dạng bán bình nguyên gợn sóng.


– Về sau bán bình nguyên bị tác động mạnh mẽ bởi TKT làm thay đổi toàn bộ bề mặt địa hình nhưng mang tính kế thừa, phục hồi các uốn nếp, đứt gẫy và sụt lún cũ và hình thành dạng địa hình trẻ ngày nay.


– Sau khi địa hình được nâng lên quá trình ngoại lực phát huy tác dụng , chia cắt địa hình thành mạng lưới sông ngòi trẻ dày đặc làm cho địa hình đồi núi chia thành nhiều dãy, nhiều đỉnh khác nhau.


– Do đó địa hình ngày nay chưa hẳn là do TKT với nhửng uốn nếp mới mà có mang tính kế thừa và tham gia tích cực của quá trình ngoại lực, nếu quan sát kĩ địa hình VN ngày nay cúng ta thấy chúng có độ cao sàn sàn như nhau.


– Tính chất cổ của địa hình VN được TKT làm trẻ lại được thể hiện qua các đặc điểm sau:


– Dạng cánh cung ở miền Bắc có liên quan đến các khối núi cổ thuộc thượng nguồn sông Chảy.


– Hướng song song và so le nhau có liên quan đến các uốn nếp cổ hình thành trong thời cổ sinh.


Tóm lại địa hình VN có sự thống nhất giữa CKT và TKT cũng như sự kết hợp giữa nội lực và ngoại lực, từ đó hình thành nên tính phức tạp và đa dạng của địa hình VN


3. Tân Kiến Tạo đã tạo nên dạng phân bậc của địa hình Việt Nam


– TKT với những pha nâng lên sụp xuống với cường độ và thời gian khác nhau xen vào đó là những pha yên tĩnh song song là các quá trình phun trào bazan và xâm thực bào mòn tạo nên tính chất phân bậc của địa hình VN ngày nay. Gồm các bậc địa hình chính sau:


+ Bậc 2500 – 2600m: là những đỉnh núi còn sót lại, ít bị xâm thực.


+ Bậc 2100 – 2200m: là bậc địa hình bán bình nguyên cổ Paleogen


+ Bậc 1800 – 1500m: là bậc địa hình chu kì I


+ Bậc 1000 – 1400m: là bậc địa hình chu kì II


+ Bậc 600 – 900m: là bậc địa hình chu kì III


+ Bậc 200 – 600m: là bậc địa hình chu kì IV


+ Bậc 25 – 200m : là bậc địa hình chu kì V


+ Riêng chu kì VI là các bậc thềm sông, thềm biển dưới 100m.


– Bậc địa hình chiếm diện tích lớn nhất là 200 – 600m, bị chia cắt thành nhiều đỉnh đồi và núi nhỏ. Địa hình cao trên 1000m chiếm 15% diện tích


4. Tính chất nội chí tuyến nóng ẩm mang tính bao trùm trong địa hình Việt Nam


– Do VN nằm gọn trong vùng nội chí tuyến BBC và là một bộ phận của á địa ô gió mùa Trung Aán làm cho VN có nền nhiệt đô cao và độ ẩm lớn, vì vậy địahình VN mang sắc thái miền nhiệt đới nóng ẩm.


– Địa hình Vn ngày nay là kết quả trực tiếp của sự bồi tụ và xâm thực của chế độ gió, mưa, nhiệt và hệ thống sông ngòi. Địa hình VN bị xâm thực, phong hoá nhanh chóng theo thời gian làm cho dạng địa hình mỗi ngày một thay đổi nhanh chóng theo thời gian. Vì vậy, tính chất khúc khỉu, gập ghềnh của địa hình ngày nay vừa là kết quả của quá trình xâm thực bào mòn vứa là kết quả của sự san bằng địa hình làm cho địa hình miền núi bị chia cắt sâu sắc còn đồng bằng được bồi tụ nhanh chóng.


– Do khí hậu mang sắc thái nhiệt đới nóng ẩm làm cho lớp thực bì phát triển nhanh, che phủ hầu hết bề mặt địa hình. Nó vừa là tấm gương phản ánh tính chất nội chí tuyến nóng ẩm, vừa làm giảm bớt tính sắc nhọn, khúc khuỷu của địa hình.


5. Địa hình đồng bằng – đồi núi vừa mang tính tương phản vừa phù hợp


a. Sự tương phản:


– Đồi núi VN có tính chất di lưu của địa hình cổ trong khi đồng bằng là dạng địa hình trẻ được hình thành vào kỉ Đệ Tứ và đang được mở rộng.


– Đồi núi được hình thành do quá trình nâng lên và được chia cắt của hệ thống sông, suối còn đồng bằng hình thành do quá trình sụt xuống và bồi tụ phù sa.


– Địa hình đồi núi với nhiều hẻm vực và thung lũng sâu tạo thành dạng địa hình âm – dương, còn đồng bằng thì bằng phẳng và thấp.


– Vùng đồi núi còn nhiều nơi hiểm trở chưa có dấu chân người ( nguyên sinh ), còn đồng bằng chịu tác động sâu sắc bởi hoạt động sản xuất của con người ( nhân sinh )


b. Sự phù hợp :


– Phần lớn các vùng đồng bằng lớn hay nhỏ đều nằm tiếp cận với các vùng núi hay cao nguyên thành hệ thống đồng bằng chân đồi, chân cao nguyên, chân núi và ven biển.


– Sông suối nối liền miền đồi núi và đồng bằng, chúng vận chuyển vật liệu xâm thực từ vùng đồi núi ở thượng lưu xuống hạ lưu bồi đắp thành các đồng bằng châu thổ. Vì vậy, tốc độ phát triển của các đồng bằng, tính chất, chất lượng phù sa đều phụ thuộc vào vùng núi thông qua hệ thống sông suối.


– Đồng bằng ngày nay là bờ biển, chân núi, cao nguyên cũ sau quá trình xâm thực, bồi tích mà thành.



II. CÁC KHU VỰC ĐỊA HÌNH ĐỒI NÚI:

1. Miền Bắc và Đông Bắc – Bắc Bộ:


– Thuộc khu vực rìa nền Hoa Nam dưới chân cao nguyên Vân nam và Quí Châu. Phía bắc và đông bắc giáp TQ, tây nam là đứt gẫy sông Hồng, đông nam là vịnh Bắc Bộ.


– Do các vận động kiến tạo nâng không đều, mạnh ở phía tây bắc, yếu dần về đông nam làm cho địa hình nghiệng theo hướng TB – ĐN.


– Men theo rìa phía tây là dãy cao nguyên đá vôi: khởi đầu là cao nguyên Mường Khương có độ cao 772m; kế đến là Bắc Hà ( 974m ); Simacaia, Quảng Bạ cao 870m, cao nguyên Đồng Văn ( 1482m), Mèo Vạc ( 950m ).


– Địa hình ở đây khá cao và bằng phẳng nhưng hiếm nước. Những nơi có sông cắt qua tạo thành những hẻm vực sâu như hẻm vực sông Chảy, sông Nho Quế…Xen vào đó là các đỉnh núi cao trên 2000m như: Tây Côn Lĩnh ( 2431m ), Kiều Liêu Ti ( 2403m ), Puthaca ( 2274m ) được cấu tạo chủ yếu từ đá granit.


– Phía nam khu vực này là các dãy núi cánh cung qui tụ về phía Tam Đảo. Khởi đầu là dãy Con Voi ( 1450m ) có hướng TB – ĐN nằm giữa sông Hồng và sông Chảy, cấu tạo chủ yếu là đá diệp thạch gnai và granit. Kế đến là cánh cung Sông Gâm có hướng á kinh tuyến nằm kẹp giữa sông Lô và sông Cầu với 2 đỉnh núi quan trọng là Phia Ya ( 1977m ) và Phia Biooc ( 1578m ), cấu tạo chủ yếu là đá granit. Tiếp theo là cánh cung Ngân Sơn cũng với hướng á kinh tuyến. Là dãy núi quan trọng vì nó là đường phân thủy giữa các sông đổ vào đồng bằng Bắc Bộ và các con sông chảy sang TQ. Trên đó có 2 đỉnh quan trọng là Phia Uắc, Ngân Sơn, cấu tạo chủ yếu là đá granit. Cuối cùng là cánh cung Bắc Sơn với đỉnh cao 779m, có hướng ĐB – TN nằm men theo lưu vực sông Thương.


– Từ lưu vực sông Thương ra tới vịnh Bắc Bộ địa hình có phần thấp dần:


+ Phía Bắc có máng trũng Cao Bằng, Lạng Sơn cấu tạo chủ yếu là đá vôi và nhiều địa hình Karst.


+ Ra gần đến biển địa hình cao hẳn lên đó là cánh cung Duyên Hải với 3 đỉnh quan trọng là Yên Tử ( 1068m ), Am Vap ( 1054m ), Nam Châu Lãnh ( 1507m ), cấu tạo chủ yếu là đá trầm tích và riolit


+ Tiếp theo là vùng đồi lan ra sát biển tạo thành một quần đảo và bán đảo ven biển . trong đó có các đảo lớn nổi tiếng như Cái Bầu, Cái Bàn, Cát Bà …)


– Còn lại là các vùng đồi núi thuộc trung du Tuyên Quang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Hà Bắc. Địa hình chủ yếu là đồi núi thấp, đỉnh tròn, cao từ 300 – 500m xen vào đó là một vài thung lũng rộng, sườn thoải vốn là những hố đệ tam cũ, đây là khu vực chuyển tiếp giữa miền thượng du và đồng bằng.


2. Tây Bắc và Bắc Trung Bộ:


a. Khu vực Tây Bắc:


Các dãy núi và cao nguyên đều chạy theo hướng TB – ĐN, nguyên nhân là do các vận động kiến tạo ở đây đều có hướng TB – ĐN ( uốn nếp, đứt gẫy ).


* Dãy Hoàng Liên Sơn:


– Đây là sơn thạch hùnh vĩ nhất VN, chạy theo hướng TB – ĐN ( dài 180km ) với nhiều đỉnh cao trên 3000m nhưng hẹp ngang và cấu tạo chủ yếu là đá granit và griolit.


– Đoạn từ biên giới Việt Trung – đèo Khau Cọ là đoạn cao nhất và hẹp ngang và có nhiều đèo ( đèo Mây, đèo Hoàng Liên Sơn…), với một số đỉnh cao trên 3000m như Phanxipăng ( 3143m ), Tayang Pinh ( 3096m ), Na-Kang-Ho Tao ( 2876m), Pu – Khao Lương ( 2816m ), cấu tạo chủ yếu là đá granit nên còn gọi là dài Granit Phanxipăng.


– Từ đèo Khau Cọ về phía nam địa hình thấp hơn và hiểm trở, mở rộng hơn. Cấu tạo chủ yếu là đá griolit với các đỉnh núi cao như Pu – Luông ( 2983m), Sà – Phìn ( 2879m ). Người ta còn gọi đoạn này là đoạn Griolit Pu Luông – Sà Phìn


– Hoàng Liên Sơn là dãy núi hùng vĩ, sống núi rõ đỉnh nhọn, sườn dốc, nhiều khe sâu, một số mặt bằng cổ bằng phẳng nằm ở độ cao 2100 – 2200m, 1600 – 1800m, 1300 – 1400m. trong đó rộng và nổi tiếng nhất là Sapa ( 1800m ). Dưới chân núi có một vài bồn địa rộng Than Uyên, Nghĩa Lộ,… Hoàng Liên Sơn là một bức bình phong ngăn gió mùa Đông Bắc và Tây Nam làm cho sườn đông và sườn tây có chế độ khí hậu và thời tiết khác nhau trong năm.


* Cao nguyên đá vôi Tây Bắc.


– Chạy song song với Hoàng Liên Sơn suốt từ Phong Thổ đến Mộv Châu là dải cao nguyên đá vôi lớn nhất VN, có bề ngang 25 – 40km, dài 300km, cao trung bình 1000m.


– Xuống đến khu vực Hoà Bình – Thanh Hoá độ cao giảm rất nhanh và bị chia cắt mạnh mẽ bởi hệ thống sông ngòi. Trên mặt cao nguyên khá bằng phẳng, dạng lượn sóng, sườn thoải dễ khai thác nông nghiệp.


– Từ B – N gồm các cao nguyên như: Ma Lu Thăng, Tà Phình, Sìn Chải ( cao trung bình 1600 – 1700m ), Tủa Chùa ( 1583m ), Sơn La ( 600m), Mộc Châu ( 1000m ).


* Vùng núi biên giới:


– Chạy dọc theo biên giới Việt – Trung và Việt – Lào, vừa là biên giới, vừa là đường phân thủy bao gồm các dãy núi:


– Biên giới Việt – Trung có dãy Pu si Lung cao 3076m


– Biên giới Việt – Lào có dãy Pu Lasan cao 1853m, Pu Đen Đnh ( 1886m ), Pu Sam Sao ( 1897m ).


– Lưu vực sông Mã có dãy: Xu Xung Chảo Chai ( 1817m )


b. Khu vực đồi núi Hoà Bình – Thanh Hoá:


– Thuộc chân núi và cao nguyên của vùng Tây Bắc, là bộ phận chuyển tiếp từ vùng núi cao xuống đồng bằng duyên hải → mang tính chất đồi núi thấp cao trung bình 500m. cấu tạo chủ yếu là đá vôi, sa diệp thạch và bị chia cắt mạnh bởi mạng lưới sông ngòi. Có đỉnh núi quan trọng là Pu Pha Luông ( 1884m ).


– Xuống phía nam sông Chu địa hình có phần cao hơn và thấp dần từ T – Đ, đình cao nhất là Pu Hoat 2452m và cấu tạo chủ yếu là granit và griolit


– Ở Nghi Xuân, Phủ Quì có một bán bình nguyên bazan khá màu mỡ


c. Khu vực Trường Sơn Bắc:


– Kéo dài từ phía nam sông Cả đến đèo Hải Vân , địa hình khá đơn giản: núi tập trung ở phía tây và thấp dần về phía đông. Dãy núi này chạy dọc theo biên giới Việt – Lào, vừa là đường biên giới vừa là đường phân thủy của Việt Nam và Lào


– TSB là dãy núi chạy tương đối liên tục, sống núi rõ, 2 sườn không đối xứng: phía đông dốc, phía tây thoải → Làm cho đồng bằng duyên hải nhỏ hẹp.


* Từ sông Cả đến đèo Mụ Giạ:


– Khởi đầu là dải Pu Lai Leng ( 2711m ) và kết thúc ở đèo Keo Nưa.


– Phía nam đèo Keo Nưa địa hình cao hẳn lên, đó là dãy Rào Cỏ ( 2335m ). Phía nam Rào Cỏ có dãy núi chạy ngang ra biển đó là dãy Hoành Sơn ( 1044m ), là dãy núi ngăn cách hai đồng bằng Hà Tĩnh và Bình – Trị – Thiên ở phía nam.


– Phía nam Hoành Sơn là dãy Phu Cô Pi ( 2017m ) và kết thúc ở đèo Mụ Giạ


* Từ đèo Mụ Giạ đến đèo Hải Vân:


– Khởi đầu là vùng núi đá vôi Kẻ Bàng – Khe Ngang. Kẻ Bàng cao 900m và Khe Ngang cao 600m là một bộ phận của vùng núi đá vôi Sê Păng Phai bên Lào, địa hình bị chia cắt mạnh tạo thành nhiều hang động.


– Tiếp Kẻ Bàng – Khe Ngang về phía nam là vùng đồi núi sa diệp thạch toả rộng vả hiểm trở. Khởi đầu là dãy Côtarun ( 1624m ), tiếp là Pusavia ( 1272m ), Động Châu ( 1257m ), bên cạnh đó còn có một số đỉnh núi granit đỉnh nhonï sườn dốc như là Ba Rền ( 1137m ), Cồn Cỏ ( 1700m ). Các dãy núi này đều có hường TB – ĐN hoặc T – Đ và phía đông có dãy cao nguyên bazan khá màu mỡ chạy từ Vình Linh đến La Bảo.


– Kết thúc vùng núi sa diệp thạch là đèo La Bảo, địa hình cao hẳn lên và hẹp ngang với những đỉnh đá hoa cương cao trên 1000m: cao nhất là Động Ngài ( 1774m ). Đây là dãy núi cuối cùng còn giữ hướng TB – ĐN và kết thúc TSB bằng dãy núi chạy ngang ra biển, đó là dãy Bạch Mã ( 1444m ) và tạo thành bán đảo nổi tiếng là bán đảo Sơn Trà và đèo Hải Vân


3. Miền đồi núi Trường Sơn Nam và Đông Nam Bộ:


– Chịu tác động mạnh mẽ của cổ kiến tạo lẫn tân kiến tạo nên địa hình ở đây khá phức tạp. Nhìn chung phát triển xung quanh khối nhô Kon Tum được hình thành vào thời kì Cổ Sinh và ngày nay chưa thật sự ổn định.


– TKT với những pha nâng, sụp với cường độ và thời gian khác nhau đã hình thành nên tính chất phân bậc của địa hình TSN và ĐNB kèm theo đó là phun trào bazan ở Tây Nguyên và ĐNB hình thành các cao nguyên bazan dạng khung mai rùa kháø bằng phẳng và màu mỡ như cao nguyên Gia Lai – Kon Tum, Đắk Lắk, Di Linh – Bảo Lộc và Mơ Nông.


a. Vùng đồi núi sông Thu Bồn:


Bao gồm dãy địa lũy Đà Nẵng – Sêpôn với các đỉnh núi quan trọng như A Tuất ( 2500m ), núi Mạng ( 1708m ) và núi Bà Nà ( 1467m), phía bắc địa hình tương đối cao vì giáp với vùng núi Bạch Mã, phía nam thấp dần về phía lưu vực sông Thu Bồn


b. Vùng đồi núi thuộc khối nhô Kon Tum


Bao gồm toàn bộ khối nhô Kon Tum được hình thành trong quá trình bốc mòn của một nền cổ thuộc địa khối Indosini để lại một số đỉnh núi đá rắn cao trên 1000m. trong đó quan trọng nhất là đỉnh Ngọc Linh ( 2598m ), một số đỉnh khác như Ngọc Rinh, Ngọc Pan cao trên 2000m.


c. Dãy cao nguyên phía tây


* Cao nguyên Gia Lai – Đắk Lắk:


– Là cao nguyên bazan điển hình, có nơi dày đến 400m ở độ cao TB 700 – 800m ở Gia lai và 400 – 500m ở Đắk Lắk.


– Bề mặt địa hình có dạng chảo úp, dễ khai thác nông nghiệp, nhất là các cây công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su


– Phía đông là các dãy núi Bình Định – Phú Yên là một bộ phận nối tiếp về phía nam và đông nam của khối nhô Kon Tum


* Cao nguyên cực Nam Trung Bộ:


– Nằm ở phía nam cao nguyên Đắk Lắk, phần lớn được phủ bazan trừ Đà Lạt, cao nguyên này thuộc đường viền Hecsini được TKT làm trẻ lại và phủ một lớp bazan tương đối dày gồm 3 cao nguyên: Đà Lạt – Lâm Viên ( 1500m ), Di Linh ( 1000m ), Bảo Lộc ( 800m )


– Phía bắc và đông bắc có một số dải núi cao trên 2000m như : Vọng Phu ( 2051m ), Chư Yangsin ( 2405m ), LangPiang ( 2153m ), Biđup ( 2297m )


* Đông Nam Bộ


Dạng bán bình nguyên xen kẽ với đồi và núi thấp, nằm dưới chân của cao nguyên Di Linh, Bảo Lộc, tiền thân là một bộ phận của đồng bằng ĐNB được nâng nhẹ vào TKT lên độ cao TB 200m, có nơi được phủ bazan gọi là bán bình nguyên đất đỏ bazan ( Long Khánh, Định Quán… ), nơi khác đa số là đất xám bạc màu hay còn gọi là đất phù sa cổ → Đây là bộ phận chuyển tiếp giữa miền núi Cực Nam Trung Bộ và đồng bằng châu thổ Tây Nam Bộ


III. ĐỊA HÌNH KHU VỰC ĐỒNG BẰNG


– Việt Nam có hệ thống đồng bằng chạy suốt từ B- N, chiếm hầu hết mặt giáp biển. Đồng bằng VN chủ yếu hình thành trên các vùng sụp võng hoặc các nơi trũng thấp, qua một thời gian dài hàng triệu năm, quá trình lắng đọng trầm tích hay bồi tụ phù sa của hệ thống sông ngòi.


– Đồng bằng VN tương đối bằng phẳng, độ dốc nhỏ với các loại đồng bằng sau.


– Đồng bằng châu thổ: thường rộng lớn, được hình thành trong các sụp võng vào thời kì đệ tam, đệ tứ. Lúc đầu là những vịnh nông, sau đó được bồi trầm tích phù sa tạo thành đồng bằng


– Đồng bằng duyên hải ( đồng bằng chân núi ven biển ): thường nhỏ hẹp, nhiều đồi núi sót. Được hình thành trong những miền trũng, vịnh hẹp hay quá trình xâm thực sườn núi dọc theo bờ biển sau đó sông ngòi ở nội địa chảy ra bồi đắp phù sa, kết hợp với sóng biển thuỷ triều, hải lưu.


– Đồng bằng chân núi – cao nguyên: hình thành trên các vùng trũng hồ đệ tam cũ hay các thung lũng giữa núi → nhỏ hẹp, kém màu mỡ, có dạng địa hình bậc thang


1. Đồng bằng duyên hải Quảng Ninh:


Trải dài từ Móng Cái đến Quảng Yên, hẹp ngang, nhiều đồi núi sót, kém màu mỡ, bị cắt xén thành những
đồng bằng nhỏ hẹp → Cấu tạo chủ yếu là phù sa, có một ít phù sa mới ở các cửa sông

2. Đồng bằng châu thổ Bắc Bộ:


– Là vùng đồng bằng châu thổ khá rộng lớn với diện tích 15.000km2 được bồi đắp bởi hai hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình, tạo thành một tam giác châu có đỉnh là Việt trì, cạnh đáy chạy dài từ Yên Lập – Kim Sơn → Được hình thành trên vùng sụp võng Tân Sinh chu kì 4


– Do chung quanh đồng bằng đều là núi cao từ đó các hệ thống sông tập trung đổ vào đồng bằng làm cho hiện tương lũ lụt trở nên thường xuyên vì vậy nhân dân ta từ lâu đời đã đắp hệ thống đê dọc theo các con sông để ngăn lũ. Do đó đã làm mất đi tính chất bằng pha83ng của đồng bằng. Đồng thời hạn chế đi sự bồi đắp phù sa cho đồng bằng. Bù lại phù sa được chuyển ra biển và làm cho đồng bằng tiến ra biển khá nhanh khoảng 100m/năm.


3. Đồng bằng Thanh Hoá:


Tiếp phía nam đồng bằng châu thổ Bắc Bộ có diện tích 3.100km2 được bồi đắp bởi hệ thống sông Mã – Chu và thủy triều → đồng bằng Thanh Hoá vừa mang tính chất châu thổ vừa mang tính chất duyên hải và cấu tạo vừa có phù sa mới vừa có phù sa cũ. Đồng thời ven biển có nhiều cồn cát cũng như hình thành trong vùng sụp võng yếu nên trong lòng đồng bằng còn có nhiều đồi núi sót.


4. Đồng bằng duyên hải miền Trung:


– Chạy từ Nghệ An đến Bình Thuận, là những đồng bằng chân núi ven biển, nhiều đồi núi sót, đầm phá, nhiều đụn cát, cồn cát nhỏ hẹp và kém màu mỡ, cấu tạo chủ yếu là phù sa cổ. Nguyên nhân chính của những đặc điểm trên là do dãi TS lan ra sát biển và tác dụng của biển.


– Về nguồn gốc đồng bằng duyên hải có ảnh hưởng của quá trình biển tiến mài mòn bở biển và chân núi ven biển, sau đó được sóng biển và gió biển cộng với sông suối nội địa bồi đắp và mở rộng. Tuy nhiên quá trình này rất chậm và rất ít phù sa, kém màu mỡ. Cấu tạo của đồng bằng duyên hải được chia làm 3 phần :


+ Vùng gò đồi chân núi hay thềm phù sa cổ


+ Đồng bằng trung tâm chủ yếu là phù sa mới và nhiều sông suối


+ Dãy cồn cát – đầm phá bãi bồi ven biển.


– Từ B – N có các đồng bằng:


+ Đồng bằng Nghệ – Tĩnh: có diện tích 3.410 km2 chạy từ phía nam đồng bằng Thanh Hoá đến Hoành Sơn đèo Ngang.


+ Đồng bằng Bình – Trị – Thiên: có diện tích 2.150 km2 từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân


+ Đồng bằng Quảng Nam – Nghĩa Bình : diện tích 4.350 km2 đi từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông


+ Đồng bằng Phú Yên : diện tích 820 km2 đi từ đèo Cù Mông đến đèo Cả


+ Đồng bằng Khánh Hoà – Ninh Thuận: diện tích 620 km2 từ Mũi Nại đến Mũi Dinh.


+ Đồng bằng Bình Thuận: diện tích 800 km2 đi từ mũi Dinh đến ĐNB


5. Đồng bằng Nam Bộ:


Là đồng bằng lớn nhất VN 40.000 km2 được hệ thống sông Cửu Long và Đồng Nai bồi đắp trên một miền sụp võng rộng lớn vào thời kì Plêixtoxen – chu kì 5. Tuy nhiên do đặc điểm nên chia thành 2 đồng bằng.


– Đồng bằng Đông Nam Bộ: do ảnh hưởng của hoạt động tạo sơn được nâng nhẹ vào TKT làm thoát khỏi chế độ bồi tích phù sa mới, hình thành đồng bằng phù sa cổ cao trên dưới 100m, có nơi được phủ bazan tạo thành bán bình nguyên đất đỏ bazan có độ cao trên dười 200m. đây là vùng đồng bằng cao nhất VN thuộc hệ thống sông Đồng Nai. Trên đó có một vài đỉnh núi sót: Bà Đen ( 986m ), Chứa Chan ( 830m )…


– Đồng bằng châu thổ Tây Nam Bộ: có địa hình khá bằng phẳng do được hình thành trên miền sụp võng Tân Sinh Plêistoxen và được bồi đắp phù sa hàng năm bởi hệ thống sông Cửu Long. Ngày nay đồng bằng cao 2m trên mực nước biển và hàng năm đồng bằng tiến ra biển khá nhanh 80m/năm. Do quá trình tiến ra biển nhanh nên ngày nay trong lòng đồng bằng còn để lại nhiều đầm lầy ( Đồng Tháp Mười, Uminh, Hà Tiên,…)


(ST)
 
ĐỊA HÌNH VIỆT NAM



Lãnh thổ Việt Nam bao gồm ba phần tư là đồi núi nhưng chủ yếu là đồi núi thấp, hai đồng bằng lớn, nhiều sông, ngòi và có bờ biển dài.

Phần đất liền

Bốn vùng núi chính:

Vùng núi Đông Bắc (còn gọi là Việt Bắc)

Kéo dài từ thung lũng sông Hồng đến vịnh Bắc Bộ. Tại đây có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: động Tam Thanh, Nhị Thanh (Lạng Sơn), hang Pắc Bó, thác Bản Giốc (Cao Bằng), hồ Ba Bể (Bắc Kạn), núi Yên Tử, Vịnh Hạ Long - di sản thế giới (Quảng Ninh). Đỉnh núi Tây Côn Lĩnh (Hà Giang) với 2.431m, cao nhất vùng Đông Bắc.

Vùng núi Tây Bắc

Kéo dài từ biên giới phía bắc (giáp Trung Quốc) tới phía tây tỉnh Thanh Hoá. Đây là vùng núi cao hùng vĩ có Sa Pa (Lào Cai) ở độ cao 1.500m so với mặt biển - nơi nghỉ mát lý tưởng, tập trung đông các tộc người H'Mông, Dao, Kinh, Tày, Giáy, Hoa, Xá Phó...

Vùng núi Tây Bắc còn có di tích chiến trường lừng danh Điện Biên Phủ và đỉnh núi Phan Si Păng, cao 3.143m, cao nhất Đông Dương.

Vùng núi Trường Sơn Bắc

Từ phía tây tỉnh Thanh Hóa đến vùng núi Quảng Nam - Đà Nẵng, có vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, di sản văn hóa thế giới (Quảng Bình) và những đường đèo nổi tiếng như: đèo Ngang, đèo Hải Vân... Đặc biệt, có đường mòn Hồ Chí Minh được thế giới biết đến nhiều bởi những kỳ tích của người Việt Nam trong cuộc kháng chiến vĩ đại lần thứ hai.

Vùng núi Trường Sơn Nam

Nằm ở phía tây các tỉnh Nam Trung Bộ. Sau những khối núi đồ sộ là một vùng đất rộng lớn được gọi là Tây Nguyên (cao nguyên phía tây). Vùng đất đầy huyền thoại này còn chứa đựng nhiều điều bí ẩn về thực vật, động vật, nhất là nền văn hóa đặc sắc của các bộ tộc ít người. Thành phố Đà Lạt - nơi nghỉ mát lý tưởng được hình thành từ cuối thế kỷ 19.

Hai đồng bằng lớn:

Đồng bằng sông Hồng (đồng bằng Bắc Bộ)

Rộng khoảng 15.000km² được bồi đắp bởi phù sa của hai con sông lớn là sông Hồng và sông Thái Bình. Đây là địa bàn cư trú của người Việt cổ và cũng là nơi hình thành nền văn minh lúa nước.

Đồng Bằng sông Cửu Long (đồng bằng Nam Bộ) Rộng trên 40.000km², là vùng đất phì nhiêu, khí hậu thuận lợi. Đây là vựa lúa lớn nhất của Việt Nam.

Sông ngòi:

Trên lãnh thổ Việt Nam có hàng nghìn con sông lớn, nhỏ. Dọc bờ biển, cứ khoảng 20km lại có một cửa sông, do đó, hệ thống giao thông đường thủy khá thuận lợi.
Hai hệ thống sông quan trọng là sông Hồng ở miền Bắc và sông Mê Kông (còn gọi là sông Cửu Long) ở miền Nam.

Vùng biển

Việt Nam có 3.260km bờ biển, nếu có dịp đi dọc theo bờ biển Việt Nam du khách sẽ được đắm mình trong làn nước xanh của những bãi biển đẹp như; Trà Cổ, Sầm Sơn, Lăng Cô, Non Nước, Nha Trang, Mũi Né, Vũng Tàu, Hà Tiên... Có nơi núi ăn lan ra biển tạo nên một vẻ đẹp kỳ vĩ như: Vịnh Hạ Long, đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.Việt Nam có nhiều hải cảng lớn như: Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Cam Ranh, Vũng Tàu, Sài Gòn,... Giữa vùng biển Việt Nam còn có hệ thống đảo và quần đảo gồm hàng ngàn đảo lớn nhỏ nằm rải rác từ Bắc đến Nam, trong đó có hai quần đảo lớn là Hoàng Sa và Trường Sa.
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top