Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
LỊCH SỬ THPT
Hỏi đáp Lịch sử THPT
Hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp môn Lịch sử
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Tẩy" data-source="post: 1369" data-attributes="member: 1946"><p><strong>Nhân dân hai miền chiến đấu chống Mĩ.</strong></p><p></p><p><strong>NHÂN DÂN HAI MIỀN TRỰC TIẾP CHIẾN ĐẤU CHỐNG ĐẾ QUỐC MĨ XÂM LƯỢC. NHÂN DÂN MIỀN BẮC VỪA CHIẾN ĐẤU VỪA SẢN XUẤT (1965-1973)</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>I. CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MĨ </strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>Ở MIỀN NAM (1965-1968)</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>1. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ ở miền Nam</strong></p><p> <strong></strong></p><p><strong>a- Hoàn cảnh </strong></p><p> -Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mĩ chuyển sang thực hiện “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.</p><p> -“Chiến tranh cục bộ” là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới, được tiến hành bằng lực lượng quân Mĩ, quân một số nước đồng minh của Mĩ và quân đội Sài Gòn.Trong đó quân Mĩ giữ vai trò quan trọng và không ngừng tăng lên về số lượng lẫn trang bị nhằm chống lại cách mạng và nhân dân ta.</p><p></p><p> <strong>-Âm mưu:</strong> nhanh chóng tạo ra ưu thế về binh lực và hoả lực để áp đảo quân chủ lực của ta bằng chiến lược quân sự mới “tìm diệt”, cố giành lại thế chủ động trên chiến trường, đẩy quân ta về thế phòng ngự, tiến tới kết thúc chiến tranh.</p><p></p><p> <strong>-Biện pháp:</strong></p><p> + Ồ ạt đưa quân viễn chinh Mĩ và quân đồng minh vào miền Nam.</p><p> + Dựa vào vào ưu thế quân đông và vũ khí hiện đại Mĩ mở ngay cuộc hành quân “tìm diệt” vào căn cứ Quân giải phóng ở Vạn Tường (Quảng Ngãi) .</p><p> +Tiếp đó, mở liền 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô (đông xuân 1965-1966 và 1966-1967) bằng hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” vào vùng “đất thánh Việt cộng”.</p><p></p><p> <strong>2. Chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ</strong></p><p> -Với ý chí quyết chiến quyết thắng giặc Mĩ xâm lược, quân dân miền Nam đã chiến đấu anh dũng và giành những thắng lợi trên các mặt trận.</p><p> <strong></strong></p><p><strong>a- Quân sự </strong></p><p> *Mở đầu là thắng lợi ở Núi Thành (Quảng Nam), Vạn Tường (Quảng Ngãi)</p><p>+18-8-1965, Mĩ đã huy động hơn 9.000 quân cùng với nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại mở cuộc tấn công vào Vạn Tường nhằm tiêu diệt một đơn vị chủ lực của ta .</p><p></p><p>+Tại đây, chúng đã vấp phải sự chống trả quyết liệt của quân ta, sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực của ta cùng với dân quân du kích đã đẩy lùi được cuộc hành quân của địch, tiêu diệt được hơn 900 tên, phá hủy hàng chục xe tăng, xe bọc thép và hạ nhiều máy bay .</p><p></p><p> +Chiến thắng Vạn Tường đã mở đầu cho phong trào “tìm Mĩ mà đánh, lùng ngụy mà diệt” trên khắp miền Nam và mở ra khả năng thắng Mĩ của quân dân ta trong “Chiến tranh cục bộ” .</p><p> </p><p>* Đánh tan hai cuộc phản công mùa khô 1965 – 1966 và 1966 – 1967</p><p>+ Mùa khô thứ nhất (đông xuân 1965 – 1966), Mĩ huy động 72 vạn quân (trong đó có hơn 22 vạn quân Mĩ và quân đồng minh), mở 450 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó có 5 cuộc hành quân “tìm diệt” then chốt, nhằm vào hai hướng chính là Đông Nam Bộ và Liên khu 5 nhằm tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng, “bẻ gãy xương sống Việt Cộng”, giành lại thế chủ động trên chiến trường.</p><p></p><p>Với thế trận chiến tranh nhân dân, bằng nhiều hình thức tác chiến khác nhau đã chặn đánh địch ở khắp mọi hướng, tiến công địch ở mọi nơi…</p><p>Trong 4 tháng mùa khô 1965 - 1966, ta đã loại khỏi vòng chiến hơn 104.000 tên địch, trong đó có 42.000 quân Mĩ , 3500 quân đồng minh, bắn rơi 1430 máy bay.</p><p></p><p>+ Mùa khô thứ hai (đông xuân 1966 – 1967), với lực lượng lên đến 98 vạn quân (trong đó có 44 vạn lính Mĩ và quân đồng minh), Mĩ mở 895 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó có 3 cuộc hành quân lớn “tìm diệt” và “bình định”, lớn nhất là cuộc hành quân Gian-xơn Xiti đánh vào căn cứ Dương Minh Châu (Bắc Tây Ninh), nhằm tiêu diệt chủ lực và cơ quan đầu não của ta.</p><p></p><p> <strong>Kết quả:</strong> trong mùa khô thứ hai, ta loại khỏi vòng chiến 151.000 tên, trong đó có 68.000 lính Mĩ , 5500 quân đồng minh, bắn rơi 1231 máy bay. </p><p> b-Trên mặt trận chống “bình định”, phá “ấp chiến lược” </p><p> Ở các vùng nông thôn, quần chúng được sự phối hợp hỗ trợ của lực lượng vũ trang đã chống ách kìm kẹp của địch, phá từng mảng “Ấp chiến lược”.</p><p> <strong></strong></p><p><strong>c. Đấu tranh chính trị </strong></p><p>Ở các thành thị, công nhân, học sinh, sinh viên, Phật tử… đã nổi lên đấu tranh đòi Mĩ rút về nước, đòi tự do dân chủ, dân sinh… </p><p> Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam được nâng cao trên trường quốc tế (?)</p><p> </p><p><strong>3. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968</strong></p><p><strong>a- Hoàn cảnh </strong>: Bước vào mùa xuân 1968, so sánh lực lượng giữa ta và địch thay đổi có lợi cho ta sau 2 mùa khô, lợi dụng mâu thuẫn ở Mĩ trong năm bầu cử tổng thống (1968) ta chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy toàn miền Nam, chủ yếu là ở các đô thị, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân Mĩ - ngụy, buộc Mĩ phải đàm phán, rút quân về nước.</p><p> <strong></strong></p><p><strong>b- Diễn biến : </strong></p><p> -Đêm 30 rạng ngày 31 tháng 01 năm 1968 (tết Mậu Thân), quân chủ lực của ta đã đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 37/44 tỉnh , 4/6 đô thị lớn trên toàn miền Nam.</p><p></p><p>-Ở Sài Gòn, quân ta đã tấn công vào các vị trí đầu não của địch như Tòa Đại sứ Mĩ, Dinh Độc lập, đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu …</p><p></p><p>Trong đợt 1 (từ đêm 30-1 đến ngày 25-2), quân ta đã loại khỏi vòng chiến 147.000 tên, trong đó có 43.000 lính Mĩ , phá hủy một khối lượng lớn vật chất và phương tiện chiến tranh của địch.</p><p></p><p>Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, có thêm nhiều lực lượng mới chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn. Tổ chức Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình trên toàn miền Nam được thành lập.</p><p></p><p>Sau đó, ta tiếp tục tiến công đợt 2 (tháng 5 và 6) và đợt 3 (tháng 8 và 9-1968). Nhưng do lực lượng địch còn đông, nên lực lượng ta gặp nhiều khó khăn và tổn thất.</p><p></p><p> <strong>c- Ý nghĩa : </strong></p><p> -Làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mĩ, buộc Mĩ phải tuyên bố “phi Mĩ hóa” chiến tranh xâm lược (tức là thừa nhận thất bại của “Chiến tranh cục bộ”), chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc và chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Pa-ri.</p><p> -Mở ra một bước ngoặt mới của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước.</p><p></p><p><strong>II-MIỀN BẮC VỪA CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA MĨ, VỪA SẢN XUẤT VÀ LÀM NGHĨA VỤ HẬU PHƯƠNG (1965 - 1968)</strong></p><p></p><p>1. Mĩ tiến hành chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc</p><p> Đồng thời với việc đẩy mạnh chiến xâm lược miền Nam, Mĩ mở rộng chiến tranh bằng không quân, hải quân phá hoại miền Bắc.</p><p></p><p> -5-8-964, Mĩ dựng lên “sự kiện vịnh Bắc Bộ” và cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi ở miền Bắc như sông Gianh (Quảng Bình), Vinh - Bến Thuỷ (Nghệ An), Lạch Trường (Thanh Hoá)..</p><p></p><p> - 7-2-1965, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ, chính thức gây ra cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất.</p><p> <strong>-Âm mưu :</strong></p><p> +Phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng và công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc.</p><p> +Ngăn chặn nguồn chi viện bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào Nam. </p><p> +Uy hiếp tinh thần và làm lung lay ý chí quyết tâm chống Mĩ của nhân dân ta.</p><p></p><p><strong>2. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa chiến đấu vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương lớn</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>a- Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Mĩ </strong></p><p>- Miền Bắc kịp thời chuyển các hoạt động sang thời chiến.Thực hiện quân sự hóa toàn dân, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào, phân tán dân khỏi những vùng trọng điểm để tránh thiệt hại về người và của.</p><p>-Miền Bắc đã huy động toàn dân chống giặc; bên cạnh lực lượng phòng không, không quân, hải quân với vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, lực lượng dân quân, du kích, tự vệ chiến đấu của toàn dân không ngừng ngày đêm hỗ trợ, phục vụ chiến đấu và khắc phục hậu quả do chiến tranh tàn phá.</p><p></p><p><em><strong>-Kết quả</strong></em>: Trong hơn 4 năm (từ ngày 5-8-1964 đến ngày 1-11-1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 3.243 máy bay Mĩ (trong đó có 6 máy bay B52, 3 máy bay F.111), bắn chìm 143 tàu chiến . </p><p>Đến ngày 1-11-1968, Mĩ tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc.</p><p></p><p><strong>b-Trong sản xuất :</strong></p><p>Trong nông nghiệp: diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lao động không ngừng tăng lên. Năm 1965, miền Bắc chỉ có 7 huyện và 640 hợp tác xã đạt mức sản lượng 5 tấn/ha. Đến năm 1967, tăng lên 30 huyện và 2485 hợp tác xã đạt đến mức sản lượng trên.</p><p></p><p><em><strong>Trong công nghiệp</strong></em>: Các cơ sở sản xuất lớn sau khi sơ tán, phân tán đã dần dần đi vào sản xuất ổn định trở lại, đảm bảo cung cấp, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của sản xuất, chiến đấu và đời sống.</p><p>Công nghiệp quốc phòng được tăng cường và đặc biệt công nghiệp địa phương phát triển rất mạnh.</p><p></p><p>Trong giao thông vận tải: Nhân dân ra sức khôi phục và bảo vệ các mạch máu giao thông của miền Bắc và hệ thống đường vận tải chiến lược Bắc – Nam, đáp ứng nhu cầu vận tải phục vụ công tác chi viện cho miền Nam.</p><p></p><p><strong>c. Chi viện cho miền Nam</strong></p><p> -Miền Bắc làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn với miền Nam một cách xuất sắc với tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai” vì miền Nam ruột thịt, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. </p><p></p><p> -Trong 4 năm (1965 - 1968), miền Bắc đưa vào miền Nam hơn 30 vạn cán bộ, bộ đội, hàng chục vạn tấn vật chất, vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men …Miền Bắc chi viện sức người, sức của cho miền Nam tăng gấp 10 lần so với giai đoạn trước, sự chi viện đó đã góp phần quyết định cùng miền Nam đánh bại “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ .</p><p></p><p><strong>III-CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” VÀ “ĐÔNG DƯƠNG HÓA CHIẾN TRANH” CỦA MĨ (1969 – 1973)</strong></p><p><strong>1. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh “ và “Đông Dương hoá chiến tranh”của Mĩ</strong></p><p></p><p><em><strong>a-Hoàn cảnh</strong></em>: Sau thất bại của “Chiến tranh cục bộ”, Ních-xơn tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới ở miền Nam, chuyển sang chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương , thực hiện chiến lược “Đông Dương hoá chiến tranh”.</p><p><em><strong></strong></em></p><p><em><strong>b-Âm mưu, thủ đoạn: </strong></em></p><p>-“Việt Nam hóa chiến tranh” là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mĩ, được tiến hành bằng lực lượng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự phối hợp về hoả lực, không quân, hậu cần Mĩ và vẫn do Mĩ chỉ huy bằng hệ thống cố vấn .</p><p> -Thực chất, là sự tiếp tục thực hiện âm mưu “Dùng người Việt đánh người Việt”, “Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”.</p><p> -Mĩ còn dùng thủ đoạn ngoại giao nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước XHCN đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.</p><p> </p><p><strong>2. Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hoá chiến tranh”của Mĩ</strong></p><p><strong>a- Trên mặt trận chính trị - ngoại giao</strong></p><p></p><p> - Ngày 6-6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam thành lập. Đây là chính phủ hợp pháp của nhân dân miền Nam, vừa mới ra đời đã được 23 nước trên thế giới công nhận, trong đó có 21 nước chính thức đặt quan hệ ngoại giao </p><p></p><p> - Ngày 24 và 25 -4-1970, ba nước Lào, Việt Nam, Campuchia đã họp Hội nghị cấp cao đã biểu thị quyết tâm đoàn kết chống Mĩ của nhân dân Đông Dương. </p><p></p><p> -Ở các đô thị miền Nam, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân nổ ra liên tục. Đặc biệt là tại Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, phong trào của học sinh, sinh viên diễn ra rất rầm rộ, lôi cuốn đông đảo giới trẻ tham gia. </p><p> </p><p>-Tại các vùng nông thôn, phong trào “phá ấp chiến lược”, chống “bình định” nông thôn diễn ra rất quyết liệt. Đến đầu năm 1971, cách mạng đã giành quyền làm chủ thêm 3.600 “ấp chiến lược” với hơn 3 triệu dân.</p><p></p><p><strong> b-Trên mặt trận quân sự</strong></p><p> -Từ ngày 30-4 đến ngày 30-6-1970, quân đội Việt Nam phối hợp với quân dân Campuchia đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của 10 vạn quân Mĩ và nguỵ Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn với 4,5 triệu dân </p><p></p><p>-Từ ngày 12-2 đến ngày 23-3-1971, quân đội Việt Nam phối hợp với quân dân Lào đập tan cuộc hành quân “Lam sơn 719” của 4,5 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến 22.000 tên địch, buộc chúng phải rút khỏi Đường 9-Nam Lào; giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương .</p><p></p><p> <em><strong>*Ý nghĩa:</strong></em></p><p>-Làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch theo chiều hướng có lợi cho ta, tạo điều kiện để ta mở cuộc Tiến công chiến lược năm 1972</p><p></p><p><strong>3. Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972</strong></p><p></p><p>-30-3-1972, ta mở cuộc Tiến công chiến lược đánh vào Quảng Trị rồi phát triển rộng khắp miền Nam</p><p></p><p> -Đến cuối tháng 6-1972, ta chọc thủng 3 phòng tuyến manh nhất của địch là Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, loại khỏi vòng chiến đấu 20 vạn quân nguỵ, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn. </p><p></p><p><strong>-Ý nghĩa</strong>: giáng đòn nặng nề vào chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, buộc Mĩ phải tuyên bố “Mĩ hoá” trở lại chiến tranh xâm lược (tức là thừa nhận sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”).</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Tẩy, post: 1369, member: 1946"] [b]Nhân dân hai miền chiến đấu chống Mĩ.[/b] [B]NHÂN DÂN HAI MIỀN TRỰC TIẾP CHIẾN ĐẤU CHỐNG ĐẾ QUỐC MĨ XÂM LƯỢC. NHÂN DÂN MIỀN BẮC VỪA CHIẾN ĐẤU VỪA SẢN XUẤT (1965-1973) I. CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” CỦA ĐẾ QUỐC MĨ Ở MIỀN NAM (1965-1968) [/B] [B]1. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ ở miền Nam a- Hoàn cảnh [/B] -Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mĩ chuyển sang thực hiện “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại ở miền Bắc. -“Chiến tranh cục bộ” là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới, được tiến hành bằng lực lượng quân Mĩ, quân một số nước đồng minh của Mĩ và quân đội Sài Gòn.Trong đó quân Mĩ giữ vai trò quan trọng và không ngừng tăng lên về số lượng lẫn trang bị nhằm chống lại cách mạng và nhân dân ta. [B]-Âm mưu:[/B] nhanh chóng tạo ra ưu thế về binh lực và hoả lực để áp đảo quân chủ lực của ta bằng chiến lược quân sự mới “tìm diệt”, cố giành lại thế chủ động trên chiến trường, đẩy quân ta về thế phòng ngự, tiến tới kết thúc chiến tranh. [B]-Biện pháp:[/B] + Ồ ạt đưa quân viễn chinh Mĩ và quân đồng minh vào miền Nam. + Dựa vào vào ưu thế quân đông và vũ khí hiện đại Mĩ mở ngay cuộc hành quân “tìm diệt” vào căn cứ Quân giải phóng ở Vạn Tường (Quảng Ngãi) . +Tiếp đó, mở liền 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô (đông xuân 1965-1966 và 1966-1967) bằng hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” vào vùng “đất thánh Việt cộng”. [B]2. Chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ[/B] -Với ý chí quyết chiến quyết thắng giặc Mĩ xâm lược, quân dân miền Nam đã chiến đấu anh dũng và giành những thắng lợi trên các mặt trận. [B] a- Quân sự [/B] *Mở đầu là thắng lợi ở Núi Thành (Quảng Nam), Vạn Tường (Quảng Ngãi) +18-8-1965, Mĩ đã huy động hơn 9.000 quân cùng với nhiều phương tiện chiến tranh hiện đại mở cuộc tấn công vào Vạn Tường nhằm tiêu diệt một đơn vị chủ lực của ta . +Tại đây, chúng đã vấp phải sự chống trả quyết liệt của quân ta, sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực của ta cùng với dân quân du kích đã đẩy lùi được cuộc hành quân của địch, tiêu diệt được hơn 900 tên, phá hủy hàng chục xe tăng, xe bọc thép và hạ nhiều máy bay . +Chiến thắng Vạn Tường đã mở đầu cho phong trào “tìm Mĩ mà đánh, lùng ngụy mà diệt” trên khắp miền Nam và mở ra khả năng thắng Mĩ của quân dân ta trong “Chiến tranh cục bộ” . * Đánh tan hai cuộc phản công mùa khô 1965 – 1966 và 1966 – 1967 + Mùa khô thứ nhất (đông xuân 1965 – 1966), Mĩ huy động 72 vạn quân (trong đó có hơn 22 vạn quân Mĩ và quân đồng minh), mở 450 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó có 5 cuộc hành quân “tìm diệt” then chốt, nhằm vào hai hướng chính là Đông Nam Bộ và Liên khu 5 nhằm tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng, “bẻ gãy xương sống Việt Cộng”, giành lại thế chủ động trên chiến trường. Với thế trận chiến tranh nhân dân, bằng nhiều hình thức tác chiến khác nhau đã chặn đánh địch ở khắp mọi hướng, tiến công địch ở mọi nơi… Trong 4 tháng mùa khô 1965 - 1966, ta đã loại khỏi vòng chiến hơn 104.000 tên địch, trong đó có 42.000 quân Mĩ , 3500 quân đồng minh, bắn rơi 1430 máy bay. + Mùa khô thứ hai (đông xuân 1966 – 1967), với lực lượng lên đến 98 vạn quân (trong đó có 44 vạn lính Mĩ và quân đồng minh), Mĩ mở 895 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó có 3 cuộc hành quân lớn “tìm diệt” và “bình định”, lớn nhất là cuộc hành quân Gian-xơn Xiti đánh vào căn cứ Dương Minh Châu (Bắc Tây Ninh), nhằm tiêu diệt chủ lực và cơ quan đầu não của ta. [B]Kết quả:[/B] trong mùa khô thứ hai, ta loại khỏi vòng chiến 151.000 tên, trong đó có 68.000 lính Mĩ , 5500 quân đồng minh, bắn rơi 1231 máy bay. b-Trên mặt trận chống “bình định”, phá “ấp chiến lược” Ở các vùng nông thôn, quần chúng được sự phối hợp hỗ trợ của lực lượng vũ trang đã chống ách kìm kẹp của địch, phá từng mảng “Ấp chiến lược”. [B] c. Đấu tranh chính trị [/B] Ở các thành thị, công nhân, học sinh, sinh viên, Phật tử… đã nổi lên đấu tranh đòi Mĩ rút về nước, đòi tự do dân chủ, dân sinh… Vùng giải phóng được mở rộng, uy tín của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam được nâng cao trên trường quốc tế (?) [B]3. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968[/B] [B]a- Hoàn cảnh [/B]: Bước vào mùa xuân 1968, so sánh lực lượng giữa ta và địch thay đổi có lợi cho ta sau 2 mùa khô, lợi dụng mâu thuẫn ở Mĩ trong năm bầu cử tổng thống (1968) ta chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy toàn miền Nam, chủ yếu là ở các đô thị, nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân Mĩ - ngụy, buộc Mĩ phải đàm phán, rút quân về nước. [B] b- Diễn biến : [/B] -Đêm 30 rạng ngày 31 tháng 01 năm 1968 (tết Mậu Thân), quân chủ lực của ta đã đồng loạt tiến công và nổi dậy ở 37/44 tỉnh , 4/6 đô thị lớn trên toàn miền Nam. -Ở Sài Gòn, quân ta đã tấn công vào các vị trí đầu não của địch như Tòa Đại sứ Mĩ, Dinh Độc lập, đài phát thanh, sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu … Trong đợt 1 (từ đêm 30-1 đến ngày 25-2), quân ta đã loại khỏi vòng chiến 147.000 tên, trong đó có 43.000 lính Mĩ , phá hủy một khối lượng lớn vật chất và phương tiện chiến tranh của địch. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, có thêm nhiều lực lượng mới chống Mĩ và chính quyền Sài Gòn. Tổ chức Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình trên toàn miền Nam được thành lập. Sau đó, ta tiếp tục tiến công đợt 2 (tháng 5 và 6) và đợt 3 (tháng 8 và 9-1968). Nhưng do lực lượng địch còn đông, nên lực lượng ta gặp nhiều khó khăn và tổn thất. [B]c- Ý nghĩa : [/B] -Làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mĩ, buộc Mĩ phải tuyên bố “phi Mĩ hóa” chiến tranh xâm lược (tức là thừa nhận thất bại của “Chiến tranh cục bộ”), chấm dứt chiến tranh phá hoại miền Bắc và chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta ở Pa-ri. -Mở ra một bước ngoặt mới của cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. [B]II-MIỀN BẮC VỪA CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN TRANH PHÁ HOẠI LẦN THỨ NHẤT CỦA MĨ, VỪA SẢN XUẤT VÀ LÀM NGHĨA VỤ HẬU PHƯƠNG (1965 - 1968)[/B] 1. Mĩ tiến hành chiến tranh bằng không quân và hải quân phá hoại miền Bắc Đồng thời với việc đẩy mạnh chiến xâm lược miền Nam, Mĩ mở rộng chiến tranh bằng không quân, hải quân phá hoại miền Bắc. -5-8-964, Mĩ dựng lên “sự kiện vịnh Bắc Bộ” và cho máy bay ném bom bắn phá một số nơi ở miền Bắc như sông Gianh (Quảng Bình), Vinh - Bến Thuỷ (Nghệ An), Lạch Trường (Thanh Hoá).. - 7-2-1965, Mĩ cho máy bay ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới, đảo Cồn Cỏ, chính thức gây ra cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất. [B]-Âm mưu :[/B] +Phá hoại tiềm lực kinh tế, quốc phòng và công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc. +Ngăn chặn nguồn chi viện bên ngoài vào miền Bắc và từ miền Bắc vào Nam. +Uy hiếp tinh thần và làm lung lay ý chí quyết tâm chống Mĩ của nhân dân ta. [B]2. Miền Bắc vừa chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa chiến đấu vừa sản xuất và làm nghĩa vụ hậu phương lớn a- Miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của Mĩ [/B] - Miền Bắc kịp thời chuyển các hoạt động sang thời chiến.Thực hiện quân sự hóa toàn dân, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào, phân tán dân khỏi những vùng trọng điểm để tránh thiệt hại về người và của. -Miền Bắc đã huy động toàn dân chống giặc; bên cạnh lực lượng phòng không, không quân, hải quân với vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, lực lượng dân quân, du kích, tự vệ chiến đấu của toàn dân không ngừng ngày đêm hỗ trợ, phục vụ chiến đấu và khắc phục hậu quả do chiến tranh tàn phá. [I][B]-Kết quả[/B][/I]: Trong hơn 4 năm (từ ngày 5-8-1964 đến ngày 1-11-1968), quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 3.243 máy bay Mĩ (trong đó có 6 máy bay B52, 3 máy bay F.111), bắn chìm 143 tàu chiến . Đến ngày 1-11-1968, Mĩ tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc. [B]b-Trong sản xuất :[/B] Trong nông nghiệp: diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lao động không ngừng tăng lên. Năm 1965, miền Bắc chỉ có 7 huyện và 640 hợp tác xã đạt mức sản lượng 5 tấn/ha. Đến năm 1967, tăng lên 30 huyện và 2485 hợp tác xã đạt đến mức sản lượng trên. [I][B]Trong công nghiệp[/B][/I]: Các cơ sở sản xuất lớn sau khi sơ tán, phân tán đã dần dần đi vào sản xuất ổn định trở lại, đảm bảo cung cấp, đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của sản xuất, chiến đấu và đời sống. Công nghiệp quốc phòng được tăng cường và đặc biệt công nghiệp địa phương phát triển rất mạnh. Trong giao thông vận tải: Nhân dân ra sức khôi phục và bảo vệ các mạch máu giao thông của miền Bắc và hệ thống đường vận tải chiến lược Bắc – Nam, đáp ứng nhu cầu vận tải phục vụ công tác chi viện cho miền Nam. [B]c. Chi viện cho miền Nam[/B] -Miền Bắc làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn với miền Nam một cách xuất sắc với tinh thần “mỗi người làm việc bằng hai” vì miền Nam ruột thịt, “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. -Trong 4 năm (1965 - 1968), miền Bắc đưa vào miền Nam hơn 30 vạn cán bộ, bộ đội, hàng chục vạn tấn vật chất, vũ khí đạn dược, quân trang, quân dụng, xăng dầu, thuốc men …Miền Bắc chi viện sức người, sức của cho miền Nam tăng gấp 10 lần so với giai đoạn trước, sự chi viện đó đã góp phần quyết định cùng miền Nam đánh bại “Chiến tranh cục bộ” của Mĩ . [B]III-CHIẾN ĐẤU CHỐNG CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA CHIẾN TRANH” VÀ “ĐÔNG DƯƠNG HÓA CHIẾN TRANH” CỦA MĨ (1969 – 1973) 1. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh “ và “Đông Dương hoá chiến tranh”của Mĩ[/B] [I][B]a-Hoàn cảnh[/B][/I]: Sau thất bại của “Chiến tranh cục bộ”, Ních-xơn tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới ở miền Nam, chuyển sang chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương , thực hiện chiến lược “Đông Dương hoá chiến tranh”. [I][B] b-Âm mưu, thủ đoạn: [/B][/I] -“Việt Nam hóa chiến tranh” là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mĩ, được tiến hành bằng lực lượng quân đội Sài Gòn là chủ yếu, có sự phối hợp về hoả lực, không quân, hậu cần Mĩ và vẫn do Mĩ chỉ huy bằng hệ thống cố vấn . -Thực chất, là sự tiếp tục thực hiện âm mưu “Dùng người Việt đánh người Việt”, “Dùng người Đông Dương đánh người Đông Dương”. -Mĩ còn dùng thủ đoạn ngoại giao nhằm hạn chế sự giúp đỡ của các nước XHCN đối với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. [B]2. Chiến đấu chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” và “Đông Dương hoá chiến tranh”của Mĩ a- Trên mặt trận chính trị - ngoại giao[/B] - Ngày 6-6-1969, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam thành lập. Đây là chính phủ hợp pháp của nhân dân miền Nam, vừa mới ra đời đã được 23 nước trên thế giới công nhận, trong đó có 21 nước chính thức đặt quan hệ ngoại giao - Ngày 24 và 25 -4-1970, ba nước Lào, Việt Nam, Campuchia đã họp Hội nghị cấp cao đã biểu thị quyết tâm đoàn kết chống Mĩ của nhân dân Đông Dương. -Ở các đô thị miền Nam, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân nổ ra liên tục. Đặc biệt là tại Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, phong trào của học sinh, sinh viên diễn ra rất rầm rộ, lôi cuốn đông đảo giới trẻ tham gia. -Tại các vùng nông thôn, phong trào “phá ấp chiến lược”, chống “bình định” nông thôn diễn ra rất quyết liệt. Đến đầu năm 1971, cách mạng đã giành quyền làm chủ thêm 3.600 “ấp chiến lược” với hơn 3 triệu dân. [B] b-Trên mặt trận quân sự[/B] -Từ ngày 30-4 đến ngày 30-6-1970, quân đội Việt Nam phối hợp với quân dân Campuchia đập tan cuộc hành quân xâm lược Campuchia của 10 vạn quân Mĩ và nguỵ Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến đấu 17.000 tên địch, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn với 4,5 triệu dân -Từ ngày 12-2 đến ngày 23-3-1971, quân đội Việt Nam phối hợp với quân dân Lào đập tan cuộc hành quân “Lam sơn 719” của 4,5 vạn quân Mĩ và quân đội Sài Gòn, loại khỏi vòng chiến 22.000 tên địch, buộc chúng phải rút khỏi Đường 9-Nam Lào; giữ vững hành lang chiến lược của cách mạng Đông Dương . [I][B]*Ý nghĩa:[/B][/I] -Làm thay đổi so sánh lực lượng giữa ta và địch theo chiều hướng có lợi cho ta, tạo điều kiện để ta mở cuộc Tiến công chiến lược năm 1972 [B]3. Cuộc Tiến công chiến lược năm 1972[/B] -30-3-1972, ta mở cuộc Tiến công chiến lược đánh vào Quảng Trị rồi phát triển rộng khắp miền Nam -Đến cuối tháng 6-1972, ta chọc thủng 3 phòng tuyến manh nhất của địch là Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, loại khỏi vòng chiến đấu 20 vạn quân nguỵ, giải phóng nhiều vùng đất đai rộng lớn. [B]-Ý nghĩa[/B]: giáng đòn nặng nề vào chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh”, buộc Mĩ phải tuyên bố “Mĩ hoá” trở lại chiến tranh xâm lược (tức là thừa nhận sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”). [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KIẾN THỨC PHỔ THÔNG
Trung Học Phổ Thông
LỊCH SỬ THPT
Hỏi đáp Lịch sử THPT
Hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp môn Lịch sử
Top