Trả lời chủ đề

Vương triều Tây Sơn chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn (1788 – 1802) với hai đời vua: Quang Trung (1788 – 1792) và Cảnh Thịnh (1792 – 1802), sau đó phải đối mặt với sự trả thù của triều Gia Long. Nhiều sử liệu quan trọng của vương triều này bị phá hoại, xuyên tạc, bôi nhọ. Trên đất Thanh Hóa ngày nay vẫn còn giữ được nhiều tư liệu quý về vương triều này. 


    Vương triều Tây Sơn tồn tại trong 14 năm nhưng thật sự chỉ cai quản vùng đất Thanh Hóa trong khoảng 12 năm. Với tầm nhìn chiến lược của một nhà quân sự thiên tài, Quang Trung đã dành mối quan tâm đặc biệt đến vùng đất này.

 

    Năm 1788, sau khi tiến quân ra Bắc Hà và trở lại Phú Xuân, Quang Trung đã cho Tuấn Đức  hầu chỉ huy đạo Trung Khuông và Miên Tường hầu chỉ huy đạo Nam Khuông, lưu lại trấn giữ vùng đất xứ Thanh. Đồng thời, cử luôn đô đốc Đặng Tiến Đông làm Trấn thủ Thanh Hóa (1).

 

    Sau khi lên ngôi hoàng đế, theo lời bàn của Ngô Thì Nhậm, Hoàng đế Quang Trung đã phân phong cho các con trai trấn giữ những khu vực có tầm quan trọng sống còn. Đất Thanh Hóa – đất của “vua Lê, chúa Trịnh” được các tướng lĩnh Quang Trung nhìn nhận là một địa bàn chiến lược, một vùng đất hiểm yếu nên đã cho đại quân Tây Sơn rút lui về trấn giữ trước sự tấn công ồ ạt của giặc Mãn Thanh và cũng từ đây tạo bàn đạp cho đại quân Quang Trung phá tan quân xâm lược trong trận chiến lừng danh lịch sử - mùa xuân Kỷ Dậu 1789. Quang Trung đã giao cho con trai thứ ba là Nguyễn Quang Bàn trấn giữ đất Thanh Hóa. Nguyễn Quang Bàn được phong chức Chuyên công lĩnh – Đốc trấn Thanh Hoa (tên gọi cũ của Thanh Hóa).

 

    Thời Tây Sơn, trấn Thanh Hoa bao gồm Thanh Hoa nội trấn và Thanh Hoa ngoại trấn. Thanh Hoa ngoại trấn vốn là hai phủ: Trường Yên và Thiên Quang của Sơn Nam lệ vào từ thời Trung Hưng khoảng năm Quang Trung thứ 5 (1792). Thanh Hoa ngoại trấn đổi thành đạo Thanh Bình (2).

 

    Hoàng đệ tuyên công Nguyễn Quang Bàn theo sự phân phong của Quang Trung đã đến trấn giữ vùng đất Thanh Hóa và xây dựng ở đây một “tiểu triều”. Các công trình kiến trúc mang niên đại Tây Sơn trên đất Thanh Hóa đến nay không còn nhưng những chủ trương, chính sách, biện pháp mà Vương triều Tây Sơn đã thực thi trên đất này vẫn còn nhiều cứ liệu.

 

    Sách vở, tư liệu mới phát hiện trong thời gian gần đây trên địa bàn Thanh Hóa đã cho chúng ta thấy nhiều vấn đề có liên quan đến những cải cách, chủ trương phát triển văn hóa, giáo dục, xã hội của Vương triều Tây Sơn.

 

    Về văn hóa, sự kiện để lại ấn tượng nhất được các tài liệu xưa nhắc đến nhiều là việc Đốc trấn Nguyễn Quang Bàn vào năm 1802 đã tiến cúng một trống đồng cổ vào đền thờ thần đồng cổ ở núi Tam Thai thuộc Đa Nê (Yên Định). Sự việc này được lưu lại bằng một văn bản khắc gỗ được lưu giữ trong đền thờ thần đồng cổ. Sau này, triều Gia Long có biết điều đó nhưng không dám đả động đến vì thần đồng cổ đã đi vào thần điện ở kinh thành Thăng Long.

 

    Cùng với việc tiến cúng trống đồng vào đền thờ thần, trong thời gian này Vương triều Tây Sơn còn cho tu bổ, sửa chữa nhiều di tích tôn giáo, tín ngưỡng, đình chùa, miếu mạo khác. Điển hình là việc nhà Tây Sơn cho tu sửa lại chùa Hoàng Môn là một chùa lớn ở xã Hoằng Đạt, huyện Hoằng Hóa. Chùa Hoàng Môn được tu sửa và đúc thêm chuông mới. Cho đến nay quả chuông có niên đại Tây Sơn ở chùa Hoàng Môn vẫn còn được lưu giữ ở Bảo tàng huyện Hoằng Hóa. Đây là một tư liệu quý, một hiện vật có giá trị lịch sử mà Vương triều Tây Sơn gửi lại với thời gian. Cùng với  việc tu sửa, trùng tu lại chùa Hoàng Môn, Đốc trấn Thanh Hoa còn cho sửa sang, mở đường vào các  đình chùa, miếu mạo khác; điển hình như việc đắp thêm đường vào đền thờ ở chân núi Mã Yên thuộc huyện Đông Sơn. Sự việc này được bia khắc trên núi Đông Sơn ghi lại (rất may, tấm bia này ở trên núi cao nên vẫn còn lưu giữ được, không bị đục phá mất niên hiệu) (3).

 

    Về mặt giáo dục, nhà Tây Sơn có nhiều biện pháp tích cực khuyến khích việc học hành, mở mang giáo dục. Sự việc có ý nghĩa nhất của Vương triều Tây  Sơn trên đất Thanh Hóa đó là cho sửa sang, tu chỉnh lại các văn thánh; điển hình như việc tu sửa lại hai văn thánh lớn ở phủ Thiệu Thiên và phủ Tĩnh Gia. Văn bia Phủ Cảnh mới được biết đến gần đây có niên đại Cảnh Thịnh thứ 6 cho biết: Hoàng thái tử Tuyên Quận công Nguyễn Quang Bàn đã “nêu cao đạo học” bằng cách cho sửa sang lại văn thánh phủ Tĩnh Gia, mua sắm thêm các đồ cúng tế đủ cho mọi việc phụng sự ở văn thánh này. Đích thân Tuyên Quận công Nguyễn Quang Bàn đã “Tiến dâng chuông lớn một quả, trống lớn một cái có đủ giá treo và người coi sóc” (4). Đến triều Gia Long, văn thánh này bị phá hủy chỉ còn lại một tấm bia bị đục mất niên hiệu và hai con rùa đá lớn.

 

    Đến đời Cảnh Thịnh, nhà Tây Sơn phải đối phó với nhiều khó khăn, vương triều này đã có nhiều chao đảo nhưng việc mở mang đường sá, cầu cống ở Thanh Hóa vẫn được chú ý. Tài liệu mới phát hiện ở Thanh Hóa cho thấy: dưới thời Cảnh Thịnh một số cây cầu lớn đã được xây dựng, như các cầu: Dương Xá, Đông Côi, Bố Vệ, Ngọc Long. Các cầu này đều được xây dựng theo kiểu kiến trúc thời Lê: Thượng gia hạ kiều. Việc xây dựng những cây cầu này đều đã được dựng bia ghi chép lại (5).

 

    Dưới Vương triều Tây Sơn, một số quan lại trấn giữ ở vùng đất này tỏ ra rất trung thành, tận tụy và được nhân dân có cảm tình. Điển hình là khâm sai trấn thủ đại tu vũ Miên quận công “là một bề tôi của Tây Sơn, hết lòng lo cho dân” được dân kính trọng (Ngọc Long kiều bi ký) (6). Do những chính sách tiến bộ của Vương triều Tây Sơn được thực thi trên đất Thanh Hóa, nên đã xóa đi được mặc cảm của người dân “vùng đất của vua Lê”. Đại đa số nhân dân đều có cảm tình với phong trào Tây Sơn và vương triều này.

 

    Câu ca dao:

 

    Anh đi theo chúa Tây Sơn

 

    Em về cày cấy mà thương mẹ già.

 

    Đã phản ánh tâm thức dân gian của nhân dân Thanh Hóa.

 

    Trên đây là một số tư liệu mới được sưu tầm, thẩm định và công bố ở Thanh Hóa có liên quan đến Vương triều Tây Sơn. Hy vọng rằng còn nhiều tư liệu quan trọng khác có liên quan sẽ được tiếp tục công bố góp phần vào việc nghiên cứu Vương triều Tây Sơn và vị trí của nó trong lịch sử dân tộc.


 

Tiến sĩ Phạm Văn Đấu (Khoa xã hội Trường ĐH Hồng Đức- Thanh Hóa) và Tiến sĩ Hà Mạnh Khoa (Hà Nội)


Top