nucuoixaydung
New member
- Xu
- 0
Học văn tế để thấy người sống tốt
Trong câu chuyện của những người bạn tôi, mỗi khi đối diện trước một vấn đề gì khó khăn, anh em thường buột miệng nói rằng: “phải xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có” chứ. Nhớ hồi còn đi học, có anh cán bộ Đoàn khởi xướng một thái độ trong tình yêu là “phải… liều mình như chẳng có”, làm bạn bè nhớ mãi.
Thế hệ chúng tôi cảm được kiểu nói chuyện giữa bạn bè với nhau như vậy. Và không ai không biết cụm từ “liều mình như chẳng có” kia là của cụ Đồ Chiểu, trong bài Văn Tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc học thuở cấp ba.
Nhắc chuyện vận dụng câu cú của cụ Đồ Chiểu trong ngôn ngữ bè bạn đời thường, là thấy được sự đồng cảm của cuộc sống hôm nay với ngôn ngữ văn cổ ngày xưa, thấy dường như quanh mình, chuyện “vận dụng lời của Đồ Chiểu” là hết sức bình thường.
Ấy là sự sống tự nhiên của văn chương trong đời sống người dân, được thực chứng qua nhiều thế hệ vẫn còn tồn tại. Nhưng để có được điều đó, tức có được một sự đồng cảm, một mảnh đất sống của Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc trong ngôn ngữ đời thường thuộc lớp thế hệ sau cụ Đồ ngót một thế kỷ, nhìn theo góc độ hàn lâm, ắt có nhiều điều đặc biệt.Ngay cả những nhà phê bình già dặn, sự thận trọng vẫn đòi hỏi họ lấy môi trường cuộc sống và thời gian trên mỗi tác phẩm để nhìn nhận một phần giá trị không chối cãi được của tác phẩm đó. Nói thế để thấy cuộc sống làm nên văn chương. Cuộc sống ở đây được hiểu là môi trường sống cùng thời và đời sống nội tâm, tư duy của nhà văn trong hoạt động sáng tạo của mình.
Vì thế, chất sống trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc chính là sự thật cuộc sống xảy ra vào thời của cụ Nguyễn Đình Chiểu. Trang văn của cụ đã nói lên những gì cụ muốn gửi gắm lại thế hệ mai sau. Do đó, đọc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trước hết, là để cảm nhận văn chương của Nguyễn Đình Chiểu, và sau đó thì nội dung cuộc sống trong văn chương của cụ có được cảm nhận hay không, cảm nhận như thế nào, tùy vào khả năng của những người thời nay đọc văn cụ.
Văn tế dùng cho những người đáng kính trọng. Người viết văn tế luôn tự coi mình thấp hơn nhân vật trong bài văn. Cách hiểu này đã xem sự ra đời bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là phá cách: Cụ đồ viết văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - một loại nhân vật bấy lâu vẫn được xếp sau tầng lớp trí thức, sĩ phu trong thứ hạng tứ dân (sĩ – nông – công - thương).
Quy định của bài văn tế là phải thể hiện được lý do đáng kính trọng của cái chết (có như thế mới được tế). Và nhân vật chính trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có một lý rất đặc biệt: sự bột phát của người nông dân nổi dậy chống Pháp, hy sinh bởi một trận đánh được cụ Đồ gọi là “trận nghĩa”:
Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn danh nổi tợ phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.Cụ Đồ Chiểu so sánh mười năm vỡ ruộng với một trận đánh Tây hẳn là còn khập khiễng. Nhưng đó là điều mà tác giả muốn đặt ra để thấy sự khác biệt giữa cái nhóm nghĩa sĩ Cần Giuộc này với những nhà nông lúc ấy: Trong khi tất cả nông dân khác đang vỡ ruộng, thì đây là cái chết của một nhóm người dám đứng dậy đánh Tây. Đặt sự so sánh giữa vỡ ruộng và đánh Tây hợp với phép đối trong văn biền ngẫu cũng là nhằm đánh dấu sự chuyển biến về tư tưởng của người nông dân.
Thực ra, hành động của người nghĩa quân Cần Giuộc bột phát bởi lý do bị dồn nén trong tâm trạng người dân mất nước. Sống cùng thời, cụ Đồ Chiểu cảm được cái tâm lý: Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ. Cái nhìn của người bản xứ đối với ngoại xâm hết sức bình thường như thế đó, mà lại rất có quan điểm của con dân yêu nước: Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; Bát cơm manh áo nợ đời, mắc mớ chi ông cha nó.
Nhưng nếu vì tức giận ngoại xâm mà bột phát đứng lên chống giặc, hẳn những nghĩa quân Cần Giuộc chưa đánh động mãnh liệt đến niềm cảm kích của Nguyễn Đình Chiểu. Điều quan trọng hơn là hành động của những nghĩa quân. Họ vốn là nông dân, là những người bình dị, nhưng nghĩa khí trong từng con người đã khiến cho cụ Đồ Chiểu phải đặt bút viết rằng:
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ, hay Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố…
Trong khi có những người vì hèn nhát mà trốn lính, thì nghĩa quân Cần Giuộc đáng kính trọng chứ. Trong khi binh mã triều đình khiếp nhược trước ngoại xâm, những người “tay ngang” ở miệt Cần Giuộc dám đứng lên dùng dao phay, con cúi, hỏa mai để đánh Tây. Hành động ấy, nhân cách ấy đáng trọng lắm chứ.
Bởi thế, cụ Đồ Chiểu mới làm văn tế. Bởi thế, bài văn tế mới được cụ dồn tâm lực trau chuốt công phu, để cho người đời sau đọc lên còn thấy hay, còn thuộc.Nhưng không ai khen kẻ bột phát làm càn, lịch sử và lòng người trân trọng những hành động quyết liệt mà hiệu quả:Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Ba cặp câu văn biền ngẫu trên, cụ Đồ Chiểu rất kiệm lời mà tái hiện được quang cảnh chiến trận của nghĩa quân, kết quả, sự hy sinh, tác động nhất định của trận khởi nghĩa bột phát này đối với lực lượng ngoại xâm hùng mạnh lúc đó. Đâu phải dễ dàng làm cho “mã tà, ma ní hồn kinh”. Cũng đâu phải chỉ với vũ khí thô sơ kia (vốn là công cụ nhà nông) mà chém quan hai, xem thường tàu thiếc tàu đồng.
Khí phách của nghĩa quân, tinh thần chiến đấu của nghĩa quân phải quyết liệt lắm, dũng cảm lắm mới lập nên kỳ tích như vậy. Trong khi triều đình lánh mặt, trông tin quan như trời hạn trông mưa, thì nhân dân vùng lên bột phát, không có chỉ huy, không quen trận mạc nên chắc chắn sẽ thất bại, nhưng hành động ấy lẫm liệt, chiến công ấy đáng kể, và những người nông dân “không chịu vỡ ruộng” ấy đáng được viết văn tế, ghi lại công trạng và niềm tiếc thương kính phục cho muôn đời sau.
Tôi cứ nghĩ chắc bởi tại thể loại văn tế buộc phải có một đoạn tả về những người đang sống tiếc thương người đã khuất, nên cụ Đồ Chiểu mới phải nói ra cái đoạn sầu bi sau trận chiến: Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Tại sao người nông dân lại không cam tâm làm nghề “vỡ ruộng”, mà bột phát làm gì cho đau khổ người thân như vậy, có thể hỏi thế được chăng? Có thể đem chuyện Tôn Thọ Tường lúc bấy giờ ra cộng sự với Pháp để vinh thân phì gia làm tấm gương được chăng?
Tôi vẫn nghĩ rằng: dòng máu bao thế hệ người Việt vẫn là dòng máu trung kiên, không chấp nhận thói phản trắc, ăn ở hai lòng. Cho nên, dẫu triều đình lúc ấy cam tâm “đổi đất lấy yên thân” bằng cách cắt cho Pháp cả vùng Nam kỳ lục tỉnh, thì người dân vẫn còn đó dòng máu trung kiên, chính trực.
Dòng máu đó biết sôi lên đúng lúc, nó khiến cho những người nông dân không còn là những thân phận “mười năm vỡ ruộng” nữa, họ đã thoát xác, hóa thân thành những anh hùng dân tộc, bằng những hành động không thể dùng kiến thức, kinh nghiệm trận mạc, hay một thứ lập ngôn chủ nghĩa nào đo được.
Bởi thế, nên cụ Nguyễn Đình Chiểu đã dùng thiên kiến chủ quan của mình để nhận định:
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Có những cái chết vinh, cũng có những sự chọn lựa sống nhục. Thái độ sống ấy bao giờ cũng thời sự, và cũng không phải lúc nào, với ai, cũng chọn lựa được một thái độ sống vinh nhục rõ ràng. Bởi thế mà nghĩa quân Cần Giuộc được mọi người nhớ mãi. Cụ Đồ Chiểu nói lên tiếng nói thương kính người nghĩa sĩ, nhưng cũng là thể hiện thái độ của mình. Có khi, vào những thời điểm, một tiếng nói đúng đắn của mình cũng lưu danh muôn thuở.
Văn chương yêu nước mỗi thời kỳ có những tầng ý nghĩa riêng và sự sâu sắc tùy thuộc vào tác giả. Nguyễn Đình Chiểu viết Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc nhưng tâm sự đâu chỉ gói gọn trong một bài văn. Thái độ sống và lòng nghĩa khí, nung đúc dòng máu trung kiên hay chấp nhận thói sống đớn hèn là những lựa chọn vượt thời gian, luôn cần thiết cho mọi con người có ý thức rằng mình sẽ sống tốt.
Nguồn sưu tầm
Trong câu chuyện của những người bạn tôi, mỗi khi đối diện trước một vấn đề gì khó khăn, anh em thường buột miệng nói rằng: “phải xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có” chứ. Nhớ hồi còn đi học, có anh cán bộ Đoàn khởi xướng một thái độ trong tình yêu là “phải… liều mình như chẳng có”, làm bạn bè nhớ mãi.
Thế hệ chúng tôi cảm được kiểu nói chuyện giữa bạn bè với nhau như vậy. Và không ai không biết cụm từ “liều mình như chẳng có” kia là của cụ Đồ Chiểu, trong bài Văn Tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc học thuở cấp ba.
Nhắc chuyện vận dụng câu cú của cụ Đồ Chiểu trong ngôn ngữ bè bạn đời thường, là thấy được sự đồng cảm của cuộc sống hôm nay với ngôn ngữ văn cổ ngày xưa, thấy dường như quanh mình, chuyện “vận dụng lời của Đồ Chiểu” là hết sức bình thường.
Ấy là sự sống tự nhiên của văn chương trong đời sống người dân, được thực chứng qua nhiều thế hệ vẫn còn tồn tại. Nhưng để có được điều đó, tức có được một sự đồng cảm, một mảnh đất sống của Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc trong ngôn ngữ đời thường thuộc lớp thế hệ sau cụ Đồ ngót một thế kỷ, nhìn theo góc độ hàn lâm, ắt có nhiều điều đặc biệt.Ngay cả những nhà phê bình già dặn, sự thận trọng vẫn đòi hỏi họ lấy môi trường cuộc sống và thời gian trên mỗi tác phẩm để nhìn nhận một phần giá trị không chối cãi được của tác phẩm đó. Nói thế để thấy cuộc sống làm nên văn chương. Cuộc sống ở đây được hiểu là môi trường sống cùng thời và đời sống nội tâm, tư duy của nhà văn trong hoạt động sáng tạo của mình.
Vì thế, chất sống trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc chính là sự thật cuộc sống xảy ra vào thời của cụ Nguyễn Đình Chiểu. Trang văn của cụ đã nói lên những gì cụ muốn gửi gắm lại thế hệ mai sau. Do đó, đọc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trước hết, là để cảm nhận văn chương của Nguyễn Đình Chiểu, và sau đó thì nội dung cuộc sống trong văn chương của cụ có được cảm nhận hay không, cảm nhận như thế nào, tùy vào khả năng của những người thời nay đọc văn cụ.
Trên trời có những vì sao có ánh sáng khác thường, nhưng con mắt chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn thì càng thấy sáng" và "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu làm chúng ta nhớ bài Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Hai bài văn: hai cảnh ngộ, hai thời buổi, nhưng một dân tộc. Hịch của Nguyễn Trãi là khúc ca khải hoàn, ca ngợi những chiến công oanh liệt chưa từng thấy, biểu dương chiến thắng làm rạng rỡ nước nhà. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộclà khúc ca của người anh hùng thất thế, nhưng vẫn hiên ngang...
PHẠM VĂN ĐỒNG
Văn tế dùng cho những người đáng kính trọng. Người viết văn tế luôn tự coi mình thấp hơn nhân vật trong bài văn. Cách hiểu này đã xem sự ra đời bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là phá cách: Cụ đồ viết văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - một loại nhân vật bấy lâu vẫn được xếp sau tầng lớp trí thức, sĩ phu trong thứ hạng tứ dân (sĩ – nông – công - thương).
Quy định của bài văn tế là phải thể hiện được lý do đáng kính trọng của cái chết (có như thế mới được tế). Và nhân vật chính trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có một lý rất đặc biệt: sự bột phát của người nông dân nổi dậy chống Pháp, hy sinh bởi một trận đánh được cụ Đồ gọi là “trận nghĩa”:
Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn danh nổi tợ phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.Cụ Đồ Chiểu so sánh mười năm vỡ ruộng với một trận đánh Tây hẳn là còn khập khiễng. Nhưng đó là điều mà tác giả muốn đặt ra để thấy sự khác biệt giữa cái nhóm nghĩa sĩ Cần Giuộc này với những nhà nông lúc ấy: Trong khi tất cả nông dân khác đang vỡ ruộng, thì đây là cái chết của một nhóm người dám đứng dậy đánh Tây. Đặt sự so sánh giữa vỡ ruộng và đánh Tây hợp với phép đối trong văn biền ngẫu cũng là nhằm đánh dấu sự chuyển biến về tư tưởng của người nông dân.
Thực ra, hành động của người nghĩa quân Cần Giuộc bột phát bởi lý do bị dồn nén trong tâm trạng người dân mất nước. Sống cùng thời, cụ Đồ Chiểu cảm được cái tâm lý: Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ. Cái nhìn của người bản xứ đối với ngoại xâm hết sức bình thường như thế đó, mà lại rất có quan điểm của con dân yêu nước: Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta; Bát cơm manh áo nợ đời, mắc mớ chi ông cha nó.
Nhưng nếu vì tức giận ngoại xâm mà bột phát đứng lên chống giặc, hẳn những nghĩa quân Cần Giuộc chưa đánh động mãnh liệt đến niềm cảm kích của Nguyễn Đình Chiểu. Điều quan trọng hơn là hành động của những nghĩa quân. Họ vốn là nông dân, là những người bình dị, nhưng nghĩa khí trong từng con người đã khiến cho cụ Đồ Chiểu phải đặt bút viết rằng:
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ, hay Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố…
Trong khi có những người vì hèn nhát mà trốn lính, thì nghĩa quân Cần Giuộc đáng kính trọng chứ. Trong khi binh mã triều đình khiếp nhược trước ngoại xâm, những người “tay ngang” ở miệt Cần Giuộc dám đứng lên dùng dao phay, con cúi, hỏa mai để đánh Tây. Hành động ấy, nhân cách ấy đáng trọng lắm chứ.
Bởi thế, cụ Đồ Chiểu mới làm văn tế. Bởi thế, bài văn tế mới được cụ dồn tâm lực trau chuốt công phu, để cho người đời sau đọc lên còn thấy hay, còn thuộc.Nhưng không ai khen kẻ bột phát làm càn, lịch sử và lòng người trân trọng những hành động quyết liệt mà hiệu quả:Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Ba cặp câu văn biền ngẫu trên, cụ Đồ Chiểu rất kiệm lời mà tái hiện được quang cảnh chiến trận của nghĩa quân, kết quả, sự hy sinh, tác động nhất định của trận khởi nghĩa bột phát này đối với lực lượng ngoại xâm hùng mạnh lúc đó. Đâu phải dễ dàng làm cho “mã tà, ma ní hồn kinh”. Cũng đâu phải chỉ với vũ khí thô sơ kia (vốn là công cụ nhà nông) mà chém quan hai, xem thường tàu thiếc tàu đồng.
Khí phách của nghĩa quân, tinh thần chiến đấu của nghĩa quân phải quyết liệt lắm, dũng cảm lắm mới lập nên kỳ tích như vậy. Trong khi triều đình lánh mặt, trông tin quan như trời hạn trông mưa, thì nhân dân vùng lên bột phát, không có chỉ huy, không quen trận mạc nên chắc chắn sẽ thất bại, nhưng hành động ấy lẫm liệt, chiến công ấy đáng kể, và những người nông dân “không chịu vỡ ruộng” ấy đáng được viết văn tế, ghi lại công trạng và niềm tiếc thương kính phục cho muôn đời sau.
Tôi cứ nghĩ chắc bởi tại thể loại văn tế buộc phải có một đoạn tả về những người đang sống tiếc thương người đã khuất, nên cụ Đồ Chiểu mới phải nói ra cái đoạn sầu bi sau trận chiến: Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Tại sao người nông dân lại không cam tâm làm nghề “vỡ ruộng”, mà bột phát làm gì cho đau khổ người thân như vậy, có thể hỏi thế được chăng? Có thể đem chuyện Tôn Thọ Tường lúc bấy giờ ra cộng sự với Pháp để vinh thân phì gia làm tấm gương được chăng?
Tôi vẫn nghĩ rằng: dòng máu bao thế hệ người Việt vẫn là dòng máu trung kiên, không chấp nhận thói phản trắc, ăn ở hai lòng. Cho nên, dẫu triều đình lúc ấy cam tâm “đổi đất lấy yên thân” bằng cách cắt cho Pháp cả vùng Nam kỳ lục tỉnh, thì người dân vẫn còn đó dòng máu trung kiên, chính trực.
Dòng máu đó biết sôi lên đúng lúc, nó khiến cho những người nông dân không còn là những thân phận “mười năm vỡ ruộng” nữa, họ đã thoát xác, hóa thân thành những anh hùng dân tộc, bằng những hành động không thể dùng kiến thức, kinh nghiệm trận mạc, hay một thứ lập ngôn chủ nghĩa nào đo được.
Bởi thế, nên cụ Nguyễn Đình Chiểu đã dùng thiên kiến chủ quan của mình để nhận định:
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Có những cái chết vinh, cũng có những sự chọn lựa sống nhục. Thái độ sống ấy bao giờ cũng thời sự, và cũng không phải lúc nào, với ai, cũng chọn lựa được một thái độ sống vinh nhục rõ ràng. Bởi thế mà nghĩa quân Cần Giuộc được mọi người nhớ mãi. Cụ Đồ Chiểu nói lên tiếng nói thương kính người nghĩa sĩ, nhưng cũng là thể hiện thái độ của mình. Có khi, vào những thời điểm, một tiếng nói đúng đắn của mình cũng lưu danh muôn thuở.
Văn chương yêu nước mỗi thời kỳ có những tầng ý nghĩa riêng và sự sâu sắc tùy thuộc vào tác giả. Nguyễn Đình Chiểu viết Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc nhưng tâm sự đâu chỉ gói gọn trong một bài văn. Thái độ sống và lòng nghĩa khí, nung đúc dòng máu trung kiên hay chấp nhận thói sống đớn hèn là những lựa chọn vượt thời gian, luôn cần thiết cho mọi con người có ý thức rằng mình sẽ sống tốt.
Văn tế nghĩa sĩ Cần GiuộcHỡi ôi!
Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa chắc còn danh nổi tợ phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê, bán chó.
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay:
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; chín chục trận binh thư, không chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Ôi !
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ.
Một giấc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây; trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm; vốn không giữ thành, giữ lũy bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng:
Tấc đất ngọn rau ơn Chúa, tài bồi cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó.
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi !
Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn Lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Ôi !
Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen; ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng ngay trải muôn đời ai cũng mộ.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia; sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ôi thương thay !
Nguồn sưu tầm
Sửa lần cuối bởi điều hành viên: