• Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn Kiến Thức tổng hợp No.1 VNKienThuc.com - Định hướng VN Kiến Thức
    -
    HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN

Ho Chi Minh, a life [Hồ Chí Minh - Một cuộc đời]

Thandieu2

Thần Điêu
HỒ CHÍ MINH-MỘT CUỘC ĐỜI

“Ho Chi Minh, a life” là cuốn sách của William J. Duiker xuất bản năm 2000, ngay năm 2001 đã được dịch và “lưu hành nội bộ” ở Việt Nam. Có nhiều chuyện quanh cuốn sách này. Ví như: nghe nói phía Việt Nam định cho dịch và xuất bản, đương nhiên sẽ cắt bỏ những chỗ “không có lợi”, nhưng đã không được tác giả đồng ý. Dù có hay không chuyện đó thì cũng là đáng tiếc khi cho tới hôm nay một công trình công phu ngót 700 trang với 10 năm tìm tòi, thu thập tư liệu, nghiền ngẫm … của tác giả mà vẫn chưa có mặt ở Việt Nam.

Ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi còn sống đã đánh giá cao cuốn sách này cả về quy mô lẫn độ xác thực.

Xin được trích một số đoạn trong cuốn sách.

LỜI NÓI ĐẦU
Chương I. Vong Quốc
Chương II. Con Ngựa Lửa
Chương III. Nhà cách mạng non trẻ
Chương IV. Người con của rồng
Chương V. Gươm thần


Chương XIII. Địa điểm mang tên Điện Biên Phủ
Phần kết. Từ một con người tới một huyền thoại
 
LỜI NÓI ĐẦU

Sáng 30 tháng 4 năm 1975, những chiếc xe tăng miền bắc Việt Nam do Liên Xô sản xuất ầm ầm tiến qua các vùng ngoại ô phía bắc Sài Gòn hướng về Dinh Độc Lập ở trung tâm thành phố. Ngồi trên những chiếc xe tăng là những người lính mặc quân phục, đội mũ gắn sao vàng, vẫy cờ Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hoà miền Nam Việt Nam.

Ngay sau giờ trưa, một tốp xe tăng từ từ lăn bánh dọc theo đại lộ Thống Nhất ngang qua Đại sứ quán Mỹ, nơi mà cách đó hai tiếng những lính thuỷ đánh bộ Mỹ cuối cùng được máy bay trực thăng đưa đi từ trên nóc toà nhà. Chiếc xe đi đầu lưỡng lự giây lát ngoài cách cổng sắt Dinh Độc Lập rồi húc đổ cánh cổng và dừng lại bên thảm cỏ ngay trước thềm vào dinh. Người chỉ huy xe tăng trẻ tuổi bước vào toà nhà và gặp Tổng Thống Dương Văn Minh – “Minh Lớn”. Sau đó, anh lên nóc dinh, tiến tới cột cờ và thay lá cờ Việt Nam Cộng Hoà bằng lá cờ xanh đỏ của Chính phủ Cách mạng lâm thời.

Cuộc chiến tranh kéo dài ở Việt Nam đã kết thúc. Sau gần một thập kỷ chiến đấu gian khổ và đẫm máu làm 50.000 lính Mỹ tử trận, những lính Mỹ cuối cùng đã lên đường về nước sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết vào tháng Một năm 1973. Tuy nhiên, Hiệp định này đã nhanh chóng bị vi phạm, và vài tháng sau, các lực lượng vũ trang của chế độ Sài Gòn đã liên tiếp đụng độ với bộ đội Việt cộng và quân đội bắc Việt Nam (thường được gọi là Quân đội Nhân dân Việt Nam) trong đó có hơn 100.000 người được Hiệp định ngầm chấp thuận ở lại miền Nam. Tháng 12 năm 1974, khích lệ bởi thắng lợi trên chiến trường và nhận định rằng Hoa Kỳ sẽ không can thiệp lại vào cuộc chiến, các nhà lãnh đạo Đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam lúc đó là Đảng Lao động Việt Nam) thông qua kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến hành chiến dịch trong hai năm nhằm đánh đổ chính quyền Sài Gòn vào mùa xuân năm 1976. Tuy nhiên, những trận đánh thăm dò ban đầu dọc biên giới Cam-pu-chia và ở Tây Nguyên đầu năm 1975 đã cho thấy Sài Gòn chống trả yếu ớt. Do vậy, cuối tháng ba, Hà Nội đã lệnh cho chỉ huy ở miền Nam giành thắng lợi cuối cùng trước khi mùa khô kết thúc vào cuối tháng tư. Hệ thống phong thủ của Sài Gòn phía bắc Nam Bộ đã nhanh chóng sụp đổ và tới giữa tháng tư những đoàn quân Bắc Việt đã hành quân nam tiến về Sài Gòn. Tổng thống Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu từ chức ngày 21 tháng 4 năm 1975. Người kế nhiệm là một chính trị gia Sài Gòn lớn tuổi Trần Văn Hương cũng chỉ nắm chính quyền trong bảy ngày và lại bị ông Minh “Lớn” thay thế với mong muốn tuyệt vọng rằng viên tướng miền Nam được nhiều người biết đến có thể sẽ khiến cho Bắc Việt Nam chấp nhận thoả hiệp hoà bình. Nhưng những cử chỉ thăm dò hoà bình của tướng Minh đã bị Hà Nội lờ đi.

Thắng lợi của cộng sản ở Sài Gòn là kết quả của lòng quyết tâm và sự lãnh đạo tài tình của nhà lãnh đạo Đảng lao động Việt Nam Lê Duẩn và những cộng sự kỳ cựu của ông ở Hà Nội. Một đóng góp không kém phần quan trọng là những đoàn quân bắc Việt Nam và du kích Việt cộng – những người bộ đội giản dị (từ bộ đội tiếng Việt có nghĩa là lính quân đội), những người đã chiến đấu và hy sinh cả một thế hệ cho sự nghiệp cách mạng trong những khu rừng rậm và đầm lầy ở miền Nam Việt Nam. Nhưng quan trọng hơn cả là tầm nhìn, ý chí và khả năng lãnh đạo của một con người. Hồ Chí Minh, người sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam, nhà lãnh đạo phong trào cách mạng và Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tới khi ông mất vào năm 1969, sáu năm trước khi chiến tranh kết thúc. Để tỏ lòng kính trọng đối với những cống hiến của ông, sau khi Sài Gòn sụp đổ, các cộng sự của ông đã đổi tên Sài Gòn thành Thành phố Hà Chí Minh.

Là nhân viên của Quốc tế Cộng sản tại Mát-xcơ-va, thành viên phong trào cộng sản quốc tế, kiến trúc sư cho sự thắng lợi của Việt Nam, Hồ Chí Minh rõ ràng là một trong những nhân vật chính trị có ảnh hưởng lớn nhất của thế kỷ 20. Hồ Chí Minh còn là một trong những nhân vật huyền bí nhất, một con người với những động cơ và hành động gây nhiều tranh cãi. Trong ba thập kỷ, đã có những tranh luận về một câu hỏi bề ngoài có vẻ đơn giản về những động cơ xuyên suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc hay theo chủ nghĩa cộng sản? Hình ảnh giản dị, vô tư của Hồ Chí Minh trước công chúng là chân thực hay giả dối? Đối với những người ủng hộ mình, Hồ Chí Minh là biểu tượng của chủ nghĩa nhân đạo cách mạng, là bậc cha anh đã cống hiến tất cả cho hạnh phúc của nhân dân và công cuộc giải phóng tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Đối với những người đã được gặp ông, cả người Việt Nam cũng như người nước ngoài, ông là một “người ngọt ngào”. Cho dù là nhà lãnh đạo lớn trên thế giới, thực chất ông là nhà ái quốc vị tha gần gũi với nhân dân và nguyện suốt đời mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, một số nhà phê bình lại chỉ trích những hành động cách mạng thái quá mà người ta vẫn cho rằng là của ông và cho rằng ông có tính cách hay thay đổi theo tình cảnh, một con sói đội lốt cừu.

Nghi ngờ về tính cách và những động cơ bên trong của Hồ Chí Minh là trọng tâm của cuộc tranh luận ở Hoa Kỳ về mặt đạo lý của cuộc chiến Việt Nam. Đối với nhiều người chỉ trích chính sách của Hoa Kỳ, Hồ Chí Minh là người yêu nước giản dị đã lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập cho nhân dân Việt Nam và là người đấu tranh mạnh mẽ chống lại chủ nghĩa đế quốc toàn cầu trong thế giới thứ ba. Những người ủng hộ nỗ lực chiến tranh của Hoa Kỳ nghi ngờ động cơ yêu nước của Hồ Chí Minh gián tiếp chỉ ra rằng ông từ lâu là nhân viên của Xta-lin và đã có năm thập kỷ phấn đấu cho cách mạng thế giới. Họ cho rằng, hình ảnh chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh cần mẫn gây dựng chỉ là mưu đồ để giành sự ủng hộ trong nước và quốc tế cho sự nghiệp cách mạng.

Đối với những người Mỹ, cuộc tranh luận về Hồ Chí Minh tạo ra những cảm xúc mạnh mẽ về một cuộc chiến tranh đã đi vào dĩ vãng. Đối với người Việt Nam cuộc tranh luận gợi nên những câu hỏi quan trọng hơn nhiều bởi điều này xác định những vấn đề trọng tâm trong cuộc cách mạng Việt Nam-mối quan hệ giữa quyền tự do con người và bình đẳng về kinh tế ở nước Việt Nam mới trỗi dậy sau chiến tranh. Kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, các cộng sự của Hồ Chí Minh, một số vẫn đang nắm giữ các chức vụ tại Hà Nội, đã không ngừng đúc rút từ những ký ức của Hồ Chí Minh để thần thánh hoá mô hình phát triển đất nước cộng sản. Những người này cho rằng, mục tiêu của Hồ Chí Minh trong suốt sự nghiệp của mình là xoá bỏ bóc lột [của] chủ nghĩa tư bản toàn cầu và tạo ra một thế giới cách mạng mới với đặc điểm chính là chủ nghĩa xã hội không tưởng của Mác. Tuy nhiên, một số ý kiến khác lại không đồng tình, cho rằng mục tiêu chính trong sự nghiệp của ông là quyết tâm làm mềm mỏng nguyên tắc bất di bất dịch trong cuộc đấu tranh giai cấp theo luận thuyết của Mác thông qua việc kết hợp nguyên tắc này với Khổng Tử và ba nhân tố cách mạng của Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái. Để biện hộ, họ trích dẫn một trong những khẩu hiệu của ông thường thấy ở Việt Nam ngay nay “Không có gì quý hơn độc lập tự do”

Do vậy, cuộc tranh luận về Hồ Chí Minh là cốt lõi của một số vấn đề quan trọng tạo nên dấu ấn thế kỷ 20, kỷ nguyên của chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa cách mạng, chủ nghĩa quân bình và phấn đấu vì quyền tự do của con người. Phức tạp trong tính cách của ông Hồ phản ánh phức tạp của thời đại. Ông vẫn là một thế lực đầy uy quyền ở Việt Nam sau chiến tranh được hàng triệu người kính trọng nhưng rõ ràng cũng bị nhiều người căm ghét. Dù tốt hay xấu, Hồ Chí Minh đã thể hiện trong ông hai động lực quan trọng của xã hội hiện đại – khao khát độc lập dân tộc và phấn đấu vì công bằng kinh tế và xã hội. Mặc dù chúng ta chưa có đủ tất cả mọi bằng chứng nhưng đã đến lúc phải phân tích đánh giá nhân vật có ảnh hưởng trong thế kỷ 20 dưới góc độ lịch sử.

Những khó khăn mà bất kỳ một nhà viết tiểu sử nào muốn tìm hiểu vấn đề này gặp phải là rất lớn. Mặc dù tên Hồ Chí Minh được hàng triệu người trên thế giới biết đến nhưng lâu nay rất thiếu những nguồn thông tin có thể kiểm chứng được về cuộc đời ông. Phần lớn thời thanh niên hoạt động cách mạng chống lại chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương, ông đã phải tha hương trong nhiều năm cũng như sống bí mật ngay trên đất nước mình. Suốt thời gian đó, ông sống và đi lại một cách bí mật với nhiều bí danh khác nhau. Người ta ước tính rằng khi sinh thời, ông Hồ đã sử dụng khoảng hơn năm mươi bí danh. Rất nhiều bài viết của ông được đăng dưới các bí danh đó trong khi nhiều bài viết khác của ông bị thất lạc hoặc bị huỷ hoại trong gần ba mươi năm chiến tranh.

Hồ Chí Minh cũng đã tạo ra sự mơ hồ bằng việc chấp nhận điều bí ẩn thú vị về cuộc đời mình. Trong nhiều năm, ông đã phủ nhận rằng nhân vật nổi tiếng chưa được xác định sau chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh thực ra là Nguyễn Ái Quốc, người sáng lập Đảng Cộng Sản Đông Dương và là nhân viên lỗi lạc của Quốc tế cộng sản III trong thời kỳ trước chiến tranh. Thậm chí khi sự thật về con người ông được khám phá, ông Hồ vẫn hết sức giữ bí mật về những sự kiện quan trọng trong cuộc đời trước đây của mình và một số ít tác phẩm tự truyện của ông được viết dưới các bí danh khác nhau. Một trong số những tác phẩm đó được chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà xuất bản bằng nhiều thứ tiếng vào cuối những năm 1950. Chỉ trong những năm gần đây, các nhà nghiên cứu ở Hà Nội mới có thể khẳng định được rằng những tác phẩm đó được chính Hồ Chí Minh viết.

Khó khăn trong việc biên soạn tiểu sử Hồ Chí Minh lại càng lớn hơn vì không thể tiếp cận được các nguồn thông tin. Do ông đã sống và đi qua nhiều nước trong suốt cuộc đời nên những thông tin về các hoạt động của ông cũng bị tản mát ở nhiều châu lục. Ông còn biết một số ngoại ngữ và số lượng lớn các tác phẩm ông (bao gồm những cuốn sách nhỏ, những bài báo, phóng sự và những bức thư) được viết bằng nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Trung Quốc và Nga cũng như bằng tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của ông.

Mãi gần đây, các học giả vẫn chưa có được phần lớn những thông tin này. Thậm chí ngày nay các nhà nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài không được tiếp cận các tư liệu lưu trữ tại Hà Nội. Những thông tin liên quan đến các hoạt động của ông ở Trung Quốc và Liên Xô cũng rất hạn chế và hiếm khi được chính phủ Trung Quốc hay Liên Xô tiết lộ. Hầu như chỉ có một quãng thời gian trong cuộc đời Hồ Chí Minh được tìm hiểu kỹ lưỡng là thời gian ngẵn ngủi ông ở Pháp sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918). Việc Pháp công khai các tài liệu lưu trữ thực dân vào đầu những năm 1970 đã giúp công chúng lần đầu tiên được tìm hiểu về những năm tháng đó của cuộc đời ông. Gần đây, những tuyển tập dày các tác phẩm của ông đã được xuất bản tại Việt Nam, tuy nhiên những tuyển tập này hoàn toàn không đầy đủ trong khi việc chính thức hiệu đính một số văn bản lại gây ra mối lo ngại về độ chính xác. Tài liệu lưu trữ của Quốc tế cộng sản III tại Mát-Xcơ-va một phần đã được công khai cho các học giả sử dụng, tuy nhiên các biên bản chi tiết về mối quan hệ giữa ông và các nhà Lãnh đạo Xô viết vẫn chưa được công bố cho các nhà quan sat bên ngoài.

Còn một câu hỏi nữa về Hồ Chí Minh liên quan tới đặc điểm lãnh đạo của ông. Mặc dù là người sáng lập Đảng Cộng Sản Đông Dương và là một nhân vật hàng đầu trong Phong trào cộng sản quốc tế nhưng ông không phải là một nhân vật có ảnh hưởng lớn như những nhà lãnh đạo cách mạng hiện đại khác như Lê-nin, Xta-lin hay Mao Trạch Đông; dường như sự lãnh đạo của ông Hồ dựa vào sự thuyết phục và đồng thuận thay vì áp đặt ý định của mình thông qua ảnh hưởng cá nhân. Ông cũng không viết nhiều về những tư tưởng hay động cơ bên trong của mình. Trái với các nhân vật cách mạng kiệt xuất khác, Hồ Chí Minh rất ít quan tâm đến ý thức hệ hay tranh luận tri thức, thay vào đó tập trung suy nghĩ và hành động của mình vào những vấn đề thực tiễn để giúp đất nước và các xã hội thuộc địa khác thoát khỏi chủ nghĩa đế quốc phương Tây. Vì những lý do đó, các học giả, và đôi khi cả những người đồng sự, luôn xem ông chỉ là một người hoạt thực tiễn hơn là một nhà lý luận cách mạng. Sự phân biệt này dường như không làm ông bận tâm. Một người khi phỏng vấn ông đã hỏi tại sao ông chưa bao giờ viết luận thuyết về ý thức hệ, ông đã hài hước trả lời rằng ý thức hệ là điều ông dành cho Chủ tịch Mao Trạch Đông. Các công trình nghiêm túc về học thuyết chủ nghĩa hay về chiến lược được xuất bản ở Việt Nam thường được các cộng sự của ông là Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh hay Lê Duẩn thực hiện.

Do chủ đề này còn gây tranh cãi cũng như sự hạn chế về những nguồn thông tin đáng tin cậy, không có gì ngạc nhiên vẫn chưa có một bản tiểu sử nghiêm chỉnh về Hồ Chí Minh được xuất bản bằng tiếng Anh trong hai mươi năm qua. Vào lúc cuộc chiến tranh ở Việt Nam lên đến đỉnh điểm, một số nghiêm cứu về tiểu sử Hồ Chí Minh đã được xuất bản, tuy nhiên phần lớn trong số này chỉ nhằm vào các đối tượng chứ không tận dụng triệt để các nguồn tài liệu sẵn có. Ở miền Bắc Việt Nam, một số tiểu sử chính thức hoặc bán chính thức đã được xuất bản nhưng tất cả đều bị mất đi giá trị bởi các nỗ lực thần thoại hoá ông như một vị thánh hơn là một nhân vật chính trị, mang tính biếm hoạ hơn là thực tế.

Ngày nay, khi những cảm xúc mạnh về chiến tranh ở Việt Nam đã bắt đầu lắng xuống và đã có thêm các nguồn tư liệu bổ sung ở nhiều nơi trên thế giới, chúng ta có đủ lý do lạc quan rằng có thể hiểu rõ hơn về cuộc đời Hồ Chí Minh. (Bản chất của những nguồn tư liệu này được đề cập ngắn gọn trong phần chú giải về các nguồn tư liệu về cuốn sách). Cho dù không thể làm sáng tỏ toàn bộ những bí mật cuộc đời ông, những người viết tiểu sử chuyên cần giờ đây đã có thể tập hợp được một số giả thuyết để trả lời một số câu hỏi thường xuyên được nêu ra về cuộc đời và nhân cách của ông. Tôi đã cố gắng trả lời những câu hỏi này trong cuốn sách cũng như trong phần chú giải cuốn sách về những vấn đề mang nhiều tính học thuật.

Rõ ràng là phần lớn những năm đầu cuộc đời ông – giai đoạn trước khi ông đến Pa-ri vào cuối Chiến tranh thế giới thư nhất thì chỉ có nguồn từ các bút tích của ông như đã nói trên và các nguồn lịch sử ở Việt Nam. Tuy nhiên, ở Việt Nam lĩnh vực được nhà nước hỗ trợ để mô ta ông như một truyền thuyết hay một nhân tài của thời đại rất phát triển. Một số nhà phê bình đã hoài nghi độ tin cậy của những thông tin về cuộc đời ông được các nguồn chính thức tại Việt Nam công bố. Sau khi xác minh kỹ các bằng chứng, tôi cho rằng phần lớn những thông tin đó là đáng tin cậy mặc dù có một số chi tiết còn gây thắc mắc và một số khác rõ ràng là không chính xác. Để tránh sự tranh luận kéo dài vô tận liên quan tới độ chính xác của các sự kiện về các hoạt động của ông, tôi đã quyết định thể hiện sự hiểu biết của mình về cuộc đời Hồ Chí Minh dưới dạng tường thuật đồng thời dành phần chú giải cuốn sách cho những tranh luận về các bằng chứng. Nếu có một số lý do hợp lý để nghi ngờ các giải thích nào đó về các sự kiện, vấn đề được nêu trong bài viết. Tôi hy vọng rằng điều này sẽ giúp thể hiện đặc điểm đầy kịch tính về cuộc đời Hồ Chí Minh và tầm quan trọng của đặc điểm đó trong việc hình thành lịch sử Việt Nam và thế kỷ hai mươi.

Hiện vẫn tồn tại vấn đề về thiên hướng chính trị. Cũng như thế hệ vừa qua không thể có cách nhìn về cuộc chiến ở Việt Nam một cách khách quan, và người viết tiểu sử này cũng khó tạo ra một bức tranh về người đã mang lại chiến thắng cho cộng sản mà không đưa ra thiên hướng chính trị của người đó. Qua nhiều thập kỷ, từ khi tôi hiểu biết nhiều hơn về cuộc đời của Hồ Chí Minh, tôi đã kính trọng tài năng và sự tận tâm của ông với tư cách là một nhà cách mạng mà không hề làm tôi mất đi khả năng đánh giá ông như một nhà cách mạng, một nhà chính trị và một con người. Tôi dần tin rằng sự thật bao giờ cũng phức tạp hơn hình ảnh trước công chúng mà người ta vẫn tưởng tượng, và đây là điều thường xẩy ra. Mặc dù luôn có sự thôi thúc để tìm ra một số sợi dây đơn lẻ xuyên suốt (“nhân vật giấu mặt…, trong câu kinh điển của Lê-ôn Ê-đen) tôi lại muốn để cho sự thật tự nói lên tất cả. Do vậy, tôi không cố gắng tạo ra những suy nghĩ hư cấu hay những câu chuyện hội thoại nhằm tìm cách giải thích của riêng tôi về những đặc điểm bên trong của ông. Giống như các nhân vật vĩ đại khác trong lịch sử, Hồ Chí Minh là một con người phức tạp và tương phản, có những tài năng và tính cách có một không hai làm cho ông khác biệt với những nhân vật quan trọng khác của thời đại.

Có thể một số độc giả sẽ thất vọng vì bài viết không đề cập nhiều tới những năm tháng cuối trong cuộc đời ông vào thời kỳ cao điểm của cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Trên thực tế, vai trò của Hồ Chí Minh trong việc tạo ra cuộc chiến nhìn chung quan trọng hơn nhiều do với ảnh hưởng của ông ở Hà Nội trong toàn bộ cuộc chiến tranh khi mà ông thường bị ốm hay phải sang trung Quốc trị bệnh. Do vậy, nhiều độc giả cũng sẽ nhận ra rằng phần lớn cuốn sách này sẽ đề cập đến những cá nhân và các sự kiện mà độc giả chưa biết tới. Tôi hy vọng rằng độc giả sẽ cảm thấy được bù lại bởi họ sẽ có được sự hiểu biết sâu sắc hơn về những nguyên nhân quan trọng của cuộc chiến tranh và những hậu quả của nó.

Trong tất cả những con người vĩ đại đều tiềm ẩn một vẻ huyền bí. Và một số người cảm thấy thích thú những vẻ huyền bí đó hơn cả về bản thân Hồ Chí Minh. Trong một cuộc phỏng vấn với Bơ-na-Phôn, một học giả nghiêm cứu về Việt Nam vào năm 1962, Hồ Chí Minh đã trả lời một trong những câu hỏi của ông Phôn: “Người già thích có một vẻ bí ẩn nho nhỏ về mình. Tôi muốn giữ lại những vẻ bí ẩn của mình. Tôi tin rằng anh sẽ hiểu được điều đó”. Trong ngôi đền thờ các nhân vật anh hùng cách mạng, Hồ Chí Minh hẳn sẽ rất vui khi biết rằng ít ra trong tiểu sử của mình, vẻ huyền bí xung quanh ông vẫn còn nguyên vẹn.
 
Chương I: Vong Quốc

Ông lặng lẽ vào thành phố, không khoa trương. Trong khi những người theo ông đi dạo trên đường phố, kỷ niệm chiến thắng hay nhận đầu hàng của quân địch, ông sống tại toà nhà thương mại hai tầng không có gì nổi bật trong khu phố Tàu ở thành phố. Ông sống ở đó một vài ngày tách biệt với bên ngoài, hối hả làm việc với chiếc máy chữ mòn vẹt ông mang theo bên mình trong suốt một thập kỷ đi đây đó từ Mátxcơva đến miền Nam Trung Hoa và cuối cùng, trong những tuần đầu tiên của năm 1941, trở về quê hương nơi ba năm trước ông đã ra đi.

Cuối tháng ông viết xong bài diễn văn dự định sẽ đọc trước đồng bào của mình, tuyên bố sự ra đời của một quốc gia mới. Ngay 2 giờ chiều ngày 2 tháng 9 năm 1945, ông đã có mặt trên lễ đài được dựng trên một khu đất lớn sau này là Quảng trường Ba Đình ở phía tây thành phố. Ông mặc bộ quần áo ka-ki bạc mầu rộng so với thân hình gầy gò của mình và chân đi dép cao–su. Hàng nghìn người đã tập trung từ sáng sớm để nghe ông phát biểu. Với giọng nói thanh cao đặc trưng cho nơi ông sinh ra, ông tuyên bố đất nước được độc lập và đọc bản Tuyên ngôn Độc Lập. Đối với một vài người Mỹ tình cờ có mặt tại đó, những lời đầu tiên của ông thật đáng ngạc nhiên: “ Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hoá đã cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”

Lúc đó là cuối mùa hè năm 1945, ngay sau khi đế quốc Nhật đầu hàng trên toàn châu Á. Địa điểm là Hà Nội, từng là cố đô của Việt Nam, giờ đây là thành phố thuộc địa im lìm nằm giữa đồng bằng sông Hồng thường gọi là Đông Dương thuộc Pháp. Trong hai thập kỷ, Nguyễn Ái Quốc đã tận tuỵ hết lòng khơi dậy, sự sợ hãi và lòng căm thù trong đồng bào của mình và những công chức cai trị thuộc địa Pháp. Giờ đây dưới một cái tên mới, ông giới thiệu mình với nhân dân Việt Nam với tư cách là Chủ tịch đầu tiên của một đất nước mới.

Lúc đó cái tên Hồ Chí Minh không được ai biết đến trừ một nhóm đồng bào của ông. Chẳng mấy ai trong số những người nghe Tuyên ngôn Độc lập hay những người trên khắp đất nước biết trước đây ông là nhân viên của Quốc tế Cộng sản III (một tổ chức cách mạng còn được gọi là Quốc tế III do Lê–nin, người lãnh đạo Bôn-sê-vích sáng lập hai mươi sáu năm về trước), và là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930. Giờ đây ông miêu tả mình là “ một người yêu nước đã phụng sự đất nước từ lâu”. Trong một phần tư thế kỷ tiếp theo, nhân dân Việt Nam và thế giời đã có đánh giá đúng về ông.

Động lực khởi đầu cho hành trình lâu dài của ông tới Quảng trường Ba Đình đã bắt đầu từ cuối mùa hè năm 1858 khi một đội các tàu chiến Pháp, với sự tham gia của một số tàu chiến của Tây Ban Nha, bất ngờ tấn công thành phố Đà Nẵng, một cảng biển thương mại cỡ trung bình thuộc duyên hải miền trung Việt Nam.

Cuộc tấn công này không phải hoàn toàn bất ngờ. Trong nhiều thế kỷ, con mắt thèm thuồng của Pháp luôn hướng vào Việt Nam: Những nhà truyền giáo với con mắt dõi theo những linh hồn để cứu rỗi, những lái buôn đi khắp địa cầu tìm kiếm thị trường tiêu thụ mới cũng như tuyến đường sông tới Trung Hoa giàu có, những nhà chính trị tin rằng việc thiết lập các thuộc địa ở châu Á mới có thể đảm bảo được sự tồn tại của Pháp như là một cường quốc. Đến giữa thế kỷ, chính phủ Pháp tìm cách thiết lập sự có mặt tại Việt Nam qua đường ngoại giao và thậm chí đã cử một phái đoàn tới cố đô Huế, cách Đà Nẵng 80 cây số về phía bắc, nhằm thuyết phục vua Việt Nam mở cửa cho Pháp. Khi các cuộc thương thuyết thất bại, chính phủ của Hoàng đế Lu–i Na-pô-lê-ông đã quyết định sử dụng đến sức mạnh.

Đất nước mà các tàu chiến Pháp tấn công không xa lạ gì với chiến tranh hay nạn ngoại xâm. Đúng vậy, rất ít dân tộc ở châu Á buộc phải chiến đấu lâu dài và gian khổ như nhân dân Việt Nam để bảo vệ bản sắc của mình là một quốc gia độc lập và riêng biệt. Một thực tế nổi bật trong lịch sử Việt Nam là cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ chống lại khuynh hướng bành trướng của Trung Hoa, người láng giềng phương Bắc. Vào thế kỷ thứ hai trước công nguyên khi nền cộng hòa La Mã còn mới phát triển. Đế chế Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam và tiến hành mạnh mẽ quá trình đồng hoá về chính trị, văn hoá và kinh tế. Mặc dù nhân dân Việt Nam đã cố gắng giành lại độc lập của mình vào thế kỷ thứ mười sau Công nguyên nhưng phải hàng trăm năm sau các Hoàng đế Trung Hoa mới chấp nhận thực tế là Việt Nam tồn tại một cách riêng biệt; trên thực tế, điều này chỉ xảy ra sau khi Việt Nam miễn cưỡng chấp nhận quan hệ chư hầu với đế chế Trung Hoa.

Quan hệ lâu dài giữa Việt Nam và Trung Hoa đã để lại những hậu quả triền miên. Hơn một thiên niên kỷ, thể chế chính trị, văn học, nghệ thuật, âm nhạc, tôn giáo, triết học của Trung Hoa và thậm chí cả tiếng Hán đã cắm rễ sâu trong đất Việt Nam. Kết quả là một Việt Nam “ Khổng hoá” mà đối với người tìm hiểu không kỹ là một Trung Hoa thu nhỏ, một “ con rồng nhỏ”, bản sao của người láng giềng phương Bắc hùng mạnh và tươi sáng. Bản thân các triều đại vua Việt Nam suy nghĩ như vậy, áp dụng cách ăn mặc không oai phong bệ vệ như Thiên tử Trung Hoa. Chế độ tuyển chọn nhân tài quan chức của Việt Nam dần dần theo khuôn mẫu của Trung Hoa (ít ra trên lý thuyết) dựa trên các cuộc kiểm tra ngặt nghèo về kiến thức đạo Khổng. Nhiều thế hệ nam thanh niên Việt Nam học những cuốn kinh thư mà các bạn của họ ở Trung Hoa được học, thường là học thuộc lòng. Chị em gái của họ bị tục lệ Khổng giáo gia trưởng cứng nhắc không cho theo đuổi con đường sự nghiệp – hay hầu hết các nghề nghiệp gì khác – sống giam cầm trong giới hạn gia đình và được răn dạy phải chuyên tâm trở thành những người vợ và người mẹ hiền.

Việc Việt Nam du nhập văn hoá Trung Quốc có lẽ không phải là một vấn đề đặc biệt đau đớn bởi những điều kiện kinh tế và xã hội giúp tạo nên nền văn minh đạo Khổng ở Trung Hoa cũng đã tồn tại ở mức độ nhất định ở Việt Nam. Cũng như nước láng giềng phương Bắc, xã hội Việt Nam cơ bản là xã hội nông nghiệp.

Khoảng 9 trong 10 người Việt Nam là nông dân trồng lúa sống trong các ngôi làng nhỏ rải rác trên khắp đồng bằng sông Hồng trải dài tới vịnh Bắc Bộ. Làm việc chăm chỉ, đặt lợi ích của cộng đồng trên lợi ích cá nhân cũng như một hệ thống trính trị xã hội ổn định là những điều được coi trọng. Sự tồn tại của một đội ngũ quan lại có học vấn nhằm duy trì hệ thống tưới tiêu và mạng lưới đường sá là nhu cầu thiết yếu, tuy nhiên thương mại và sản xuất công nghiệp hầu như không tồn tại. Mặc dù những nhân tố bản xứ trong nên văn hoá của Việt Nam không hề bị mất đi nhưng trong con mắt của những người không thạo thì dường như Việt Nam là hình ảnh thu nhỏ của người láng giềng phương Bắc khổng lồ.

Nếu người Việt Nam tỏ ra sẵn sàng du nhập phần lớn những phong tục vĩ đại của Trung Hoa hùng mạnh thì họ cũng tỏ ra rất kiên quyết trong vấn đề tự trị. Những nhân vật anh hùng của Việt Nam trong quá khứ đều có đặc điểm chung là đấu tranh chống lại sự đô hộ của Trung Hoa. Đó là những nhà lãnh đạo các cuộc nổi dậy như Hai Bà Trưng (là những người chống lại sự cai trị của Trung Hoa trong thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên), vua Lê Lợi và nhà chiến lược lỗi lạc Nguyễn Trãi đã chiến đấu chống lại nhà Minh vào 1.400 năm sau. Những thử thách gắt gao đó đã sản sinh ra một dân tộc có ý thức sâu sắc về bản chất dân tộc mình và sẵn sàng bảo vệ tổ quốc chống ngoại xâm.

Một trong những hệ quả vĩnh viễn của cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam vì sự tồn tại của quốc gia là truyền thống quân sự mạnh mẽ và sẵn sàng sử dụng sức mạnh để bảo vệ quốc gia. Trong nhiều thế kỷ kể từ khi giành lại độc lập dân tộc từ tay Trung Hoa vào năm 939 sau Công nguyên nước Việt Nam mới với cái tên Đại Việt (nước Việt Nam lớn) đã trải qua các cuộc chiến kéo dài với nước láng giềng phía nam, nước Cham–pa có nền thương mại phát triển. Cuối cùng người Việt Nam đã giành được lợi thế và vào thế kỷ thứ 13 họ đã tiến mạnh về phía nam dọc theo bờ biển. Vào thế kỷ thứ 17, Chăm– pa bị thôn tính và lãnh thổ nước Đại Việt được mở rộng tới bán đảo Cà Mau trên vịnh Thái Lan.

Những người định cư Việt Nam, phần lớn là những người lính trước đây, rời về phía Nam tạo ra các cộng đồng lúa nước mới trên mảnh đất phì nhiêu đồng bằng sông Cửu Long. Nước Đại Việt đã trở thành một trong những quốc gia hùng mạnh ở lục địa Đông Nam Á và vua của Việt Nam trong các mối quan hệ của mình với những người thống trị láng giềng đã bắt đầu cho mình không chỉ là một vị vua mà còn là một hoàng đế.

Tuy nhiên, thành công quân sự của Đại Việt cũng phải trả giá bởi việc mở rộng lãnh thổ đã dẫn tới sự cách biệt ngày càng lớn về chính trị và văn hoá giữa những người có lối suy nghĩ truyền thống ở các tỉnh tại đồng bằng sông Hồng và những người định cư có tư duy độc lập hơn ở những vùng biên giới phía nam mới giành được. Trong suốt hai thế kỷ, ở Việt Nam luôn xảy ra các cuộc nội chiến giữa các dòng họ cầm quyền ở miền Bắc và miền Nam. Vào đầu thế kỷ 19, hậu duệ của dòng họ cai trị ở miền Nam là Nguyễn Ánh đã thống nhất đất nước và lấy niên hiệu là Gia Long. Lúc đầu triều đình nhà Nguyễn chỉ có ý định giải quyết hậu quả dai dẳng của cuộc nội chiến, tuy nhiên đến giữa thế kỷ những rạn nứt địa phương bắt đầu gia tăng do các khó khăn kinh tế như ruộng đất tập trung vào tay người giàu và càng trở nên phức tạp hơn do sự cai trị yếu kém của kinh đô Huế.

Nội chiến ở Việt Nam đã xảy ra vào thời điểm quan trong trong lịch sử Đông Nam Á. Những đội tàu từ châu Âu tiếp bước nhà thám hiểm người Tây Ban Nha Vát-cô da Ga-ma chạy dọc theo bờ biển Nam Trung Hoa và vịnh Thái Lan tìm kiếm thương hiệu lạ, kim loại quý và những tâm hồn ngoại đạo để cứu rỗi. Trong số những nước châu Âu quan tâm nhất tới khu vực có người Pháp và vào thế kỷ thứ 19 khi đối thủ kình định của họ là người Anh bắt đầu củng cố vị trí ở Ấn Độ và Miến Điện, nhà cầm quyền Pháp đã hướng con mắt thèm thuồng của mình vào Việt Nam.

Vào năm 1853, vị vua thứ ba của triều đại nhà Nguyễn băng hà và ngai vàng được chuyển cho nhà vua còn trẻ và thiếu kinh nghiệm là Tự Đức. Đó là điều không may đối với ông và cho cả thần dân của ông bởi trên vai ông là trách nhiệm đẩy lùi mối đe doạ nguy hiểm đầu tiên đối với nền độc lập của Việt Nam trong vài thế kỷ. Mặc dù có thiện chí và thông minh nhưng ông là người không quyết đoán và ốm yếu. Khi những toán quân Pháp đầu tiên đổ bộ vào cảng Đà Nẵng mùa hè năm 1858, phản ứng bản năng đầu tiên của Tự Đức là phải đánh lại. Từ chối đề nghị thương thuyết, ông cho tập trung quân đội Hoàng gia ngay phía bên kia phòng tuyến quân Pháp ở ngoại vi thành phố. Đô đốc Sác-lơ Ri-gô đờ Gơ-nui-i, một viên sỹ quan Pháp được những nhà truyền giáo người Pháp đang làm việc tại khu vực bảo đảm rằng sẽ có một cuộc nổi dậy của dân địa phương chống lại triều đình nhưng điều này đã không xảy ra. Lúc đầu, viên đô đốc người Pháp hy vọng cứ chờ sẽ thắng quân địch nhưng khi dịch tả và bênh lỵ làm mất đi nhiều binh linh châu Âu, ông đã quyết định từ bỏ thành phố và tìm một nơi dễ tấn công hơn ở phía Nam. Đầu năm sau, người Pháp trở lại tấn công Sài Gòn, một cảng thương mại nhỏ nhưng phát triển trên một con sông nhỏ cách đồng bằng sông Cửu Long vài dặm về phía Bắc. Quân triều đình Việt Nam ở đó đã cố chống trả nhưng vì vũ khí khá lạc hậu không sánh được với vũ khí của quân xâm lược nên sau hai tuần đã không thể kháng cự được.

Mặc dù phản ứng đầu tiên của nhà vua là sử dụng quân đội để chống lại quân xâm lược nhưng thất bại ở miền Nam đã làm ông nản lòng. Bất chấp những lời kêu gọi tiếp tục chiến đấu của các cố vấn trong triều, Tự Đức đã quyết định thương lượng và vào năm 1862 chấp thuận nhượng ba tỉnh đồng bằng sông Cửu Long cho Pháp. Sau đó ba tỉnh này (cùng với ba tỉnh khác vài năm sau) trở thành thuộc địa của Pháp ở Nam Kỳ. Pa-ri đã thắng vòng đầu.

Trong vài năm, triều đình Huế đã duy trì được nền độc lập mong manh nhưng cuối cùng hầu như đã bị tê liệt khi Pháp tiếp tục tấn công vào đầu những năm 1880, đánh thành Hà Nội và chiếm một số thành phố lớn ở đồng bằng sông Hồng. Vua Tự Đức ốm yếu đã băng hà ngay trước khi chiến sự nổ ra và cuộc khủng hoảng về người kế vị khiến triều đình bị chia rẽ thành các phe đối lập. Nhiều tháng sau, một số vị vua mới, mà phần lớn còn là trẻ con đã nhanh chóng được đưa lên ngôi và bị phế truất. Cuối cùng, quyền lực đã rơi vào tay quan nhiếp chính có ảnh hưởng lớn là Tôn Thất Thuyết. Ông đã đưa người được ông bảo trợ là Hàm Nghi lên ngôi với hi vọng tiếp tục kháng chiến. Đáp lại yêu cầu của Việt Nam, triều đình nhà Thanh Trung Hoa đã cử quân đội đến giúp nhưng Việt Nam vẫn không thắng được. Năm 1885 Trung Hoa rút quân và ký thoả ước với Pháp rũ bỏ mối quân hệ chư hầu từ lâu với Việt Nam. Tại Huế, một vị vua bù nhìn được đưa lên ngôi thay cho Hàm Nghi trẻ tuổi đã bỏ trốn cùng vị cố vấn không chịu khuất phục của mình là Tôn Thất Thuyết lên núi sâu trong nội địa để tiếp tục kháng chiến. Trong khi đó, phe thủ hoà chiếm đa số trong triều đã ký một thoả ước mới với Pháp chấp nhận Pháp chi phối về chính trị trên toàn bộ lãnh thổ còn lại của Việt Nam. Người Pháp chuyển vùng đất họ mới giành được trở thành xứ bảo hộ bao gồm Bắc Kỳ (gồm các tỉnh ở đồng bằng sông hồng và các vùng núi lân cận) và Trung Kỳ (bao gồm các tỉnh duyên hải cho tới vùng thuộc địa Nam Kỳ về phía nam). Ở Trung Kỳ, người Pháp cho phép vua bù nhìn và triều đình của ông ta giữ lại những quyền hạn ít ỏi. Ở Bắc Kỳ, chế độ thuộc địa thực sự có quyền hạn tối cao. Trên thực tế, Việt Nam đã trở thành nhượng địa của Pháp.

Việc người Pháp chinh phục Việt Nam là một phần của quá trình mở rộng thuộc địa của châu Âu bắt đầu sau chiến tranh Na-pô-lê-ông và quá trình mở rộng này đã được đẩy nhanh trong cuối thế kỷ 19 khi các nước phương Tây phát triển bước vào kỷ nguyên công nghiệp. Vì rất mong tìm kiếm thị trường tiêu thụ và nguồn nguyên liệu thô rẻ phục vụ sản xuất hàng hoá, các nước tư bản phương Tây quay sang sử dụng vũ lực nhằm thiết lập quyền bá chủ trên toàn khu vực. Vào cuối thế kỷ, tất cả các nước ở Nam và Đông Nam Á trừ vương quốc Xiêm-sau này là Thái Lan, đều bị thực dân cai trị theo các hình thức khác nhau.

Việc triều đình đầu hàng đã không ngăn được khát vọng độc lập của Việt Nam. Nhiều thế kỷ kháng chiến chống Trung Hoa đã khắc sâu trong tầng lớp thượng lưu Việt Nam truyền thống phụng sự nhà vua và đất nước như bổn phận Nho giáo cơ bản nhất. Nhiều quan lại dân sự và quân sự đã không chịu chấp nhận việc triều đình đầu hàng trước sức mạnh quân sự và đã tổ chức các đội quân vũ trang địa phương nhằm đưa Hàm Nghi quay trở lại nắm quyền. Tại tỉnh Hà Tĩnh ở duyên hải Trung Kỳ, nhân sĩ Phan Đình Phùng đã khởi xướng phong trào Cần Vương (cứu Vua) để tập hợp sự ủng hộ đối với nhà vua bị phế truất và đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi quê hương. Khi được Hoàng Cao Khải là bạn từ thời niên thiếu, người đã quyết định thích ứng với hoàn cảnh mới, khuyên từ bỏ nỗ lực vô vọng để tránh đổ máu không cần thiết, ông Phùng đã trả lời với giọng cao ngạo của một nhà nho yêu nước.

“…Tôi ngẫm nghĩ lại, nước mình mấy nghìn năm nay, chỉ lấy văn hiến truyền nối nhau hết đời này qua đời kia, đất nước chẳng rộng, quân lính chẳng mạnh, tiền của chẳng giàu, duy có chỗ ỷ thị dựa nương để dựng được nước, là nhờ cái gốc vua tôi, cha con theo năm đạo thường. Xưa nhà Hán, nhà Đường, nhà Tống, nhà Nguyên, bao phen lăm le chiếm đất ta làm quận huyện mà vẫn không chiếm được. Ôi! Nước Tàu với nước ta, bờ cõi liền nhau, sức mạnh hơn ta vạn bội, thế mà trước sau vẫn không thể ỷ mạnh nuốt trôi ta được, nào có vì lẽ gì khác đâu, chẳng qua non sông nước Nam tự Trời định phận riêng hẳn rồi.”

Tuy nhiên, việc hai người có thể xưng vua đã tạo ra thế tiến thoái lưỡng nan đối với những người Việt Nam luôn trung thành với vua. Liệu họ có nên tuân theo vua Đồng Khánh mới lên ngôi ở Huế với sự đồng ý của Pháp hay không?, Hay họ nên hưởng ứng lời kêu gọi của vua bị phế truất Hàm Nghi là người từ nơi ẩn náu trên núi đã kêu gọi sự ủng hộ của tất cả những người yêu nước trong cuộc đấu tranh tuyệt vọng chống lại bọn hung bạo? Thế lưỡng nan trong việc chọn lựa giữa đấu tranh và thoả hiệp là một việc rất khó khăn đã chia rẽ giới cầm quyền. Sự chi rẽ này đã không thể hàn gắn được hơn một nửa thế kỷ sau.

Trung tâm của phong trào kháng chiến chống Pháp là tỉnh Nghệ An miền Trung Việt Nam. Một mảnh đất với những bãi biển yên tĩnh, những rặng núi xanh ngắt, những cánh đồng lúa xanh mướt, những cánh rừng xanh thẫm, Nghệ An nằm ở vùng cán xoong giữa biển Nam Trung Hoa và những ngọn núi của dãy Trường Sơn dọc theo biên giới Lào về phía tây. Đó là mảnh đất của những đợt gió nóng khô và những cơn mưa lớn mùa thu làm đổ rạp những cọng lúa và ngập những cánh đồng của nông dân. Một nghịch lý là tuy mảnh đất này rất đẹp nhưng lại rất khắc nghiệt đối với những cư dân ở đó. Người Việt Nam sống trên mảnh đất này tập trung tại eo đất nhỏ giữa bờ biển và rặng núi trong đó hơn 90 phần trăm là nông dân phải xoay xở từ mảnh đất của mình và họ thấy cuộc sống là phải tranh đấu. Đất mỏng, nghèo dinh dưỡng và thường xuyên ngập mặn. Thiên tai luôn rình rập và nhiều khi khiến cho nông dân bị rơi vào những hoàn cảnh tuyệt vọng.

Có lẽ điều này giải thích tại sao trong lịch sử người dân Nghệ An được coi là những người Việt Nam cứng cổ hay chống đối nhất, được đồng bào đặt cho tên lóng là “ những con trâu xứ Nghệ”. Trong lịch sử, Nghệ An luôn đi tiên phong chống quân xâm lược cũng như kêu gọi nổi dậy chống lại những người cầm quyền không hợp lòng dân. Trong hai thập kỷ cuối thế kỷ 19, Nghệ An trở thành một trong những trung tâm của phong trào kháng chiến chống Pháp. Nhiều người con ưu tú của Nghệ An đã chiến đấu và hy sinh dưới ngọn cờ của Phan Đình Phùng và phong trào Cần Vương.

Làng Kim Liên thuộc huyện Nam Đàn, trung tâm tỉnh Nghệ An, cách thủ phủ Vinh khoảng 16 cây số về phía tây. Huyện Nam Đàn nằm dọc theo bở bắc sông Cả, con sông chính ở Nghệ An. Phần lớn địa hình ở đây bằng phẳng với những cánh đồng tắm nắng mặt trời vùng bán nhiệt đới vươn ra tới biển một vài dặm về phía đông, nơi những ngọn đổi nhỏ được che phủ bởi thảm thực vật rậm lá xanh sẫm cao hơn vùng đồng bằng xanh quanh. Những cây cọ tô điểm cho cảnh vật và tạo bóng mát cho những túp lều mái lá của những người nông dân nhấp nhô trong những xóm nhỏ. Trong mỗi xóm làng, những bụi chuối, gốc cam và những rặng tre là nguồn thức ăn khi cần và còn là nguyên vật liệu xây dựng. Trong thế kỷ 19, hầu hết những người nông dân ở huyện Nam Đàn vẫn còn nghèo, bởi đây là nơi đông dân cư và đất không đủ nuôi sống người dân.

Chính tại đây vào năm 1863, Hà Thị Hy, vợ thứ hai của người nông dân khá giả tên là Nguyễn Sinh Vương (đôi khi được gọi là Nguyễn Sinh Nhậm) đã sinh được một người con trai tên là Nguyễn Sinh Sắc. Người vợ đầu của ông Vương mất trước đó vài năm sau khi sinh cho ông đứa con trai đầu lòng Nguyễn Sinh Tro. Để nuôi con, ông Vương đã cưới Hà Thị Hy, con gái một gia đình nông dân làng bên. Khi lên bốn, Sắc đã mất cả cha lẫn mẹ và được người anh cùng cha khác mẹ là Tro nuôi dưỡng. Ông Tro làm công việc đồng áng trên mảnh đất của cha Sắc. Đối với Tro những người hàng xóm, cuộc sống của nhân dân thật khó khăn. Khi có bão lớn, ruộng ngập nước, phá toàn bộ mùa màng, khi hạn hán cây lúa bị khô cằn. Do vậy, nhiều nông dân trong làng phải làm thêm những nghề phụ khác như nghề mộc, làm gạch, dệt vải hay nghề rèn. Ngoài ra, nơi đây còn có truyền thống hiếu học lâu đời. Một số nhà nho vùng này tham dự các kỳ thi quan, một số người khác mở các lớp kinh thư bổ sung cho thu nhập ít ỏi của mình.

Thoạt đầu, cậu bé Nguyễn Sinh Sắc hầu như không có cơ hội bắt đầu sự nghiệp nho sỹ của mình. Cho dù dòng họ cậu có lịch sử lâu đời, theo truyền thống được cẩn thận khắc bằng chữ Hán trên bức hoành phi bằng gỗ đặt bên cạnh bàn thờ gia đình, ghi lại rằng ngày xưa đã có nhiều người đỗ đạt trong các kỳ thi nhưng hình như trong những thế hệ gần đây không có một ai đạt được điều đó. Người anh cùng cha khác mẹ của Sắc là Tro chẳng quan tâm gì đến học hành. Tuy vậy, Sắc rất hiếu học. Cuối buổi sáng mỗi khi dắt trâu của anh từ đồng về, Sắc thường ghé qua trường của nho sĩ Vương Thúc Mẫu ở địa phương, buộc trâu lại và quanh quẩn ngoài lớp học, lắng nghe thầy giáo giảng bài. Thời gian rỗi, Sắc thường học chứ Hán bằng cách viết lên đất hay lên lá cây hồng.

Khi Sắc đến tuổi lớn, các làng đều biết tính hiếu học của Sắc và điều này khiến cho Hoàng Đường (hay còn gọi là Hoàng Xuân Đường), một nho sĩ làng Hoàng Trù bên cạnh thường đi qua con đường đất sang Kim Liên để thăm bạn là Vương Thức Mẫu, chú ý. Thấy chàng thanh niên mải mê đọc sách trên lưng trâu trong khi bạn bè chơi đùa trên đồng, Hoàng Đường đã nói chuyện với Nguyễn Sinh Tro và nhận nuôi cậu bé, cho phép cậu học trong các lớp học ông dạy tại nhà. Tro đồng ý và vào năm 1878, vào tuổi mười lăm, Nguyễn Sinh Sắc đã chuyển tới làng Hoàng Trù và bắt đầu chính thức học kinh thư với người cha nuôi và người bảo trợ mới của mình. Điều này không phải là một sự kiện bất thường bởi những bé trai thông minh xuất thân từ những gia đình nông dân nghèo thường được họ hàng hay hàng xóm giàu có bảo trợ và được học chữ Nho trong trường làng. Nếu như những đứa trẻ thành công trong học tập và trở thành nho sĩ hay quan lại thì họ hàng và xóm cũng sẽ thơm lây bởi uy tín và ảnh hưởng của người được họ bảo trợ.

Giống như những nho sĩ khác trong vùng, thầy Đường vừa là thầy giáo vừa là nông dân. Gốc gác của dòng họ Hoàng là từ tỉnh Hải Hưng ở đồng bằng sông Hồng phía đông nam Hà Nội, có nhiều người nổi tiếng về học hành. Sau khi tới Nghệ An vào thế kỷ 15, tổ tiên của Hoàng Đường tiếp tục truyền thống hiếu học của gia đình. Bố ông đã thi ba lần và cuối cùng đỗ tú tài (bằng cấp thấp nhất trong hệ thống thi cử và tương đương với bằng cử nhân tại Mỹ ngày nay).

Trong khi Hoàng Đường dạy học sinh tại hai phòng ngoài trong ngôi nhà chật hẹp của ông thì vợ ông là Nguyễn Thị Kép và hai cô con gái Hoàng Thị Loan và Hoàng Thị An làm việc ngoài đồng và dệp vải để phụ thêm cho gia đình. Giống như những người phụ nữ khác ở nông thôn khắp nước Việt Nam, không có người phụ nữ nào trong gia đình thầy Đường được học hành tử tế vì việc học hành và làm quan chỉ rảnh riêng cho nam giời, điều này thể hiện nguyên tắc đạo Khổng bắt nguồn từ Trung Hoa lâu nay ở Việt Nam. Ở Việt Nam, giống như ở Trung Hoa, theo truyền thống người phụ nữ có bổn phận đóng vai trò người mẹ, người nội trợ cũng như phục vụ chồng. Điều này không phải lúc nào cũng đúng vì phụ nữ Việt Nam trong xã hội đã ngày càng bị hạn chế. Trong gia đình, họ rõ ràng có vị trí thấp hơn người chồng. Người chồng có toàn quyền, sở hữu tài sản và được phép lấy vợ bé nếu vợ cả không sinh được con trai.

Trong những giới hạn đó, Nguyễn Thị Kép và các chị em gái có lẽ may mắn hơn những người láng giềng vì có chút ít kiến thức văn chương. Bản thân gia đình Kép cùng có truyền thống hiếu học. Cha Kép đã vượt qua được cấp thi đầu tiên giống như bố chồng. Là vợ của một nho sĩ địa phương, Kép được những người trong cộng đồng địa phương kính trọng và ganh tị. Tuy vậy, cuộc sống của Kép như những người con gái chẳng khác gì những người hàng xóm ít may mắn hơn phải ngày qua ngày còng lưng trên những cánh đồng lầy lội ngoài làng, cần cù chăm sóc lúa cho đến mùa thu hoạch.

Sắc đã lớn lên trong không khí đồng quê ấy. Sắc đã sớm chứng tỏ mình giỏi chữ Nho và khi Sắc thể hiện tình cảm với cô con gái đáng yêu của thầy Đường thì gia đình đã đồng ý tổ chức đám cưới mặc dù Kép lúc đầu dường như chưa bằng lòng vì Sắc mồ côi. Đám cưới được tổ chức vào năm 1883. Thầy Đường tặng con rể một túp lều mái lá có ba phòng với một mảnh đất nhỏ gần nhà ông và coi đó là của hồi môn. Một gian nhà nhỏ bên cạnh được dùng làm nhà thờ để những người đàn ông trong gia đình cúng tổ tiên. Gian nhà mới dựng cho đôi vợ chồng mới cưới thật sạch sẽ và ấm cúng với khoảng trống trong gian phòng trước để tiếp khách, bếp ở phía sau và một phòng bên ngoài để Sắc học. Gia đình có phần giầu có hơn phần lớn các gia đình khác trong làng nhưng họ không thuê người làm ruộng. Bảy năm sau, trong khi chồng tiếp tục học, Hoàng Thị Loan đã sinh ba người con, người con gái tên là Nguyễn Thị Thanh sinh năm 1884, người con trai tên là Nguyễn Sinh Khiêm 1888 và sau đó vào ngày 19 tháng 5 năm 1890 người con trai thứ ba tên là Nguyễn Sinh Cung sau này là Hồ Chí Minh. (Ở Việt Nam trẻ con khi sinh ra được đặt “nhũ danh”.) Khi trưởng thành bố mẹ sẽ đặt cho một tên mới thể hiện mong ước của mình đối với đứa trẻ).

Trong khi Nguyễn Sinh Sắc chuẩn bị thi thì theo truyền thống bà Loan, tiếp tục lo lắng công việc đồng áng và nuôi dạy con cái. Theo như lời của những người cùng thời, bà là một người siêng năng, biết chăm lo cho gia đình, đây là hai đức hạnh Nho giáo truyền thống nhưng bà cũng rất giỏi và ham hiểu biết. Bà am hiểu văn học Việt Nam và thường ru con ngủ bằng những bài dân ca truyền thống hay đọc những câu thơ nổi tiếng trong truyện Kiều của Nguyễn Du, câu chuyện nghiệt ngã về hai người yêu nhau bị đạo đức truyền thống trói buộc.

Năm 1891, Nguyễn Sinh Sắc đã tới phủ Vinh để thi tú tài nhưng trượt. Tuy nhiên điểm số của ông rất khích lệ và ông lại học tiếp. Về làng, ông mở các lớp học dạy trẻ để giúp đỡ gia đình. Bố vợ ông là thầy Dương mất năm 1893 làm cho gánh nặng kinh tế của gia đình thêm trầm trọng, Sắc buộc phải hoãn thi. Trong khi, chị làm các việc vặt trong gia đình, cậu bé Nguyễn Sinh Cung vui vẻ chơi đùa trên cánh đồng hay lang thang xung quanh trường học của bố. Vào buổi tối trước khi nằm trên võng, bà nội đã kể cho cậu nghe những câu chuyện về các vị anh hùng. Cung rất thông minh và nhanh chóng tiếp thụ tất cả.

Tháng 5 năm 1894 , Sắc lên Vinh thi lần thứ hai và đỗ cử nhân, bằng cấp cao hơn tú tài tương đương với thạc sĩ. Thành công của Sắc là rất cao so với các nhà nho địa phương và khi trở lại làng Hoàng Trù ông được cấp một mảnh đất là phần thưởng truyền thống của làng dành cho những người đỗ đạt. Sắc đã nhận vì ông chỉ có ba mẫu ruộng là của hồi môn của vợ, tuy nhiên ông từ chối đề nghị tổ chức một bữa tiệc mừng ông thay vì đó phân phát thịt trâu cho người nghèo trong làng.

Thông thường những người có bằng cử nhân danh giá sẽ tìm một vị trí trong chính truyền để “ vinh thân phì gia” nhưng Nguyễn Sinh Sắc đã chọn con đường tiếp tục học hành trong khi kiếm thêm thu nhập bằng cách dạy kinh thư. Theo truyền thống Nho giáo thiêng liêng buộc người vợ phải hy sinh – như trong câu nói đầy ý nghĩa của người Việt Nam, võng anh đi trước, võng nàng theo sau, – Hoàng Thị Loan tiếp tục công việc đồng áng và nuôi cả gia đình.

Mùa xuân năm 1895, Nguyễn Sinh Sắc đi Huế tham gia kỳ thi hội, là bậc cao nhất trong hệ thống giáo dục Nho giáo. Ông trượt nhưng đã quyết định ở lại Huế để vào Quốc Tử Giám chuẩn bị cho lần thi tiếp theo. Quốc Tử Giám bắt đầu có ở Hà Nội từ những năm đầu của nền độc lập dân tộc và là nơi đào tạo những người muốn ra làm quan được triều đình bảo trợ. Sắc không đủ tiền trả học phí và cơm trọ nhưng may mắn là trường có một số học bổng ỉt ỏi đài thọ chi phí ăn ở và nhờ bạn bè giúp đỡ, ông được cấp một học bổng. Sắc quay về Nghệ An đón bà Loan và hai người con trai vào Huế mong rằng vợ có thể tìm được việc làm đỡ đần chi tiêu gia đình.

Lúc đó, đi từ thủ phủ Vinh (tỉnh Nghệ An) đến Huế đầy khó khăn và nguy hiểm. Chuyến đi kéo dài khoảng một tháng và phải đi qua rừng rậm, núi cao có nhiều cướp. Đi bằng đường biển nhanh và thuận tiện hơn nhưng nông dân nghèo như Nguyễn Sinh Sắc thì không đủ tiền mua vé tàu. Do đó, gia đình đã quyết định đi bộ, mỗi ngày đi khoảng được ba mươi cây số và đi theo nhóm cùng với những người khác để phòng cướp và thú rừng. Với đôi chân nhỏ bé, cậu bé Cung mới năm tuổi rất khó khăn mới theo kịp mọi người nên đôi khi cha cậu phải cõng trong khi kể cho cậu nghe những chuyện về những nhân vật thần thoại và các vị anh hùng xưa của Việt Nam.

Huế, trước gọi là Phú Xuân, từng là đại bản doanh của chúa Nguyễn trị vì Nam Việt Nam trong suốt hai thế kỷ nội chiến. Sau khi nhà Nguyễn ra đời năm 1802, Vua Gia Long đã quyết định dời đô ra đó từ vị trí cũ ở đồng bằng sông Hồng, chứng tỏ quyết tâm thống nhất nước nhà dưới sự cai trị của nhà Nguyễn. Một đô thị nhỏ nép mình bên hai bờ sông Hương giữa hai đồng bằng của hai con sông lớn, đã trở thành trung tâm hành chính sau khi triều đình cát cứ ở đó, tuy nhiên kinh đô mới nhỏ hơn nhiều so với kinh đô Hà Nội xưa (lúc đó gọi là Thăng Long), có lẽ số dân ở đó chưa tới mười nghìn.

Đến Huế, chắc đã kiệt sức, Nguyễn Sinh Sắc thu xếp tạm trú tại nhà một người bạn. Tuy nhiên, sau đó cả gia đình chuyển tới một căn phòng nhỏ ở phố Mai Thúc Loan, cách tường đông kinh thành không xa trên bờ bắc sông Hương. Quốc Tử Giám nằm trên bờ nam cách phía tây kinh thành khoảng bảy cây số nhưng Sắc ít khi đến trường mà dành phần lớn thời gian học tại nhà. Lúc rảnh rỗi ông dạy các con trai và con của những viên chức trong vùng. Coi trọng việc học hành, đặc trưng cho xã hội Nho giáo, ông hết sức hối thúc các con trai, khuyên răn học hành chăm chỉ cũng như quan tâm đến chữ viết của các con. Theo lời hàng xóm, cậu bé Cung đã bắt đầu rất quan tâm đến thế giới quanh mình, cùng anh trai theo dõi lính triều đình luyện tập và cố gắng lẻn vào trong kinh thành để xem rõ hơn. Thấy kiệu vua rời cung trong một dịp lẽ hội, cậu trở về hỏi mẹ liệu có phải vua đã bị thương ở chân hay không. Khi hỏi tại sao lại hỏi như vậy, Cung trả lời rằng cậu đã nhìn thấy nhà vua được phu khiêng trên kiệu.

Năm 1898, Sắc thi trượt kỳ thi hội lần thứ hai và quyết định tạm thời làm thầy giáo trong một trường học tại làng Dương Nỗ ngay phía đông kinh thành. Bà Loan, vợ ông, vẫn sống tại căn phòng nhỏ ở Huế dệt vải và giặt thuê để kiếm thêm thu nhập cho gia đình. Trường học ở Dương Nỗ được một người nông dân giàu có trong làng xây dựng và người nông dân này đã cho phép hai con trai của ông Sắc học tại đó. Đây là lần đầu tiên hai chàng trai được học kinh thư chữ Hán.

Tháng tám năm 1900, Sắc được triều đình bổ nhiệm làm giám thị kỳ thi hương ở Thanh Hoá, một tỉnh lỵ cách kinh thành khoảng năm trăm cây số về phía bắc. Việc bổ nhiệm này là một vinh hạnh vì cử nhân thường không được phép làm giám thị. Người con trai cả của Sắc là Khiêm đã tới đó cùng ông, còn Cung thì ở lại Huế với mẹ. Khi từ Thanh Hoá trở về Huế, Sắc đã lưu lại làng Kim Liên quê ông một thời gian ngắn để xây mộ cho cha mẹ.

Quyết định này đã phải trả giá đắt. Ở Huế, vợ ông đã sinh con thứ tư, con trai tên là Nguyễn Sinh Xin (từ xin theo nghĩa đen là ăn xin). Tuy nhiên, việc sinh đẻ đã làm cho bà yếu đi và với thể trạng vốn đã ốm yếu, mặc dù đã được một lương y trong vùng chữa chạy, bà lâm bệnh và mất ngày 10 tháng 2 năm 1901. Những người hàng xóm sau đó kể lại rằng trong dịp Tết, cậu bé Cung vừa khóc vừa chạy từ nhà này sang nhà khác để xin sữa cho em và trong nhiều tuần lễ, vẻ vui tươi hàng ngày của cậu đã chuyển sang u sầu.

Được tin vợ mất, Sắc lập tức trở về Huế để đưa các con về làng Hoàng Trù, tại đó ông tiếp tục dạy học. Trong một thời gian dài, cậu bé Cung tiếp tục học cùng với cha nhưng sau đó ông Sắc đã gửi cậu cho một người bà con xa bên ngoại là nho sĩ Vương Thúc Đô. Cậu bé Cung bắt đầu đạt được những tiến bộ đáng kể trong học tập. Cậu có thể nhận mặt được nhiều chữ Hán – là phương tiện quan trọng trong nền giáo dục Nho giáo vẫn được sử dụng để thể hiện tiếng Việt thường ngày – và rất thích thực hành. Cậu bé rất nhanh trí và ham học hỏi tuy nhiên cha cậu lại lo ngại bởi đôi khi cậu bé chểnh mảng học hành và mải chơi. Có lẽ thầy giáo mới của Cung đã giúp cậu nhiều trong chuyện này. Vương Thúc Độ thật sự yêu quý và theo như người khác kể lại không bao giờ đánh đập các học trò của mình – là điều khác thường vào thời đó – và ông thường kể cho học trò của mình những câu chuyện về những vị anh hùng chính trực trong quá khứ mà một trong số đó có anh trai của ông là người đã tham gia chiến đấu trong phong trào Cần Vương chống Pháp của Phan Đình Phùng.

Sau vài tháng ở Hoàng Trù, ông Sắc lại vào Huế, mẹ vợ ông là Nguyễn Thị Kép trông nom các cháu. Khi những người còn lại trong gia đình vào Huế, Nguyễn Thị Thanh, con gái ông, ở lại làng với bà ngoại. Thanh đã trưởng thành nhưng chưa lấy chồng nên ở lại để giảm gánh nặng cho gia đình. Cung giúp đỡ việc nhà và vườn tược nhưng vẫn có thời gian vui chơi. Vào mùa hè, cậu cùng bạn câu cá trong ao làng, thả diều (nhiều năm sau, người làng vẫn kể lại rằng khi trời lặng gió các bạn của cậu đã chán còn Cung vẫn cố gắng giữ cho diều bay), và leo trèo trên những ngọn núi ở vùng lân cận. Ngọn núi đáng nhớ nhất là núi Chung trên đỉnh có đền thờ Nguyến Đức Dụ là vị tướng vào thế kỷ thứ mười ba đã chiến đấu chống quân Nguyên xâm lược. Cũng chính tại đây, nhà Nho yêu nước Vương Thúc Mẫu đã chiêu mộ một nhóm người nổi dậy vào năm 1885 chiến đấu dưới ngọn cờ phòng trào Cần Vương. Chính tại đây, ông Sắc đã thấy niềm ham học của mình, từ đỉnh núi Chung, người ta có thể thấy được cảnh ngoạn mục những đồng lúa, những rặng tre và những cây cọ, và một dãy núi xanh thẫm dọc hướng tây. Trong thời niên thiếu đầy hạnh phúc của cậu bé Cung chỉ có một thời gian buồn. Em trai Xin của cậu ốm và mất khi tròn một tuổi.

Trở lại Huế, Nguyễn Sinh Sắc thi lại kỳ thi hội và lần này ông đã đỗ tiến sĩ, loại hai (tiếng Việt gọi là phó bảng). Tin ông đỗ phó bảng đã gây xôn xao ở làng Hoàng Trù và Kim Liên quê ông. Người ta kể rằng kể từ giữa thế kỷ 17, các làng trong vùng đã có gần hai trăm người có học vị cử nhân và thạc sĩ nhưng ông là người đầu tiên đỗ phó bảng. Khi ông về làng Hoàng Trù, dân làng đã có kế hoạch tổ chức lễ rước nhưng ông, rõ ràng là không thích sự phô trương và lễ nghi, một lần nữa đã từ chối vinh hạnh đó. Mặc dù ông không đồng ý, dân làng đã tổ chức một bữa tiệc lớn để ăn mừng sự kiện này. Tuy nhiên, theo ông đề nghị, một số thức ăn đã được phân phát cho người nghèo.

Theo phong tục, vinh hạnh được thí sinh thi đỗ là thuộc về làng là quê hương của người cha. Và tất nhiên Sắc cũng vậy, điều này có nghĩa là làng được coi là “đất văn vật, chốn thi thư”, chính là làng Kim Liên, nơi bố ông sinh ra chứ không phải là làng Hoàng Trù là nơi ông sống. Để thưởng cho người con của làng, chức sắc làng Kim Liên đã dùng tiền công dựng một ngôi nhà gỗ mái lá nhỏ trên mảnh đất của làng và mời ông tới sống ở đó. Sắc đồng ý và sống trong ngôi nhà mới và dành cho mình cùng ba người con còn lại. Ngôi nhà rộng hơn ngôi nhà của ông ở làng Hoàng Trù một chút có ba gian trong đó một gian làm chuồng trâu và một gian nhỏ đặt bàn thờ bà Hoàng Thị Loan. Ngoài ngôi nhà ra, Sắc còn được vài mẫu ruộng và một mình mảnh vườn nhỏ trồng khoai lang.

Trong xã hội Việt Nam xưa, học vị phó bảng là một vinh dự lớn đem lại danh tiếng may mắn và thường là sự nghiệp quan trường. Tuy nhiên, Nguyễn Sinh Sắc không hề muốn ra làm quan, đặc biệt trong lúc nước nhà bị ô nhục. Từ chối làm quan trong triều với lý do đang để tang vợ, ông Sắc quyết định ở lại Kim Liên mở một lớp học nhỏ dạy kinh thư. Tiền dạy học đã ít ông Sắc còn gặp khó khăn hơn vì thường giúp những người nghèo trong làng. Tuy nhiên ông Sắc đã đổi tên thành Nguyễn Sinh Huy hay “ sinh để huy hoàng” cho phù hợp với đại vị mới của mình.

Lên 11 tuổi, khi Cung chớm tuổi thanh niên, ông Sắc đã có một quyết định rất quan trọng đối với cuộc đời cậu. Theo phong tục của xã hội Việt Nam, để dánh dấu sự kiện này, cha cậu đã đặt cho cậu tên mới là Nguyễn Tất Thành, hay “ người sẽ thành đạt” ghi trong sổ sách của làng. Lúc đầu cậu bé tiếp tục học với cha nhưng sau đó được gửi tới học tại lớp học của bạn của cha cậu là Vương Thúc Quý, con trai nhà Nho Vương Thúc Mẫu là người đã nhảy xuống ao tự vẫn để khỏi bị giặc Pháp bắt. Cũng là một người đỗ đạt giống như ông Sắc, ông Quý đã từ chối không ra làm quan và dạy học ở làng và bí mật tham gia các hoạt động lật đổ chính quyền bù nhìn Huế. Khi dạy học trò, ông phản đối cách dạy mô phạm truyền thống bắt học trò phải học thuộc lòng sách vở, thay vào đó rất quan tâm hướng học trò vào tính nhân đạo cốt lõi của kinh thư đồng thời khắc sâu trong óc các học trò tinh thần yêu nước nồng nàn đối với sự sống còn của nước Việt Nam độc lập. Để soi sáng thông điệp của mình trong tâm hồn các học trò, trước khi bắt đầu mỗi bài học ông thường thắp ngọn đèn trên bàn thờ cha kê dọc trên tường lớp học.

Nguyễn Tất Thành trưởng thành dưới sự dạy dỗ của người thầy mới, viết những bài luận yêu nước dưới sự hướng dẫn của ông Quý và giúp những người thường tới lớp giảng bài về những chủ đề khác nhau. Thật không may là việc này không kéo dài được lâu, ông Quý đóng cửa lớp học và rời làng tham gia hoạt động nổi dậy. Thành đã theo học một thầy giáo khác ở làng bên trong một thời gian ngắn tuy nhiên cách dậy của thầy giáo mới quá cổ hủ đối với Thành và chàng thanh niên đã quyết định trở lại học với cha là người có thái độ vị tha hơn trong việc dạy học. Cũng như Vương Thúc Quý, ông Sắc phê phán lối học vẹt và cho rằng học một bài “ cành và lá” là một việc vô ích xa rời thực tế. Ông khuyên học trò không nên chỉ bước trên con đường quan trường mà cố gắng hiểu những điều cốt lõi trong kinh thư để giúp đỡ đồng bào. Sắc đã nói với một người bạn, “ tại sao tôi phải bắt học trò của mình học thuộc bài chỉ để thi? Tôi sẽ không bao giờ dạy con mình cách đó.”

Rõ ràng Thành rất thích quan điểm của cha mình, bởi vì Thành rất thích đọc những pho truyện nổi tiếng của Trung Hoa như Tam Quốc diễn nghĩa, một truyền thuyết về chủ nghĩa anh hùng trong thời kỳ hỗn loạn sau khi nhà Hán suy vong, Tây du ký (đôi khi được dịch sang tiếng Anh là Con khỉ), kể về nhà sư Đường Tăng trên đường qua Trung Á tới Ấn Độ đi trẩy kinh Phật. (Khi Thành học ở làng Dương Nỗ), một học trò lớn tuổi hơn được giao nhiệm vụ trông nom Thành thấy rằng cần phải buộc một sợi dây vào Thành để biết Thành ở đâu mỗi khi Thành có ý định bỏ ra ngoài chơi. Và thường thì lúc đó Thành đã học xong bài.)

Nguyễn Tất Thành không chỉ học trong lớp. Nhà của cha Thành nằm cạnh một lò rèn của người thợ trong làng tên là Diễn là người đã dạy Thành cách sử dụng bễ rèn và thường cho cậu bắn chim. Sở thích kể chuyện của Diễn đã biến lò rèn thành một trong những nơi tụ họp quen thuộc trong vùng và thường vào buổi tối Thành cùng các thanh niên khác trong làng ngồi nghe Diễn kể chuyện về nhóm Cần Vương anh hùng địa phương đã thất bại trong việc đánh đuổi bọn hung tàn khỏi mảnh đất quê hương như thế nào. Cùng với những người khác, Thành được nghe về những chiến công hiển hách của những chiến sĩ đã hy sinh từ lâu như Lê Lợi và Mai Thúc Loan, những người đã chiến đấu bảo vệ quê hương chống quân xâm lược. Thành xúc động lắng nghe chuyện Vương Thúc Mẫu tự vẫn, và chuyện về người lãnh đạo phong trào Cần Vương Phan Đình Phùng đã chết vì bệnh lỵ vào năm 1895, đem lại kết thúc bi thảm cho phong trào khi quân của ông bị suy yếu phải lùi sâu vào núi dọc theo biên giới Lào. Thành cũng rất vui khi được biết một số người trong gia đình của cha mình đã chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp cứu nước.

Khi đó Thành bắt đầu mang trong mình chủ nghĩa yêu nước nồng nàn. Khi còn sống với cha mẹ ở Huế, Thành đã tham dự một lễ tưởng niệm liệt sĩ tại một đền gần nơi ông ở. Họ là những tử sĩ chiến đấu chống Pháp và cũng như những người khác Thành đã rơi nước mắt trước sự hy sinh của họ.

Sau khi trở về làng vào năm 1901, Thành rất khó chịu khi phát hiện ra rằng hầu hết các cuốn sách cổ đang được sử dụng ở làng đều kể về lịch sử Trung Hoa thay vì lịch sử Việt Nam và quyết định đi bộ đến Vinh mua những cuốn sách nói về lịch sử đất nước mình. Khi thấy rằng những cuốn sách đó quá đắt, Thành đã cố ghi nhớ những nội dung chính để có thể kể lại cho bạn bè khi về làng.

Mãi đến tận lúc đó, sự hiểu biết của Thành về người Pháp mới chỉ dừng lại ở sự quan sát người Pháp của một đứa trẻ con trên những đường phố Huế, những người thời đó sau này kể lại rằng Thành tò mò không hiểu tại sao thậm chí ngay cả những quan lại danh tiếng của Việt Nam đều phải cúi chào tất cả những người Châu Âu, đôi khi Thành và anh trai mải mê theo dõi công nhân xây dựng Pháp đang xây cầu sắt bắc qua sông Hương ngay phía đông thành. Thỉnh thoảng những người công nhân chơi đùa và cho các cậu bé kẹo khiến Thành hỏi mẹ tại sao lại có người nước ngoài lại thân thiện hơn so với những người khác. Tuy nhiên, khi trở về quê, Thành càng trở nên không thích người nước ngoài khi nghe thấy việc người Pháp đối xử tồi tệ với những người lao động làm thuê trên một con đường mới đang được xây dựng chạy vòng vèo từ phía tây qua các ngọn núi sang Lào. Trong khi Thành và anh trai là con của một người thuộc tầng lớp có học được miễn lao dịch trong các dự án thì nhiều dân làng khác đã không có được may mắn đó. Trong số đó, những người may mắn trở về nhà mang theo thương tật trên mình và thương tổn về tinh thần. Nhiều người khác sức khoẻ bị tàn phá bởi bệnh sốt rét, suy dinh dưỡng và làm việc quá sức đã không trở về. Mặc dù lao dịch thường áp dụng đối với những người nông dân vào thời kỳ tiền thực dân, nhưng những dự án như vậy thường có quy mô vừa và thời gian làm việc cũng không dài. Con đường sang Lào – với Việt Nam là “con đường chết” – đã trở thành nguyên nhân chính khiến nhân dân phản kháng chế độ thuộc địa mới.

Một trong những người bạn thân thiết của Nguyễn Sinh Sắc là nhà nho yêu nước nổi tiếng Phan Bội Châu, ở một làng cách Kim Liên vài cây số. Cha của ông Châu là một tú tài, đối với Châu thì nỗi thống khổ của nước nhà còn quan trọng hơn hứa hẹn nơi quan trường. Khi còn trẻ, ông Châu đã lập một đội dân quân nhỏ gồm các thanh niên trong làng để tiếp bước cha anh chiến đấu chống quân Pháp xâm lược. Sau này ông Châu đã coi rằng mình bị lăng nhục khi quân Pháp tiến vào làng đàn áp phong trào buộc ông phải trốn vào rừng cùng những người khác.

Sau đó, ông Châu tiếp tục học và vào năm 1900 ông đỗ giải nguyên trong kỳ thi hội. Giống như Nguyễn Sinh Sắc, Phan Bội Châu cũng không muốn ra làm quan và ngay sau đó đã đi khắp các tỉnh miền trung đất nước chiêu mộ các sĩ phu cho phong trào liên kết chống lại triều đình phong kiến và chính phủ bảo hộ thực dân Pháp. Lúc này ông Châu bắt đầu đọc các tác phẩm của những người theo chủ nghĩa cải lương tiến bộ Trung Hoa như Kang Youwei và Liang QuiChao và tin rằng Việt Nam cần học phương Tây để tồn tại.

Khi đi đó đây, Phan Bội Châu thường dừng lại ở làng Kim Liên để thăm Nguyễn Sinh Sắc và Vương Thúc Quý và cũng bàn thế sự. Với khả năng ăn nói lưu loát và tính tình niềm nở, ông Châu là một người ủng hộ sự nghiệp cứu nước đầy thuyết phục đã gây được ấn tượng đối với Thành. Thành thường mang nước mời khi ông Châu và ông Sắc cùng ngồi trên chiếc chiếu mây. Người thanh niên nhạy cảm này đã đọc một số bài viết yêu nước của ông Châu và khích lệ bởi tinh thần phản kháng cũng như sự coi thường truyền thống phong kiến và sự mục nát của triều đình Huế.

Như nêu rõ trong các bài viết của mình, Phan Bội Châu cho rằng người Việt Nam cần xoá bỏ hệ thống cũ tồn tại qua hàng nghìn năm để áp dụng những thể chế và công nghệ mới của nước ngoài. Tuy nhiên, ông tin rằng chỉ có tầng lớp sĩ phu mới có thể lãnh đạo nhân dân tiến hành cải cách và , để nhận được sự ủng hộ của nhân dân, phong trào của ông phải đi theo con đường kỳ diệu của những thế kỷ trước. Kết quả là, đầu năm 1904, ông đã thành lập một tổ chức gọi là Duy Tân Hội nhằm thu hút sự ủng hộ của các sĩ phu yêu nước trên khắp đất nước, ông đã lựa chọn một người bất đồng chính kiến trong hoàng tộc nhà Nguyễn, hoàng tử Cường Để, làm người lãnh đạo trên danh nghĩa của hội với mục tiêu đánh đuổi giặc Pháp, và thành lập nền quân chủ lập hiến.

Giống như những nhân vật tiến bộ đương thời ở Trung Hoa, Phan Bội Châu đã tìm được một mô hình cho chương trình của mình tại Nhật Bản nơi các thành phần theo chủ nghĩa cải lương thuộc tầng lớp quý tộc tập hợp xung quanh Nhật hoàng Minh Trị với mục đích thúc đẩy cải cách xã hội truyền thống Nhật Bản. Giống như nhiều người Việt Nam khác, ông thán phục thành công của quân đội Nhật trong cuộc chiến vừa diễn ra với quân Sa hoàng Nga, coi đó là bằng chứng của việc người châu Á có khả năng đánh bại xâm lược phương Tây. Ông Châu tin rằng Việt Nam có thể yêu cầu hỗ trợ từ bên ngoài để biến kế hoạch của mình thành hiện thực. Đến cuối năm 1904, ông tới Nhật Bản và thành lập một trường học ở Y–a–ha–ma để đào tạo những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc trong tương lai. Mùa hè năm sau, ông trở về Huế bắt đầu chiêu mộ người trên khắp đất nước.

Ngay sau khi trở về Việt Nam, Phan Bội Châu đã tới làng Kim Liên và đề nghị Nguyễn Tất Thành và anh trai tham gia phong trào Đông Du của mình. Tuy nhiên, Thành đã từ chối lời đề nghị đó. Theo một số tài liệu, Thành quyết định như vậy vì cho rằng dựa vào người Nhật Bản để đuổi người Pháp tương đương với việc “đuổi hổ cửa trước trong khi rước sói cửa sau”. Một số tài liệu khác thì cho rằng quyết định đó chính là của cha Thành. Trong tự thuật của mình, được viết với bút danh Hồ Chí Minh sau này đã giải thích rằng ông rất muốn tới Pháp để tìm hiểu tận nguồn bí quyết thành công của phương Tây.

Thành quyết định từ chối lời đề nghị của Phan Bội Châu có thể là do một trong những lời giải thích của ông Châu. Khi Thành hỏi làm thế nào mà Nhật Bản có được sự thành công về công nghệ, ông Châu đáp lại là người Nhật bản đã học hỏi phương Tây. Ngay sau đó, Thành nói với cha rằng mình muốn học tiếng Pháp. Ônh Sắc lúc đó chần chừ không muốn vì lúc đó chỉ có những người Việt Nam cộng tác với Pháp mới phải lo học tiếng nước ngoài. Nhưng bản thân ông Sắc cũng bắt đầu hiểu sơ qua văn hoá phương Tây khi ông tham gia một câu lạc bộ bạn đọc và đọc những bài viết của các tác giả là những trí thức Trung Hoa theo chủ nghĩa cải lương tìm cách thuyết phục triều đình nhà Thanh thay đổi đường lối nên cuối cùng ông đã bị thuyết phục bởi lập luận của con trai.

Lúc đầu, Thành có rất ít cơ hội để thực hiện mục tiêu mới của mình. Mùa hè năm 1905, Thành bắt đầu học tiếng Pháp và văn hoá Pháp dưới sự giúp đỡ của một trong những người bạn của cha cũng là nhà nho ở làng Kim Liên. Sau đó vào tháng chín, ông Sắc đã cho cả hai con theo học trường dự bị Pháp – Việt ở Vinh. Theo đề nghị của toàn quyền Pôn Đu-me, chính quyền Pháp đã quyết định cho thành lập các trường dự bị sơ cấp dạy tiếng Pháp và văn hoá Pháp tại tất cả các tỉnh miền trung Việt Nam. Mục tiêu của Đu-me là thu hút các học sinh từ trường dạy kinh thư để tạo nguồn cho việc tuyển dụng nhân lực sau này do chính quyền thuộc địa mới; các quỹ học bổng dành cho những học sinh khó khăn đã được thành lập. Tuy Nguyễn Sinh Sắc đã cố cống hiến toàn bộ sự nghiệp của mình cho nền giáo dục truyền thống, ông lại bắt đầu tin rằng thế hệ trẻ cần phải thích nghi với thực tế mới và cần học những người chủ mới của đất nước. Ông thường trích lời nho sĩ của thế kỷ 15, Nguyễn Trãi là người đã từng cho rằng để chiến thắng kẻ thù cần phảỉ hiểu kẻ thù. Trong năm học sau đó, Thành và anh trai lần đầu tiên được thực sự làm quen với tiếng Pháp và văn hoá Pháp. Họ cũng bắt đầu học chữ quốc ngữ, là ngôn ngữ nói Việt Nam chuyển sang hệ chữ La-tinh, được các nhà truyền giáo dòng chúa cứu thế sử dụng lần đầu tiên vào thế kỷ 17 và được các sĩ phu tiến bộ truyền bá nhằm thay thế chữ Hán rắc rối đã được sử dụng trong nhiều thế kỷ.

Từ năm 1901, khi giành được học vị phó bảng, Nguyễn Sinh Sắc đã từ chối kiên quyết không ra làm quan với lý do sức khoẻ không tốt và nặng gánh gia đình, tuy nhiên khi một lần nữa được triệu vào triều vào tháng 5 năm 1906, ông thấy không thể từ chối được nữa nên đã nhận lời. Để người con gái trông nom ngôi nhà ở Kim Liên, ông Sắc trở lại kinh thành cùng với hai con trai vào tháng 6. Lần này họ lại đi bộ nhưng chắc thuận lợi hơn sơ với lần trước bởi hai cậu bé giờ đã đến tuổi trưởng thành. Trên đường đi, Sắc kể những câu chuyện về Nguyễn Trãi và các nhân vật lịch sử nổi tiếng khác trong khi Thành đố anh trai tên của những vị vua Việt Nam.

Kinh thành đã thay đổi khá nhiều so với trước. Cung đình, với những tường thành cao màu xám và cột cờ lớn, vẫn sừng sững nằm trên bờ bắc sông Hương êm đềm chảy dọc dưới nước từ những rặng núi trên dãy Trường Sơn ở phía Tây. Trên những thuyền tam bản dọc sông, những cô gái làng chơi với mái tóc đen bồng bềnh làm người Việt Nam say đắm chào mời khách trên bờ sông. Tuy nhiên, cũng có một số thay đổi dễ nhận thấy. Một cơn bão lớn, thảm hoạ thường xảy ra, đã đổ vào toàn bộ khu vực duyên hải miền trung mùa hè hai năm trước, phá huỷ cây cối để lại những vũng nước đầy rêu bên hai bờ sông. Dọc theo bờ Nam, ngang qua dòng sông phía kinh thành, những cửa hàng không có gì đặc biệt trong khu thương mại cổ của thành phố đã nhanh chóng được thay thế bởi những ngôi nhà kiểu châu Âu được quét vôi trắng là nơi đặt văn phòng của cố vấn Pháp.

Khi họ tới Huế, ông Sắc và hai con trai sống một thời gian ngắn tại nhà của một người bạn nhưng sau đó được phân một căn phòng nhỏ ở gần cổng chợ Đông Ba ở nam kinh thành. Ngôi nhà được dựng bằng gỗ có lợp ngói từng là trại lính, nay là nơi của các quan nhỏ trong triều. Phòng của ông Sắc nhỏ chỉ vừa đủ kê một chiếc bàn và một cái giường. Căn phòng không có bếp riêng và nước máy do đó những người trong gia đình phải đi lấy nước giếng hoặc nước kênh gần kề ngay bên ngoài cổng chợ Đông Ba. Họ ăn uống đạm bạc, bữa ăn chủ yếu gồm cá kho mặn, rau, muối vừng và gạo rẻ tiền. Công việc nấu nướng do Thành làm là chủ yếu. Mặc dù điều kiện ở đây tốt hơn nhiều so với phần lớn đồng bào của họ ở nông thôn nhưng rõ ràng điều kiện ăn ở của họ thật sơ sài so với những quan lại giàu có trong triều.

Ngay sau khi tới Huế, ông Sắc đã nói chuyện với người đỡ đầu của mình là Cao Xuân Dục, một vị quan làm việc tại Viện Lịch sử và là người đã giúp đỡ ông trong lần đầu sống ở kinh thành. Nhờ sự can thiệp này tại triều đình, ông Sắc được bổ nhiệm làm thanh tra tại Bộ Lễ có trách nhiệm giám sát sinh viên trong Quốc Tử Giám. Đó không phải là vị trí có uy tín đặc biệt cho một người có bằng cấp như ông bởi phần lớn các phó bảng khoa 1901 đều đã được thăng tiến trở thành quan huyện hoặc các chức quan khác cao hơn trong triều. Tuy nhiên việc Nguyễn Sinh Sắc từ lâu đã từ chối ra làm quan khiến cho triều đình chú ý và có lẽ đã tạo ra sự nghi ngờ về lòng trung thành của ông đối với triều đình.

Thế nào chăng nữa, thời gian làm việc trong triều rõ ràng là quãng đời rất khó chịu đối với ông Sắc. Ông bắt đầu không thoải mái đối với nghĩa vụ phục vụ nền quân chủ bù nhìn trong tay kẻ thống trị nước ngoài. Ông băn khoăn về ý nghĩa đương thời của câu nói truyền thống “trung quân ái quốc”? Ông bắt đầu trao đổi với bạn bè về sự cần thiết phải cách tân hệ thống cũ theo ông đã ngày càng trở nên mục nát và không thích hợp, ông khuyên các sinh viên không nên mưu cầu quan trường. Quan lại, theo ông, tồn tại chỉ để bức dân lành.

Nỗi thất vọng của Nguyễn Sinh Sắc về sự suy đồi của chế độ cũ rất có cơ sở. Mô hình hành chính Nho giáo luôn dựa vào đạo lý như là phương tiện để duy trì năng lực và sự liêm chính của các quan lại được tuyển chọn qua hệ thống thi cử. Trên lý thuyết, các quan địa phương, được thấm nhuần từ thời thơ ấu về một hệ thống các giá trị đạo đức xã hội dựa trên sự cống hiến cho cộng đồng, sự chính trực cá nhân và lòng nhân đức phải tuân theo những nguyên tắc này trong việc sử dụng quyền lực của mình với các đối tượng thuộc trách nhiệm của mình. Khuynh hướng ngạo mạn và tư lợi của quan lại có thể được khống chế bởi những hành động của người trị vì đầy nghị lực và nhân đức ở vị trí tối cao trong chế độ. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 19, sự suy yếu của triều đình đã dẫn tới sự tan rã thật sự của các thể chế Nho giáo trong xã hội Việt Nam cũng như tới uy tín và quyền lực của nhà vua. Thiếu sự chỉ đạo từ Huế, quan lại dễ dàng lạm dụng quyền hạn của mình mà vơ vét cho đầy túi, hay làm lợi cho bạn bè và người thân. Đất công dành cho gia đình nghèo giờ đây bị những người giầu chiếm và những người này thường được miễn giảm tô hằng năm. Ông Sắc không phải là Nho sĩ duy nhất không tuân lệnh triều đình. Lúc đó tiếng nói của vị quan trong triều Phan Châu Trinh lần đầu tiên được nhân dân biết tới. Ông Trinh đỗ phó bảng cùng năm với Nguyễn Sinh Sắc. Sinh tại tỉnh Quảng Nam năm 1872, ông Trinh là con út trong số ba người con trong gia đình. Cha ông là một quan võ đã từng thi trượt. Tin rằng con đường cũ là vô dụng, cha ông đã đứng trong đội ngũ phong trào Cần Vương nhưng sau đó ông bị nghi là phản bội và bị những người nổi dậy hành quyết. Bản thân ông Trinh từng làm việc tại Bộ Lễ vào năm 1903, nhưng ông đã rất khó chịu về tệ tham nhũng và thiếu năng lực của quan lại triều đình và các quan nắm quyền hành ở nông thôn. Ông công khai nêu vấn đề này trước sinh viên đang chuẩn bị cho kỳ thi hội năm 1904. Ông bắt đầu nghiên cứu các bài viết của các nhà cải lương Trung Hoa và năm 1905 ông từ chức để đi khắp đất nước trao đổi với các sĩ phu về các hoạt động tương lai.

Cuối cùng ông Trinh gặp Phan Bội Châu ở Hồng Kông và cùng ông Châu tới Nhật Bản, ông Trinh ủng hộ lỗ lực của Châu trong việc đào tạo một thế hệ mới những trí thức Việt Nam nhằm cứu nước khỏi hoạ diệt vong nhưng không tán thành quyết định của ông Châu dựa vào sự ủng hộ của một thành viên triều đình. Theo ông Trinh, có lý hơn khi hợp tác với người Pháp với hy vọng họ sẽ tiến hành cách tân để thay đổi xã hội Việt Nam. Tháng tám năm 1906 ông viết một bức thư gửi toàn quyền Pôn-Be nói về những điều ông cho là “ tình hình đặc biệt nguy cấp” của đất nước.

Trong thư, ông Trinh thừa nhận rằng sự có mặt của người Pháp đã mang lại một số lợi ích cho nhân dân Việt Nam bao gồm giai đoạn phát triển đầu tiên hệ thống giao thông liên lạc hiện đại. Tuy Nhiên, ông cho rằng dung túng bộ máy quan liêu triều đình ở miền trung Việt Nam, chính quyền thuộc địa đã duy trì bộ máy tham nhũng mục nát và làm phức tạp thêm tình hình bởi việc đổi xử trịch thượng và khinh miệt đối với nhân dân Việt Nam do đó làm nảy sinh thái độ thù địch trong dân chúng. Ông Trinh đề nghị Toàn quyền Pôn-Be cách tân hệ thống pháp luật và giáo dục để phá bỏ chế độ cũ và đưa vào các thể chế chính trị hiện đại cũng như khái niệm dân chủ phương Tây. Nếu làm được như vậy, nhân dân Việt Nam sẽ biết ơn ông mãi mãi.

“ Với nỗi đau từ đáy lòng và bởi không có ai tôi có thể thẳng thắn bày tỏ nên tôi quyết định mượn ngòi bút bày tỏ thẳng thắn những suy nghĩ của tôi. Nếu chính phủ Pháp thực sự muốn đối xử với nhân dân An Nam tự do hơn, chính phủ Pháp phải chấp thuận sáng kiến và lời khuyên của tôi. Chính phủ pháp sẽ mời tôi trình bày trước các đại diện của chính phủ về vấn đề này một cách tự do. Và khi ngày đó tới, tôi sẽ cởi mở hết mình. Tôi sẽ cho họ biết chúng tôi phải chịu đựng những gì và cần những gì. Tôi mạnh dạn hy vọng rằng điều đó sẽ đánh dấu nhận thức mới cũng như sự hồi sinh của dân tộc tôi”.

Lá thư của Phan Bội Châu đã gây chấn động trong giới trí thức trên khắp đất nước ở những nơi mà nỗi bất bình đối với nhà cầm quyền thuộc địa đang lớn mạnh. Sau tấm mặt nạ “sứ mệnh truyền bá văn minh”, người Pháp với nỗ lực khai thác các nguồn tài nguyên kinh tế ở Đông Dương và truyền bá cách thức ngoại lai đã gây ra sự bất bình trong mọi tầng lớp xã hội Việt Nam. Các quan lại là những sĩ phu tức giận vì việc người pháp chỉ trích các thể chế Nho giáo. Những người nông dân nổi giận vì thuế khoá mới đánh vào rượu, muối và thuốc phiện mà chính quyền Pháp áp đặt như một phương tiện để biến Đông Dương trở thành một xí nghiệp tự cung tự cấp. Thuế đánh vào rượu rất nặng, và người Việt Nam bị cấm cất rượu từ gạo sử dụng trong các dịp lễ Tết trong gia đình qua hàng thế kỷ bây giờ phải mua các loại rượu vang đắt tiền từ Pháp. Đối với những người nông dân phải rời làng quê đi kiếm việc làm ở những nơi khác, môi trường mới thường không đem lại kết quả tốt hơn. Điều kiện trong các đồn điền cao su ở Nam Bộ rất khắc nghiệt và công nhân ở đó thường bị ốm và chết. Mặc dù việc tuyển công nhân dựa trên nguyên tắc tự nguyện nhưng trên thực tế công nhân thường bị cưỡng bức tuyển dụng. Tình hình của những người công nhân làm việc trong nhà máy hay tại các mỏ than cũng chẳng tốt hơn vì lương thấp, thời gian làm việc dài và điều kiện sống thì cùng cực.

Mặc dù vậy Phan Châu Trinh vẫn hy vọng rằng người Pháp sẽ thực hiện trách nhiệm truyền bá văn minh cho Đông Dương. Ông không phải là người duy nhất tìm kiếm câu trả lời từ phương Tây về nỗi thống khổ của đất nước mình. Đầu năm 1907, một nhóm những người trí thức tiến bộ ở Hà Nội thành lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục theo khuôn mẫu của một trường mới được nhà cách tân Phu-cu-da-oa U-ki-chi thành lập ở Nhật Bản. Trường là một thể chế độc lập với mục tiêu khuếch trương tiến bộ phương Tây và tư tưởng của Trung Hoa trong thế hệ người Việt Nam sau này. Vào giữa hè năm đó, trường đã có hơn 40 lớp học và 1.000 sinh viên. Cũng trong lúc đó Phan Bội Châu tiếp tục hoạt động tích cực tại Nhật Bản, thu hút thanh niên Việt Nam đến với chương trình đào tạo của mình và viết những cuốn sách nhỏ gửi về Đông Dương nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước của nhân dân. Trong số đó có cuốn Việt Nam vong quốc sử. Thật trớ trêu cuốn sách lại được viết bằng chữ Hán.

Trong một vài tháng, các hoạt động của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục không hề bị quan chức Pháp ở Bắc Bộ để ý nhưng sau đó họ bắt đầu nghi ngờ rằng mục tiêu của trường không chỉ là giáo dục và buộc trường phải đóng cửa vào tháng 12. Tuy nhiên, người Pháp đã không làn gì để làm lắng xuống cuộc tranh luận sôi nổi giữa những người Việt Nam về việc bảo đảm sự tồn tại của đất nước. Bản thân Nguyễn Sinh Sắc cũng rất tức giận, khi ông nhận xét về một bài giảng tại Quốc Tử Giám rằng làm việc cho triều đình là hình thức nô lệ tồi tệ nhất – quan lại chẳng là gì ngoài những kẻ nô lệ làm việc theo mệnh lệnh của một xã hội nô lệ. Tuy nhiên, ông Sắc thấy khó đưa ra một giải pháp. Nhiều năm sau, Hồ Chí Minh nhớ lại rằng cha ông thường hỏi đi hỏi lại rằng nơi nào người Việt Nam có thể tìm kiếm sự giúp đỡ từ nước nào – Anh, Nhật Bản, hay Hoa Kỳ.

Ngay sau khi trở về Huế, theo lời khuyên của Cao Xuân Dục, ông Sắc đã cho hai con trai theo học trường tiểu học cấp hai thuộc hệ thống giáo dục Pháp-Việt mới nằm ngay bên ngoài thành trước cổng chợ Đông Ba. Trường trước đây là một phần của cái chợ nằm choán hết khu vực nhưng sau khi chợ được chuyển tới một địa điểm khác vào năm 1899 thì toàn bộ ngôi nhà được sử dụng làm trường học. Trường có năm phòng, bốn phòng được sử dụng làm lớp học và phòng còn lại làm văn phòng. Thực ra, Thành không có giấy chứng nhận để được theo học tại trường vì Thành chưa được giáo dục theo kiểu phương Tây, tuy nhiên vì Thành được thầy giáo ở làng Kim Liên dạy một ít tiếng Pháp và đã thể hiện rất tốt trong cuộc phỏng vấn nên đã được nhận vào học như một học sinh lớp đầu. Rõ ràng vốn tiếng Pháp của Thành chưa đủ để đọc những từ nổi tiếng của Cách mạng Pháp: Tự do, bỉnh đẳng, bác ái được ghi trên chiếc biển gắn trên tường trước cổng trường.

Lớp học trong trường được dạy bằng ba thứ tiếng: Việt Nam, Pháp và chữ Hán. Lên các lớp cao hơn thì tiếng Hán được sử dụng ít hơn. Một số người bảo thủ đã phản đối việc hạn chế vai trò tiếng Hán nhưng Thành và cha có lẽ rất vui lòng với quyết định đó. Thầy dạy tiếng Pháp của Thành ở Kim Liên đã khuyên Thành: “ Nếu trò muốn đánh bại người Pháp thì trò phải hiểu họ. Để hiểu người Pháp, trò phải học tiếng Pháp”.

Với đôi guốc mộc, quần áo nâu và mái tóc dài, rõ ràng Thành là hình ảnh của một người nông dân trong con mắt các bạn học – nhiều người trong số họ mặc áo the truyền thống, quần học sinh hoặc mặc đồng phục kiểu phương Tây bán tại trường – nên Thành đã nhanh chóng quyết định cắt kiểu tóc ngắn hợp thời và mặc quần áo giống như các bạn để khỏi bị chế nhạo. Thành cũng thay cái nón nông dân làm bằng lá gồi. Nhiều năm sau, một người bạn kể lại rằng Thành học rất chăm chỉ và rất ít đi chơi. Thành đã xin phép được làm bài tập sau mỗi buổi học tại nhà một thầy giáo và ôn bài cùng các bạn vào buổi tối. Một trong những người bạn của Thành kể lại rằng Thành thường nói với những bạn bắt đầu nản lòng trong học tập rằng “Chỉ có khổ học mới thành công”. Thành học tiếp Pháp rất chăm chỉ, luyện âm với các bạn và viết những từ tiếng Pháp và tiếng Hán tương đương với những từ trong tiếng Việt vào vở. Học hành chăm chỉ đã được đền bù, chỉ một năm Thành đã hoàn thành khoá học hai năm.

Mùa thu năm 1907, Thành và anh trai đã thi đỗ và theo học trường Quốc học, là cấp cao nhất trong hệ thống trường Pháp-Việt tại Huế. Trường được thành lập theo chiếu chỉ của Vua Thành Thái năm 1896 và được đặt dưới quyền của toàn quyền Pháp ở miền trung Việt Nam. Trường có bảy cấp học, bốn cấp đầu quan trọng, và kết thúc ở cấp cuối cùng dành cho các học sinh cấp cao. Triều đình hy vọng việc thành lập trường có thể thay thế được Quốc Tử Giám cũng như để tạo ra nguồn nhân lực được đào tạo theo phương Tây cho triều đình do đó chương trình học tập được tập trung vào văn hoá Pháp và tiếng Pháp, những người dân địa phương đã đặt cho trường cái tên “ trường địa đàng”.

Trường nằm trên bờ nam sông Hương, từ cổng chính tới bên trong Hoàng cung, với điều điện sống và học tập không tương xứng với thanh danh của mình. Toà nhà chính, trước đây từng làm trại lính, đã bị hư hại, có mái được lợp bằng rơm rạ và dột khi mưa. Toà nhà này có một vài lớp học, một giảng đường lớn và một văn phòng. Xung quanh toà nhà có một vài túp lều tranh. Đường vào trường nằm trên đại lộ Giuyn Phe-re, là một con đường lớn chạy dọc theo bờ sông vào thành. Trường có nét đặc trưng là vòm cổng hai tầng kiểu Trung Hoa và tên trường được khắc bằng chữ Hán.

Hoàn cảnh của các học sinh trong trường rất khác nhau. Một số giống như Thành và anh trai, là các học sinh được cấp học bổng phải đi bộ tới trường. Một số khác là con cái trong gia đình giàu có thì nội trú tại trường hoặc tới trường vào buổi sáng bằng xe ngựa. Theo truyền thống thời đó, học sinh bị đối xử rất nghiêm khắc đôi khi còn tàn nhẫn. Hiệu trưởng đầu tiên là một doanh nhân tên là Nóc-đê-man. Ông đã lấy vợ Việt Nam và nói tiếng Việt. Người kế nhiệm tên là Lô-gi-u từng là lính lê dương Pháp.

Mặc dù nhiều năm sau, Thành thường phàn nàn nhiều điều về trường cũng như về hành vi đối xử tàn nhẫn của một số giáo viên nhưng Thành vẫn tiếp tục chăm chỉ học hành và có tiến bộ trong học tập. Thành học lịch sử, địa lý, văn học và khoa học trong khi tiếp tục nâng cao trình độ tiếng Pháp. Các bạn học của Thành thường kể lại rằng Thành luôn ngồi cuối lớp và thường không để ý tới gì xảy ra trong lớp. Nhưng Thành cũng nổi tiếng là người hay đặt câu hỏi trong lớp và giỏi ngoại ngữ nên được hầu hết các giáo viên yêu quý. Các bạn học cũng kể lại rằng một số câu hỏi của Thành rất khiêu khích vì Thành muốn tìm hiểu ý nghĩa sâu xa của các tác phẩm của các nhà triết học thời phục hưng Pháp. Một trong những thầy giáo mà Thành yêu thích là Lê Văn Miên, mới tốt nghiệp trường Mỹ nghệ tại Pa-ri. Mặc dù Miên thường hay chỉ trích chính sách của chính quyền thuộc địa, sự hiểu biết của ông về văn hoá Pháp đã khiến cho ông có được tiếng tốt đối với người Pháp sống ở kinh thành và giúp ông không bị chính quyền khiển trách. Miên kể cho các học sinh tại trường Quốc học rằng những người Pháp ở chính quốc xử sự nhã nhặn hơn so với người Pháp ở Đông Dương và ông đã khiến cho Thành rất thích thú bởi những câu chuyện về thành phố Pa-ri vĩ đại với những thư viện và bảo tàng cùng với những cuốn sách viết về nhiều lĩnh vực mà bất kỳ ai cũng có thể tự do đọc. Những câu chuyện của Miên đã khích lệ người thanh niên đạt nhiều thành tích hơn và khiến cho Thành được một trong những thầy giáo ngợi khen là “một học sinh thông minh và thực sự xuất sắc”.

Tuy nhiên, tính bộc tuệch và phong thái nông dân của Thành đã gây ra một số vấn đề với các bạn thời(?) lưu thường giễu cợt Thành là anh chàng thộn vì giọng nói nặng tiếng địa phương. Lúc đầu Thành không phản ứng lại nhưng trong một lần mất bình tĩnh Thành đã đánh một người trêu ghẹo mình. Một giáo viên đã trách Thành mất bình tĩnh và khuyên Thành tập trung vào những mục đích có ích hơn như nghiên cứu các vấn đề quốc tế. Đúng ra Thành cũng đã quan tâm nhiều hơn đến chính trị và sau mỗi buổi học Thành thường lui tới bờ sông nơi những đám đông tụ tập tranh luận về những tin tức mới nhất về Phan Bội Châu và cùng nhau đọc thơ “Á Tế Á” của ông Châu ngợi ca một châu Á không có sự thống trị của người da trắng và kêu gọi người đọc tranh đấu vì độc lập dân tộc.

Nguồn chính khơi dậy lòng yêu nước của Thành là thầy Hoàng Thông dạy tiếng Hán, người có quan điểm chống Pháp nổi tiếng trong trường. Ông Thông nói với các học sinh trong lớp rằng họa mất nước còn tồi tệ hơn hoạ mất gia đình bởi khi mất nước thì toàn bộ giống nòi sẽ bị tuyệt duyệt. Thành đã đến chơi nhà ông Thông và say sưa đọc những cuốn sách trong tủ sách trong đó có tuyển tập các tác phẩm của những tác giả là nhà cải lương người Pháp, Trung Hoa và Việt Nam. Theo một số tài liệu, Hoàng Thông đã tham gia các hoạt động chính trị bí mật và đã thiết lập mối quan hệ giữa Thành và nhóm kháng chiến chống triều đình và chính quyền thuộc địa Pháp.

Mặc dù mức độ tham gia của Thành vào các hoạt động đó không thể xác định được nhưng rõ ràng Thành đã ngày càng chỉ trích nhà cầm quyền. Trong một số dịp, Thành đã công khai trước đám đông học sinh trong sân trường chỉ trích thái độ hèn hạ của triều đình và đòi giảm các loại thuế nông nghiệp quá nặng đối với nông dân. Khi một học sinh kể lại hành động của Thành cho nhà chức trách, Thành đã bị gọi lên văn phòng của giám thị và bị khiển trách.

Mùa thu năm 1907, tình hình chính trị ngày càng trở nên căng thẳng. Vua Thành Thái, được người Pháp đưa lên ngôi từ năm 1889, buộc phải thoái vị vì bị nghi ngờ có dính líu đến các hoạt động phiến loạn. Tuy nhiên, trong thành đã có những tin đồn rằng người kế vị mới tám tuổi của ông là vua Duy Tân còn có tư tưởng chống Pháp mạnh hơn. Mặc dù tuổi nhỏ, để thể hiện quyết tâm cách tân đất nước nhà vua đã chọn niên hiệu trong tiếng Việt nghĩa là “hiện đại hóa”, một cử chỉ như để tuyên bố quan hệ gắn bó về tinh thần của ông với Vua Minh Trị của Nhật Bản.

Tuy nhiên đối với nhiều người Việt Nam tiến bộ, đã quá muộn không thể gắn triều đình với các hoạt động yêu nước. Nguyễn Quyến, sĩ phu Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, đã viết một bài thơ kêu gọi tất cả những người Việt Nam cắt tóc để biểu thị phản đối chế độ phong kiến cũ (lúc đó, nhiều người Việt Nam búi tóc, như vẫn thường làm nhiều thế kỷ trước). Thành lúc này bỏ học cùng bạn bè đi khắp các đám đông cắt tóc cho những người qua đường cho dù có nhiều người chẳng yêu cầu gì cả. Nhiều năm sau, Hồ Chí Minh vẫn nhớ bài ca của họ:

Lược bên tay trái

Kéo bên tay phải

Cắt! Cắt!

Cắt bỏ sự ngu dốt

Bỏ đi sự đần độn

Cắt! Cắt!

Rõ ràng những hành động như vậy đã khiến nhà chức trách Pháp lo lắng, dẫn tới việc chính quyền ở Bắc Kỳ quyết định ra lệnh đóng cửa Trường Đông Kinh Nghĩa Thục.

Cho tới lúc này, hầu hết bất mãn chủ yếu nảy sinh trong giới trí thức. Trong những tháng đầu năm 1908 thái độ bất mãn đã lan rộng sang khu vực nông thôn, nơi những người nông dân các tỉnh duyên hải miền Trung bắt đầu lên tiếng bất bình đối với việc tăng thuế, luật lao dịch và nạn tham nhũng của quan lại. Trong lá thư gửi cho Pôn Be, Phan Chu Trinh cảnh báo rằng quần chúng nhân dân bị quan lại địa phương chèn ép sách nhiễu đã phải sống trong “nỗi thống khổ”. Ở một số vùng duyên hải, lao dịch đặc biệt hà khắc, chẳng hạn những người nông dân phải dành nhiều thời gian nạo vét cát ở các bến cảng sau khi bão tan. Vào giữa tháng 3, một đám đông đã tụ tập tại huyện đường của một viên quan huyện ở tỉnh Quảng Nam sau đó kéo tới thủ phủ Hội An từng là một cảng biển phát triển cách Đà Nẵng vài dặm về phía nam. Phong trào phản kháng nhận được sự ủng hộ tích cực của những trí thức là những người bắt đầu mở trường học và các cơ sở thương mại trên khắp miền Trung Việt Nam nhằm trang bị kiến thức mới cho giới trẻ và để huy động tài chính cho các hoạt động của mình. Lúc này họ bắt đầu kêu gọi nông dân không đóng thuế cho nhà cầm quyền.

Sau khi tin tức về cuộc biểu tình đầu tiên được phát đi, phong trào đã nhanh chóng lan rộng từ Quảng Nam ra các tỉnh lân cận. Đôi khi các cuộc biểu tình chuyển thành các cuộc bạo động. Những người chống đối chiếm giữ các toà nhà của triều đình hay nơi ở của quan lại địa phương. Đáp lại, triều đình đã huy động quân lính đến giải tán những người nổi loạn làm cho một số người bị chết và hàng trăm người bị bắt. Những người nông dân đã cắt tóc những người qua đường khiến cho các quan sát viên người Pháp đặt tên cho phòng trào là “cuộc nổi loạn của những người tóc ngắn”.

Đến mùa xuân, làn sóng nổi dậy của nông dân bắt đầu lan tới cổng kinh thành Huế. Trong đầu tuần tháng 5, nông dân Công Lương ở ngoại ô đã biểu tình chống thuế cao. Khi một viên quan địa phương cùng một toán lính tới nơi thì bạo loạn đã nổ ra và viên quan huyện đã bị bắt. Ngày hôm sau, một đám đông đã dẫn viên quan huyện trong chiếc cũi tre tới kinh đô và tập trung trước phòng làm việc của viên toàn quyền Pháp yêu cầu giảm thuế và bỏ lao dịch.

Đây là lần đầu tiên Thành trực tiếp tham gia hoạt động chính trị, mặc dù rõ ràng là Thành đã theo dõi chặt chẽ các sự kiện tương tự thông qua mạng lưới tin truyền khẩu ở địa phương. Vào ngày 9 tháng 5, khi một nhóm học sinh tập trung bên bờ sông trước cửa trường Quốc học theo dõi đám đông nông dân tràn vào thành phố từ các vùng ngoại ô, Thành bất ngờ túm lấy cổ áo hai người bạn và đề nghị cùng tham gia vào đám đông với tư cách là phiên dịch cho những người nông dân phản đối nhà cầm quyền Pháp. Trên đường vào kinh thành, Thành lật ngược chiếc mũ làm bằng lá gồi hàm ý cần phá bỏ hoàn toàn hiện trạng. Khi đám đông tới phòng làm việc của toàn quyền Lơ-vếch thì tình hình đã rất căng thẳng, những người nông dân tức giận đối mặt với quan lại địa phương và những toán lính trong trạng thái căng thẳng. Bất ngờ viên quan chịu trách nhiệm ở đó ra lệnh cho toán lính xông tới cùng gậy đẩy lùi đám đông. Thành đứng hàng đầu cố gắng dịch yêu cầu của những người nông dân cho nhà cầm quyền đã bị trúng vài gậy.

Khi đám đông tiếp tục tràn lên, Lơ-vếch đã đồng ý cho phép một đại diện của những người biểu tình vào phòng làm việc của mình để thương thuyết các điều kiện khiến đám đông có thể giải tán. Thành đã trở thành phiên dịch. Tuy nhiên việc thương thuyết đã thất bại, không giải quyết được bất đồng và những người bên ngoài từ chối giải tán thậm chí khi vua Duy Tân đã cố can thiệp. Cuối cùng thì quân Pháp đã tới và bắn vào những người biểu tình đang tập trung trên chiếc cầu mới xây bắc qua sông Hương, gây nhiều tổn thất.

Đêm đó, Thành đã trốn ở nhà một người bạn. Ngày hôm sau các bạn học của Thành ở trường Quốc học, nhiều người trong số họ rõ ràng đã được kể về hành động hôm trước của Thành, cho rằng Thành sẽ nghỉ học nhưng khi chuông vừa reo lần thứ hai thông báo giờ học bắt đầu thì Thành bất ngờ xuất hiện và ngồi vào chỗ của mình. Lúc chín giờ sáng, một viên cảnh sát Pháp đã tới trường cùng một toán cảnh sát và hỏi về cậu “học sinh cao và đen” đã tham gia cuộc biểu tình ngày hôm trước. Khi nhìn thấy Thành đang ngồi phía cuối lớp, viên cảnh sát đã nhận ra Thành và nói “Tôi có lệnh yêu cầu người có hành vi quấy dối này phải thôi học”. Đó là ngày cuối cùng của Thành đến trường.

Nhiều tuần sau sự kiện diễn ra tại Huế, cuộc khủng hoảng chính trị đã trở nên căng thẳng hơn. Cuối tháng 6, những người theo Phan Bội Châu định đảo chính bằng cách đầu độc các sĩ quan Pháp tham gia một bữa tiệc tại Hà Nội. Những người chủ mưu hy vọng rằng các lực lượng nổi dậy trong vùng có thể phát động một cuộc tổng khởi nghĩa khi tình hình rối loạn và chiếm các đồn bốt chủ chốt ở thành phố. Tuy nhiên, liều thuốc độc quá nhẹ không đạt được mục đích nên không có người Pháp nào tại bữa tiệc bị chết mặc dù một số bị ngộ độc. Hơn nữa, kế hoạch tình cờ bị một trong những người thực hiện làm lộ khiến nhà cầm quyền Pháp tuyên bố thiết quân luật trên toàn bộ khu vực. Trong cơn hỗn loạn sau đó, quân của ông Châu ở các vùng ngoại ô phải giải tán trong khi những người khác bị nhà cầm quyền bắt. 13 người Việt Nam tham gia bị hành quyết trong khi nhiều người khác bị tù trong nhiều năm. Các quan chức hoang mang đã bố ráp tất cả các trí thức–sĩ phu bị tình nghi có thiện cảm với phong trào và thậm chí Phan Châu Trinh cũng đã bị bắt tại Hà Nội và bị đưa vào Huế xét xử. Các công tố viên muốn ông bị hành quyết nhưng nhờ sự can thiệp của viên toàn quyền nên ông chỉ bị tù chung thân và bị giam tại Côn Đảo. Đầu năm 1911, ông được trả tự do và được phép sống lưu vong tại Pháp.

Sau cuộc bạo động, Nguyễn Sinh Sắc bị khiển trách vì các “hành động của hai con trai tại trường Quốc học”. Là phó bảng cùng khoá với Phan Châu Trinh, ông Sắc cũng bị triều đình theo dõi chặt chẽ, tuy nhiên triều đình đã không tìm thấy mối liên hệ cụ thể nào với ông giữa sự kiện đó. Thực hiện ý đồ chuyển ông khỏi Huế, mùa hè năm 1909, ông được chỉ định làm quan huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định, cách kinh thành 320 cây số về phía nam. Mặc dù khá trù phú, vùng này đã từng diễn ra cuộc nổi loạn lớn chống lại nhà Nguyễn và nay là nơi giam giữa những kẻ du đãng và chống đối. Anh trai của Thành là Khiêm cũng bị quản thúc và đến năm 1914 bị kết tội mưu phản và bị tù vài năm. Thậm chí ngay cả em gái của Khiêm đang sống ở Kim Liên cũng bị thẩm vấn và bị nghi ngờ là đã chứa chấp những người bị tình nghi là đồng loã trong cuộc bạo loạn.

Sau khi bị đuổi học, Thành đã biệt vô âm tín trong vài tháng. Có tin tức là một người bạn đã cố tìm cho Thành một việc làm tại một khu khai thác đá vôi nhưng không thành vì Thành đã nằm trong sổ đen của cảnh sát. Có thể là Thành đã tìm được việc làm hay sống với bạn bè tuy nhiên Thành đã không trở về quê vì nơi đó đang bị nhà cầm quyền theo dõi.

Cuối cùng, Thành quyết định rời bỏ Trung Kỳ đi về phía nam tới Nam Kỳ, thuộc địa của Pháp, để tránh sự theo dõi chặt chẽ của triều đình. Có thể là Thành đã quyết định ra nước ngoài tìm hiểu bí quyết thành công của phương Tây tận nguồn, trong trường hợp đó nơi an toàn nhất để ra đi là cảng Sài Gòn, một cảng thương mại phát triển do người Pháp thay triều đình kiểm soát. Tháng 7 năm 1909, trên đường đi, Thành đã dừng lại ở Bình Khê, nơi cha Thành đã nhậm chức quan huyện. Để tránh bị bắt, Thành đã đi bộ suốt quãng đường từ Huế và làm các việc vặt để có cái ăn. Tuy nhiên, theo một số tài liệu, cuộc gặp gỡ giữa hai cha con không được suôn sẻ vì ông Sắc lúc đó rất buồn và bắt đầu uống rượu. Ông Sắc đã trách con trai về những hành động gần đây và đánh con.

Sau khi dừng chân trong một thời gian ngắn ở Bình Khê, Thành đã tới thành phố duyên hải Quy Nhơn gần đó và ở lại nhà Phạm Ngọc Thơ là bạn cũ của cha. Thành đã được học trong một thời gian ngắn tại trường địa phương và sau đó theo gợi ý của chủ nhà đã thi giáo viên trong một trường làng sử dụng tên Nguyễn Sinh Cung để khỏi lộ danh tính. Người đứng đầu hội đồng thi đã từng dạy Thành khi còn học ở trường Đông Ba ở Huế rất thông cảm với Thành, tuy nhiên bằng cách nào đó viên toàn quyền tỉnh đã phát hiện ra mưu mẹo của Thành và đã gạt tên Thành ra khỏi danh sách thi.

Thất vọng không tìm được việc làm ở Quy Nhơn, Thành tiếp tục đi về phía nam tới thành phố cảng Phan Rang. Tại đây, Thành gặp sĩ phu Trương Gia Mỗ, người đã từng làm việc trong triều với Nguyễn Sinh Sắc tại Huế và cũng là bạn của Phan Châu Trinh. Thành rất muốn rời đất nước càng sớm càng tốt, tuy nhiên ông Mỗ đã thuyết phục Thành làm giáo viên tại trường Dục Thanh cách Phan Thiết khoảng 100 cây số ngay phía bắc ranh giới giữa Trung Kỳ và Nam Kỳ. Vì hết tiền đi đường nên Thành đã nhận lời. Tuy nhiên trước khi tới Phan Thiết, Thành đã chứng kiến một sự kiện rất xúc động. Khi một cơn bão ập vào cảng Phan Rang, các quan Pháp ra lệnh cho công nhân cảng lặn xuống nước để cứu tàu. Theo Hồ Chí Minh thuật lại sau này, rõ ràng những người châu Âu đã rất thích thú khi đứng trên bờ nhìn cảnh nhiều người Việt Nam bị chết đuối trong khi lặn xuống nước.

Trường Dục Thành được các sĩ phu yêu nước địa phương thành lập năm 1907 với hy vọng có được sự thành công như trường Đông Kinh Nghĩa Thục. Trường nằm trên bờ nam sông Phan Thiết cách biển Nam Trung Hoa khoảng 5 cây số. Gian nhà chính xây bằng gạch trên mảnh đất của một thi sĩ mới mất. Trường do hai người con của thi sĩ trông nom, gần đó có một hiệu sách phục vụ trường và là nơi bán các tác phẩm truyền bá tư tưởng mới của các nhà cải lương. Trước cửa hiệu sách có ghi khẩu hiệu “ Bỏ cái cũ, dùng cái mới và hiện đại”. Các lớp trong trường được dạy bằng chữ quốc ngữ tuy nhiên cũng có lớp học bằng tiếng Pháp và tiếng Hán. Học sinh trường còn học các môn khoa học xã hội, tự nhiên, nghệ thuật và thể dục.

Trong khi vẫn phải lẩn tránh lực lượng an ninh triều đình, Thành đã tới Phan Thiết trước Tết nguyên đán đầu năm 1910 và bắt đầu dạy chữ Hán và chữ quốc ngữ. Là giáo viên trẻ nhất trong trường, Thành còn có một số trách nhiệm khác như dạy võ. Theo các học sinh trong trường nhớ lại, Thành là một giáo viên được nhiều người quý mến, tôn trọng học sinh và thường khuyên các bạn đồng nghiệp không nên đánh hay làm cho học sinh sợ. Trong bộ quần áo ngủ mầu trắng và đôi guốc mộc thông dụng thời đó, Thành sử dụng phương pháp của Xô-crát để khuyến khích học sinh động não và thể hiện suy nghĩ của bản thân. Thành cũng đưa học sinh đến với tư tưởng của Vôn-te, Mông-tét-ki-ơ, Ru-xô là những người mà những tác phẩm của họ Thành đã hấp thụ từ khi còn học ở trường Quốc học Huế. Bên ngoài lớp học, Thành là người dễ gần, cùng ăn với các học sinh và giáo viên khác trong một cái miếu trong trường. Thành ở nội trú trong trường và sống như một học sinh. Thành thường dẫn học sinh đi thăm những di tích lịch sử và thưởng ngoạn thiên nhiên trong rừng hay dọc theo bờ biển những vùng lân cận. Quang cảnh ở đó rất đồng quê nhưng nhiều người thời đó kể lại rằng mùi khó chịu từ nhà máy sản xuất nước mắm trong vùng đôi khi trở nên nồng nặc làm ảnh hưởng tới việc học tập.

Chương trình giảng dạy của trường mang tính dân tộc chủ nghĩa. Mỗi buổi sáng, mỗi lớp cử một học sinh lên hát một bài yêu nước, sau đó tất cả mọi người thảo luận về bài hát. Thành đưa ra những chủ đề về lịch sử Việt Nam trong các bài giảng của mình và những câu thơ trong các bài thơ nổi tiếng như bài hớt tóc và bài thơ “Á Tế Á” của Phan Bội Châu. Bắt đầu buổi học Thành yêu cầu các học sinh đọc những câu thơ trong hợp tuyển thơ ca của Trường Đông Kinh Nghĩa Thục.

Ơi! Trời! Trời có thấu nỗi khổ của chúng tôi?

Cả dân tộc bị xiềng xích, tàn tạ trong khổ đau.

Ngoại bang đã đoạ đày dân tộc tới cảnh đói nghèo.

Chúng cướp đi tất cả của cải dân tộc.

Tuy nhiên, đối với cả nước nói chung thì chủ đề gây nhiều tranh luận không phải là mục tiêu độc lập dân tộc mà là phương tiện để đạt được mục tiêu cuối cùng đó. Các giáo viên trong trường chia làm hai phe giữa những người ủng hộ cách giải quyết vấn đề theo chủ nghĩa cải lương của Phan Châu Trinh và những người ủng hộ kế hoạch kháng chiến bạo lực của Phan Bội Châu. Nguyễn Tất Thành là một trong số ít người không đứng về phía nào cả. Như ông viết sau này, ông muốn ra nước ngoài tìm hiểu tình hình trước. Theo một nguồn tin của Việt Nam ông tỏ ra kính trọng cả Phan Châu Trinh và Phan Bội Châu nhưng ông lo ngại cách tiếp cận của hai người này. Ông không tán thành việc Phan Châu Trinh tin vào thiện chí của người Pháp, coi đó là ngây thơ và cũng không tán thành với việc Phan Bội Châu dựa vào Nhật bản và các thành viên triều đình vì cho rằng làm như vậy là lạc hướng.

Đầu năm 1911, trước khi năm học kết thúc, Nguyễn Tất Thành biến mất. Lý do chính xác cho việc ra đi bất ngờ của Thành không được rõ ràng mặc dù có thể điều này có liên quan đến tin cho rằng cha của Thành đã tới Nam Kỳ. Vào đầu năm 1910, ông Sắc bị loại khỏi chức vụ của mình ở Bình Khê. Nhậm chức ở đây mùa hè năm trước, ông được nhân dân yêu quý, ông đã trả tự do cho những tù nhân bị bắt vì tội tham gia các cuộc biểu tình, bảo vệ những người nông dân trước bọn địa chủ tham tàn và trừng phạt những kẻ ức hiếp dân chúng. Ông đối xử nhân hậu với những người phạm tội vặt và cho rằng thật là ngớ ngẩn để mất nhiều thời gian cho chuyện này trong khi toàn bộ đất nước đã bị mất. Nhưng ông rất cứng rắn trong các bản án giành cho những kẻ giàu có và có quyền thế. Một lần vào tháng riêng năm 1910 ông đã ra lệnh đánh một nhân vật có ảnh hưởng trong vùng 100 roi. Vài ngày sau khi người đàn ông này chết, họ hàng của ông ta đều kêu oan lên bạn bè trong triều và ông Sắc đã bị triệu về Huế xét xử. Ngày 19 tháng 5, hội đồng nhiếp chính buộc tội ông lạm dụng quyền lực đã phạt đòn và giáng chức ông xuống bốn cấp. Đến tháng 8, bản án chuyển thành giáng cấp và chính thức bãi nhiệm. Để sống, ông Sắc đã dạy học trong thời gian ngắn ở Huế. Đối với bạn bè ông không tỏ vẻ cay cú về việc mất chức, như ông kể lại với một người quen: “Khi nước mất làm thế nào anh giữ được nhà của mình”. Tháng riêng năm 1911, ông gửi thư cho nhà chức trách Pháp yêu cầu được tới Nam Kỳ, có thể là với hy vọng được gặp con trai. Tuy nhiên, yêu cầu của ông đã bị nhà chức trách từ chối có thể do nhà chức trách nghi ngờ rằng ông có liên quan tới các hoạt động nổi dậy. Theo một báo cáo của cảnh sát Pháp lúc đó.

Nguyễn Sinh Sắc … rất có khả năng là đồng loã của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và nhiều ngước khác. Con trai của Sắc, hai năm trước là học sinh ở Đông Ba, đã bất ngờ biệt tích. Người ta cho rằng anh ta đang ở Nam Kỳ. Nguyễn Sinh Sắc có thể có ý định tìm gặp anh ta và Phan Châu Trinh.

Ông Sắc đã tảng lờ việc nhà chức trách từ chối lời đề nghị và ngày 26 tháng 2 năm 1911 ông đã tới Tua-ran (tên mới của Đà Nẵng do người Pháp đặt) và lên một con tàu tới Sài Gòn, tại đó ông dạy tiếng Hán và bán thuốc bắc.

Liệu Nguyễn Tất Thành có biết quyết định của cha tới Nam Kỳ khiến cho Thành rời Phan Thiết để tới Sài Gòn với hy vọng gặp được cha ở đó hay không? Một trong những bạn của Thành ở trường sau này kể lại Thành đã nói rằng Thành đã chuẩn bị ăn Tết với cha. Hay Thành sợ rằng danh tính thực của mình đã bị nhà chức trách địa phương phát hiện ra và họ đã theo dõi trường học. Chưa thể khẳng định được rằng nhà chức trách có biết Nguyễn Tất Thành đã dạy học tại trường hay không, tuy nhiên ngay sau khi Thành biến mất, một viên quan Pháp đã tới trường hỏi Thành đi đâu, nhưng Thành đã không để lại một manh mối về việc ra đi của mình cho các học sinh mà đã ra đi ngay sau khi viết lại cho học sinh rằng các cuốn sách của Thành sẽ phải trả lại cho một giáo viên khác. Bạn bè ở trường sau này phỏng đoán rằng có thể Thành đã rời Phan Thiết trên một chiếc tàu chở nước mắm đi Sài Gòn. Ít lâu sau, trường bị nhà chức trách buộc tạm đóng cửa.

Vài ngày sau khi rời Phan Thiết, Nguyễn Tất Thành đã tới Sài Gòn. Rõ ràng thành phố đã mở rộng tầm mắt cho người thanh niên quê mùa Nghệ An. Từng là một thương cảng nhỏ trên sông Sài Gòn, sau khi người Pháp chiếm đóng, thành phố được chọn làm thủ phủ của thuộc địa mới ở Nam Kỳ. Khi dân số thuộc địa tăng nhanh chóng – vào năm 1910, Nam Kỳ có dân số bằng một phần tư tổng số 12 triệu dân sống trên toàn bộ ba vùng của Việt Nam, thành phố Sài Gòn cũng đã phát triển theo và tới năm 1900 đã trở thành thành phố lớn nhất ở Đông Dương của Pháp sau Hà Nội. Ngay sau đó Sài Gòn đã vượt kinh đô cũ với dân số khoảng vài trăm nghìn người.

Tăng trưởng của thành phố chủ yêu dựa vào lợi thế kinh tế. Trong những năm người Pháp chiếm đóng, Nam Kỳ trở thành nguồn lợi của tầng lớp doanh nhân gồm những người châu Âu và Việt Nam, kể cả những người Hoa mà tổ tiên của họ đã tới đây sinh sống từ nhiều thế kỷ trước. Phần lớn lợi nhuận thu được là các đồn điền cao-su dọc biên giời Cam-pu-chia (giống cây cao su được mang tới Đông Dương từ Bra-xin trong suốt 25 năm cuối thế kỷ 19), và mở rộng diện tích trồng lúa nhờ lỗ lực của người Pháp trong việc cải tạo các đầm lầy ở đồng bằng sông Cửu Long. Các địa chủ giàu có mua những mảnh đất hoang sơ đó rồi cho nông dân thuê lại với giá cắt cổ (phần lớn nông dân là những người di cư đến từ những tỉnh đông dân phía bắc). Thóc người nông dân thuê đất trả cho địa chủ đất sau đó được chế biến tại các máy xay lúa của người Hoa và được chở tới các tỉnh phía bắc hoặc được xuất khẩu. Trong 25 năm đầu của thế kỷ 20, Nam Kỳ là nơi xuất khẩu gạo lớn thứ ba trên thế giới.

Bị thu hút bởi lợi nhuận thu được từ kinh doanh cao-su và ngày càng phát triển, hàng nghìn người châu Âu đã tới sống ở Sài Gòn với hy vọng tìm được may mắn cho chính mình. Tại đây họ cạnh tranh với các thương nhân Trung Hoa và giai cấp tư sản Việt Nam mới giàu lên cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho dân cư đang gia tăng. Với các xưởng dệt, nhà máy sản xuất xi măng và các nhà máy chế biến thực phẩm, Sài Gòn nhanh chóng trở thành trung tâm công nghiệp và thương mại quan trọng của Việt Nam, trong trung tâm thành phố, các toà nhà lớn mang phong cách kiến trúc tỉnh lẻ của Pháp và là văn phòng của các quan chức thuộc địa. Những đại lộ lớn nằm vuông góc với nhau, với những hàng cây tiêu huyền chắn ánh sáng mặt trời nhiệt đới nóng bỏng. Đằng sau những bức tường cao là những ngôi nhà to đẹp của những người châu Âu và một số người Việt Nam là những người đã cố gắng tận dụng sự có mặt của đế quốc nước ngoài. Những người dân khác, công nhân trong các nhà máy, công nhân bốc vác, những người kéo xe tay, những người nông dân tha hương đến từ vùng nông thôn phụ cận, phải sống chui rúc trong những ngôi nhà ổ chuột bẩn thỉu dọc kênh Bến Nghé và ngoại vi thành phố.

Khi tới Sài Gòn, Thành đã trọ tại một kho thóc cũ. Chủ nhân Lê Văn Đạt là một người làm chiếu có quan hệ với các giáo viên trường Dục Thanh ở Phan Thiết. Tại đó Thành đã tìm được cha đang tạm sống trong một kho hàng cho tới khi tìm được nơi ở ổn định. Cuối cùng thông qua các mối liên hệ khác ở trường, Thành chuyển tới một ngôi nhà trên phố Châu Văn Liêm, gần cảng Sài Gòn, một khu ổ chuột với những ngôi nhà mái tôn lụp xụp nằm giữa một con kênh và sông Sài Gòn. Được cha khuyến khích, Thành bắt đầu vạch ra kế hoạch đi ra nước ngoài. Vào tháng ba, Thành được biết người Pháp đã thành lập trường học vào năm 1904 dạy nghề thợ mộc và cơ khí. Có thể là với hy vọng dành đủ tiền cho chuyến đi nước ngoài, Thành đã học trong một thời gian ngắn tại trường, Thành đã bỏ học và đi bán báo cùng một người cùng làng Kim Liên tên là Hoàng khi hiểu ra rằng phải học ba năm mới đạt được trình độ theo yêu cầu.

Làng công nhân nơi Thành đã sống không xa bến Nhà Rồng của Sài Gòn nơi những chiếc tàu chở khách lớn cập bến trên đường tới châu Âu và các hải cảng khác ở châu Á. Thành đã quyết định tìm việc làm trên một trong những con tàu đó để có thể ra nước ngoài. Nhiều năm sau Hồ Chí Minh đã miêu tả trong cuốn tự thuật viết dưới bút danh Trần Dân Tiên:

“Trong khi tôi (một người được cho là bạn của Thành, được tác giả trích lời) chuẩn bị kết thúc việc học hành tại trường Sát-lu Lô-ba ở Sài Gòn….tôi đã gặp một thanh niên trẻ từ miền trung Việt Nam tới. Tôi gặp anh ta tại nhà của một người bạn, vì bằng tuổi nhau nên chúng tôi đã nhanh chóng trở thành bạn thân. Tôi dẫn anh ta tới trước cửa một quán café mà người Pháp thường lui tới và cùng nhau ngắm nhìn ánh đèn điện. Chúng tôi đi xem phim. Tôi đã chỉ cho anh ta những đài phun nước công cộng. Rất nhiều thứ mà chàng trai trẻ Quốc Nguyễn Tất Thành trước đây chưa từng thấy. Vào một ngày tôi mua cho Quốc một vài cây kem. Quốc rất ngạc nhiên bởi vì đó là lần đầu tiên Quốc được ăn kem.

Vài hôm sau, đột nhiên Quốc hỏi tôi:

“ Này Lê, anh có yêu nước không?”

Rất ngạc nhiên tôi đã trả lời “tất nhiên rồi”

“Anh có giữ được bí mật không”?

“Được”

“Tôi muốn ra nước ngoài để tới Pháp và một số nước khác, khi tôi biết được họ làm gì ở đó tôi sẽ trở về giúp đỡ đồng bào. Nhưng nếu tôi đi một mình sẽ có nhiều rủi ro, chẳng hạn tôi có thể bị ốm…Anh có muốn đi cùng tôi không?”

“Nhưng chúng ta lấy đâu ra tiền để đi”.

“Tiền của chúng ta ở đây” và Quốc chìa đôi bàn tay ra. “ Chúng ta sẽ làm việc, chúng ta sẽ làm bất cứ những gì cần thiết để sống và đi. Anh sẽ cùng đi với tôi chứ”. Bị thuyết phục bởi sự nhiệt thành tôi đã đồng ý. Tuy nhiên sau khi ngẫm nghĩ hồi lâu về những điều có thể xảy ra trong chuyến đi tôi đã không còn đủ can đảm để giữ lời hứa. Từ đó, tôi không gặp lại Quốc nữa. Tôi luôn cho rằng Quốc đã ra nước ngoài tuy nhiên bằng cách nào thì tôi không biết. Mãi sau này tôi mới biết rằng chàng trai trẻ yêu nước với lòng nhiệt tình không phải ai khác ngoài Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, sau này là Chủ tịch nước.

Trong vài tháng sau, Thành thường tới bến cảng quan sát những con tàu cập và rời bến. Tại đây có hai công ty tàu hơi nước với các con tàu hoạt động ngoài khu vực Sài Gòn – là công ty Mét-xa-giơ-ri Ma-ri-ti-mơ và Sác-giơ Rê-uy-ni. Công ty Sác-giơ Rê-uy-ni thuê người Việt Nam làm công việc bồi bàn hoặc phụ bếp trên tàu và công ty quảng cáo rằng hành trình của tàu có đi qua các thành phố lãng mạn như Xin-ga-po, Cô-lông-bô, Di-bu-ti, Po-Set, Mác-xây và Boóc-đô. Qua một người bạn ở Hải Phòng làm việc cho công ty, Thành đã được thuyền trưởng tàu khách A-mi-ran Lu-tút-sơ – Tê-rê-vin của công ty Sác-giơ Rê-uy-ni mới từ Tua-ran tới cảng Nhà Rồng phỏng vấn. Thành đã xếp hai bộ quần áo thuỷ thủ vào một chiếc va li nhỏ do một người bạn ở Phan Thiết đưa cho.

Ngày 2 tháng 6, một thanh niên tự xưng là “anh Ba” đã tới bến tàu. Thuyền trưởng Lu–I Ê-đu-a Mây-xen lúc đó rất ái ngại về người tới xin việc vì anh ta trông thông minh nhưng có thể không cường tráng. Khi Ba khăng khăng cho rằng mình có thể “làm được mọi việc” Mây-xen đã đồng ý thuê Ba làm phụ bếp. Ngày hôm sau, Ba được gọi đến làm việc ngay lập tức được giao việc trong cả ngày, rửa bát đĩa và chảo, lau chùi sàn bếp, rửa rau và xúc than vào lò. Vào ngày mồm 5, con tàu A-mi-ran La-tút-sơ Tơ-rê-vin đã đi qua vùng đầm lầy sông Sài Gòn hướng ra biển nam Trung Hoa để tới bến tiếp theo là cảng hải quân Anh ở Xin-ga-po.

Tại sao Nguyễn Tất Thành đã quyết định đi ra ngước ngoài? nhiều năm sau, khi trao đổi với nhà báo Liên Xô Ô-síp Man-đen-stam, Thành (lúc đó đang hoạt động dưới cái tên Nguyễn Ái Quốc) đã kể lại “Khi tôi khoảng mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi nghe thấy những từ tiếng Pháp “tự do”, “bình đẳng”, ”bác ái”. Lúc đó tôi nghĩ rằng tất cả những người da trắng đều là người Pháp. Bởi vì những từ đó do người Pháp viết ra, nên tôi muốn tìm hiểu về nền văn minh Pháp để hiểu ý nghĩa của những từ đó”. Sau đó Nguyễn Ái Quốc cũng trả lời tương tự như vậy khi được nhà báo người Mỹ An-na Lui-dơ Xtrong phỏng vấn.

“ Những người Việt Nam, trong đó có cả cha tôi, thường tự hỏi nước nào có thể giúp phá bỏ ách đô hộ của người Pháp. Một số cho rằng Nhật Bản, những người khác cho rằng nước Anh, và một số khác lại cho rằng nước Mỹ. Tôi cho rằng cần phải ra nước ngoài để tự tìm lấy câu trả lời cho mình. Sau khi tôi biết được họ sống ra sao tôi sẽ trở về giúp đồng bào mình”.

Những người chuyên bình tiểu sử về những thánh nhân ở Hà Nội đã viết rất nhiều những lời bình trong những hồi ký. Họ mô tả quyết định rời Việt Nam của ông như một sứ mệnh cứu nước. Với xu hướng kịch tính hoá các sự kiện về cuộc đời mình với mục đích để người khác tự khám phá, cần phải thận trọng khi xem xét những điều ông thuật lại. Tuy nhiên, điều không nghi ngờ là ông đã rời Sài Gòn mùa hè năm 1911 lòng tràn đầy tình yêu tổ quốc cũng như hiểu rõ về sự bất công mà chính quyền thuộc địa đã gây ra cho đồng bào của ông. Đối với Thành, dường như không có cách để giải quyết vấn đề này ở trong nước. Có lẽ điều đó có thể tìm thấy ở nước ngoài.
 
Chương II: CON NGỰA LỬA

Mặc dù hoạt động của Nguyễn Tất Thành sau khi rời Sài Gòn không được ghi lại đầy đủ, các bằng chứng cho thấy Thành đã lênh đênh trên biển trong gần hai năm sau . Thế giới bên ngoài Việt Nam đã tác động tới suy nghĩ và thái độ của Thành về cuộc sống. Hơn một thập kỷ sau, Thành bắt đầu viết những bài báo cho các nhà xuất bản ở Pháp. Những bài viết xúc động lòng người của Thành về những điều tồi tệ trong cuộc sống ở những thành phố cảng thuộc địa ở châu Á, châu Phi, và Châu Mỹ La–Tinh đã kể lại nỗi thống khổ trong cuộc sống cũng như sự đối xử dã man tàn bạo của kẻ áp bức Châu Âu đối với người dân bản xứ. Vào đầu thế kỷ hai mươi, nhiều nơi trên thế giới đã rơi vào ách thuộc địa và các thành phố cảng ở Châu Phi và Châu Á tràn ngập công nhân cảng, phu kéo xe tay và những người lao động chân tay, tất cả đều làm theo lệnh của người da trắng. Có thể trong thời gian ở nước ngoài những cở sở của sự nghiệp cách mạng sau này của Thành đã được hình thành.

Cuộc hành trình trên con tàu A-mi-ran La-tút-sơ Tơ-rê-vin từ Sài Gòn đi Mác-xây mất vài tuần. Điều kiện ngoài khơi rất khó khăn; con tàu quá nhỏ so với một tàu chở khách xuyên đại dương, chỉ dài khoảng 100 mét và nặng chưa tới 6.000 tấn. Trong các cuốn tự thuật, là nguồn thông tin duy nhất về cuộc đời ông trong thời kỳ đó, Thành kể lại rằng những cơn bão với những ngọn sóng “cao như núi “ đôi khi suýt nữa hất Thành khỏi tàu. Những ngày Thành sống trên biển thường rất dài và đơn điệu. Thành dậy từ sáng sớm và chỉ hoàn thành công việc sau khi trời tối. Nhiều năm sau như Thành kể lại bằng ngôi thứ ba :

“Người phụ bếp đã phải làm việc hàng ngày như sau: Từ bốn giờ sáng lau chùi bếp chính, sau đó nhóm lửa đun nước trên bếp, bỏ than vào lò , nhặt rau , làm thịt , cá ,chuẩn bị đá , v.v.v trong hầm lạnh . Công việc rất nặng nhọc vì trong bếp rất nóng còn trong khoang thì rất lạnh . Công việc đặc biệt khó khăn khi tàu bị tròng trành mỗi khi biển động và người phụ bếp phải vác trên vai một túi nặng leo lên thang tàu “.

Tuy nhiên , Thành dường như vẫn chịu đựng tất cả cùng với sự hóm hỉnh và lòng nhiệt tình . Trong một lá thư gửi cho một người quen ở Sài Gòn, Thành đã đùa : “ Người anh hùng vui vẻ suốt ngày làm những gì anh ta cảm thấy thích , đánh bóng nhà vệ sinh và buồng tắm , dọn sạch những bô đựng phân“. Sau khi làm hết công việc của mình vào khoảng 9 giờ tối , Thành đọc sách hoặc viết lách đến tận nửa đêm , hay thỉnh thoảng giúp những người không biết chữ trên tàu viết thư cho gia đình . Nhà nông học kiêm nhà báo Bùi Quang Chiểu , sau này là lãnh đạo của một trong những tổ chức đối lập chính của phong trào cộng sản của Hồ Chí Minh , kể lại rằng ông đã gặp Thành trong chuyến đi và hỏi tại sao một người thông minh như thế lại kiếm một công việc nặng nhọc như vậy . Thành chỉ cười và nói Thành muốn tới Pháp để tìm cách lật ngược quyết định của triều đình cách chức cha Thành.

Sau khi dừng lại ở Xin-ga-po, Cô–lông–bô và Po–sét , tàu A–mi–ran La-tút-sơ Tơ-rê-vin cập cảng Mác-xây ngày 6 tháng bảy năm 1911. Tại đó Thành nhận được tiền công – khoảng mười quan Pháp, số tiền chỉ đủ Thành ăn ở vài ngày trong một khách sạn rẻ tiền . Thành rời khỏi tàu cùng với một ngưòi bạn để được nhìn thấy những hình ảnh đầu tiên về nước Pháp . Lần đầu tiên Thành thấy tàu điện (“ những căn nhà di động “như những người Việt Nam lúc đó gọi ). Và cũng là lần đầu tiên Thành được gọi là “ông” khi dừng lại uống một ly cà-phê trong một quán cà-phê nằm trên đường Can-nơ-bi-e-rơ nổi tiếng của thành phố . Ngay khi đó Thành đã phát hiện ra rằng ở Pháp cũng có người nghèo giống như ở vùng Đông Dương thuộc Pháp. Sau này cũng như bây giờ , Mác-xây vẫn là một thành phố nhộn nhạo , đường phố đầy những thuỷ thủ , những tên ma cà bông , lái buôn và những tên trộm thuộc tất cả các dân tộc. Trông thấy các cô gái diếm lên tàu với các thuỷ thủ, Thành đã nói với bạn : “ Tại sao người Pháp không truyền bá văn minh cho đồng bào của họ trước khi họ làm như vậy với chúng ta ? “ ./.

Thành quay trở lại tàu trước khi tàu rời đi Lơ Ha –vrơ ; tàu đã tới Lơ Havrơ ngày 15 tháng bảy . Vài ngày sau tàu tới Đân-cớc , sau đó trở lại Mác-xây và cập cảng thành phố vào giữa tháng chín. Tại đây , Thành đã viết một bức thư gửi Tổng Thống Cộng Hoà Pháp. Sự kiện này rất lạ do vậy cần in lại toàn văn bức thư :

Mác-xây ngày 15 tháng 9 năm 1919

Thưa Ngài Tổng thống ,

Tôi rất vinh dự đề nghị ngài giúp đỡ để tôi có thể được nhận vào học tại Trường Thuộc địa như một học sinh nội trú .

Tôi đang làm việc cho công ty Sác-giơ Rê–uy–ni (A-mi-ran- La-tút-sơ Tơ-rê-vin ) để sinh sống. Tôi hoàn toàn không có nguồn giúp đỡ và tôi rất muốn được đi học. Tôi mong muốn có thể giúp nước Pháp trong vấn đề có liên quan tới đồng bào tôi đồng thời có thể tạo thuận lợi cho đồng bào tôi thông qua việc truyền đạt lại kiến thức .

Tôi sinh ra tại tỉnh Nghệ An , Trung Kỳ. Tôi hy vọng ngài ủng hộ đề nghị của tôi . Tôi xin gửi tới ngài Tổng thống lời cảm ơn trân trọng nhất .

Nguyễn Tất Thành

Sinh tại Vinh, 1892

Con trai Nguyễn Sinh Huy ( tiến sỹ văn chương )

Sinh viên Tiếng Pháp và Trung Quốc

Trường thuộc địa được thành lập vào năm 1885 để đào tạo các công chức của chính phủ tại các vùng thuộc địa của Pháp, trường có “một khoa bản xứ” dạy các vấn đề liên quan đến thuộc địa với khoảng hai mươi học bổng dành cho các sinh viên từ vùng Đông Dương thuộc pháp. Một số học giả băn khoăn không hiểu tại sao một người trẻ tuổi như Nguyễn Tất Thành là người kịch liệt phản đối sự thống trị của người Pháp trên đất nước minh lại muốn học tại trường thuộc địa để phục vụ nước pháp, họ đã phỏng đoán rằng có thể Thành đã có ý định đổi lòng yêu nước lấy sự nghiệp trong bộ máy chính quyền Pháp. Tuy nhiên, nhìn và việc học trước đây của Thành tại trường Quốc Học Huế thì hành động của Thành không có gì là ngạc nhiên. Mặc dù thái độ thù nghịch của thành đối với chính quyền thuộc địa Pháp ở Đông Dương dường như là rất rõ ràng, Thành vẫn chưa quyết định cụ thể phải đi bằng con đường nào để giải phóng đất nước. Theo thành kể lại, Thành rất muốn tiếp tục học để nâng cao hiểu biết về tình hình thực tế. Theo một bức thư viết vào năm 1911, Thành đã nói với người chị rằng Thành hy vọng tiếp tục được học ở Pháp và trở về Đông Dương trong vòng năm hoặc sáu năm. Hơn nữa , như trong bức thư Thành gửi cho tổng thống pháp đã nêu rõ mục tiêu cuối cùng của Thành là trở thành người có ích cho đất nước. Có lẽ là, và không phải là lần cuối, Thành che giấu ý định thật sự của mình để đạt đươc mục đích cuối cùng.

Từ Mác xây, Thành trở lại Sài Gòn trên con tàu A-mi-ran La-tút-sơ Tơ-rê-vin. Thành đã rời tàu khi tàu tới nơi vào giữa tháng mười và cố liên hệ với cha. Sắc vẫn chưa tìm được công việc ổn định từ khi bị triều đình cách chức và có thể bị bắt trong một lần vì say rượu. Sau khi làm việc trong một thời gian dài tại đồn điền cao-su ở Thủ Dầu Một, gần biên giới Cam-pu-chia, ông Sắc bắt đầu bán thuốc bắc trên khắp Nam kỳ. Mặc dù có thể ông Sắc sống ở đâu đó trong vùng phụ cận Sài Gòn khi con trai tới, không có dấu hiệu nào chứng tỏ cả hai cha con biết nhau ai đang ở đâu. Ngày 31 tháng mười năm 1911, Thành viết thư gửi toàn quyền Pháp ở Trung Kỳ giải thích rằng Thành và cha bị ly tán vì cảnh bần cùng trong hơn hai năm và gửi kèm theo mười lăm đồng cho cha . Thành đã không nhận được thư trả lời .

Từ Sài Gòn , Thành quay trở lại Mác-xây, tại đó Thành được biết đơn xin học của mình tại Trường Thuộc địa đã bị từ chối. Đơn xin học đã được gửi tới giám hiệu nhà trường và họ trả lời rằng chỉ các thí sinh được toàn quyền Đông Dương giới thiệu mới được nhận vào học , một quy định rõ ràng đã loại Thành khỏi việc được xét đơn . Sau đó , Thành quyết định trở lại tàu cho tới khi tàu rời đi xưởng sửa chữa tại Lơ Ha-vrơ. Hầu hết các thuỷ thủ nhận làm việc trên một con tàu khác và trở lại Đông Dương ; Thành đã trở lại Lơ Ha-vrơ và nhận làm vườn tại nhà một chủ tàu ở Xanh A-đrét–xơ , một bãi biển nghỉ mát (sau này được Cơ-Lốt Mô-nê, hoạ sĩ người Pháp, theo trường phái ấn tượng vẽ lại trên vải ) chỉ cách thành phố vài dặm về phía tây. Trong lúc rảnh rỗi , Thành đọc các tạp chí trong tủ sách và học tiếng Pháp với con gái của người chủ tàu . Thỉnh thoảng Thành vào thành phố nói chuyện với những người Việt Nam . Có thể Thành đã tới Pa-ri gặp Phan Châu Trinh . Theo một số tài liệu , cha của Thành đã đưa cho Thành thư giới thiệu gửi người bạn cùng đỗ phó bảng trước khi Thành rời Việt Nam . Sau khi được trả tự do ở nhà tù Đông Dương , ông Trinh đã tới Pa -ri vào khoảng mùa xuân năm 1911. Nếu họ gặp nhau , hẳn họ đã trao đổi về những tin vui từ Trung Quốc . Những người cách mạng Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Tôn Dật Tiên đã lật đổ triều đình nhà Thanh và thành lập một nền cộng hoà kiểu phương Tây .

Thành sống rất vui vẻ với gia đình nhà chủ , và gia đình nhà chủ đã giúp Thành trở lại làm việc cho công ty Sác-giơ Rê-uy-ni trên một con tàu tới châu Phi . Mặc dù một người bạn đã nói với Thành rằng châu Phi nóng hơn nhiều so với Việt Nam , Thành vẫn thích đi đó đây (“ Tôi muốn được nhìn thấy thế giới” – Thành đáp lại ) và vẫn quyết định đi . Vài tháng sau , Thành đã tới nhiều nước châu Phi và châu Á , trong đó có An-giê-ri, Tuy-ni-di, Ma-rốc, Ấn Độ , Đông Dương, Ả – rập Xê-út , Xê-nê-gan, Xu-đăng, Đa-hô-mây và Ma-đa-ga-xca.

Thành rất thích thú khi thấy và học hỏi thêm nhiều điều khi tàu cập bến. Thành đã kể lại trong hồi ký của mình :

“Ba quan sát tất cả những gì xung quanh . Mỗi khí con tàu cập bến , Ba tranh thủ tham quan thành phố . Khi trở lại tàu , trong khi túi Ba toàn những bức ảnh và những bao diêm bởi vì Ba rất thích sưu tập những thứ đó “.

Thành thường nhớ lại hình ảnh ghê rợn chế độ thuộc địa. Tại Đắc–ca, Thành đã nhìn thấy những người châu Phi bị chết đuối khi người Pháp ra lệnh cho họ bơi ra những con tàu trong bão. Sau này Thành viết :

“ Người Pháp ở Pháp là người tốt. Nhưng những tên thuộc địa Pháp rất dã man và vô nhân đạo. Ở đâu cũng vậy. Ở trong nước tôi đã chứng kiến điều này ở Phan Rang. Người Pháp phá lên cười trong khi đồng bào tôi bị chết đuối vì họ. Đối với những tên thuộc địa Pháp, cuộc sống của một người châu Á hay châu Phi không đáng giá một xu“.

Trong những năm tháng lênh đênh trên biển, Thành đã tới một số bến cảng vùng Tây bán cầu. Nhiều năm sau, Thành nói với một người quen là người Cu ba rằng Thành đã tới Ri-ô đơ Gia–nê–rô và Bu-ê-nốt Ai–rét. Đôi khi tàu của Thành dừng lại ở các thành phố cảng dọc bờ biển phía Đông Hoa Kỳ trong đó có thành phố Nữu Ước, nơi Thành đã quyết định rời tàu đi tìm việc làm. Sau đó Thành đã trở lại Hoa Kỳ một vài tháng.

Hồ Chí Minh ở Hoa Kỳ vẫn là một trong những thời kỳ bí ẩn và khó hiểu nhất trong toàn bộ cuộc đời ông. Theo ông kể lại với những người quen, ông đã ở một thời gian tại Nữu Ước, ông sửng sốt nhìn những ngôi nhà chọc trời ở khu Man-hát-tan. Đi dạo với bạn bè ở khu vực Trung Hoa đã gây cho ông một ấn tượng là những người nhập cư châu Á ở Hoa Kỳ dường như có đủ các quyền lợi pháp lý theo luật pháp nếu như không phải là trên thực tế. Ông đã lao động (ông giải thích là để kiếm tiền, với đồng lương bốn mươi đô-la một tháng) và làm một người giúp việc cho một gia đình giàu có nhưng vẫn có thời gian dự các cuộc họp của những người hoạt động xã hội là người da đen như tổ chức Vì sự tiến bộ chung cho người da đen ở Hác-Lem, một tổ chức được thành lập dưới sự tài trợ của một người theo chủ nghĩa dân tộc da đen sinh ra ở Gia-mai-ca là Mác-cốt Ga-vi. Nhiều năm sau Thành đã nói với một đoàn các nhà hoạt động vì hoà bình tới thăm Hà Nội vào lúc cuộc chiến tranh ở Việt Nam ác liệt nhất rằng ông rất xúc động bởi nỗi thống khổ của người da đen trên toàn thế giới và những đóng góp rất nhiều cho phong trào của họ“. Khi được một đại biểu trong đoàn hỏi tại sao ông đã tới Nữu Ước, ông trả lời rằng lúc đó ông nghĩ rằng Hoa Kỳ phản đối chủ nghĩa đế quốc phương tây và có thể sẵn sàng giúp đỡ nhân dân Việt Nam lật đổ chế độ thuộc địa của Pháp . Nhưng cuối cùng ông đã kết luận rằng ở đó không hề có sự giúp đỡ nào .

Trong những năm sau , Hồ Chí Minh thường nói rằng ông cũng đã từng sống ở Bô-xtơn, nơi ông làm đầu bếp trong một thời gian ngắn tại khách sạn Pác-cơ Hau-sơ, và đã tới một số bang ở miền nam trong một chuyến đi ngắn, tại đó ông đã chứng kiến đảng 3K hành hình người da đen. Sống ở Mát–xcơ-va trong những năm 20, ông đã viết một bài báo kể lại những sự việc đó với những chi tiết sinh động. Thật không may, không một chi tiết nào về chuyến đi của ông tới Hoa Kỳ có thể chứng thực. Hầu như chỉ có một bằng chứng duy nhất không thể chối cãi khẳng định ông đã có mặt tại nước Mỹ là hai bức thư ông đã giử đi. Bức thư thứ nhất, được ký tên Pôn Tất Thành giử toàn quyền Pháp tại Trung Kỳ ngày 15 tháng 12 năm 1912 với dấu bưu điện của thành phố Nữu Ước. Bức thư thứ hai là một tấm bưu thiếp từ Bô-xtơn gửi cho Phan Châu Trinh ở Pháp; bức thư có nói rằng đang làm phụ bếp trong khách sạn Pác-cơ Hau-sơ.

Rất có thể Thành rời Hoa Kỳ năm 1913. Thành công nhận, thời gian Thành ở Hoa Kỳ ảnh hưởng rất ít đến thế giới quan của Thành khi ông nói với nhà báo người Mỹ An-na Lu-i-dơ Xtrong rằng trong khi ông ở Hoa Kỳ ông chẳng biết gì về chính trị. Sau một lần dừng chân khác ở Lơ Ha–vrơ, Thành đã tới nước Anh để học tiếng Anh. Trong một bức thư ngắn gửi cho Phan Châu Trinh ở Pháp, Thành đã kể rằng trong bốn tháng rưỡi vừa qua Thành đã ở Luân Đôn học tiếng Anh và giao lưu với những người nước ngoài. Trong vòng bốn hoặc năm tháng nữa, Thành viết “Cháu hy vọng được gặp lại chú”. Bức thư không đề ngày, tuy nhiên bức thư đó phải được viết trước khi nổ ra cuộc chiến tranh vào tháng tám năm 1941 vì trong thư Thành hỏi ông Trinh dự định nghỉ hè ở đâu.

Trong bức thư thứ hai, Thành nhận xét về xuất phát điểm của sự kiện sau này là Chiến tranh thế giới thứ nhất. Thành nói rằng bất kỳ nước nào cố gắng can thiệp vào vấn đề này thì sẽ bị kéo vào cuộc chiến tranh và kết luận: “Cháu cho rằng trong vòng ba hoặc bốn tháng nữa, tình hình châu Á sẽ thay đổi, và sẽ thay đổi rất mạnh. Tình hình sẽ tồi tệ hơn đối với những người phải chiến đấu và tập hợp lực lượng. Chúng ta chỉ có một cách là đứng sang một bên”. Có thể Thành đã lường trước được rằng cuộc chiến sẽ dẫn tới sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa Pháp.

Trong bức thư gửi Phan Châu Trinh, Thành cũng đã nói rằng Thành cũng phải làm việc cơ cực để khỏi bị đói. Việc làm đầu tiên của Thành là dọn tuyết ở một trường học, sau này trong cuốn tự thuật Thành đã viết “một công việc thật nặng nhọc”. “Người tôi đầy mồ hôi trong khi chân và tay thì lạnh cóng. Rất khó để có thể đập vỡ đóng tuyết đống băng vì rất trơn. Sau tám giờ làm việc tôi gần như kiệt sức và đói”. Thành nhanh chóng từ bỏ công việc này để làm một người đun lò hơi. Tuy nhiên, công việc này còn tồi tệ hơn:

“Từ năm giờ sáng, tôi và một người bạn khác phải xuống tầng hầm để nhóm lửa. Suốt cả ngày chúng tôi phải cho than vào lò. Thật là khủng khiếp. Tôi không bao giờ biết những người ở tầng trên đang làm gì vì tôi chưa bao giờ lên trên đó cả. Người cùng làm việc với tôi là người ít nói, có lẽ anh ta bị câm. Cả ngày làm việc anh ta không nói một câu. Anh ta hút thuốc trong khi làm việc. Mỗi khi anh ta cần tôi giúp anh ta chỉ ra hiệu chứ không nói. Dưới hầm rất nóng còn bên ngoài thì rất lạnh. Tôi không có đủ quần áo nên đã bị cảm lạnh”.

Cuối cùng thì Thành đã tìm được việc làm trong nhà bếp của khách sạn Dơ-ray-tàn Cót ở trung tâm Luân Đôn. Sau đó Thành chuyển sang khách sạn Các-tơn và làm việc cho đầu bếp nổi tiếng Ô-guýt-xtơ Ét-cóp-phi-ê. Nếu như trong cuốn tự thuật của Hồ Chí Minh là chính xác thì Thành thật sự đã là một đầu bếp:

“Mỗi chúng tôi đều phải thay nhau dọn dẹp. Những người bồi bàn sau khi phục vụ khách phải dọn dẹp tất cả bát đĩa và chuyển xuống bếp qua một cái thang máy. Sau đó công việc của chúng tôi là tách riêng đồ sứ và đồ bạc để rửa. Khi tới phiên của Ba, anh ta rất cẩn thận. Thay vì đổ đi tất cả đồ ăn thừa, thường là một phần tư con gà hoặc một miếng thịt lớn, v.v. , Ba giữ chúng sạch sẽ và chuyển lại vào bếp. Nhận thấy điều này đầu bếp ét-cóp-phi-ê đã hỏi Ba : “Tại sao anh không đổ thức ăn thừa vào sọt rác như những người khác ?”.

“Không nên đổ thức ăn đó đi. Ông có thể mang cho những người nghèo”.

“Anh bạn trẻ thân mến, hãy nghe tôi”. Đầu bếp ét-cóp-phi-ê hình như rất vui mỉm cười và nói: “ Hãy dẹp những ý tưởng cách mạng của anh sang một bên và tôi sẽ dậy anh nghệ thuật nấu ăn, nó sẽ mang lại cho anh rất nhiều tiền. Anh có đồng ý không ?”.

Đầu bếp ét-cóp-phi-ê đã không tiếp tục để cho Ba rửa bát đĩa và cho Ba làm việc tại bộ phận làm bánh với mức lương cao hơn.

Đây quả là một sự kiện lớn trong nhà bếp vì đó là lần đầu tiên một vị vua bếp”làm một việc như vậy.

Trong lúc rảnh rỗi Thành đã dùng số tiền ít ỏi của mình để học tếng Anh với một thầy giáo người Ý, như Thành kể lại, thường ngồi “trong hai Pác-cơ với quyển sách và một cái bút chì trên tay”. Thành cũng đã trở thành người hoạt động trong các tổ chức chính trị, rất nhiều tài liệu cho thấy Thành đã tham gia các hoạt động công đoàn và trở thành thành viên của Hiệp hội công nhân hải ngoại, một tổ chức bí mật bao gồm chủ yếu những người lao động Trung Quốc ở nước ngoài mong muốn cải thiện điều kiện trong các nhà máy ở Anh. Thành đã tự tuyên bố là đã tham gia những cuộc biểu tình trên đường phố ủng hộ nền độc lập của Ai-len cũng như những sự nghiệp khác của phe phái cánh tả. Có thể trong thời gian này, lần đầu tiên Thành được biết đến các tác phẩm của Các Mác, nhà cách mạng người Đức.

Cao hơn sự nghiệp trên, Thành còn canh cánh nỗi thống khổ của đất nước. Trong bài thơ ngắn đề trên tấm bưu thiếp gửi cho ông Trinh, Thành viết:

“Trước trời trước biển

Với ý chí của một anh hùng

Phải tranh đấu cho đồng bào mình”.

Nhưng Thành đâu hay, những bức thư của ông gửi cho ông Trinh đã rơi vào tay nhà cầm quyền Pháp. Cuối mùa hè năm 1941, ông Trinh và người đồng sự thân tín của mình, luật sư Phan Văn Trường đã bị chính quyền pháp bắt giữ do bị nghi ngờ là đã tiếp xúc với các điệp viên Đức. Tuy sau đó họ được trả tự do vì thiếu chứng cớ, cảnh sát pháp đã lục lọi căn phòng của họ ở Pa-ri và phát hiện ra các bức thư của một người Việt Nam tên là Nguyễn Tất Thành ngụ tại số 8 đường XTê-phan, đường Tốt-tin-ham Cót, Luân Đôn. Trong khi điều tra cảnh sát còn phát hiện thấy trong một bức thư gửi cho ông Trinh (hiện không còn nữa), Tất Thành đã phàn nàn về điều kiện ở Đông Dương và hứa rằng trong tương lai sẽ tìm cách tiếp tục công việc của Trinh. Theo yêu cầu của Đại sứ quán Pháp tại Luân Đôn, cảnh sát Anh tiếp tục tìm kiếm nhưng không tìm đươc ai có tên như vậy ở địa chỉ trên. Họ đã tìm thấy hai anh em, tên là Tất Thành và Thành, tại một địa chỉ khác. Những người này lại là sinh viên cơ khí và vừa rời đi học ở Bét-phót, và đương nhiên họ không tham gia các hoạt động chính trị .

Những năm tháng trong thời chiến ở Vương Quốc Anh là thời kỳ ít có tư liệu nhất về cuộc đời của Thành. Những tư liệu về các hoạt động của Thành chủ yếu dựa trên những cuốn tự thuật của Thành những năm sau này. Một số nhà sử học không tin rằng Thành đã hư cấu ra chuyện này nhằm tăng lòng tin của mọi người vào một nhà cách mạng có nguồn gốc từ giai cấp lao động . Điều này rất có thể không đúng vì Thành thường không mấy khi che giấu về bản thân gia đình mình, là con của một nho sĩ. Mặc dù thực tế cho thấy không thể chứng kiến được những giai thoại trong thời kỳ này, có những bằng chứng rõ ràng cho thấy Thành đã sống tại Luân Đôn mặc dù thực chất những hoạt động của Thành tại đó như thế nào thì vẫn còn là điều bí ẩn.

Việc xác định ngày Thành quay lại Pháp cũng là một số vấn đề gây tranh cãi. Chính quyền Pháp không hề biết việc Thành có mặt ở Pháp cho tới tận mùa hè năm 1919 khi Thành tham gia một sự kiện đã làm cho Thành trở thành một người nổi tiếng nhất trên đất Pháp. Trong tự thuật của mình , Hồ Chí Minh viết ông đã quay trở lại Pháp trong lúc chiến tranh. Một số người quen của ông ở Pa-ri cho rằng Thành đã quay trở lại Pháp vào năm 1917 hoặc 1918 và một mật vụ cảnh sát theo dõi Thành vào năm 1919 lại báo cáo rằng Thành đã đến Pháp từ lâu. Hầu hết các tài liệu lại cho rằng thời điểm đó là vào tháng 12 năm 1917.

Đông cơ quay trở lại Pháp của Thành không rõ ràng mặc dù sự thay đổi này là lô-gích, xét trên khía cạnh mục tiêu dân tộc ông đã đề ra. Trong thời gian chiến tranh hàng ngàn người Việt Nam buộc phải làm việc trong các công xưởng của Pháp để thay thế cho các công nhân Pháp tham gia quân đội. Từ khoảng dưới 100 người năm 1911 con số người Việt Nam sống tại Pháp đã tăng rất nhanh trong thời chiến. Đối với một người yêu nước quyết tâm giải phóng đất nước mình thì Pháp là nơi thích hợp để hoạt động và tuyển mộ những người cùng chí hướng. Thành coi ông Phan Châu Trinh và đồng sự của ông Trinh là ông Phan Văn Trường là địa chỉ liên lạc để qua đó thâm nhập vào thế giới của những người nhập cư hoạt động chính trị Việt Nam ở Pa-ri. Do nổi tiếng khi viết thư cho Pôn Be năm 1906, Trinh được công nhận là người lãnh đạo cộng đồng người nhập cư tại Pháp. Sau khi bị bắt do bị nghi ngờ là mưu phản khi cuộc chiến bắt đầu, Trinh đã rất thận trọng mặc dù đã có lời đồi đại cho rằng Trinh vẫn hoạt động tích cực trong phong trào Việt Nam độc lập .

Sau khi đến Pháp, Thành lập tức tham gia vận động công nhân Việt Nam. Bạo loạn chính trị đã xảy ra do chiến tranh tàn bạo kéo dài; năm 1917, binh biến đã xảy ra trong quân đội Pháp, và các phần tử cấp tiến đã bắt đầu các chiến dịch chống chiến tranh và tổ chức các công đoàn trên khắp cả nước. Công nhân các nhà máy và các xưởng đóng tàu tại các nước thuộc địa do lương thấp và điều kiện sống tồi tệ đã hưởng ứng sự vận động đó. Một chiến sĩ trẻ Việt Nam với nhiệt huyết chống thực dân đã đóng một vai trò rất hữu ích trong các hoạt động đó.

Thành bắt đầu tham gia các hoạt động đó như thế nào vẫn còn chưa rõ. Có thể là Thành đã trở lại Pa-ri với tư cách là đại biểu Hiệp Hội Công nhân hải ngoại để thiết lập liên lạc với các nhóm công nhân tại Pháp. Trong trường hợp này, có thể Thành đi đi về về giữa hai nước một số lần. Hoặc có thể đơn giản là Thành đã thiết lập được mối quan hệ độc lập với một số nhân vật lãnh đạo cánh tả ở Pa-ri là những người đã tận dụng lòng nhiệt tình của Thành để hỗ trợ các hoạt động của họ .

Bô-rít Xu-va-rin, hồi đó là một nhà hoạt động xã hội cấp tiến ở Pa-ri sau này là nhà viết sử có tiếng, kể lại rằng ông đã gặp Thành lần đầu tiên ngay sau khi Thành tới Luân Đôn và cho rằng đó là vào năm 1917. Thành đã tìm được một chỗ tạm trú trong một khách sạn bẩn thỉu trong một ngõ cụt ở khu Mông-mác-tơ-rô và bắt đầu tham dự các cuộc họp của một chi bộ địa phương của Đảng Xã hội Pháp; chính tại đó Thành đã gặp Xu-va-rin là người đã giới thiệu thành với Lê-ô Pôn-đét, người sáng lập ra nhóm có tiếng nói là câu lac bộ Phô-bua. Thành bắt đầu có mặt trong các cuộc họp thường niên hằng tuần của câu lạc bộ bàn về nhiều vấn đề khác nhau từ các vấn đề chính trị cấp tiến cho tới tâm lý học và những điều huyền bí. Các cuộc họp này diễn ra tại nhiều phòng họp khác nhau ở Pa-ri. Thành lúc đó rất bẽn lẽn (Xu-va-rin kể lại rằng Thành là “một người đàn ông trẻ rụt rè , khiêm tốn, rất nhã nhặn, ham học hỏi”) đến nỗi những người tham dự cuộc họp gán cho Thành một cái tên “Người câm của Mông-mac-tơ-rơ.”

Tuy nhiên, cuối cùng Pôn-đét đã khuyến khích Thành nói trước đám đông để xua tan sự rụt rè. Lần đầu tiên, Thành đã rất lo lắng nên đã nói lắp. Mặc dù chỉ có ít người hiểu được những gì Thành nói, họ đã rất thông cảm với chủ đề của Thành. Khi Thành phát biểu song, mọi người đã vỗ tay nhiệt liệt. Sau đó Thành đã được mời phát biểu tiếp.

Thông tin của Xu-va-rin trùng hợp với thông tin của Lê-ô Pôn-đét là người đã nói với tác giả người Mỹ Xten- lây Các-nâu rằng ông đã gặp Thành lần đầu tiên tại một cuộc họp của câu lạc bộ Phô-bua. Tại đó ông nhớ lại “anh biết kkông có một dáng dấp của danh hài Sác-lơ phảng phất quanh anh ta vừa buồn vừa khôi hài”. Pôn-đet có ấn tượng về đôi mắt sáng và sự khao khát hiểu biết những điều xung quanh của Thành. Thành đã vượt qua sự ngại ngùng của mình và tham gia tích cực vào các cuộc bàn luận trong các cuộc họp hàng tuần của câu lạc bộ. Một lần Thành đã chỉ trích quan điểm của một người ủng hộ thuật thôi miên, Thành cho rằng nhà cầm quyền thuộc địa Pháp thường sử dụng thuốc phiện và rượu để thôi miên những người dân ở Đông Dương. Thành bắt đầu làm quen với các nhà lãnh đạo của phong trào cấp tiến và trí thức ở Pa-ri như nhà văn thuộc đảng xã hội Pôn-Lu-i, nhà hoạt động quân sự Giắc-cơ Đô-ri-ô và nhà viết tiểu thuyêt cấp tiến Hăng-ri Bác-buyt là người có các tác phẩm mô tả sinh động điều kiện cùng cực của các binh lính ngoài mặt trận.

Lúc này , Nguyễn Tất Thành đã gần 30 tuổi. Kinh nghiệm quốc tế mới chỉ dừng ở việc dạy học, nấu ăn và một vài công việc làm thuê. Có lẽ Thành đã gặp rất nhiều khó khăn để có thể tìm được một việc làm tại Pháp vì Thành không có giấy phép lao động. Có nhiều tài liệu nói rằng Thành bán đồ ăn Việt Nam, các biển hàng sản xuất và dạy tiếng Trung Quốc và làm nến. Cuối cùng Thành đã nhận được công việc sửa ảnh (tô màu cho những bức ảnh đen trắng, lúc đó là một sự cách tân phổ biến) trong cửa hiệu do Phan Châu Trinh quản lý. Lúc rỗi Thành thường tới phòng đọc thư viện Quốc gia hoặc thư viện Sóoc-bon. Thành là một người ngốn sách và ngoài những tác phẩm của Bác-Buýt, Thành đặc biệt thích những tác phẩm của Sếch xpia, Sác-lơ Đích-ken, Vich-to Huy-gô, Ê-min Đô-la, Lê-ông Tôn-xtôi và Lỗ Tấn. Thực sự Thành sống chỉ với một chiếc va -li và thường chuyển từ một khách sạn hay một căn phòng xoàng xĩnh sang một khu khác của người lao động trong thành phố.

Pa-ri sau chiến tranh là một nơi thú vị đối với người châu Á trẻ tuổi quan tâm đến chính trị. Thủ đô của nước Pháp vẫn được coi như trung tâm chính trị và văn hóa của thế giới Phương Tây. Nhiều trong số những nhân vật cấp tiến nổi tiếng của thế kỷ mười chín đã sống và hoạt động tại Pa-ri, sự hung tàn của cuộc chiến vừa qua đã tiếp thêm sinh lực cho những người kế thừa tư tưởng của họ tiếp tục cuộc khẩu chiến chống lại hệ thống tư bản chủ nghĩa. Dọc theo tả ngạn sông Xen, những trí thức và sinh viên Pháp và thế giới tập trung trong các quán cà phê và nhà hàng thảo luận về vấn đề chính trị và vạch kế hoạch cho các cuộc cách mạng. Một số người đó được bí mật tuyển mộ làm điệp viên cho Pháp để theo dõi các đồng nghiệp của mình và báo cáo lại bất kỳ hoạt động lật đổ nào cho cảnh sát.

Trong số các cộng đồng sống lưu vong tại Pa-ri sau chiến tranh, người Việt Nam là một trong những cộng đồng đông đảo nhất. Khi chiến tranh kết thúc có khoảng năm mươi nghìn người Việt Nam tại Pháp. Phần lớn làm việc tại các nhà máy nhưng có vài trăm người, thường là con cái các gia đình giàu có, được đi học, bởi bầu không khí chính trị hóa cao trong cộng đồng trí thức ở Pháp, những sinh viên này đã đủ độ chín muồi tham gia những cuộc vận động về chính trị. Mặc dù tinh thần dân tộc vẫn rất mạnh mẽ trong người Việt Nam sống tại Pháp, có rất ít vận động để biến tinh thần đó thành sự nghiệp đấu tranh giành độc lập. Trong chiến tranh, Pháp khẳng định rằng bổn phận của mỗi công dân của đế quốc thuộc địa rộng lớn là bảo vệ mẫu quốc, kết quả là một số phần tử hiếu chiến cho rằng họ phải đổi sự ủng hộ người Pháp ở châu Âu lấy quyền tự trị nhiều hơn hoặc thậm trí còn độc lập hoàn toàn cho Việt Nam sau chiến tranh. Nhiều người khác còn đi xa hơn nữa, thân với mật thám Đức với hy vọng là thất bại của Pháp sẽ phá bỏ bộ máy cai trị ở nước ngoài và dẫn tới việc lật đổ chính quyền thuộc địa.

Dường như người Pháp có bằng chứng cho thấy rằng Phan Châu Trinh và cộng sự của mình là Phan Văn Trường có thể đã thử cả hai khả năng. Sinh năm 1878 tại Hà Đông gần Hà Nội , ông Trường được đào tạo trở thành một luật gia. Ông sống tại Pháp từ năm 1910 và đã trở thành một công dân Pháp. Trước khi xảy ra chiến tranh, ông Trường và ông Trinh đã thành lập Hội người Việt Nam lưu vong. Ông Trinh, con người đầy ý tưởng , chưa bao giờ biểu lộ có nhiều năng lực trong tổ chức chính trị. Hội , được gọi là Hội đồng Thân ái, không được sự công nhận rộng rãi của người Việt Nam sống trong và ngoài Pa-ri và chỉ có khoảng 20 thành viên hầu như không có hoạt động gì . Tuy nhiên người ta đồn rằng , tin đồn này được cơ quan mật thám Pháp coi là thật, hai người đã suy ngẫm tổ chức một phong trào nhằm thúc đẩy một cuộc tổng nổi dậy ở Việt Nam . Chính vì vậy ngay khi chiến tranh bắt đầu , họ đã bị giam giữ trong thời gian ngắn vì bị nghi ngờ là đã tham gia các hoạt động mưu phản . Chính vì họ bị bắt nên những bức thư của Thành đã rơi vào tay của nhà cầm quyền . Sau khi được trả tự do , Trinh và Trường tránh không thách thức chính quyền thuộc địa ở Đông Đương – và phải một thập kỷ thì mới có người đưa ra được thách thức đối với chính quyền . Cho dù bởi người Pháp đã có các hành động ngăn chặn có hiệu quả hay vì thiếu năng lực mà cộng đồng người Việt Nam tại Pháp hầu như chẳng làm gì trong thời gian chiến tranh để thúc đẩy sự nghiệp dành độc lập dân tộc , trên thực tế , cộng đồng người Việt Nam đã dậm chân taị chỗ về chính trị .

Thành đã nhanh chóng làm thay đổi tình hình. Mãi đến năm 1919, mặc dù Thành đã làm quen được với một vài nhân vật quan trọng trong phong trào chống thuộc địa của Việt Nam, thành tích chính trị của Thành mới chỉ là làm phiên dịch trong thời gian ngắn cuộc biểu tình của nông dân Huế. Bề ngoài không gây ấn tượng, ăn mặc xuềnh xoàng, Thành không phải là một người được những người qua đường bình thường chú ý tới. Tuy nhiên, bạn bè của Thành nhớ lại rằng Thành có một đặc điểm thể chất chứng tỏ Thành không phải là một con người bình thường – đôi mắt đen rực sáng mỗi khi Thành nói chuyện và dường như đi sâu vào tâm hồn người nghe . Một người quen thậm chí còn nói rằng tính mãnh liệt của Thành làm cho Thành e sợ .

Mùa hè đó, được hai đồng sự lớn tuổi đồng ý, Thành đã lập một tổ chức mới của người Việt Nam sống tại Pháp; Hội những người yêu nước An Nam. Vì Thành chưa được nhiều người biết tới, ông Trinh và Phan Văn Trường trong danh sách là những người lãng đạo của tổ chức, nhưng Thành, với tư cách là thư ký, hiển nhiên là người lãnh đạo. Những thành viên ban đầu của tổ chức có thể là những người trí thức, nhưng người ta kể rằng Thành đã sử dụng những mối liên hệ của mình để chiêu mộ một số người lao động Việt Nam, trong đó có một số thủy thủ ở các cảng biển Tu-lông, Mác-xây và Lơ Ha-vrơ.

Bề ngoài, Hội không theo đuổi các mục tiêu cấp tiến. Thực ra, những người sáng lập hội đã hy vọng tránh các mục tiêu này để có thể giành được sự ủng hộ rộng lớn của cộng đồng người Việt và tránh bị nhà chức trách nghi ngờ. Việc dùng từ An Nam thay cho từ truyền thống “Việt Nam” trong tên gọi của hội có lẽ là một thông điệp gửi tới chính quyền là Hội sẽ không tạo ra một mối nguy hiểm thực sự cho chính quyền thuộc địa.

Thành lập các tổ chức như vậy khi đó là thích hợp. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Pa-ri trở thành trung tâm vận động thế giới của các nhóm chống thực dân. Các cuộc tranh luận về chủ nghĩa thực dân diễn ra thường xuyên trong Quốc hội Pháp. (Trong một bài phát biểu tại Hà Nội tháng tư năm 1918, viên toàn quyền Đông Dương giỏi hùng biện An-be Xa-rô, sau này tiếp tục giữ chức vụ này lần thứ hai trong một thời gian ngắn, đã hứa với nhân dân Việt Nam rằng họ sẽ sớm được thấy các quyền chính trị của mình được mở rộng. Vấn đề này cũng được nêu ra vào tháng giêng năm 1919 khi các nhà lãnh đạo các cường quốc Đồng minh thắng trận họp tại Điện Véc-xây để thương lượng thỏa ước hòa bình với các cường quốc trung tâm bại trận và đưa ra các nguyên tắc điều phối quan hệ quốc tế trên thế giới sau chiến tranh. Tổng thống Mỹ Út-râu Uyn-xơn đã khích lệ tinh thần các dân tộc dưới ách thuộc địa trên toàn thế giới bằng việc đưa ra tuyên bố 14 điểm nổi tiếng trong đó kêu gọi trao quyền tự quyết cho tất cả các dân tộc.

Vào đầu mùa hè, một số tổ chức của những người theo chủ nghĩa dân tộc có trụ sở tại Pa-ri đã phát hành các bản tuyên ngôn công khai cho mọi người biết mục tiêu của mình. Thành và các đồng sự trong Hội những người yêu nước An Nam đã quyết định tranh thủ thời cơ đưa ra một bản yêu sách. Với sự hỗ trợ của Phan Văn Trường, Thành đã soạn yêu cầu 8 điểm kêu gọi các nhà lãnh đạo đồng minh tại Véc-xây vận dụng ý tưởng của Tổng thống Uyn-xơn vào các vùng thuộc địa của Pháp ở Đông Nam châu Á. Với tiêu đề “Yêu sách của nhân dân An Nam”, bản yêu sách có thái độ tương đối ôn hòa; không đề cập độc lập dân tộc nhưng yêu cầu quyền độc lập chính trị cho người Việt Nam và quyền tự do dân chủ truyền thống như quyền lập hội, tự do tín ngưỡng, tự do báo chí và tự do đi lại, ân xá cho các tù nhân chính trị, bình đẳng giữa người Việt Nam và người Pháp ở Việt Nam và bãi bỏ lao dịch và các hình thức thuế đáng ghét đánh vào muối, thuốc phiện và rượu. Bản yêu sách đề ngày 18 tháng sáu năm 1919 và tác giả của bản yêu sách là Nguyễn Ái Quốc, ở 56 đường Mơ-xi-ơ Lơ Pơ-ranh-xơ dưới danh nghĩa Hội những người yêu nước An Nam. Cho dù đối với một độc giả Việt Nam, cái tên Nguyễn Ái Quốc chỉ là biệt danh có nghĩa là “Nguyễn yêu nước” thì không ai biết được con người thực của tác giả ngoài một nhóm cộng sự của ông.

Đã có nhiều tranh luận diễn ra giữa những người viết tiểu sử về Hồ Chí Minh và những người nghiên cứu lịch sử hiện đại Việt Nam về việc liệu Nguyễn Tất Thành có phải là tác giả của bản yêu sách đó không hay đó là nỗ lực chung của một số thành viên trong nhóm người Việt tại căn hộ của Phan Châu Trinh tại biệt thực Đề Gô-bơ-lanh. Nhà chức trách Pháp lúc đó rất bối rối; họ chưa bao giờ biết tới cái tên đó. Một số phỏng đoán rằng tác giả thực sự chính là Phan Văn Trường người được coi là “thế lực xấu xa” đứng đằng sau nhóm và là thành viên khôn ngoan nhất. Tuy nhiên, trong hồi ký của mình, Hồ Chí Minh đã xác nhận rằng ông chính là tác giả “bản yêu sách” mặc dù ông cũng xác nhận rằng Phan Văn Trường đã giúp ông soạn thảo yêu sách bằng tiếng Pháp để dễ hiểu.

Cho dù Thành có là tác giả bản yêu sách hay không có lẽ không quan trọng bằng việc Thành là người chịu trách nhiệm chính công bố bản yêu sách. Vài tháng sau, người ta đã xác minh được tên Nguyễn Ái Quốc, một biệt danh Thành sử dụng với niềm kiêu hãnh trong ba thập kỷ sau. Thành đã tự tay chuyển bản yêu sách tới các thành viên quan trọng trong Quốc hội và tới Tổng thống Pháp, Thành cũng đã đi dọc các hành lang trong cung điện Véc-xây để gửi bản yêu sách tới các phái đoàn của các cường quốc lớn. Để đảm bảo bản yêu sách phát huy hết tác dụng, Thành đã thu xếp xuất bản bản yêu sách trên tờ Nhân đạo, một tờ báo cấp tiến ủng hộ chủ nghĩa xã hội. Thành cũng đã gửi tiền ủng hộ của các thành viên của Tổng Liên đoàn Lao động để in thêm sáu nghìn bản và phân phát trên các đường phố Pa-ri.

Bản yêu sách đã không nhận được hồi âm chính thức từ phía nhà chức trách Pháp. Mặc dù vấn đề thuộc địa vẫn là chủ đề chính vẫn được tranh lụân tại Quốc hội và cũng đã gây ra nhiều tranh cãi trong Hội nghị hòa bình Véc-xây, và khi kết thúc hội nghị những người tham gia hội nghị đã không đưa ra được một hành động cụ thể để giải quyết vấn đề. Đại tác Hau-xơ, cố vấn cao cấp của Tổng thống Uyn-xơn trong phái đoàn Mỹ tại Véc-xây, đã trả lời ngắn gọn thư của Nguyễn Ái Quốc, thông báo đã nhận được thư và cảm ơn tác giả đã gửi thư nhân dịp thắng lợi của đồng minh. Lá thư thứ hai ngày hôm sau chỉ nói rằng thư của Nguyễn Ái Quốc có thể được trình cho Tổng thống Uyn-xơn xem xét. Từ đó không thấy phái đoàn Mỹ trao đổi lại về vấn đề này. Trên thực tế, Út-râu Uyn-xơn đã gặp phải sự chống đối quyết liệt đối với tuyên bố mười bốn điểm của mình tại Véc-xây và buộc phải nhượng bộ để đạt được một hiệp định hòa bình, một quyết định đã gây tức giận và thất vọng trên toàn thế giới thuộc địa.

Tuy nhiên, bản yêu sách đã gây hoảng sợ trong giới chức Pa-ri. ngày 23-6 Tổng thống Pháp gửi thư cho An-be Xa-rô, nay đã trở lại Pa-ri sau khi hết nhiệm kỳ làm toàn quyền Đông Dương, nói rằng ông đã nhận được bản yêu sách và yêu cầu Xa-rô nghiên cứu vấn đề và tìm hiểu về tác giả bản yêu sách. Tháng Tám năm đó, viên toàn quyền tại Bắc Kỳ đã gửi điện về Pa-ri thông báo rằng yêu sách đã được rải khắp các đường phố Hà Nội và được báo chí địa phương bình luận. Đến tháng chín, Thành đã chấm dứt những phỏng đoán về tác giả của bản yêu sách, bằng công khai nhận mình là Nguyễn Ái Quốc trong cuộc trả lời nhà báo Mỹ đóng tại Pa-ri làm việc cho một tờ báo của Trung Quốc. Tuy nhiên, Thành làm như vậy mà không tiết lộ tên thật của mình. Cũng trong thời gian đó, Thành đã làm quen với Pôn Ác-nu, một cảnh sát có nhiệm vụ theo dõi các hoạt động của người Việt Nam nhập cư ở Pa-ri. Khi dự một buổi nói chuyện của một viện sĩ người Pháp từng chỉ trích chính sách thuộc địa ở Đông Dương, Ác-nu đã nhìn thấy một người đàn ông trẻ sôi nổi đang phân phát những tờ truyền đơn. Sau vài lần nói chuyện trong một quán cà-phê gần nhà hát Ô-pê-ra, Ác-nu đã liên lạc với Bộ Thuộc địa và gợi ý An-be Xa-rô thu xếp gặp anh ta.

Ngày 6-9, Thành được Bộ Thuộc địa nằm trên đườngU-đi-nô triệu đến phỏng vấn trong khi đó mật vụ của cảnh sát bí mật hoạt động trong cộng đồng người Việt Nam lưu vong đã chụp ảnh Thành và bắt đầu dò la tin tức về thực danh của Thành.

Rất khó có thể biết được liệu Nguyễn Ái Quốc, như Thành từ đó thường xưng như vậy, đã thực sự hy vọng rằng những yêu sách về công lý và quyền tự quyết cho nhân dân Việt Nam sẽ được đáp lại, hay Nguyễn Ái Quốc chỉ dựa vào tác động của bản yêu sách để truyền bá sự nghiệp chống chủ nghĩa thực dân và cấp tiến hóa cộng đồng người Việt ở Pa-ri.

Không thể không cho rằng Nguyễn Ái Quốc lúc đầu đã hy vọng rằng bản yêu sách của mình có thể đem lại những thay đổi tích cực ở Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc lạc quan và dường như luôn tin tưởng vào những điều tốt đẹp nhất của con người kể cả kẻ thù của mình. Thái độ đó không chỉ giành cho đồng bào của Nguyễn Ái Quốc, hay thậm chí cho những người châu Á, mà còn cho cả những người châu Âu. Trong một chuyến đi ngắn tới Đức, Thuỵ Sĩ và I-ta-li-a trong khoản thời gian này, Nguyễn Ái Quốc đã nói với một người bạn rằng: “Tất cả đều là người. Mọi nơi chúng ta đều gặp những người tốt và những người xấu, thật thà và dối trá. Nếu chúng ta là người tốt chúng ta sẽ gặp được những người tốt ở khắp mọi nơi.” Nguyễn Ái Quốc tin rằng chính mối quan hệ thuộc địa đã làm mất phẩm chất và làm đồi bại bản chất con người. Tuy nhiên, rõ ràng là Nguyễn Ái Quốc đã rất thất vọng vì yêu sách của mình không được đáp lại: một thập kỷ sau Nguyễn Ái Quốc đã phàn nàn với các cộng sự của mình rằng nhiều người đã thất vọng vì “bài hát quyền tự do” của Út-râu Uyn-xơn.

Cũng có thể là như những người Việt Nam khác, Thành đã bị những lời lẽ của viên Toàn quyền An-be Xa-rô thuyết phục. Trong cuộc phỏng vấn của Thành với phóng viên Mỹ của tờ tạp chí Trung Quốc Yi Che Pao tháng chín, Thành đã phàn nàn về những điều kiện tồi tệ tại Đông Dương, nhưng thừa nhận rằng bước đi đầu tiên là đạt được quyền tự do ngôn luận giáo dục người dân và sau đó phấn đấu cho quyền tự trị và độc lập dân tộc.

Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy sự kiên nhẫn và lạc quan của Thành chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Ngày hôm sau cuộc phỏng vấn với Xa-rô, Thành đã gửi cho Xa-rô một bản sao yêu sách với thư kèm theo có nội dung:

“Như chúng ta đã trao đổi ngày hôm qua, tôi xin gửi ngài bản yêu sách. Bởi ngài đã nói với tôi rằng ngài sẵn sàng nói chuyện thẳng thắn nên tôi mạnh dạn yêu cầu ngài cho chúng tôi biết tám yêu sách của chúng tôi đã được giải quyết như thế nào… Bởi tôi cho rằng tám yêu cầu đó vẫn chưa được giải quyết, không có yêu cầu nào được giải quyết thỏa đáng.

Tôi xin gửi tới Ngài Toàn quyền lời chào trân trọng.

Nguyễn Ái Quốc.”

Vài ngày sau, hai mật vụ của cảnh sát được giao nhiệm vụ theo dõi mọi hoạt động và hoạt động chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Đến tháng mười hai Nguyễn Ái Quốc đã tạm thời được xác định là Nguyễn Tất Thành, con trai của viên quan bị cách chức Nguyễn Sinh Sắc và cũng là người đàn ông trẻ đang lẩn trốn từng bị trục xuất khỏi trường Quốc học Huế vì các hoạt động nổi loạn năm 1908.

Bất kể động cơ trong việc công bố và vận động thực hiện yêu sách là gì, Nguyễn Ái Quốc đã làm mọi người biết đến sự nghiệp phấn đấu cho quyền tự quyết của người Việt Nam. Tin tức về yêu sách đã nhanh chóng lan rộng trong cộng đồng người Việt Nam ở Pháp và đã tác động mạnh đến đồng bào của Nguyễn Ái Quốc. Những người yêu nước cao tuổi rất ngạc nhiên vì sự táo bạo của người thợ sửa ảnh trẻ tuổi. Những người trẻ hơn thì biểu lộ thái độ nhiệt tình hăng hái trong sự nghiệp đấu tranh. Những người thận trọng hơn thì cho rằng Nguyễn Ái Quốc là một “người ngôn cuồng” và bắt đầu lảng tránh Nguyễn Ái Quốc. Họ rỉ tai nhau, anh có thể trông cậy gì vào một con trâu ương ngạnh Nghệ An?

Nản chí về những yêu sách đòi độc lập dân tộc đã khiến rất nhiều trì thức yêu nước ở các nước thuộc địa ở châu Á và châu Phi theo đuổi chính trị cấp tiến. Dù rất có thể là Hồ Chí Minh cũng không phải là một ngoại lệ, trong trường hợp của ông rõ ràng là ông đã quan tâm tới chính trị xã hội chủ nghĩa trước khi soạn thảo yêu sách. Việc ông tham gia vào các hoạt động công đoàn khi sống ở Anh có thể đã tạo cho ông những mối liên hệ giúp ông trở thành người hoạt động tích cực trong các tổ chức tương tự ngay sau khi ông đến Pháp. Mi-sen Dếch-chi-ni, lúc đó là đảng viên Đảng Xã hội Pháp đã gặp Nguyễn Tất Thành vào cuối Chiến tranh thế giới thứ nhất và nhận thấy rằng Thành đã quen biết với những nhân vật có ảnh hưởng lớn của Đảng Xã hội Pháp như Mác-xen Ca-sanh, Pôn-Vai-ăng Cu-tuy-ri-ê, Lê-ông Blum, Ê-đu-a Ê-ri-ô, Hăng-ri Bác-buýt và Giăng Lông-ghê, cháu nội của Các Mác. Qua các đầu mối của Đảng Xã hội Pháp, cuối cùng Thành đã có được các giấy tờ tùy thân và giấu phép lao động. Tuy nhiên, theo Dếch Chi-ni thì Thành chưa được công nhận là đảng viên chính thức của Đảng Xã hội Pháp cho tới khi Thành chứng tỏ mình là Nguyễn Ái Quốc vào tháng sáu năm 1919. Là tác giả của bản yêu sách nổi tiếng, Đồng chí Nguyễn (hay ông Nguyễn như người ta đôi khi gọi) rất được mọi người kính trọng.

Hồ Chí Minh có lẽ được những người theo chủ nghĩa xã hội chú ý tới vì, theo ông, họ “thông cảm với tôi, với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức”. Đồng thời, khuynh hướng tư tưởng của ông thiên về chủ nghĩa xã hội có thể được nhìn nhận như kết quả tất yếu của việc ông căm ghét chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc. Như những người châu Á khác, kinh nghiệm đầu tiên của ông với hệ thống tư bản chủ nghĩa là kết quả của sự bóc lột của bọn thực dân trên đất nước ông đã gây ra những hậu quả tàn khốc đối với cuộc sống của nhiều đồng bào ông. Quan điểm đó càng được củng cố trong những năm tháng ông lênh đênh trên biển, từ hải cảng này đến hải cảng khác trên khắp thế giới thuộc địa, và có lẽ trong cả thời gian sống ở Anh và Hoa Kỳ. Nhiều năm sau đó ông thường chỉ trích bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản Mỹ, mặc dù đôi khi ông biểu lộ sự thán phục đối với tính năng động và khả năng của người Mỹ. Có thể là, giống như những người theo chủ nghĩa Dân tộc châu Á khác, sự quan tâm ban đầu của ông tới chủ nghĩa xã hội là kết quả của việc phát hiện ra sự đối nghịch giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.

Tuy nhiên, khuynh hướng của những người theo chủ nghĩa Dân tộc châu Á thiên về chủ nghĩa xã hội không thể hoàn toàn quy về một động cơ cá nhân. Đối với nhiều trí thức châu Á, những nguyên tắc xử thế của những người theo chủ nghĩa xã hội phương Tây phù hợp với những quan điểm họ thừa hưởng hơn là của những người theo chủ nghĩa cá nhân với nguyên tắc xử thế dựa trên lợi nhuận của chủ nghĩa tư bản phương Tây. Và không ở đâu điều này được thể hiện rõ như trong xã hội Nho giáo Trung Quốc và Việt Nam. Người Trung Quốc và Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc xuất thân từ những gia đình Nho giáo thường nhìn thấy cảnh hào nhoáng của những thành phố thương mại mới hơn là cảnh không hợp gu. Theo cách suy nghĩ của những người Nho giáo, nền công nghiệp phương Tây dễ dàng sinh ra thói tham lam và tự phụ. Trong khi đó, chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh nỗ lực cộng đồng, lối sống giản đơn, đồng đều về của cải và cơ hội, tất cả những điều này có tác động mạnh tới đời sống Nho giáo. Trong bối cảnh đó, sự chuyển đổi về mặt triết học từ Khổng Tử sáng Mác dễ hơn nhiều sang A-đam Xmít và Giôn Xtiu-uất Min là những người luôn coi trọng chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cá nhân không quen thuộc với người châu Á.

Năm 1920, ông Nguyễn bắt đầu thường xuyên tham dự các cuộc họp của Đảng Xã hội Pháp và của Tổng Liên đoàn Lao động cũng như của Liên đoàn Nhân quyền (một tổ chức không khác Hội Quyền Tự do Dân sự Mỹ), và đóng một vai trò tích cực hơn trong các cuộc tranh luận chính trị. Tuy nhiên, có nhiều dấu hiệu cho thấy ông đã bắt đầu nhận ra thái độ của các đồng sự rất đáng giận. Đối với Nguyễn Ái Quốc, vấn đề cốt lõi của thời đại là các dân tộc thuộc địa bị chủ nghĩa đế quốc phương Tây bóc lột. Ông phát hiện ra rằng đối với hầu hết những người quen Pháp của ông, chủ nghĩa thực dân chỉ là một mặt của một vấn đề lớn hơn – vấn đề chủ nghĩa tư bản thế giới. Mác có thiên hướng lấy châu Âu làm trung tâm và hầu hết những người theo Mác ở châu Âu đã đi theo hướng của ông. Sau cùng, thuộc địa đã đem lại sự giàu có cho nước Pháp và công việc cho công nhân Pháp. Chính vì vậy, ông Nguyễn nhận được rất ít sự hưởng ứng khi nêu ra các vấn đề thuộc địa tại các cuộc họp chính trị. Điều này dẫn tới việc trong cơn thất vọng ông đã to tiếng với một đồng sự “Nếu như anh không tố cáo chủ nghĩa thực dân, nếu như anh không đứng về phía các dân tộc thuộc địa, làm sao anh có thể làm cách mạng được?”

Chia rẽ nghiêm trọng đã xảy ra trong hàng ngũ phong trào chủ nghĩa xã hội giữa những người lãnh đạo ôn hòa như Giăng Lông-ghê và Lê-ông Blom và những người cứng rắn hơn như Mác-xen Ca-sanh và Pôn Vai-ăng Cu-tuy-ri-ê là những người dường như có những cái nhìn cấp tiến hơn về tương lai xã hội loài người. Nguyễn Ái Quốc đứng về phía những người cấp tiến. Một trong những vấn đề mà hai phe có quan điểm khác nhau là cuộc cách mạng Bô-sê-vích. Một nhóm những người chủ trương hành động trong đảng bắt đầu hợp nhất lại ủng hộ một số sáng kiến quan trọng: phản đối dàn xếp hòa bình Véc-xây; thành lập phong trào chủ nghĩa xã hội quốc tế mới tiến bộ hơn (năm 1889, Quốc tế thứ nhất của Mác được thay thế bằng Quốc tế thứ hai ôn hòa hơn nhằm tiến tới chủ nghĩa xã hội thông qua con đường nghị viện), thông cảm với các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa và tích cực ủng hộ cách mạng Bôn-sê-vích. Cuối năm 1919, Đảng Xã hội Pháp đã thành lập một ủy ban ủng hộ Quốc tế thứ Ba mới của Lê-nin có lập trường nghiêng về việc cần phải tiến hành bạo động cách mạng và thành lập chuyên chính vô sản. Nguyễn Ái Quốc đã đóng một vai trò tích cực trong các hoạt động đó và thường tham dự các cuộc họp nhằm quyên góp tiền bảo vệ cách mạng Xô-Viết trước kẻ thù tư bản.

Nguyễn Ái Quốc vẫn còn thiếu kinh nghiệm về chính trị cấp tiến thế giới. Một số đồng sự của ông trong những năm đầu đó sau này kể lại rằng vào lúc Nguyễn Ái Quốc hầu như không biết gì về lý thuyết hay về sự khác biệt giữa Quốc tế thứ hai và Quốc tế thứ ba. Một lần Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu Giăng Lông-ghê giải thích về chủ nghĩa Mác-xít. Lông-ghê lưỡng lự và nói rằng câu hỏi quá phức tạp và gợi ý Nguyễn Ái Quốc đọc bộ Tư bản của Mác. Sau đó Nguyễn Ái Quốc đã tới một thư viện gần Quảng trường I-ta-li để mượn tác phẩm đồ sộ đó để đọc cùng với một số tác phẩm Mác-xít khác. Sau này trong cuốn tự thuật của mình ông kể lại rằng ông đã dùng cuốn Tư bản làm gối.

Tuy nhiên, chính tác phẩm nổi tiếng của Lê-nin “Luận cương về các vấn đề Dân tộc và Thuộc địa” gửi cho Đại hội Quốc tế Cộng sản II mùa hè năm 1920 đã khiến cho Nguyễn Ái Quốc từ một người yêu nước đơn thuần đến với thiên hướng xã hội chủ nghĩa trở thành một người cách mạng Mác-xít. Trong một bài báo viết cho một nhà xuất bản Liên-Xô năm 1960, Nguyễn Ái Quốc đã xác nhận rằng trong các cuộc tranh luận giữa những người ủng hộ Quốc tế thứ hai và thứ ba trong Đảng Xã hội Pháp ông đã “không thể hiểu được hết” diễn biến của các cuộc tranh luận. Sau này, vào giữa tháng bảy năm 1920, một người đã đưa cho ông bản “luận cương” của Lê-nin trên báo Nhân đạo. Ông kể lại việc này một cách sôi nổi:

“Luận cương có những thuật ngữ chính trị rất khó hiểu Tuy nhiên, khi đọc đi đọc lại cuối cùng tôi đã hiểu được ý chính của bản luận cương. Sự xúc động, nhiệt huyết, tầm nhìn rộng và niềm tin của bản luận cương đã thấm đẫm trong tôi. Tôi mừng phát khóc. Mặc dù ngồi một mình trong phòng tôi đã nói to như đang phát biểu trước công chúng: Đồng bào ơi! Đây là cái chúng ta cần, đây chính là con đường giải phóng chúng ta”.

Ngay sau đó, ông đã gửi một bức thư cho Ủy ban Đoàn kết với Quốc tế ba yêu cầu được kết nạp. Đơn xin gia nhập của ông đã được chấp thuận. Bỏ qua vấn đề ý thức hệ, thông điệp của Lê-nin rất đơn giản và rõ ràng. Trong cuộc đấu tranh nhằm lật đổ hệ thống tư bản chủ nghĩa ở các nước công nghiệp phát triển, các Đảng Cộng sản ở phương Tây cần phải phối hợp chặt chẽ với các phong trào của những người theo chủ nghĩa dân tộc ở các thuộc địa tại châu Á và châu Phi. Lê-nin cho rằng nhiều trong số các phong trào này do tầng lớp trung lưu cầm lái và về lâu dài tầng lớp này không ủng hộ cách mạng xã hội. Do đó, bất kỳ sự liên minh nào với các nhóm của những người theo chủ nghĩa dân tộc thuộc giai cấp tư sản cần phải được tiến hành một cách thận trọng và chỉ với điều kiện là các đảng Cộng sản địa phương phải duy trì được bản sắc riêng của mình và được tự do hành động. Tuy mặc dù có những hạn chế như vậy Lê-nin cho rằng các phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á và châu Phi là liên minh tất yếu, mặc dù chỉ là tạm thời, của những người cộng sản chống lại kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc trên thế giới. Chính việc các nước tư bản chủ nghĩa phương Tây tìm kiếm thị trường và tài nguyên ở các nước kém phát triển đã duy trì và tránh được sự sụp đổ hoàn toàn của hệ thống tư bản chủ nghĩa trên thế giới.

Ách thống trị đế quốc tại các thuộc địa không những trì hoãn ngày mà cách mạng xã hội tiêu diệt bất công và bất bình đẳng tại phương Tây mà còn ngăn chặn sự trỗi dậy của các lực lượng tiến bộ trong các xã hội châu Á và châu Phi. Bị ngăn cản không được đóng một vai trò tích cực trong sự phát triển thương mại và công nghiệp trong xã hội do ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc phương Tây đưa lại, giai cấp tư sản địa phương vẫn còn yếu và chưa phát triển; do vậy giai cấp tư sản không thể thực hiện được vai trò tiến bộ của mình trong việc tiến hành cách mạng tư sản chống lại các thế lực phong kiến trong xã hội là bước đầu cần thiết dẫn tới chủ nghĩa cộng sản trên thế giới . Giai cấp tiểu tư sản ở các nước thuộc địa cần đến sự giúp đỡ của các lực lượng tiến bộ khác – như tầng lớp nông dân nghèo và giai cấp vô sản ở thành thị còn mỏng nhưng đang lớn mạnh – để lật đổ chế độ phong kiến và mở cửa phát triển thương mại và công nghiệp.

Trên thực tế, Lê-nin kêu gọi những người cộng sản ở các nước phương Tây sát cánh với những người theo chủ nghĩa dân tộc ở châu Á và châu Phi trong sự nghiệp cách mạng chung. Liên minh này chỉ là tạm thời; khi chủ nghĩa đế quốc và các đồng minh phong kiến trong các xã hội kém phát triển bị lật đổ, phong trào cộng sản cần phải tự tách mình khỏi liên minh với các lực lượng chính trị tư sản lúc này ngày càng trở nên phản động, và cần phải đấu tranh để tiến tới giai đoạn thứ hai của cuộc cách mạng, giai đoạn xã hội chủ nghĩa.

Lê-nin đã đề nghị giúp đỡ nhân dân Việt Nam và các dân tộc khác khi họ đang rất cần. Lê-nin đã thể hiện rất rõ quan điểm – đây cũng là cốt lõi đối với thế giới quan của Nguyễn Ái Quốc – cho rằng các khu vực thuộc địa là một tuyến phòng thủ quan trọng của hệ thống tư bản trên thế giới. Mất đi những cái vòi bạch tuộc của chủ nghĩa thực dân ở các thuộc địa rộng lớn, hệ thống tư bản có thể bị lật đổ.

Những người theo chủ nghĩa xã hội ở Pa-ri, trừ một số ít người, đều có xu hướng nói mà không làm. Lê-nin không phải là một nhà lý thuyết mà là một con người hành động. Đối với Nguyễn Ái Quốc, Lê-nin là một người gây cảm hứng đặc biệt và là người đáng để ông phụng sự.

Được những người quen Pháp như nhà báo cấp tiến Ga-xtông Mông-mút-xô và Giăng Lông-ghê giúp trau chuốt văn phong còn thô và quá thẳng, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu viết cho các tờ báo cánh tả ở Pa-ri vào cuối mùa hè năm 1919, và tiếp tục là người ủng hộ tích cực sự nghiệp tiến bộ cho tới khi ông rời Pháp gần bốn năm sau. Bài báo đầu tiên của ông với tiêu đề “Vấn đề thuộc địa” được đăng trên tờ Nhân đạo ngày 2 tháng Tám năm 1919, chỉ trích chính sách của người Pháp ở Đông Dương mà theo ông đã không mang lại gì ngoài nỗi thống khổ của nhân dân Việt Nam. Mặc dù trên lý thuyết người Pháp thực hiện sứ mệnh truyền bá văn minh nhưng trên thực tế chính sách giáo dục của họ chỉ là tuyên truyền và làm cho người Việt Nam không sẵn sàng cạnh tranh với những người láng giềng trong tương lai. Trong khi đó, chính phủ Nhật Bản đã khôn ngoan chuẩn bị cho nhân dân của họ phát triển kinh tế. Sau cùng, ông tiên đoán rằng các thương nhân Nhật Bản sẽ tới Đông Dương và làm cho cuộc sống của người Việt Nam thậm chí còn khó khăn hơn.

Nguyễn Ái Quốc đã có lý. Cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất, hệ thống giáo dục được người Pháp áp dụng nhằm trang bị cho nhân dân Đông Dương những kiến thức phương Tây chỉ đến được một bộ phận nhỏ dân chúng. Chí có 3.000 trong số hơn 23.000 xã ở Việt Nam có trường theo kiểu phương Tây. Giáo dục truyền thống kinh thi Hán tiếp tục được các nho sĩ dạy ở nông thôn, nhưng sau khi người Pháp bãi bỏ chế độ thi, hệ thống giáo dục này đã mất đi tính hướng nghiệp ban đầu. Giáo dục tại các bậc học cao hơn được giành cho những người Việt Nam sống ở các thành phố nhưng chủ yếu chỉ giới hạn trong một số trường trung học giành cho các công tử và tiểu thư của tầng lớp thượng lưu.

Thành nói về chiến lược của Xa-rô mở rộng sự tham gia chính trị thực ra chẳng có chính sách nào hết. Khi nhân dân đứng lên phản đối, như năm 1908, họ đã bị đàn áp đẫm máu. Ông kết luận liệu người Pháp có nhận ra rằng đến lúc phải giải phóng những người dân bản xứ và giúp họ sẵn sàng cạch tranh với láng giềng trong tương lai?

Tiếp sau bài báo đó, Nguyễn Ái Quốc viết tiếp một bài báo khác có tựa đề “Đông Dương và Triều Tiên” trên báo Lơ Pô-puy-le và “Thư gửi Ngài U-tơ-rây” trên cùng tờ báo vào tháng mười. Cũng như bài báo trước, bài báo này, tuy cực lực lên án một số chính sách của Pháp, nhưng khá ôn hòa với những giải pháp được đề xuất. Các bài báo này không nhắc đến việc sử dụng bạo lực hay một liên minh công nông theo chủ nghĩa Lê-nin. Trong bài báo tháng 10, tác giả ưu ái nhắc đến cách chính sách và nhận xét của cựu Thống đốc An-be Xa-rô và tuyên bố phản đối Mô-ri-xơ U-tơ-rây, một quan chức thuộc địa và đại diện của Nam Kỳ trong Quốc hội Pháp, người mà có tin đồn rằng muốn thay Xa-rô làm thống đốc. U-tơ-rây đã chỉ trích Hội những người yêu nước An Nam ở Quốc hội trong khi bác bỏ việc chế độ thực dân Pháp đàn áp người An Nam. Nguyễn Ái Quốc hỏi một cách châm biếm, rằng anh đại diện cho ai? 20 triệu người An Nam mà U-tơ- rây thậm chí còn không biết tên, trừ một số viên chức và một vài cử tri giàu có ở Nam Kỳ? Ông kết luận, giữa quan điểm của U-tơ-rây và Xa-rô có một “khoảng cách lớn.”

Nghề thợ sửa ảnh Nguyễn Ái Quốc không cần nhiều thời giờ. Trong khi viết những mẩu báo ngắn này, ông cũng bắt đầu chuẩn bị một bản thảo dài hơn có tựa đề Những người bị áp bức, một bài dài phê bình chính sách của Pháp ở Đông Dương. Dường như hiếm khi những nỗ lực viết sách không thành của một tác giả lại được ghi lại một cách kỹ lưỡng như vậy, bởi vì cảnh sát được thông báo rõ về hoạt động của ông qua các báo cáo định kỳ của các điệp viên. Ông bắt đầu viết vào cuối năm 1919 với sự giúp đỡ của một người xuất bản chống thực dân là Pôn Vi-nhơ Đốc-tông và miệt mài với báo và các tạp chí ở Thư viện Quốc gia để thu thập các dữ liệu và trích dẫn có ích. Khi một người quen cảnh báo Quốc vêf những trích dẫn không nêu xuất xứ, ông nói rằng ông hy vọng các nhà xuất bản khác sẽ đòi tiền bồi thường cho những trích dẫn đó, vì điều đó sẽ giúp quảng bá cho quyển sách. Một người khác khuyên ông không nên sử dụng tựa đề mang tính thách thức nhưng ông vẫn khăng khăng giữ nguyên như vậy.

Theo các báo cáo của cảnh sát, Nguyễn Ái Quốc không đủ kinh phí để xuất bản và định tự mình xuất bản bản thảo đó. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, khi hoàn thành nó, một đêm ông trở về nhà và thấy bản thảo bị ai đó lấy mất. Một số nhà viết tiểu sử cho rằng nó bị cảnh sát đánh cắp. Dường như khả năng này là có, mặc dù hồ sơ cảnh sát không hề đề cập việc này. Mặc dù nội dung không được đề cấp rõ ràng, rất có thể ông đã sử dụng nhiều tư liệu từ những ghi chép của ông trong một cuốn sách ra đời sau đó tên là Bản án chế độ thực dân Pháp được ông cho xuất bản năm 1025. Quyển sách này phê bình mạnh mẽ hơn các chính sách thực dân Pháp và phản ánh rõ nét ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác đối với thế giới quan của ông.

Nguyễn Ái Quốc đã chuyển đến căn hộ của Phan Châu Trinh ở biệt thự Gô-gơ-lanh vào tháng 7 năm 1919, sau khi xuất bản cuốn yêu sách đối với lực lượng đồng minh ít lâu. Nằm trong một quận trung lưu có đủ tiện nghi gần Quảng trường I-ta-li ở tả ngạn sông Xen, rõ ràng là ở chỗ này khá hơn nhiều so với chỗ ở tồi tàn trước kia của ông. Ông không chỉ ở chung với Phan Châu Trinh mà cả với một số cộng sự khác nữa.

Truy nhiên, việc chuyển chỗ ở làm nảy sinh một số vấn đề. Tháng 12 năm 1919, một điệp viên cảnh sát trong nhóm người báo cáo rằng một cuộc tranh luận gay gắt đã nổ ra giữa Nguyễn Ái Quốc và Phan Châu Trinh tại căn hộ về việc tiếp tục đi theo con đường nào. Quốc tranh luận rằng quan chức Việt Nam nhu nhược như những chú cừu và đã trở thành đồng lõa với người Pháp kiềm chế quần chúng và bóc lột họ. Trinh nói lại rằng quan điểm đó thật là nông cạn. Ông cho rằng người Việt Nam vẫn còn quá yếu và thiếu khả năng để chống lại Pháp. Ông lập luận rằng chống đối ở điểm này đồng nghĩa với tự sát. Ông nhắc nhở: “Anh Quốc, anh còn trẻ và ai cũng thấy là anh bướng bỉnh. Anh muốn 20 triệu đồng bào của chúng ta làm gì khi mà họ không có vũ khí trong tay để chống lại vũ khí khủng khiếp của người châu Âu. Tại sao chúng ta lại tự sát một cách vô ích?”

Theo Phan Châu Trinh, vẫn cần dựa vào người Pháp để thúc đẩy quá trình hiện đại hóa xã hội Việt Nam, xã hội vẫn còn chịu ảnh hưởng của bàn tay tử thần của truyền thống Nho giáo. Nhưng Quốc cảm thấy rằng người Pháp là kẻ thù số một và không thể tin cậy để thực hiện lời hứa cải cách của họ. Ông hỏi “Tại sao 20 triệu đồng bao ta lại không làm gì để buộc chính phủ đối xử với chúng ta như đối với người? Chúng ta là người và chúng ta phải sống như người. Bất kỳ ai không muốn đối xử với chúng ta như đồng loại đều là kẻ thù của chúng ta. Chúng ta không muốn sống chung với họ trên trái đất này. Nếu những người khác không muốn sống chung với ta như với đồng loại, thì thật là chẳng có lý gì để sống cuộc sống nhục nhã và bị xúc phạm trên trái đất này.”

Về quan điểm cho rằng người Việt Nam phải dựa vào người Pháp để thực hiện cải cách cần thiết, Nguyễn Ái Quốc lập luận rằng Pháp đã chẳng làm gì để giáo dục người dân hay chỉ cho họ cách tự trị. Ông công nhận “Anh lớn tuổi hơn và nhiều kinh nghiệm hơn tôi, nhưng đồng bào của ta đã yêu cầu điều đó trong 60 năm qua và đã nhận được cái gì? Chẳng được gì cả”.

Mặc dù khác biệt về quan điểm chính trị giữa họ ngày càng tăng, Nguyễn Ái Quốc vẫn tôn trọng Phan Châu Trinh và cố gắng thuyết phục ông thay đổi quan điểm. Có lần ông đã dẫn người đồng chí lớn tuổi hơn đến các cuộc họp cấp tiến ở Pa-ri. Cảnh sát luôn theo sát Quốc và cố thu thập thông tin chính xác về xuất thân của ông. Các nhà chức trách tin rằng Nguyễn Ái Quốc chính là Nguyễn Tất Thành đã tham gia vụ bạo động ở Huế mùa hè năm 1908. Họ đã phỏng vấn cha ông, chị gái ông , anh trai ông và tìm kiếm những đặc điểm trên người ông để nhận dạng ông. Thí dụ, họ nghe nói ông có một cái sẹo trên tai do tai nạn lúc nhỏ. Khi ông vào bệnh viên năm 1920 để điều trị khuỷu tay phải, cảnh sát đã cố chụp hình ông.

Ngày 17-8-1920, An-be Xa-rô, bấy giờ là Bộ trưởng Thuộc địa, đã gửi công văn cho nha cảnh sát yêu cầu cung cấp thêm chi tiết chính xác về Nguyễn Ái Quốc. Xa-rô giải thích theo kiểu chọc tức “ông ta không có quyền làm xáo trộn nền chính trị của chúng ta dưới một cái tên giải”. Tháng sau, Quốc được gọi đến Bộ Thuộc địa một lần nữa để thẩm vấn. Lời tự thuật sau này của ông về việc này:

“”Một hôm tôi viết một bức thư cho một người hiểu biết văn học và bốn ngày sau, tôi nhận được một bức thư từ Bộ Thuộc địa, do ngài Ghét-xđê ký, trong đó ông ta bảo rằng đã nhận được thư tôi và yêu cầu tôi đến chỗ làm của ông ta. Cái gì, tôi tự hỏi, tôi không biết ông Ghét-xđê! Tôi chưa bao giờ viết thư cho ông ta cũng như cho bất kỳ ai trong Bộ đó. Sau đó tôi nảy ra một ý. Tôi tự nhủ, Ngài Ghét-xđê không biết tôi, vì vậy để làm quen với tôi và mua chuộc tôi, ông ta tìm cớ gọi tôi đến cơ quan của ông ta.”

Vài ngày sau đó, tôi đến Bộ Thuộc địa. Ngài Ghét-xđê không có ở đó, vì đang công du đến nước Anh. Ông Pa-xki-ê một quan chức cao cấp của Bộ tiếp tôi và hỏi xem tôi có cần gì ở Chính phủ không. Nếu có thì ông ta sẽ cố gắng giúp.

Tôi trả lời là tôi chẳng cần gì, trừ tám yêu sách mà tôi đã đưa ra ở Hội nghị Hòa bình. Nếu ông có thể can thiệp với chính quyền Pháp để đáp ứng những yêu sách của chúng tôi thì chúng tôi sẽ vô cùng biết ơn. Ông Pa-xki-ê không trả lời câu hỏi của tôi và chuyển đề tài.

Không ai biết về phản ứng của Pa-xki-ê đối với cuộc đối thoại này. Nhưng sự phẫn nộ ngày càng gia tăng của các nhà chức trách được thể hiện trong một báo cáo về Nguyễn Ái Quốc do P-e-rơ Ghét-xđê viết cho Bộ trưởng Thuộc địa ngày 12 tháng 10. Quốc đã bị triệu đến nha cảnh sát 3 ngày sau cuộc thẩm vấn ở Bộ này. Tại phòng cảnh sát, ông khai là sinh ngày 15 tháng 1 năm 1894 tại Vinh và cả 6 anh chị em đều đã mất.

Ghét-xđê giận dữ: “Nguyễn Ái Quốc là ai?”

“Ông ta thường xuyên thay đổi tên và đang giấu tung tích dưới một cái tên giả mà cái tên đó không thể đánh lừa được bất cứ ai kể cả những người không biết tiếng Việt nhiều lắm. Ông ta cho rằng không có tài liệu nào của các nhà cầm quyền Đông Dương có thể nhận dạng ông ta, nhưng ông ta đã can thiệp vào nền chính trị của chúng ta, tham gia các nhóm chính trị, nói chuyện ở các tổ chức cách mạng và chúng tôi thậm chí còn không biết chúng tôi thuộc nhóm nào. Những thông tin mà ông ta cung cấp rõ ràng là sai sự thật. Thực ra, Ghét-xđê nói, sau những nỗ lực hết mức, các nhà chức trách có bằng chứng rõ ràng là Quốc chính là Nguyễn Tất Thành, “một kẻ khích động nguy hiểm”, đã tham gia cuộc biểu tình ở An Nam vào năm 1908.”

Trong thời gian hơn một thế hệ, phong trào chủ nghĩa xã hội ở Pháp bao gồm các nhà tư tưởng tiến bộ thuộc nhiều mầu sắc khác nhau: những nhà hoạt động theo Au-gut-xtơ Bơ-Lăng-ki, nhà cách mạng thế kỷ 19, chủ trương tiến hành nổi dậy ngay lập tức và không chú ý gì đến vấn đề xây dựng một xã hội tương lai; các nhà cải cách theo con đường tiệm tiến của Ê-đu-a Béc-xtên và Quốc tế II; những người có quan điểm cấp tiến lý thuyết, xuất phát từ cuộc cách mạng Pháp hơn là từ tư tưởng Các Mác; và những người lãnh đạo công đoàn, những người đã làm dấy lên cuộc đấu tranh giai cấp chống giới chủ nhưng hầu như không dùng đến hệ tư tưởng. Chiến tranh thế giới thứ nhất đã giáng một đòn mạnh vào lợi ích chung trước đó còn đeo đẳng trong các nhóm hỗn tạp này, và khi Lê-nin đưa ra yêu cầu đối với những người theo Đảng Xã hội ở mọi nơi tham gia một cuộc chiến tranh thần thánh chống chủ nghĩa tư bản, ông đã buộc các đảng viên phải có quan điểm dứt khoát.

Tại Hội nghị Đảng Xã hội Pháp tổ chức ở Xtra-bua tháng 2 năm 1920, một cuộc tranh luận lớn đã nổ ra về việc liệu gia nhập Quốc tế II tương đối ôn hòa hay gia nhập Quốc tế III mới của Lê-nin. Nguyễn Ái Quốc cũng có mặt nhưng không tham gia thảo luận. Khi bỏ phiếu, đại đa số muốn từ bỏ phe Quốc tế II, nhưng cũng có một đa số tương tự tỏ ý chống việc gia nhập Quốc tế cộng sản III. Cánh tả Pháp không sẵn sàng chọn lựa.

Trong những tháng sau đó, cuộc thảo luận về con đường tương lai của phong trào xã hội đã trở nên sôi nổi hơn. Mùa hè đó, hai đảng viên xuất chúng, Mác-xen Ca-sanh và Tổng bí thư Lu-i Phơ-rốt-xa tham gia Hội nghị Quốc tế Cộng sản II ở Mát-xcơ-va. Hội nghị này đã thông qua “Luận cương về các vấn đề Quốc gia và Thuộc địa” của Lê-nin. Khi trở về Pháp, họ triệu tập một cuộc mít-tinh lớn ngày 13 tháng 8 để bàn bạc về kết quả của hội nghị. Trong số 30.000 người đứng chật quảng trường Pa-ri ở phía tây thành phố có Nguyễn Ái Quốc. Ông đã nghe Mác-xen lớn tiếng ủng hộ Quốc tế Cộng sản mới của Lê-nin, cho rằng chỉ có Quốc tế Cộng sản mới mới có thể giải phóng các dân tộc nô lệ trên thế giới và tiến hành đấu tranh với tận sào huyệt của chủ nghĩa đế quốc toàn cầu.

Những lời đó dĩ nhiên được Nguyễn Ái Quốc hoan nghênh, mặc dù có thể ông thấy thất vọng rằng điều kiện thứ tám đối với việc gia nhập Quốc tế Cộng sản mới – kêu gọi các Đảng Cộng sản ở các nước đế quốc chủ nghĩa tiếp tục đấu tranh tích cực chống lại các chính sách đế quốc của chính phủ – hầu như không được chú ý tại hội nghị. Tuy nhiên, có thể ông cảm thấy phấn khởi vào tháng 9 khi nghe tin về hội nghị của các dân tộc phương Đông được tổ chức sau đó ít lâu tại Bacu, nơi mà Pơ-la-tô-vích, một đại diện của Quốc tế Cộng sản, đã kêu gọi đấu tranh mạnh mẽ để giải phóng cho các dân tộc bị áp bức ở châu Á.

Đảng Xã hội Pháp đã dự kiến tổ chức Hội nghị Toàn quốc tại Tua cuối tháng 12 để quyết định khả năng gia nhập Quốc tế Cộng sản của Lê-nin. Trong những tháng trước khi diễn ra hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đã dự tất cả các phiên họp cấp quận và nghe tất cả các lập luận từ cả hai phía. Có ba phe trong cùng một đảng, với những người theo trường phái ôn hoà và cấp tiến ở hai thái cực và một nhóm của Giăng Lông-ghê ở giữa. Nguyễn Ái Quốc hầu như không đóng góp ý kiến gì vào các cuộc tranh luận. Khi tham gia tranh luận thì ông bao giờ cũng phàn nàn về việc thiếu quan tâm tới các vấn đề thuộc địa. Theo lời tự thuật của ông thì có lúc ông đã kêu gọi thống nhất múc đích chung:

“Thưa các bạn, các bạn đều là những người theo chủ nghĩa xã hội tốt. Tất cả các bạn đều muốn giải phóng cho giai cấp công nhân. Cho dù đó là Quốc tế II, Quốc tế hai rưỡi hay Quốc tế III thì tất cả cũng đều nhằm đạt mục tiêu đó. Các Quốc tế này không phải tất cả đều là cách mạng hay sao? Phải chăng không phải tất cả họ đều đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội? Dù bạn muốn Quốc tế này hay Quốc tế nọ thì bạn vẫn phải đoàn kết. Vậy thì tại sao lại phải bàn cãi? Các đồng chí, trong khi chúng ta đang mất thời gian để tranh cãi thì đồng bào của chúng ta đang phải chịu đựng và chết chóc”.

Khi chọn đại biểu tham gia hội nghị thì ông đã tìm cách để được mời với tư cách là đại diện cho một nhóm nhỏ các đảng viên của Đông Dương.

“Hội nghị được tiến hành ngày 25 tháng 12 năm 1920 tại một trường học cưỡi ngựa gần Nhà thờ Thánh Giu-li-ăng nam bờ sống Loa. Tòa nhà lớn được treo đầy ảnh chân dung của bậc thầy của chủ nghĩa xã hội như Giăng Giô-rét và biểu ngữ kêu gọi giai cấp công nhân trên toàn thế giới đoàn kết. Bục diễn giả ở trước sảnh là một cái bàn gồm các tấm ván kê trên các giá. 285 đại biểu và các vị khách khác – đại diện cho hơn 178.000 đảng viên trên toàn đất nước – ngồi ở những bàn gỗ dài được sắp xếp theo phe phái chính trị của họ. Nguyễn Ái Quốc ngồi cạnh nhóm cánh tả do Mác-xen Ca-sanh dẫn đầu.”

Hôm đó cuộc thảo luận bắt đầu với chủ đề chính của chương trình nghị sự là quyết định liệu có gia nhập Quốc tế Cộng sản không. Là người châu Á duy nhất, mặc một bộ đồ sẫm màu quá khổ so với vóc dáng gầy của ông, Nguyễn Ái Quốc dường như lạc lõng trong hàng trăm người châu Âu. Ông gây chấn động ngay tại hội nghị. Trong ngày đầu tiên, một nhà nhiếp ảnh đã chụp ảnh ông và tấm ảnh đó đã được đăng trên số báo ngày hôm sau xuất bản ở Pa-ri có tên là “Buổi sáng“. Cảnh sát được báo về sự hiện diện của ông và đã ngay lập tức xuất hiện với lệnh bắt ông, nhưng một số đại biểu đã vây quanh ông và ngăn không cho họ bắt ông. Cuối cùng cảnh sát đã bỏ cuộc.

Cũng trong ngày hôm đó, Nguyễn Ái Quốc đã đứng lên phát biểu, ông đã nói trong 15 phút không cần bài chuẩn bị sẵn. Ông đi thẳng vào vấn đề, chỉ trích các chính sách thuộc địa của Pháp về việc đàn áp và bóc lột đồng bào của ông. Ông nói, bất cứ ai phản đối đều bị bắt và số nhà tù còn nhiều hơn số trường học và luôn chật cứng người bị bắt giữ. Người dân không có quyền tự do ngôn luận và quyền tự do đi lại. Họ bị ép hút thuốc phiện và uống rượu để mang lại lợi nhuận cho chính phủ Pháp, vì chính phủ này đánh thuế đối với cả hai mặt hàng trên. Ông nói, những người Pháp theo chủ nghĩa xã hội phải hành động để ủng hộ dân thuộc địa bị áp bức.

Về điểm này, Nguyễn Ái Quốc bị Giăng Lông-ghê ngắt lời. Nhà lãnh đạo xã hội chủ nghĩa phản đối rằng ông đã lên tiếng ủng hộ người bản xứ. Quốc đã trả lời bằng một giọng hài hước về quan niệm của Mác về chuyên chính vô sản “Tôi áp đặt chuyên chính im lặng”, và nói thêm rằng Đảng phải thúc đẩy mạnh mẽ tuyên truyền chủ nghĩa xã hội ở tất cả các nước thuộc địa. Ông nói rằng quyết định gia nhập Quốc tế cộng sản khẳng định rằng Đảng đã dự đoán đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa. Ông kết thúc với một lời kêu gọi: “Nhân danh toàn nhân loại, nhân danh tất cả những người theo phe xã hội chủ nghĩa cả cánh tả và cánh hữu, chúng tôi kêu gọi các bạn, các đồng chí hãy cứu chúng tôi.”

Sau khi Nguyễn Ái Quốc kết thúc bài phát biểu, Giăng Lông-ghê lại tiếp tục phát biểu và khẳng định rằng ông công khai ủng hộ sự nghiệp của người Việt Nam tại Quốc hội và nói thêm rằng vấn đề này đang được thảo luận ở Quốc hội. Nhưng Pôn Vai-ăng Cu-tuy-ri-ê, một ngôi sao đang lên của phong trào cấp tiến, và một trong những người ủng hộ Nguyễn Ái Quốc mạnh mẽ nhất vặn lại rằng điều cần thiết hiện nay không chỉ là cuộc thảo luận tại Quốc hội mà là hành động của Quốc hội vì các dân tộc bị áp bức.

Ngày 27, Mác-xen Ca-sanh đã chính thức đề nghị Đảng Xã hội Pháp chấp nhận điều kiện của Lê-nin về gia nhập Quốc tế Cộng sản và Nguyễn Ái Quốc đã lên tiếng ủng hộ đề nghị này. Hai ngày sau, bản kiến nghị được hơn 70% số đại biểu ủng hộ. Các đại biểu phản đối việc gia nhập Quốc tế Cộng sản đã ùa ra khỏi phòng họp phản đối. Những người còn lại thì bỏ phiếu từ bỏ Đảng Xã hội Pháp (FSP) và thành lập một Đảng Cộng sản Pháp mới (FCP). Nhưng không có thêm cuộc thảo luận nào nữa về vấn đề thuộc địa và giới lãnh đạo đã bác bỏ một đề nghị, chắc chắn là do Nguyễn Ái Quốc đưa ra, về việc đưa ra một tuyên bố công khai ủng hộ nhân dân các nước thuộc địa.

Tại Hội nghị Tua, Nguyễn Ái Quốc đã thông báo cho các cộng sự biết rằng ông quyết tâm trở thành một người tích cực phát biểu đòi hỏi quan tâm nhiều hơn nữa đến nhu cầu của nhân dân các nước thuộc địa, coi đó là một nhân tố mang tính quyết định của cuộc đấu tranh nhằm lật đổ chủ nghĩa tư bản. Ông đã chứng minh bằng cả những lời bình luận công khai và không công khai rằng ông không chỉ lo lắng về thành công của cuộc cách mạng thế giới mà còn về số phận của đất nước ông. Tinh thần đó đã được phản ánh trong một lời nhận xét của ông với một người quen lúc đó: “Tôi đã không có nhiều tiền để theo học các khóa học tại trường đại học. Nhưng cuộc sống đã cho tôi cơ hội học lịch sử, khoa học xã hội và thậm chí cả khoa học quân sự. Người ta nên yêu thích cái gì? Người ta nên coi thường cái gì? Đối với người Việt Nam chúng tôi, cần phải yêu độc lập, công việc và Tổ quốc.”

Nhưng chẳng bao lâu sau ông đã mất hy vọng là tất cả các thành viên mới của Đảng mới sẽ theo quan điểm của ông. Tháng 2 năm 1921, ông bị ốm và vào bệnh viện một thời gian. Sau khi ra viện, ông viết một bài báo có tựa đề “Đông Dương” cho tờ Tạp chí Cộng sản số tháng tư. Trong bài báo đó, ông đã chỉ trích các đảng viên của Đảng Cộng sản Pháp không quan tâm đúng mức tới các vấn đề thúc đẩy cách mạng ở thuộc địa và không nghiên cứu vấn đề này một cách có hệ thống. Ông lập luận rằng mặc dù người Pháp đang có làm nản chí người Đông Dương, người Đông Dương không chết và thực ra “người Đông Dương vẫn sống và sẽ sống mãi” – khó có thể là cách diễn đạt của chủ nghĩa Quốc tế vô sản Mác-xít. Bài báo đã cho thấy rõ rằng ông đã từ bỏ hy vọng có thể thay đổi mà không cần đến bạo lực. Trong khi cho rằng Đông Dương vẫn chưa chín muồi để tiến hành cách mạng, chủ yếu là vì dân không được học hành và không có quyền tự do ngôn luận hay hành động – ông lập luận rằng dưới vỏ sự dễ bảo thụ động “có một cái gì đó đang trào dâng và chuyển động rầm rầm và đến thời điểm thích hợp sẽ nổ tung một cách đáng sợ”. Ông lập luận, tiến trình đó có nhanh chóng xảy ra hay không tuỳ thuộc vào giới có học. Ông kết luận rằng “chuyên chế tư bản chủ nghĩa đã chuẩn bị đất trồng; chủ nghĩa xã hội chỉ cần gieo hạt giải phóng.”

Trong bài báo thứ hai cùng với tựa đề vào tháng năm, Nguyễn Ái Quốc đã thảo luận vấn đề liệu có nên áp dụng chủ nghĩa cộng sản ở châu Á nói chung và ở Đông Dương nói riêng không. Đây là một vấn đề rất thích hợp, vì tại thời điểm đó hầu hết những người châu Âu cấp tiến vẫn tin rằng ở hầu hết các nước “lạc hậu”, cuộc cách mạng sẽ bị trì hoãn lâu. Giô-dép Xta-lin cũng đã viết trong một bài báo đăng trên tờ Pra-vơ-đa cùng tháng rằng các quốc gia tiến bộ, sau khi tự giải phóng mình, có nhiệm vụ giải phóng cho các dân tộc “lạc hậu”.

Trong bài báo của mình, Nguyễn Ái Quốc đã tranh luận với các quan điểm như vậy, lập luận rằng học thuyết và chiến lược Mác-Lê-nin phù hợp cả ở châu Á và phương Tây. Ông chỉ ra rằng ở Nhật Bản, nước châu Á đầu tiên trở thành nước tư bản chủ nghĩa, một đảng xã hội đã được thành lập. Trung Quốc tuy vẫn phụ thuộc vào châu Âu và Mỹ, vừa thức tỉnh và một chính phủ cách mạng mới do lãnh đạo phe nổi loạn Tôn Dật Tiên cầm đầu ở Nam Trung Quốc hứa hẹn khai sinh “một Trung Quốc được tổ chức lại và vô sản hóa”. Ông dự đoán, có thể một ngày không xa, Nga và Trung Quốc sẽ cùng tiến bước. Các dân tộc khác cũng phải chịu đau khổ, Triều Tiên vẫn nằm dưới ách đô hộ của Nhật Bản, trong khi Ấn Độ và Đông Dương nằm trong tay những kẻ bóc lột Anh, Pháp.

Dự đoán của Nguyễn Ái Quốc về hợp tác giữa người Trung Hoa và người Nga là mang tính tiên tri. Lúc đó, ông đang bình luận về những sự kiện vừa xảy ra tại Trung Quốc, dẫn đến việc Tôn Dật Tiên liên minh với một nhà lãnh đạo quân sự để thành lập một chế độ cách mạng ở thành phố cảng Quảng Châu ở miền Nam. Ông Tôn đã sống lưu vong trong vài năm, sau khi nhà lãnh đạo chính trị Uân Si-kai làm thất bại nỗ lực của các môn đệ của ông Tôn xây dựng một Trung Quốc phương Tây hóa và tự mình giành quyền kiểm soát. Sau cái chết của Uân năm 1916, Trung Quốc rơi vào rối loạn, với các chỉ huy quân sự tranh quyền kiểm soát nhiều vùng ở Trung Quốc.

Nguyễn Ái Quốc lập luận rằng có những lý do lịch sử rõ ràng giải thích tại sao chủ nghĩa cộng sản thích nghi ở châu Á dễ dàng hơn ở châu Âu. Theo ông, người châu Á, dù bị người phương Tây coi là lạc hậu, hiểu rõ hơn sự cần thiết phải cải cách toàn diện xã hội đương thời. Họ cũng có thiện cảm đối với ý tưởng cộng đồng và công bằng xã hội. Trung Hoa cổ đại đã thực hiện một “sân chơi bình đẳng” (tiếng Trung Quốc là Jing tian), chia đất nông nghiệp ra thành các phần bằng nhau và để riêng một lô đất làm công thổ. Hơn 4.000 năm trước, triều Hạ đã áp dụng hình thức lao động bắt buộc. Ngay từ thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, đại triết gia Khổng Tử đã dự đoán trước về Quốc tế Cộng sản và giảng thuyết bình đẳng về tài sản. Vị sư phụ này đã dự đoán, hòa bình thế giới sẽ không có khi chưa thiết lập nền cộng hòa toàn cầu. Ông giảng giải: “Không sợ ít mà chỉ sợ không được phân phối bình đẳng”. Môn đồ Tôn Tử của ông tiếp tục theo học thuyết của thầy, xây dựng một kế hoạch cụ thể để tổ chức sản xuất và tiêu dùng. Trả lời một câu hỏi của nhà cầm quyền, Tôn Tử nói rằng nhu cầu của nhân dân là trên hết, sau đó là nhu cầu của quốc gia, cuối cùng mới đến nhu cầu của đế chế.

Ông Quốc khẳng định rằng, những truyền thống đó tiếp tục ảnh hưởng đến các xã hội châu Á. Thí dụ, luật pháp Việt Nam hạn chế việc mua và bán đất, và một phần tư tổng số đất canh tác được coi là công thổ. Ông kết luận, do đó ngày mà hàng triệu người châu Á bị áp bức thức tỉnh, họ sẽ trở thành một lực lượng khổng lồ có thể lật đổ chủ nghĩa đế quốc, và họ sẽ giúp những người anh em ở phương Tây thực hiện sứ mạng giải phóng hoàn toàn khỏi sự bóc lột của tư bản. Châu Á sẽ đóng vai trò tích cực trong cách mạng thế giới.

Nguyễn Ái Quốc cũng dùng ngòi bút của mình để xé toạc những bí ẩn của nền văn minh Pháp rực rỡ. Trong một bài báo viết vào tháng 9 có tựa đề “Nền văn minh ưu việt hơn”, ông chế nhạo ba trụ cột của cách mạng Pháp là tự do, bình đẳng và bác ái, nêu ra những thí dụ về sự tàn ác của Pháp như đã được kể lại trong nhật ký của một người lính Pháp. Trong một bài báo ngắn được đăng vào tháng mười trên tờ Lơ Li-béc-tê, ông kể lại một thí dụ của chính ông rằng khi còn là sinh viên ở Quốc học Huế năm 1908, ông đã chứng kiến một đồng môn bị một giáo viên người Pháp sỉ nhục một cách tàn bạo. Ông nhận xét một cách châm chọc rằng việc này xảy ra ngay dưới tấm bảng được treo ở mọi lớp học là – hãy yêu nước Pháp, nước Pháp bảo vệ bạn.

Thái độ càng ngày càng trở nên cấp tiến của Nguyễn Ái Quốc làm các nhà chức trách Pháp theo dõi ông rất sát sao. Khoảng đầu năm 1921, một lần nữa ông lại bị triệu đến Bộ Thuộc địa để ông An-be Xa-rô thẩm vấn. Bộ trưởng tuyên bố:

“Nếu nước Pháp trao trả Đông Dương cho các anh thì các anh cũng không quản lý được vì các anh không có đủ phương tiện”. Quốc trả lời “Trái lại, hãy nhìn vào nước Xiêm và Nhật Bản. Nền văn minh của hai nước này không lâu đời hơn nền văn minh của chúng tôi, thế mà họ vẫn sánh ngang với các nước trên thế giới. Nếu Pháp trả lại đất nước cho chúng tôi, nước Pháp chắc chắn sẽ thấy là chúng tôi biết cách quản lý nó”. Khi nghe những lời này, ông Xa-rô chuyển đề tài.

Quyết định gia nhập Đảng Cộng sản Pháp của Nguyễn Ái Quốc đã làm tăng thêm sự căng thẳng vốn đã có từ trước ở căn hộ trong biệt thự Gô-bơ-lanh, nơi mà không phải tất cả các đồng sự của ông đều tán thành những ý kiến của ông. Trong thời gian hội nghị Tua, Trần Tiến Nam, một trong những người bạn thân nhất của ông, nói với một người quen nữ rằng các quan điểm cực đoan của Quốc không được những người ở cùng căn hộ đồng tình. Vài tháng sau đó, cảnh sát tiếp tục báo cáo rằng các cuộc tranh luận gay gắt đã thường xuyên nổ ra ở đó.

Mâu thuẫn giữa Nguyễn Ái Quốc và đồng sự của ông cuối cùng đã lên đến đỉnh điểm vào tháng 7, sau khi đã trở nên căng thẳng hơn trong vài tháng. Ngày 6 tháng 7, ông tham gia một cuộc biểu tình ở Nghĩa trang Pe La-se-dơ, ở một quận của giai cấp công nhân ở phía đông Pa-ri, để tưởng nhớ những người chết vì đàn áp trong thời gian Công xã Pa-ri năm 1871. Quốc đã bị cảnh sát đánh đập dã man nhưng đã thoát được. Tin tức về vụ việc đó đã làm cho một số người quen của ông lo lắng. Vài tuần sau đó, Trần Tiến Nam, một trong những thành viên ôn hòa hơn của nhóm, đã chuyển khỏi căn hộ, cho rằng những quan điểm chính trị của Nguyễn Ái Quốc là quá cấp tiến đối với ông ta.

Ngày 11 tháng 7 năm 1921, cảnh sát đã báo cáo rằng một cuộc tranh luận gay gắt đã nổ ra giữa Nguyễn Ái Quốc và những người bạn của ông. Lần này, cuộc tranh luận đã kéo dài từ 9 giờ tối đến tận sáng sớm hôm sau. Ngày hôm sau, với cảnh sát bám đuôi, Quốc đã rời khỏi căn hộ để đến ở với bạn ông là Võ Văn Toàn ở số 12 đường Buốt. Một tuần sau đó, bạn ông là Pôn Vai-ăng Cu-tuy-ri-ê đã giúp ông tìm một căn hộ nhỏ ở số 9 ngõ Công-poanh, một ngõ cụt ở Ba-ti-nhôn, một khu của giai cấp công nhân ở tây bắc Pa-ri.

Nơi ở mới của Nguyễn Ái Quốc vô cùng đơn sơ, kém tiện nghi hơn nhiều so với nơi ở tương đối rộng rãi và tiện nghi của ông ở biệt thự Gô-bơ-lanh. Căn hộ một phòng chỉ đủ kê một chiếc giường, một chiếc bàn nhỏ và một tủ quần áo. Cửa sổ duy nhất lại nhìn sang bức tường của nhà kế bên, và ông phải nghển cổ ra khỏi cửa sổ để nhìn trời. Không có điện nên ông phải dùng đèn dầu; không có nước nên ông dùng một cái chậu để rửa mặt và giặt quần áo ở bên ngoài. Để sưởi ấm, ông dùng một viên gạch đã ủ nóng trong lò sưởi của chủ nhà và sau đó gói vào một tờ giấy. Bữa ăn của ông gồm một ít cá muối hoặc thịt hai lần một ngày. Đôi khi ông chỉ ăn một miếng bánh mì và pho mát.

Việc Nguyễn Ái Quốc chia tay nhóm bạn ở biệt thự Gô-bơ-lanh và chuyển đến nơi ở mới cũng khiến ông phải thay đổi chỗ làm. Ông vẫn làm thợ sửa ảnh cùng với Phan Châu Trinh cho đến tháng 7 năm 1920. Sau đó, theo đơn khai của ông gửi cho cảnh sát ngày 17 tháng 9, ông trở thành một người trang trí tranh tường Trung Quốc cho một người Trung Quốc làm đồ gỗ ở khu La-tinh. Khi những người công nhân ở cửa hàng đình công vào tháng 9, ông nhận một việc mới ở cửa hàng nhiếp ảnh chỉ cách căn hộ mới của ông mấy nhà ở ngõ Công-poanh. Là thợ học nghề, ông chỉ kiếm được 40 quan một tuần.

Hoàn cảnh túng quẫn của Nguyễn Ái Quốc không ảnh hưởng gì đến cuộc sống của ông. Ông vẫn thường xuyên tham dự các cuộc họp chính trị, các cuộc biểu diễn nghệ thuật và thường xuyên đến Thư viện Quốc gia. Trong các hoạt động của mình, ông gặp những nhân vật nổi tiếng như ca sĩ, diễn viên Mô-ri-xơ Sơ-va-li-ê và nhà viết truyện ngắn Cô-lét. Theo thông báo của cảnh sát, ông thường tiếp đãi khách thăm, nấu bữa tối gồm rau xanh và xì dầu, pha trà nhài ở bếp lò nhỏ trên một cái bàn ở góc căn hộ. Mặc dù lương của ông sau khi đã trả tiền thuê tháng chỉ còn lại chút xíu, ông vẫn cố gắng đến dự nhiều cuộc họp trên khắp nước Pháp, điều này cho mọi người thấy rằng ông nhận được trợ cấp từ Đảng Cộng sản.

Việc Nguyễn Ái Quốc chia tay với nhóm Gô-bơ-lanh đã diễn ra nhanh hơn một tuần là do bất đồng về quyết định thành lập Uỷ ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp để thúc đẩy việc học chủ nghĩa Mác-xít ở các thuộc địa của Pháp. Nguyễn Ái Quốc trở thành một thành viên tích cực và giữa tháng 6 năm 1921, ông đưa Phan Châu Trinh đến một trong những cuộc họp của Uỷ ban. Vài tuần sau, ông dự cuộc họp thứ hai tại Phông-ten-nơ-bơ-lô, cách Pa-ri 60 cây số về phía đông nam. Hai ngày sau khi trở về, ông đã có cuộc khẩu chiến cuối cùng tại căn hộ.

Một trong những kết quả tức thì của việc thiết lập Ủy ban Nghiên cứu Thuộc địa là việc hình thành một tổ chức mới để đại diện cho công dân các nước thuộc địa ở Pháp, đó là Liên hiệp Thuộc địa. Trong vài tháng, Nguyễn Ái Quốc đã cân nhắc việc thiết lập một nhóm như vậy. Trong một cuộc nói chuyện với một người quenkhi nằm ở bệnh viện tháng 2 năm 1921, ông có nhắc đến sự cần thiết phải thiết lập một tổ chức dưới hình thức của một hiệp hội tương hỗ để đoàn kết nhân dân các nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh giành độc lập. Trong một vài tháng, Hội những người yêu nước An Nam của ông đã hợp tác không chính thức với một nhóm người Ma-đa-ga-xca là thuộc địa của Pháp và đã thiết lập một uỷ ban hành động để điều phối các hoạt động chính trị chung. Các nhóm tương tự đã được những người châu Phi sống ở Pa-ri và Luân Đôn thiết lập. Giờ đây, theo lệnh của Uỷ ban, hình mẫu hợp tác không chính thức này được thể chế hóa bằng việc thành lập Liên hiệp Thuộc địa, Liên hiệp tự cho mình là có tiếng nói chủ chốt trong việc bảo vệ lợi ích của mọi người dân của các nước thuộc địa đang sinh sống ở Pháp. Được thành lập từ tháng 7 năm 1921, liên minh này có gần 200 thành viên. Hầu hết là từ Ma-đa-ga-xca và Việt Nam, mặc dù có một số là người Bắc Phi và Tây Ấn. Theo bản tuyên ngôn, mục tiêu công khai có tính ôn hòa của tổ chức này là chỉ tìm cách thông báo cho nhân dân các nước thuộc địa về những sự kiện xảy ra ở Pháp và nghiên cứu tất cả các vấn đề chính trị và kinh tế ở các nước thuộc địa – nhưng mục tiêu cuối cùng là tìm cách xóa bỏ hệ thống thuộc địa Pháp.

Ngay từ đầu, Nguyễn Ái Quốc là động lực chính của tổ chức mới này. Ông được bầu vào Ban điều hành cùng với một số đảng viên có uy tín khác của Đảng Cộng sản Pháp, thí dụ như người đồng hương của ông là Nguyễn Bắc Truyền, Mắc-xơ Bơ-lông-cua, một thành viên người Ma-đa-ga-xca và Hát A-li người An-giê-ri. Ông Quốc là ủy viên của ban điều hành và thường xuyên tham dự các cuộc họp của ban. Các cuộc họp lúc đầu diễn ra ở đại lộ Va-loa, gần công viên Mông-xô. Được Đảng Cộng sản Pháp tài trợ một phần, trụ sở của Liên hiệp này nằm ở số 3 đường Mác-sê đề Pa-tơ-ri-ác-sơ, một con đương hẹp gần ga Ô-xtéc-lít ở tả ngạn sông Xen. Với những nỗ lực đáng kể, ông đã bước đầu hợp nhất được các quyền lợi khác nhau của các nhóm. Theo như báo cáo của cảnh sát Pháp, điều này không dễ thực hiện chút nào. Sự ghen tị và cạnh tranh giữa các nước đã liên tục làm gián đoạn các hoạt động của nhóm, trong khi những người cánh tả gốc châu Âu thỉnh thoảng than phiền rằng họ bị ngăn không cho gia nhập tổ chức này một cách bất công do những hàng rào sắc tộc. Một số thành viên người Việt cáo buộc rằng các hoạt động giao lưu văn hóa được chú trọng quá nhiều và yêu cầu lập lại một tổ chức thuần túy của người Việt. Người châu Phi vặn lại rằng các thành viên châu Á cố chấp và ngạo mạn. Nguyễn Ái Quốc nhận thấy rằng khó có thể đưa những người dân thuộc địa vốn rất khác nhau vào cùng một tổ chức hoạt động có nguyên tắc.

Số người tham gia các cuộc họp của Đại hội đồng Liên hiệp đã giảm dần từ đỉnh cao là 200 người xuống còn 50 người mỗi phiên. Tại phiên họp tháng 2 năm 1923 chỉ còn 27 thành viên tham dự. Có hai thành viên là người Pháp, hai người là phụ nữ, cả hai người này đều được cho là tình nhân của các nhà hoạt động. Nguyễn Ái Quốc cũng có nữ liên lạc viên, mặc dù người ta không rõ những người bạn gái của ông có tham gia các hoạt động cấp tiến hay không. Ông đã có một thành công nhỏ: Phan Văn Trường, một thời đã cộng tác với ông soạn thảo yêu sách gửi các nhà lãnh đạo đồng minh ở Véc-xây, đồng ý gia nhập Liên hiệp.

Công tác tổ chức Liên hiệp Thuộc địa không phải là hoạt động duy nhất của Nguyễn Ái Quốc trong những năm cuối cùng sống ở Pa-ri. Qua việc liên lạc với các nhân vật cấp tiến Pháp, ông đã nhận biết giá trị của báo chí trong việc tuyên truyền về công cuộc cách mạng; đầu năm 1922, được sự khuyến khích của Ủy ban Nghiên cứu Thuộc địa và các thành viên khác của Liên hiệp Thuộc địa, ông quyết định thành lập một tờ báo mới có mục đích là kêu gọi nhân dân các nước thuộc địa đang sống tại Pa-ri, và cũng là tiếng nói của nhân dân các nước thuộc địa trên khắp đất Pháp. Tờ báo này có tên là Người cùng khổ, được in ở Pháp, nhưng tiêu đề của nó được dịch ra tiếng Trung Quốc và tiếng A-rập. Số báo đầu tiên ra ngày 1 tháng 4 năm 1922, các số tiếp theo ra đều đặn hàng tháng; sau đó, do các khó khăn về tài chính chồng chất nên các số báo phát hành thưa dần. Tờ báo có hình thức và kiểu cách đơn giản, mục đích là thông báo độc giả tin tức và quan điểm về các vấn đề thuộc địa.

Nguyễn Ái Quốc, hoạt động không mệt mỏi, là chủ biên của tờ báo này. Ông cũng là cây viết chính cho tờ báo và khi không có mặt những người khác thì ông thậm chí còn kiêm vẽ tranh, duyệt báo và chuyển báo đến với người mua định kỳ. Như ông đã kể lại:

“Có lần tôi vừa là chủ bút kiêm thủ quỹ và nhà phân phối tờ Người cùng khổ vừa là người bán. Các đồng chí từ các nước thuộc địa châu Á và châu Phi viết bài và kêu gọi sự đóng góp, tất cả những việc còn lại đều do tôi đảm nhiệm”.

Qua các trang báo Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục cải tiến phong cách viết báo của mình. Trong các bài xã luận – đôi khi mỗi số báo có từ hai đến ba bài xã luận – ông viết về các vấn đề quốc tế. Lúc thì là một bài báo phê phán một khía cạnh nào đó của đời sống thuộc địa, thí dụ như hành động độc ác của chính quyền Pháp ở châu Phi hoặc Đông Dương. Lúc thì là một mẩu chuyện về cuộc sống ở nước Nga, luôn được tả như một bức tranh về cảnh đồng quê thơ mộng, mặc dù là ông tất nhiên là chưa bao giờ đặt chân đến đó.

Bài viết của ông không có gì là đặc biệt. Ông đã biết được tầm quan trọng của việc dùng lối viết đơn giản và trực tiếp qua việc đọc các tác phẩm của Lê-ông Tôn-xtôi, tác giả của những cuốn tiểu thuyết mà ông ưa thích. Những bài báo của ông cũng không tinh tế. Ông chủ yếu dựa vào các thực tế và con số để đưa ra quan điểm, dường như đối với độc giả, ông là một cuốn từ điển thống kê sống về cuộc sống ở các nước thuộc địa, từ mức thuế thân ở Bờ Biển ngà đến ngân sách thuộc địa giành cho Đông Dương thuộc Pháp. Khi ông không chôn vùi kẻ thù trong đống dữ liệu của mình thì ông sử dụng cách nói châm biếm, nhưng ngôn từ của ông không theo lối mỉa mai, châm biếm của Lỗ Tấn, một nhà văn tài năng của Trung Quốc. Ông có xu hướng bỏ qua lý thuyết và dựa vào việc chỉ trích một cách phẫn nộ và thẳng thắn hệ thống thuộc địa và những tác động tàn bạo đối với những người bị đè nặng bởi sự thống trị.

Trong những năm sau đó, nhiều nhà nghiên cứu về ông ngỡ ngàng khi thấy một người có sức thu hút cá nhân lớn như vậy và một nhân cách tinh tế lại có một lối viết tẻ nhạt và độc đoán đến là thế. Tuy nhiên, đây chính là điểm mấu chốt của tính cách của ông và hiệu quả chính trị trong nhiều năm. Không giống nhiều nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa Mác khác, Nguyễn Ái Quốc thấy độc giả của mình không chỉ bao gồm chủ yếu là trí thức mà còn có cả dân thường như công nhân, nông dân, bộ đội và nhân viên hành chính. Ông không mong muốn gây ấn tượng đối với độc giả bằng trí tuệ uyên bác của mình mà ông cố gắng thuyết phục họ bằng cách viết đơn giản và sinh động để chia sẻ thế giới quan và quan điểm của ông về phương cách tạo nên thay đổi. Xấu nhất thì bài viết của ông là nhàm chán đối với độc giả tinh tế. Những bài tốt nhất đôi khi có sức mạnh nguyên sơ, nhất là khi ông mô tả nỗi kinh hoàng của hệ thống thuộc địa.

Người cùng khổ chẳng mấy chốc trở thành nổi tiếng và là tiếng nói chủ chốt ủng hộ những người bị áp bức ở Pháp. Như Nguyễn Ái Quốc đã viết sau này:

Chúng tôi bán báo cho các công nhân Việt Nam, những người không biết đọc tiếng Pháp, tuy nhiên, họ thích mua bởi vì họ biết rằng tờ báo chống phương Tây và sau khi mua, họ nhờ các công nhân Pháp đọc hộ. Ngoài ta, ở Pa-ri còn có những nơi mà chúng tôi có thể bán báo và có lãi. Bởi vì chúng tôi đều là những người đồng chí, họ bán báo cho chúng tôi và không lấy tiền chênh lệch, họ bán được rất nhiều báo bởi vì trên thực tế mọi số Người cùng khổ in ra đều được Bộ Thuộc địa Pháp mua.

Bất cứ ai bị bắt quả tang đang đọc báo này sẽ bị bắt ngay lập tức. Tuy nhiên, Nguyễn Ái Quốc đã tìm cách bí mật chuyển báo đến các thuộc địa, lúc đầu ông thu xếp để các thuỷ thủ có thiện cảm với cách mạng mang báo trong hành lý của họ. Khi các nhà chức trách Pháp bắt được thì lại có một cách mới. Cuối cùng, các báo được gửi đi bằng cách nhét vào các đồng hồ trò chơi. Đó là một cách tuyên truyền tốn kém nhưng đạt được mục đích.

Tuy nhiên thiếu kinh phí vẫn luôn là vấn đề phải lo lắng. Tờ báo nhận được trợ cấp thường xuyên từ Liên hiệp Thuộc địa, nhưng ít nhất nó phải tự trang trải một phần kinh phí. Nhìn chung, tờ báo bán không chạy. Số báo đầu tiên có 300 độc giả đặt báo, nhưng sau đó giảm xuống 200 trong tổng số 1.000 bản in cho mỗi số báo. Một số được bán tại các cuộc họp của Liên hiệp, và và trăm tờ được gửi qua nhiều đường khác nhau đến các nước thuộc địa. Số còn lại được bán tại các cửa hàng nhỏ. Chưa đủ, báo này còn được đem cho không. Cảnh sát vẫn lo ngại về tờ báo mà họ cho là phương tiện tuyên truyền của cộng sản. Tất cả những người đăng ký mua báo dài hạn đều nằm trong sổ đen của cảnh sát.

Nguyễn Ái Quốc tiếp tục viết bài cho các báo và tạp chí cánh tả khác ở Pa-ri. Ông cũng đã chuyển sang viết truyện. Năm 1922, Khải Định, vua của Việt Nam, được mời sang Pháp nhân một lễ kỷ niệm và dự triển lãm thuộc địa được tổ chức tại Mác-xây từ tháng tư đến tháng tám. Có tin đồn về một vụ ám sát và một số người nghi ngờ Nguyễn Ái Quốc hoặc Phan Châu Trinh có liên quan đến vụ này. Nhằm tránh dư luận không có lợi, An-be Xa-rô đã cố thuyết phục Phan Châu Trinh không tỏ ra phản đối chuyến thăm đó, nhưng Trinh đã bỏ qua đề nghị đó và viết một bức thư công khai gửi Vua. Trong thư, ông cực lực chỉ trích vai trò của ông ta như một nhà cầm quyền bù nhìn của một nước bại trận. Nguyễn Ái Quốc cũng nhân dịp đó thúc đẩy những mục tiêu của riêng ông, chủ biên các bài báo viết về chuyến thăm này và tự tay viết một bức thư, được công bố vào ngày 9 tháng 8 năm 1922, trên tờ Nhân dân. Bức thư mô tả Khải Định như một thứ đồ trang sức rẻ tiền được trưng bày tại một cuộc triển lãm, được giữ trong một cửa sổ cửa hàng trong khi người dân của ông ta còn ngập ngụa trong vũng bùn. Ông cũng sáng tác một vở kịch có tên Con rồng tre, chế nhạo vị hoàng đế và chuyến đi Pháp theo nghi thức hoàng gia. Vở kịch được những người đương thời mô tả là không thể quên được, được diễn vài ngày ở Câu lạc bộ Phô-bua. Khi tin đó lan sang Đông Dương, nó càng chia rẽ Nguyễn Ái Quốc và cha của ông. Khi được thông báo về các nhận xét của Quốc, ông Sắc đã nói bất cứ người con trai nào không công nhận vua thì cũng chẳng công nhận cha mình.

“Chuyến thăm của vua Khải Định là cơ hội cuối cùng để Nguyễn Ái Quốc và Phan Châu Trinh cùng đứng về một phe trong một vấn đề chính trị, nhưng họ đã không thể thống nhất về phương thức tốt nhất để giải phóng đất nước. Tháng 2 năm 1922, ông Trinh gửi một bức thư cho người đồng sự trẻ trong khi ông thăm Mác-xây. Bức thư không đả động gì đến sự khác biệt rõ ràng về ý thức hệ giữa hai người mà tập trung vào vấn đề chiến thuật.”

Trong khi giữ quan điểm của mình là coi trọng việc nêu cao tinh thần và tri thức của người Việt Nam thông qua giáo dục, ông Trinh công nhận rằng ông là người bảo thủ và một “con ngựa đã mệt” khi so sánh với Quốc, một “con ngựa lửa”. Nhưng ông lập luận rằng Quốc đang phí thời gian ở lại nước ngoài và viết những bài báo bằng thứ tiếng mà chẳng mấy người Việt Nam hiểu được. Ông nói, đó là sai lầm của Phan Bội Châu khi ông tìm cách tuyển những người yêu nước sang học ở Nhật Bản. Ông khuyên Quốc nên về nước và kêu gọi người dân trong nước. Ông kết luận, nếu được như vậy thì “tôi tin rằng thuyết mà anh hằng ấp ủ có thể được thấm nhuần trong tâm trí nhân dân chúng ta. Ngay cả nếu anh có thất bại thì những người khác sẽ tiếp tục gánh vác nhiệm vụ đó.”

Nguyễn Ái Quốc đang quá thiết tha với sự nghiệp đang tiến triển của mình trong phong trào cách mạng Pháp đến mức không lưu ý đến lời khuyên của ông Trinh. Trong vòng vài năm, từ chỗ được ít người biết đến, ông đã trở thành người đi đầu trong phong trào cấp tiến ở Pháp và thành viên có uy tín nhất của cộng đồng người Việt ly hương. Được sự trợ giúp của Gióc-giơ Pi-óc, một trí thức cấp tiến có uy tín có liên hệ với Câu lạc bộ Phô-bua, ông đã trau dồi kỹ năng nói và bắt đầu tham gia tích cực vào các cuộc thảo luận với các đảng viên có uy tín của Đảng Cộng sản Pháp. Tại Đại hội đầu tiên của Đảng tổ chức ở Mác-xây cuối tháng 12 năm 1921, ông đã phát biểu về vấn đề thuộc địa và được bầu làm đại diện của quận Xen.

Ngay sau khi Quốc đến Mác-xây để dự Đại hội, hai cảnh sát mặc thường phục tìm cách bắt giữ ông, nhưng ông đã thoát và đến tòa nhà nơi đang diễn ra cuộc họp. Cuối thời gian diễn ra hội nghị, ông được cái đại biểu hộ tống qua nhóm cảnh sát tuần tra đến một nơi bí mật cho tới khi ông có thể trở lại Pa-ri.

Tại thủ đô, cảnh sát tiếp tục giám sát mọi hành động đi lại của Nguyễn Ái Quốc, và vào tháng 11, có thể do áp lực từ cảnh sát, ông đã bị chủ đuổi việc tại cửa hàng nhiếp ảnh cạnh căn hộ ông ở. Thất nghiệp, ông tìm các công việc khác, nhưng cuối cùng ông đã quay lại với nghề nhiếp ảnh bằng cách thành lập một văn phòng ở ngay căn hộ của ông. Ông chỉ làm việc vào buổi sáng để thời gian còn lại tham gia các hoạt động chính trị.

Là đảng viên hàng đầu của Đảng Cộng sản Pháp và đại diện có uy tín nhất của các nước thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục thu hút sự quan tâm đáng kể của ngành an ninh Pháp. Cảnh sát theo dõi chặt chẽ các hoạt động hằng ngày của ông và hai cảnh sát được cử riêng để theo dõi ông mọi lúc. Ngày 22 tháng 6 năm 1922, An-be Xa-rô một lần nữa mời ông đến Bộ Thuộc địa để thẩm vấn. Trong suốt cuộc gặp, Bộ trưởng hết đe doạ lại mua chuộc ông. Xa-rô mở đầu cuộc nói chuyện bằng việc tuyên bố rằng những kẻ gây rối liên kết với các phần tử “Bôn-sê-vích” ở Pháp đang có dự tính gây rắc rối ở Đông Dương tất yếu sẽ bị đánh bại. Nhưng ông ta nói thêm rằng ông ngưỡng mộ những người như Nguyễn Ái Quốc vì họ có mục đích vững vàng và ý chí đạt mục đích đó. Nhưng với sức mạnh của ý chí thì phải có sự hiểu biết, Xa-rô kết luận, những gì đã qua thì cho qua. “Nếu ông cần bất cứ điều gì thì tôi luôn sẵn sàng phục vụ ông. Bây giờ chúng ta đã biết nhau, ông có thể đề cập thẳng với tôi.” Nguyễn Ái Quốc đứng dậy và cảm ơn Bộ trưởng rồi nói “Mục tiêu chính của cuộc đời tôi và cái mà tôi cần nhất là tự do cho đồng bào tôi. Tôi có thể đi được chưa?”.

Vài ngày sau, Quốc viết một bức thư gửi Bộ Thuộc địa, thư này được đăng trên tờ Người cùng khổ, Nhân đạo (nay là cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp) và Nhân dân. Ông bày tỏ lòng biết ơn về việc các nhà cầm quyền Pháp đã cung cấp cho ông một sĩ quan quân đội phụ tá riêng (rõ ràng là ám chỉ đến sự giám sát của cảnh sát) và nhận xét rằng:

“Khi mà Quốc hội đang cố tiết kiệm tiền và giảm biên chế hành chính, khi mà thâm hụt ngân sách lớn, khi mà ngành nông nghiệp và công nghiệp thiếu lao động, khi đang có các nỗ lực đánh thuế vào lương công nhân, và khi việc tái ổn định dân số cần có nhiều sức sản xuất, dường như vào lúc đó sẽ là không yêu nước nếu nhận ân huệ cá nhân, ân huệ làm mất quyền lực của các công dân – là các sĩ quan phụ tá – coi vô dụng và tiêu tiền do giai cấp vô sản đã đổ mồ hôi mới kiếm được”.

Ông nói thêm, để giải quyết vấn đề này, ông thông báo công khai các hoạt động thường ngày của mình:

Buổi sáng: từ 8-12 giờ ở xưởng

Buổi chiều: ở tòa báo (tất nhiên của cánh tả) hoặc thư viện.

Buổi tối: ở nhà hoặc tham dự các cuộc nói chuyện mang tính giáo dục.

Chủ nhật và các ngày nghỉ: thăm các bảo tàng và các nơi khác.

Chỉ có vậy.

Hy vọng rằng cách làm việc thuận tiện và hợp lý này sẽ làm cho Ngài hài lòng, chúng tôi xin gửi lời chào.

Nguyễn Ái Quốc

Rất có thể là Xa-rô-ê không thấy bức thư ngắn của Nguyễn Ái Quốc hài hước một chút nào. Rõ ràng là ông tiếp tục quan tâm đến hành tung của ông Quốc. Có lần Xa-rô-ê gửi cho Toàn quyền Mô-ri-xơ Lông Long ở Đông Dương một bức điện, thông báo rằng chính phủ đang xem xét đề nghị bắt Nguyễn Ái Quốc và trả ông về nước. Tuy nhiên, Lông nhìn nhận vấn đề theo một cách riêng, ông lập luận rằng nếu để ông ta ở Pháp thì sẽ dễ theo dõi các hoạt động của ông ta hơn. Khi Xa-rô-ê đề nghị đày ông Quốc ở một trong những vùng chịu ảnh hưởng của Pháp ở nam Trung Quốc, Long trả lời rằng ông Quốc có thể sẽ gây ảnh hưởng đối với các sự kiện ở Đông Dương từ một nơi gần về mặt địa lý như vậy.”

Cho đến lúc đó, việc quấy rối của các nhà chức trách có thể chỉ gây bực bội không đáng kể cho Nguyễn Ái Quốc. Có thể điều làm cho ông buồn nản hơn là thái độ của nhiều đồng chí của mình đối với cuộc đấu tranh chung. Mặc cho những nỗ lực của ông, người Pháp không có vẻ gì là đang xem xét vấn đề thuộc địa một cách nghiêm chỉnh. Sau sự khởi đầu được quảng cáo rầm rộ, Ủy ban Nghiên cứu Thuộc địa đã thực sự trở nên lỗi thời. Các tờ báo của Đảng hiếm khi đề cập các vấn đề thuộc địa. Ông phàn nàn rằng ngay cả tờ Nhân đạo cũng không dành cho sự nghiệp của nhân dân thuộc địa bị áp bức một vị trí xứng đáng. Ông viết, các tờ báo của giai cấp tư sản chú ý nhiều hơn đến các thuộc địa, và có nhiều chiến sĩ “vẫn nghĩ rằng thuộc địa là một nước có nhiều cát dưới chân và mặt trời trên đầu, một vài cây dừa xanh và người da màu, và thế là hết.”

Ông Quốc than vãn rằng việc Đảng không giải quyết vấn đề thuộc địa dẫn đến việc thiếu hiểu biết chung giữa giai cấp công nhân Pháp và giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa. Các công nhân Pháp coi dân bản xứ là kém cỏi hơn và không đáng kể, không hiểu biết chứ chưa nói gì đến hành động. Tuy nhiên, ông cũng công nhận rằng thành kiến đến từ cả hai phía. Ở các thuộc địa, tất cả những người Pháp, bất kể thuộc tầng lớp nào, đều bị coi là “những kẻ bóc lột tàn ác”.

Nguyễn Ái Quốc kiên trì thúc giục những người đồng chí của mình về vấn đề thuộc địa. Tại đại hội Đảng Cộng sản Pháp tổ chức tại Pa-ri tháng 10 năm 1922, ông và các đại diện khác của các lãnh thổ thuộc địa đã trình một nghị quyết thúc giục phong trào Cộng sản thế giới chú ý hơn nữa đến vấn đề thuộc địa. Nhưng ngay cả sau hội nghị Tua và sau khi những người có ý kiến ôn hòa ra đi, thái độ trọng châu Âu vẫn bao trùm trong các phần tử cấp tiến gia nhập Đảng Cộng sản. Đôi khi giới lãnh đạo có những cố gắng không dứt khoát trong việc tổ chức cộng đồng công nhân Việt Nam ở Pháp (hầu hết là những người lao động chân tay, công nhân bốc vác và đầu bếp). Một số người Việt được bổ nhiệm vào các chức vụ có uy tín của đảng. Nhưng hầu như chỉ vậy.

Sự phẫn nộ của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề này có thể đã làm tăng giọng chống Pháp trong các bài viết của ông. Cuối năm 1921, khi trở về từ Mác-xây, nơi mà ông đã chứng kiến điều kiện làm việc khổ sở của công nhân người Việt ở cảng, ông bắt đầu ký các bài báo của mình với bút danh mới là Nguyễn Ô Pháp, có nghĩa là “Nguyễn ghét người Pháp”. Có lần ông giận dữ bỏ đi sau một cuộc phỏng vấn với một đảng viên lâu năm của Đảng, người có trách nhiệm giải quyết các vấn đề thuộc địa. Đáp lại, người cộng sản Pháp trẻ tuổi mới nổi Giắc-cơ Đô-ri-ô chỉ ôn tồn khuyên ông giảm bớt giọng trong các bài báo.

Tháng 3 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc rời căn hộ nhỏ ở ngõ Công-poanh và chuyển vào trụ sở của tờ Người cùng khổ, nay ở trụ sở của Liên hiệp Thuộc địa trên đường Mác-sê đề Pa-tri-ác-sơ. Có thể việc chuyển chỗ ở là để tạo thuận lợi hơn cho công việc của ông hoặc cho việc giữ quỹ. Văn phòng của tờ báo nằm ở tầng trệt, ông ở một phòng ở tầng trên với giá 100 quan một tháng. Đây là nơi cuối cùng của ông ở Pa-ri.

Trong việc xuất bản tờ báo, ông nhận được sự giúp đỡ của một ngôi sao trẻ đang lên trong phong trào dân tộc Việt Nam, ông Nguyễn Thế Truyền. Sinh năm 1898 gần Hà Nội, ông Truyền đến Pa-ri năm 1920 để học nghề kỹ sư. Một năm sau, ông gia nhập Đảng Cộng sản Pháp và bắt đầu cộng tác với ông Quốc tại Liên hiệp Thuộc địa. Trong thời gian dài ông gần như là đồng sự gần gũi nhất của ông Quốc trong cộng đồng người Việt.

Tháng mười trước đó, trong khi tham dự Đại hội Đảng ở Pa-ri, Nguyễn Ái Quốc đã gặp Đi-mi-tơ-ri Ma-nun-xki, một quan chức cao cấp của Quốc tế Cộng sản ở Liên Xô. Tại Đại hội, Ma-nun-xki đã nghe ông Quốc công khai chỉ trích việc thiếu quan tâm đến vấn đề thuộc địa trong nội bộ đảng. Nhiều tháng sau đó, khi Ma-nun-xki được lệnh của Ủy ban điều hành của Quốc tế cộng sản chuẩn bị một báo cáo về các vấn đề quốc gia và thuộc địa để trình bày tại Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ năm mùa hè năm 1924, ông đã nghĩ đến người Việt Nam trẻ tuổi đầy nhiệt huyết ở Pa-ri. Nguyễn Ái Quốc đã được mời đến Mát-xcơ-va theo đề nghị của đồng chí Ma-nun-xki để làm việc cho Quốc tế Cộng sản III.

Với Nguyễn Ái Quốc, lời mời đến Mát-xcơ-va là một phần thưởng cho những nỗ lực của ông nhân danh Đảng, và có thể là một cơ hội để quay lại châu Á nhằm thúc đẩy công cuộc cách mạng ở Việt Nam. Nhưng ông giải quyết việc này với sự thận trọng cố hữu của mình. Để tránh lộ tin tức về chuyến đi của ông cho cảnh sát, ông báo với bạn bè rằng ông sắp đi miền nam nước Pháp nghỉ 3 tuần. Sau đó, khi đã lên lịch hoạt động thường xuyên nhằm đánh lạc hướng hai “sĩ quan” của mình để họ nới lỏng việc giám sát, ngày 13 tháng 6 ông đã bí mật rời một rạp chiếu bóng bằng cửa sau và vội vã đến Nhà ga phía Bắc, nơi một người bạn trao hành lý cho ông và sau đó ông đi tàu đến Béc-lin trong vai một thương nhân châu Á giàu có ngậm một điếu xì-gà. Ông đến Béc-lin vào ngày 18 khi mà tiền đã cạn nhanh chóng do tỉ lệ lạm phát khủng khiếp ở nước Đức thời hậu chiến. Nhờ liên lạc với Đảng Cộng sản Đức, ông tiếp tục đến Hăm-buốc. Sau đó ông lên tàu khách Các Lép-nhếch để đến nước Nga Xô viết. Ông đến Pê-trô-gơ-rát vào ngày 30 tháng 6 với thị thực mang tên Trần Vang, một thương nhân người Trung Quốc.

Việc Nguyễn Ái Quốc rời Pa-ri đột ngột làm cảnh sát ngạc nhiên. Những người vẫn theo dõi ông lúc đầu báo cáo lên Bộ Thuộc địa rằng ông đã rời khỏi nhà với hai bàn tay trắng nhưng không trở lại. Sau đó họ đã mắc mưu ông và cho rằng ông đã đi nghỉ ở phương nam. Chỉ sau đó nhiều tuần họ mới nhận ra rằng ông đã đi nước Nga Xô viết. Việc ông biến mất đã làm cho người quen của ông hoang mang. Ông đã gửi thư cho bạn bè nói rằng ông đã rời Pháp và xin lỗi vì ông đã không báo cho đồng sự của ông về sự ra đi đột ngột này. Ông nói một cách gián tiếp là ông sẽ rút lui vào bí mật và sẽ không trở về sau nhiều năm. Ông còn hứa sẽ viết thư cho họ.

Rời Pa-ri đi nước Nga Xô viết, Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện cuộc đoạn tuyệt mang tính biểu tượng cuối cùng với con đường cải cách của bạn ông là ông Phan Châu Trinh và đi theo sự nghiệp cách mạng của Vla-đi-mia Lê-nin. Nhưng người bạn già của ông ở biệt thự Gô-bơ-lanh chúc ông thành công. Trong một bức thư gửi một người quen là người Việt Nam vào tháng 9, ông Trinh đã bảo vệ ông Quốc trước những chỉ trích nhắm vào ông: “Mặc dù Nguyễn Ái Quốc còn trẻ và các hành động của ông ấy không được suy xét một cách khôn ngoan, nhưng điều đó không quan trọng bởi vì Nguyễn Ái Quốc có một trái tim yêu nước”. Ông Trinh kết luận, Quốc đã lựa chọn con đường khó khăn và đơn độc để giải phóng đồng bào mình và mọi người phải tôn trọng trái tim đầy nhiệt huyết của ông.
 
Chương III: NHÀ CÁCH MẠNG NON TRẺ

Cuối mùa hè năm 1923, nước Nga Xô-viết vẫn đang phục hôi sau gần 7 năm chiến tranh, cách mạng và xung đột trong nước đầy gian khó. Bên ngoài Pê-trô-grát, Mát-xcơ-va và một số thành phố lớn khác ở các vùng châu Âu của nước Nga, theo những lời đáng nhớ của Lê-ôn Trốt-xki, cách mạng tháng Mười là một “cuộc cách mạng qua điện tín”. Ở các làng quê và thị trấn nằm rải rác trên đế chế Nga rộng lớn, Lê-nin chỉ có khoảng 50.000 người Bôn-sê-vích, chỉ vào thời điểm diễn ra các cuộc nổi dậy, nhận được sự ủng hộ ít ỏi của hàng triệu nông dân Nga, những người không hiểu gì về tư tưởng Mác và thậm chí còn không quan tâm đến số phận của cách mạng thế giới.

Lúc đầu, ban lãnh đạo cách mạng mới đã cố gắng hợp pháp hoá bằng cách thông báo về sự ra đời của chính phủ mới bằng cách điện tín cho tất cả các đơn vị hành chính. Nhưng chẳng mấy chốc mọi người nhận thấy rằng một tờ giấy như vậy chưa đủ để đưa ra quyền lực cách mạng đến được vùng xa xôi của Sa hoàng. Vài tuần sau khi tấn công Cung điện Mùa đông vào tháng 10 năm 1917 (theo lịch Nga), các lực lượng đối lập bắt đầu xuất hiện: Các phần tử Bạch vệ trung thành với Sa hoàng Ni-cô-lai đệ nhị và hệ thống quân chủ cũ; các lực lượng dân tộc trong các nhóm dân tộc thiểu số dưới đế chế cũ, từ U-crai-na đến Trung á; thậm chí cả các đội quân nước ngoài đóng ở Nga để giúp đánh Đức.

Đảng Bôn-sê-vích đã cấp tốc huy động nhân lực từ lực lượng công nhân và nông dân nghèo để xây dựng Hồng quân, sau 3 năm đổ máu, cuối cùng chính phủ đã trấn áp được các lực lượng phản cách mạng và thiết lập sự kiểm soát chặt chẽ đối với nhà nước Xô-viết mới. Nhưng trong quá trình đó, chính phủ đã xa rời các tầng lớp chủ chốt trong xã hội Nga, trong đó có nông dân, những người mà mùa màng của họ bị nhà nước trưng thu để nuôi Hồng quân và người lao động trong các thành phố, các thành viên của các nhóm dân tộc không phải là người Nga mà lãnh đạo của họ đã bị đánh bại và làm suy yếu một cách không thương tiếc bởi lực lượng an ninh Xô-viết, và những người khác bị lực lượng an ninh của Phơ-lích Dơ-din-ski bắt giữ và hành quyết, thường được biết đến với cái tên Checa (Uỷ ban đặc biệt)

Khi nước Nga cố gắng phục hội sau cuộc nội chiến, Lê-nin cũng phải nhận thấy rằng Nga cần phải trải qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa trước khi bắt đầu quá trình chuyển đổi khó khăn lên chủ nghĩa xã hội. Năm 1921, ông thúc đẩy một chương trình phát triển kinh tế-xã hội ôn hoà hay còn gọi là Chính sách Kinh tế mới. Các nhân tố chính của chương trình này là kết hợp các kỹ thuật của tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa để tăng cường sản xuất, trong khi đó phổ biến khái niệm sở hữu của chủ nghĩa xã hội và duy trì sự quản lý vững chắc của Đảng đối với hệ thống chính trị. Các ngành mũi nhọn và công ích và các ngân hàng vẫn nằm trong tay nhà nước nhưng doanh nghiệp tư nhân thì hoạt động ở các cấp độ thấp hơn. Việc trưng thu ngũ cốc bắt buộc, gây ra sự bất ổn nghiêm trọng ở khu vực nông thôn, đã được thay thế bằng việc đánh thuế sản xuất. Đất đai vẫn nằm trong tay tư nhân.

Những ngày đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc ở thiên đường xã hội chủ nghĩa mới mà trước đó ông đã mô tả đầy nhiệt huyết trong các bài báo viết ở Pháp chắc hẳn đã làm cho ông ít nhiều mất đi quyết tâm. Sau khi rời tàu Karl Liebknecht ở bến cảng Pê-trô-grát, ông đã bị một nhân viên nhập cảnh trẻ đầy hoài nghi thẩm vấn. Do thiếu giấy tờ chính thức ngoại trừ thị thực giả mang tên một nhà buôn Trung Quốc, thị thực này trước đó được lãnh sự quán Xô-viết ở Béc-lin chấp nhận, và không có địa chỉ liên lạc trong thành phố, ông đã bị giữ lại trong vòng vài tuần “trong một không khí căng thẳng” cho đến khi lai lịch của ông được xác minh bởi một đại diện của Đảng Cộng sản Pháp ở Mát-xcơ-va. Sau đó ông được phép đi lại và lên tàu đi Mát-xcơ-va vào cuối tháng 7. Sau khi ở tạm trong một khách sạn gần điện Crem-lanh, ông được vào làm ở Văn phòng Viễn Đông (Đan-bu-rô) tại trụ sở của Quốc tế Cộng sản đối diện với Bảo tàng Rumyantsev (nay là thư viện Lê-nin).

Đan-bu-rô được thành lập do kết quả Đại hội lần thứ hai của Quốc tế Cộng sản năm 1920 theo đề nghị của Ma-rinh (tên thật là Hen-đơ-rích Sni-vơ-liết), đại biểu người Hà Lan, người mà sau này trở thành người có uy tín với tư cách là cố vấn của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Là một người tin tưởng sâu sắc vào tầm quan trọng của các vùng thuộc địa đối với tương lai của cách mạng thế giới, Maring đã đề nghị thành lập các phòng tuyên truyền cho Trung Đông và Viễn Đông cũng như mở một Viện Mác-xít ở Mát-xcơ-va để đào tạo cho các nhà lãnh đạo cách mạng châu á có triển vọng. Với việc các luận chứng của Lê-nin sắp được thông qua, đề nghị của Ma-rinh cũng đã được chấp thuận, và tháng 6 sau đó, tại một cuộc họp của Uỷ ban điều hành của Quốc tế Cộng sản, Văn phòng Viễn Đông đã được thành lập dưới sự dẫn dắt của các học giả Đông phương học người Nga G.Xa-pha-rốp.

Trong những tháng sau đó, các nhà lãnh đạo Quốc tế Cộng sản đã thực hiện một số bước khác để thúc đẩy việc thành lập các phong trào cách mạng ở châu Á và châu Phi. Tất cả các Đảng Cộng sản ở Tây Âu đã được hướng dẫn thiết lập các Uỷ ban thuộc địa để đánh giá tình hình và ủng hộ cuộc đấu tranh của những người bị áp bức ở thuộc địa của họ (do đó Ban nghiên cứu thuộc địa đã được đặt ở Pháp). Trong khi đó, đã có các kế hoạch thiết lập các viện đào tạo ở nước Nga Xô-viết để truyền bá cho những người có tư tưởng cấp tiến của châu á và châu Phi và chuẩn bị cho họ quay về quê hương để tiến hành các hoạt động cách mạng. Đến lúc đó, Quốc tế Cộng sản III đã bắt đầu tham gia vào một số hoạt động ban đầu ở Đông á. Mùa xuân năm m1920, một đại diện của Quốc tế cộng sản là Gơ-ri-go-ri Voi-tin-xơ-ki đã được cử sang Trung Quốc để liên lạc với các nhà cách mạng Trung Quốc. Các đại diện khác đóng ở Vla-di-vô-xtốc cũng sang Thượng Hải, Sài Gòn và Xin-ga-po để thiết lập đường dây liên lạc với các phần tử cấp tiến và giúp họ hoạt động cách mạng. Tháng 11, có tin là hai người Nga vừa chân ướt chân ráo đến Sài Gòn đã bị trục xuất do bị nghi vấn là đã thực hiện các hoạt động đó. Với tính cách năng nổ, Nguyễn Ái Quốc đã không để phí thì giờ làm cho mọi người biết đến sự hiện diện của mình. Chẳng bao lâu sau khi đến Mát-xcơ-va, ông viết một bức thư gửi Uỷ ban Trưng ương Đảng Cộng sản Pháp, chỉ trích các đồng sự của mình đã không chú ý gì đến các quyết định của Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ tư và mở rộng các hoạt động về các vấn đề thuộc địa. Trong khi ông công nhận rằng Đảng Cộng sản Pháp đã bước đầu tuân theo lệnh của Quốc tế Cộng sản III thiết lập Ban nghiên cứu thuộc địa cũng như có một chuyên mục thường kỳ về vấn đề thuộc địa trên tờ báo Đảng L’Humanite (Nhân Đạo), ông phàn nàn rằng trong những tháng gần đây, chuyên mục đó đã bị đình lại và thiếu ông, uỷ ban trên hầu như đã chết rồi. Ông nêu rõ,”Các tuyên bố đưa ra tại Đại hội toàn quốc ủng hộ người dân thuộc địa đã giúp củng cố tình cảm của họ đối với Đảng, nhưng “nếu chỉ lặp đi lặp lại một điều mà không thực hiện thì không hợp lý”. Người dân thuộc địa, thấy có nhiều lời hứa mà có rất ít việc làm cụ thể, sẽ bắt đầu tự hỏi liệu những người cộng sản có nghiêm túc không hay chỉ bịp bợm. Cuối thư, ông nhắc nhở rằng một điều kiện then chốt để gia nhập Quốc tế Cộng sản III là vận động một cách hệ thống để ủng hộ công cuộc giải phóng người dân thuộc địa.

Nguyễn Ái Quốc cũng đã viết một báo cáo lên Đoàn chủ tịch của Ban điều hành Quốc tế Cộng sản III, nêu chi tiết ý tưởng của mình về phương cách thúc đẩy đấu tranh cách mạng ở Đông Dương. Theo như ông mô tả, tình hình hầu như chẳng có hứa hẹn gì. Bắc Kỳ và Nam Kỳ nằm dưới sự kiểm soát trực tiếp của người Pháp, trong khi Trung Kỳ về danh nghĩa vẫn nằm dưới quyền của triều đình, nhưng thực tế cũng nằm dưới ách đô hộ thực dân. Giới vô sản thành thị chỉ chiếm 2% tổng dân số và chưa có tổ chức. Có một tầng lớp trung lưu nhỏ, chủ yếu sống ở các thành phố lớn là Hà Nội và Sài Gòn và ở các thành phố là thủ phủ của các tỉnh trên toàn đất nước, tuy nhiên, về mặt kinh tế, bộ phận dân cư này chủ yếu bao gồm Hoa kiều. Giai cấp tư sản bao gồm các tiểu thương, viên chức, cán bộ chính phủ ở cấp thấp, và thợ thủ công có rất ít và không có quan điểm chính trị kiên định, mặc dù họ thực sự có xu hướng ủng hộ sự nghiệp độc lập dân tộc. Nông dân bị đàn áp nặng nề và nếu được tổ chức họ sẽ là lực lượng đầy tiềm năng của phong trào cách mạng. Nhưng lực lượng chủ chốt trong chính sách hành động mạnh mẽ về chính trị là trí thức và học giả yêu nước. Ông nói, chính họ đã phát động các cuộc khởi nghĩa chống chính quyền trước đây. Do đó nhu cầu cấp thiết là có hoạt động phối hợp giữa những người yêu nước “cách mạng dân tộc” và một Đảng Cộng sản.

Các khuyến nghị của Nguyễn Ái Quốc hoàn toàn theo chủ nghĩa Lê-nin, như đã được phản ánh trong các “Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lê-nin. Nhưng trong bối cảnh các sự kiện đang diễn ra tại Mát-xcơ-va, nơi mà sự quan tâm dành cho các vùng thuộc địa đã giảm sút mạnh mẽ kể từ những ngày nóng vội của Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ hai, người ta nghi ngờ không biết các ý tưởng của ông có thu hút sự quan tâm của những người cấp trên không. Trong khi đó, các quan chức có ảnh hưởng ở Xô-viết dần dần nhận biết sự có mặt của nhà cách mạng trẻ đầy tham vọng đến từ Đông Dương và thực tế ông là một trong số ít nhà cộng sản châu á sống ở Mát-xcơ-va lúc đó, họ nhận thức được về những gì ông có thể làm. Trong suốt mùa hè năm 1923 đã có sự quan tâm mạnh mẽ tới quan điểm của Lê-nin về một chính phủ công nông ở các xã hội chưa trải qua thời kỳ cách mạng công nghiệp. Ở Pra-ha, các phần tử theo chủ nghĩa dân tuý đã thiết lập một “Quốc tế Xanh” nhằm nhận được sự hỗ trợ của các nhóm nông dân ở khu vực. Nổi lên trong nỗ lực này là nhà cộng sản người Ba Lan Thô-mát Đôm-ba (còn gọi là Dabal), người mà trước đó đã bị chính phủ Ba Lan bắt và đưa sang Mát-xcơ-va vào mùa xuân năm 1923 để trao đổi tù binh với nước Nga Xô-viết.

Trong bối cảnh hầu hết những người Bôn-sê-vích, phản ánh quan điểm của những người theo chủ nghĩa Mác-xít châu Âu khác đứng đầu là Các Mác, luôn nghi ngờ rằng nông dân về bản chất là “tư sản” trên cơ sở khái niệm tài sản tư nhân, rất ít quan chức của Quốc tế Cộng sản III quan tâm nhiều đến các ý tưởng của Đôm-ba, nhưng họ đồng ý thúc đẩy thực hiện những ý tưởng này. Để chuẩn bị tổ chức một hội nghị mang tính tổ chức, họ tận dụng một cuộc triển lãm nông nghiệp quốc tế ở Mát-xcơ-va vào tháng 8, và quyết định tìm kiếm một phòng họp rộng cho người nước ngoài có quan tâm đến nông thôn, những người có thể được nhận làm đại biểu của cuộc họp đó. Nguyễn Ái Quốc, dường như quan tâm đến mọi sự việc đang diễn ra ở Mát-xcơ-va, đã tham dự triển lãm khai trương lần đầu vào tháng 8, và người ta phỏng đoán rằng ông đã được chọn làm đại biểu đại diện cho Đông Dương tại Hội nghị Nông dân Quốc tế tổ chức tại Mát-xcơ-va vào ngày 10 tháng 10 năm 1923. Ông đã nói lên quan điểm của mình về vai trò của giai cấp nông dân trong báo cáo gửi Ban điều hành Quốc tế Cộng sản, khi ông nhận xét rằng vì họ bị bóc lột một cách nghiêm trọng, họ “rất yêu nước”.

Hội nghị được tổ chức tại Cung điện An-đrây-ép-xki, trong Điện Crem-lin, và Nguyễn Ái Quốc tham dự với tư cách là một trong 150 đại biểu đến từ 40 nước khác nhau. Mi-kha-in Ka-li-nin, một đảng viên kỳ cựu mới được cử làm Chủ tịch Liên bang Nga, đã phát biểu khai mạc, trong khi Bôn-sê-vích cựu trào là Gơ-ri-go-ri Di-nô-vi-ép, lúc đó là người đứng đầu Quốc tế cộng sản, đã trình bày quan điểm chính thức của Đảng về vai trò của nông dân trong cách mạng thế giới.

Nguyễn Ái Quốc đã phát biểu tại Hội nghị ngày 13. Ông phát biểu bằng tiếng Pháp vì lúc đó vốn tiếng Nga của ông chưa đủ và không đề cập khả năng thông qua một “chiến lược nông thôn” ở các vùng thuộc địa cũng như việc nông dân cần phải có vai trò cụ thể trong tiến trình cách mạng châu á mà trình bày một cách đơn giản không hoa mỹ về những điều kiện khó khăn của người dân nông thôn ở nhiều xã hội thuộc địa châu á, nêu rõ ràng nông dân là những nạn nhân chịu nhiều đau khổ nhất của chế độ áp bức đế quốc trong khu vực. Ông khẳng định, Quốc tế Cộng sản sẽ trở thành Quốc tế Cộng sản theo đúng nghĩa chỉ khi có sự tham gia tích cực của đại diện của giới nông dân châu Á.

Kết thúc cuộc họp, ban tổ chức đã đồng ý thành lập Quốc tế nông dân mới (tiếng Nga là Crét-ti-an-xki Anh-téc-na-xi-o-nan, viết tắt là Krest-intern). Mục đích của tổ chức này là “thiết lập và duy trì quan hệ vững chắc với các hợp tác xã và các tổ chức chính trị và kinh tế của nông dân ở khắp các nước” và “điều phối các tổ chức nông dân và các nỗ lực của nông dân nhắm thực hiện khẩu hiệu xây dựng một chính quyền công nông”. Một Hội đồng nông dân quốc tế cũng đã được thiếp lập và Nguyễn Ái Quốc được bầu làm một trong 11 thành viên của Đoàn chủ tịch của Hội đồng. Chức vụ Tổng thư ký của Quốc tế nông dân được trao cho một quan chức có uy tín của phe Bôn-sê-vích là A-lếch-xan-đơ Xmi-nốp. Đôm-ba được cử làm trợ lý.

Tháng 12 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu theo các khoá học tại Trường đại học Lao động cộng sản phương Đông. Được thành lập theo lệnh của Lê-nin năm 1921 theo các quyết định của Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ hai vào năm trước đó, lúc đầu trường được đặt dưới quyền hạn của Uỷ ban nhân dân các dân tộc của Giô-dép Xta-lin và do đó trở nên nổi tiếng với cái tên “Trường Xta-lin”. Theo địa chỉ của Xta-lin, trường này đã trở thành học viện hàng đầu đào tạo các nhà cách mạng châu Á được mời đến nước Nga Xô-viết để học cũng như các cán bộ không phải người Nga đến từ các vùng phía đông của đế chế Sa hoàng cũ. Học viện thứ hai, Trường Quốc tế Lê-nin, được thành lập để đào tạo các cán bộ cao cấp đến từ các nước Tây Âu.

Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc có một bài báo ngắn trên tờ La Vie ouvriere (Đời sống công nhân) trong đó mô tả đặc điểm của trường, và thông tin này, cùng với tài liệu mà các sở tình báo Pháp thu thập được lúc đó và công trình mới hoàn tất của các nhà nghiên cứu Nga ở Mát-xcơ-va đã cho thấy một bức tranh khá rõ nét về trường này và các hoạt động của trường. Trong thời gian ông học ở đó, có hơn 1.000 sinh viên đến từ 62 nước khác nhau. Hầu hết những người nhập học đến từ các vùng Xô-viết chiếm đóng ở Trung á, nhưng cũng có một số người nước ngoài, trong đó có một vài người Trung Quốc và Triều Tiên. Không có sinh viên nào đến từ Đông Dương trước khi ông Nguyễn Ái Quốc đến. Gần 900 người là đảng viên của các Đảng Cộng sản và khoảng 150 người là phụ nữ. Khoảng một nửa trong số đó xuất thân từ các gia đình nông dân, trong khi số người còn lại là công nhân và “các trí thức vô sản”.

Có 150 giáo viên ở trường, dạy nhiều khoa học khác nhau, trong đó có khoa học xã hội và tự nhiên, toán học, lịch sử cách mạng và phong trào công nhân và học thuyết Mác về chủ nghĩa duy vật lịch sử. Dạy học không dùng các bài giảng mà qua việc sử dụng phương pháp Xô-crát, theo đó sinh viên được giao cho các chủ đề cá nhân để chuẩn bị với sự giúp đỡ của giáo viên và thảo luận trên lớp. Các giáo trình gồm có cuốn Nhà nước và Cách mạng của Lê-nin, Cách mạng tháng Mười và các chiến thuật của chủ nghĩa Cộng sản Nga của Xta-lin, và cuốn Lịch sử Nga: Một chặng đường ngắn của I.M.I-a-rốt-láp-xki. Trường là một toà nhà mười tầng với trụ sở đặt ở tu viện cổ ở phố Vớt-kai-a (nay là Gorki) và các quán cà-phê và nhà ở tập thể ở gần đồn công an cũ.

Trường được quản lý theo quy định nghiêm ngặt của quân đội và sinh viên không chỉ học trên lớp mà còn được đào tạo nghiệp vụ quân sự và được dạy về các hoạt động cách mạng có ích như làm thế nào để kêu gọi đình công và tuyên truyền. Ban đầu các lớp được dạy bằng tiếng Pháp hoặc bằng tiếng mẹ đẻ của sinh viên, nhưng sau đó sinh viên được khuyến khích nói chuyện bằng tiếng Nga (một yêu cầu không phải lúc nào cũng được thực hiện). Chỗ ở được miễn phí nhưng tất cả các sinh viên được khuyến khích thay phiên nhau làm các công việc hành chính hoặc làm việc trong nhà bếp. Các chi bộ đảng được thành lập để kiểm soát hành vi của các đảng viên và bảo đảm sự chính thống về tư tưởng. Khi nhập học, mỗi sinh viên được đặt cho một biệt hiệu và chỉ có cán bộ an ninh của trường mới biết được lai lịch của sinh viên đó.

Học ở trường không phải là khó nhọc lắm. Năm học bắt đầu từ tháng 9 đến đầu tháng 7 trong đó có 3 tuần nghỉ Nô-en và một tuần nghỉ vào mùa xuân. Mỗi tuần sinh viên được đến rạp chiếu phim hai lần và có hai trại ở Crimea để sinh viên tham gia các hoạt động vừa làm việc vừa học tập trong kỳ nghỉ hè. Ở đó một số sinh viên được dạy cách nuôi gia súc, trong khi những người khác trồng trọt trên một trăm mẫu đất để làm thực phẩm phục vụ trại hè. Trong suốt kỳ nghỉ, sinh viên giúp nông dân địa phương thu hoạch hoặc tham gia các dịch vụ cộng đồng khác. Tuy nhiên, nhiều sinh viên, có thể do không quen với cái lạnh kinh khủng của mùa đông nước Nga, bị ốm và vì lý do đó mà một số bị loại không được tham gia chương trình nữa. Một sinh viên Việt Nam bị mắc bệnh lao và yêu cầu được chuyển đến một thành phố ở phía Nam Liên-Xô.

Như Nguyễn Ái Quốc mô tả trong bài báo của mình, trường là một nơi thanh bình để học tập. Có hai thư viện với 47.000 đầu sách và mỗi quốc gia có học sinh học ở trường có một ngăn sách và tạp chí bằng ngôn ngữ của quốc gia đó. Các sinh viên “nghiêm túc và đầy nhiệt huyết” và “có niềm đam mê cháy bỏng muốn thu kiến thức và học tập”. Nhân viên và giáo viên đối xử với các sinh viên nước ngoài “như những người anh em” và thậm chí còn mời họ “tham gia vào đời sống chính trị của đất nước”.

Nguyễn Ái Quốc không hài lòng với mọi mặt của trường này. Chẳng bao lâu sau khi tham dự lễ kỷ niệm lần thứ ba của trường vào tháng tư năm 1924, ông viết một bức thư gửi đồng chí Pê-tơ-rốp, thư ký của Văn phòng Viễn Đông, phàn nàn rằng thực ra không có người Việt Nam nào học tại trường và gợi ý rằng cần xây dựng một khu riêng cho sinh viên châu Á. Ông nêu rõ, trường Xta-lin làm một khuôn mẫu định hướng tư tưởng của thế hệ các nhà cách mạng châu á sau này và sẽ trở thành cơ sở để cuối cùng thành lập một “hiệp hội” Cộng sản của phương Đông.

Trường Xta-lin có hai cấp-một chương trình cơ bản kéo dài 3 năm về chủ nghĩa Mác-Lê-nin và các ngành khoa học, và một “khoá ngắn hạn” trong khoảng 7 tháng cho các sinh viên học ngắn hạn. Nguyễn Ái Quốc theo học khoá ngắn hạn, có lẽ vì ông đang làm việc cho Quốc tế Cộng sản và không có ý định ở lại thêm Mát-xcơ-va. Ông cũng tham gia một số tổ chức khác do Xô-viết thành lập cách đó ít lâu, thí dụ như Quốc tế Lao động đỏ, Quốc tế Thanh niên và Quốc tế phụ nữ. Rõ ràng là giới lãnh đạo Quốc tế Cộng sản coi ông là biểu tượng của các dân tộc thuộc địa, người đóng góp một nét châu á cho vô số các hoạt động mặt trận được thành lập trong những ngày tháng sôi động ấy. Đầu tháng 5 năm 1924, ông được mời tham gia các lễ kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động hằng năm và nói chuyện về tình đoàn kết công nhân quốc tế tại các lễ hội ở Quảng trường Đỏ. Hai tháng sau, ông tham gia vào Đại hội lần thứ ba Quốc tế Lao động Đỏ với tư cách là đại diện của Đông Dương. Ông cũng tham dự Đại hội phụ nữ quốc tế, nơi mà ông có cuộc nói chuyện ngắn với người vợ goá của Lê-nin là bà Na-đê-đa Cờ-rúp-xkai-a. Qua vô số các hoạt động khác nhau ấy, Nguyễn Ái Quốc dần dần trở thành một nhân vật nổi tiếng ở Mát-xcơ-va và quen biết các nhân vật chủ chốt của phong trào Cộng sản quốc tế, thí dụ Bôn-sê-vích cựu trào Ni-cô-lai Bu-kha-rin, nhà cộng sản Phần Lan ốt-tô Ku-xi-nen, lãnh đạo Quốc tế Cộng sản người Bun-ga-ri Gioóc-giơ Đi-mi-tơ-rốp và Ơn Tha-man, một đảng viên đứng đầu Đảng Cộng sản Đức. Ông cũng gặp một số đồng chí người Trung Quốc đang theo học tại trường (trong đó có thủ tướng tương lai Chu Ân Lai, người mà ông đã gặp lần đầu tại Pa-ri), cũng như cố vấn trưởng quân đội của Tôn Dật Tiên là Tưởng Giới Thạch, người đã thăm Mát-xcơ-va trong 3 tháng vào cuối mùa hè và mùa thu năm 1923.

Nhìn chung, người quen của ông có vẻ quý mến ông. Rút Phích-xơ, một nhà cộng sản có uy tín người Đức, nhận xét rằng tuy ông không gây được ấn tượng lúc ban đầu nhưng chẳng bao lâu sau ông được tất cả mọi người kính trọng và yêu mến nhờ “đức tính tốt và sự giản dị”. Là một người hành động thực tế hơn là một nhà lý thuyết, ông tỏ ra thông thạo trong việc tránh các tranh chấp bè nhóm căng thẳng đã bắt đầu nảy sinh trong giới lãnh đạo Xô-viết và cuối cùng dẫn đến sự suy yếu của Đảng Bôn-sê-vích (sắp được đổi tên thành Đảng Cộng sản Liên bang Xô-viết, gọi tắt là CPSU) và Quốc tế Cộng sản trong thập kỷ sau đó. Thời kỳ của Chính sách kinh tế mới là một khoảng giao thời tương đối ngắn khi mà đối với nhiều người dân Xô-viết và người nước ngoài tương lai lẽ ra phải sáng sủa hơn. Nội chiến kết thúc, Liên-Xô đã bãi bỏ chính sách cưỡng chế và áp bức những kẻ thù tiềm tàng và bắt đầu khuyến khích dân tham gia việc xây dựng nền kinh tế (“làm giàu cho mình” là một khẩu hiệu phổ biến vào thời đó). Đời sống văn hoá vẫn phong phú và đa dạng, vì các nhà văn, nghệ sĩ và tác giả Xô-viết tìm cách tạo nên một phương tiện cách mạng mới có thể diễn tả một cách chính xác những thay đổi sâu sắc đang diễn ra trên đất nước. Một vài năm sau đó, với thái độ kiên quyết của Xta-lin, thời kỳ này bất ngờ đi đến chỗ kết thúc.

Rõ ràng là Nguyễn Ái Quốc không bị mất đi nhiệt huyết cách mạng một chút nào. Nhà báo Ô-síp Man-đê-xtam, người đã phỏng vấn ông cho tạp chí Ogonyok (Ngọn lửa nhỏ) vào tháng 12 năm 1923, nhận thấy rằng người đàn ông trẻ tuổi này có đầy đủ phẩm chất của tầng lớp trí thức Nho giáo, có đôi mắt to đen láy, và khi ông nói về các điều kiện sống ở đất nước ông, toàn thân ông như không kìm nén được và đôi mắt ông dường như ánh lên dữ dội. Trong cuộc phỏng vấn, ông đã nói đến từ “văn minh hoá” với thái độ ghê tởm và chỉ trích gay gắt Nhà thờ Cơ-đốc giáo ở Đông Dương vì đã chiếm gần một phần trăm đất canh tác của đất nước. Theo Bo-rít-xơ Xu-va-rin, nhà cộng sản người Pháp, người mà sau đó đã từ bỏ phong trài cách mạng, thì Nguyễn Ái Quốc giờ đã trở thành “một người theo Xta-lin hoàn toàn”.

Chỉ có một người trong số những người quen của ông lúc đó tỏ ra đánh giá thấp ông Nguyễn Ái Quốc. Nhà cộng sản lỗi lạc người Ấn Độ M.N.Roi, người mà sau đó là đại diện của Quốc tế Cộng sản ở Trung Quốc và (theo quan điểm của nhiều nhà quan sát) người mà việc thiếu trình độ là yếu tố chính dẫn đến sự thất bại của các nhà cộng sản Trung Quốc dưới bàn tay của Tưởng Giới Thạch năm 1927, cảm thấy rằng người thanh niên Việt Nam này về tư tưởng cũng như hình dáng không có gì gây ấn tượng và là một sinh viên nghèo nữa. Thật mỉa mai, Nguyễn Ái Quốc lại là một trong số ít người ở Mát-xcơ-va đồng ý luận chứng của Roi rằng cách mạng châu á là bước khởi đầu quan trọng để lật đổ chủ nghĩa tư bản thế giới.

Nguyễn Ái Quốc cũng giành nhiều thời gian để viết, ông là cộng tác viên thường xuyên cho các tờ báo cánh tả của Pháp và cho báo chí Xô-viết, xuất bản một số bài báo trên tờ Inprecor (cơ quan ngôn luận chính thức của Quốc tế cộng sản). Chủ đề của bài báo rất phong phú, nhưng luôn luôn có thiên hướng cách mạng. Ông viết về sự áp bức của chủ nghĩa đế quốc ở Trung Quốc, về các hoạt động của Đảng 3K ở Hoa Kỳ, về cuộc sống sôi động của nhân dân Liên bang Xô-viết, và tất nhiên là về sực bóc lột dân bản địa ở châu á và châu Phi của thực dân. Cùng với các sinh viên Trung Quốc ở Trường Xta-lin, ông đã chủ biên một cuốn sách nhỏ Trung Quốc và Thanh niên Trung Quốc, xuất bản năm 1925 bằng tiếng Trung Quốc, tiếng Pháp và tiếng Nga. Ông cũng viết về lịch sử Đông Dương dưới chế độ Pháp thuộc, mà theo hồ sơ của Quốc tế Cộng sản thì cuốn sách này vẫn chưa được xuất bản.

Tuy nhiên, bài viết chính của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian ông ở Mát-xcơ-va là Le procès de la colonisation fransaise, được dịch sang tiếng Anh là “Bản án chế độ thực dân Pháp”. Dựa trên những bài báo mà ông đã viết khi sống ở Pa-ri cũng như bản thảo có tựa đề Những người bị áp bức biến mất trước khi xuất bản năm 1920, cuốn sách được hoàn thành ở Mát-xcơ-va và do nhà xuất bản Lao động ấn hành ở Pa-ri năm 1926, một thời gian dài sau khi ông rời Pháp đi Mát-xcơ-va. Đây là một bản cáo trạng không có trật tự về điều kiện của thuộc địa trên toàn thế giới và kết thúc bằng lời kêu gọi thiết tha thanh niên Đông Dương vùng lên chống những kẻ bóc lột. Nhiều tư liệu trong cuốn sách nói về Đông Dương nhưng cũng có những chỗ đề cập các thuộc địa châu Phi. Mặc dù có thể đó là một trong những tác phẩm được biết đến nhiều nhất của Hồ Chí Minh, cuốn sách được bố cục rất tồi và viết dở đến mức một nhà chuyên viết tiểu sử đã dự đoán rằng nó có thể do người Việt Nam nào khác viết và sau đó được in dưới cái tên của ông. Nhưng lời văn và phong cách thì rất gần với các bài viết khác của Nguyễn Ái Quốc mà hầu hết các học giả khó có thể nghi ngờ về việc nó có phải là tác phẩm của ông hay không. Điều có thể nói về cuốn sách này là nó cho thấy bằng chứng là đã được viết một cách vội vàng.

Trong tất cả những phát biểu công khai, Nguyễn Ái Quốc dường như vẫn là một người có lòng tin đích thực. Những bài viết của ông về Liên bang Xô-viết đều có những lời lẽ ca ngợi và dường như sự ngưỡng mộ của ông đối với Lê-nin là vô bờ. Rõ ràng là ông đã rất thất vọng khi không thể gặp được nhà lãnh đạo đảng Bôn-sê-vích cho tới tận trước khi ông qua đời. Khi được hỏi về mục đích chuyến đi khi ông đến Pê-trô-grát vào tháng 7 năm 1923, ông trả lời rằng ông muốn được gặp Lê-nin và rất buồn rầu khi biết là nhà lãnh đạo Xô-viết bị ốm. Tháng 1 sau đó, ông đau khổi khi biết rằng Lê-nin đã qua đời. Giô-van-ni Giơ-man-tê-nô, một người Ý quên ông, đã kể lại: “Mát-xcơ-va tháng 1 năm 1924. Mùa đông nước Nga đang ở vào thời kỳ lạnh giá nhất. Đôi khi nhiệt độ xuống đến mức âm 40 độ. Vài ngày trước Lê-nin qua đời. Buổi sáng hôm đó, một tiếng gõ cửa nhẹ ở phòng chúng tôi trong khách sạn Lux đã đánh thức tôi. Cửa mở và một người đàn ông trẻ gầy gò bước vào. Ông nói ông là người Việt Nam, tên là Nguyễn Ái Quốc. Ông cũng nói là ông định đến Nhà Công đoàn để tiễn biệt Lê-nin.

Tôi nói với ông rằng ông mặc quá phong phanh so với thời tiết giá lạnh ở bên ngoài. Tôi nói rằng ông nên đợi, chúng tôi sẽ đưa cho ông một số quần áo ấm. Nguyễn Ái Quốc thở dài và ngồi xuống uống trà với chúng tôi, và cuối cùng về phòng ông. Chúng tôi nghĩ rằng ông đã nghe theo lời khuyên của chúng tôi và đã ở lại trong phòng. Khoảng 10 giờ tối hôm đó, tôi lại nghe thấy một tiếng gõ cửa nhẹ. Đó là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Mặt xanh nhợt, và mắt, mũi, các ngón tay cũng xanh nhợt do cái lạnh tê tái. Nguyễn Ái Quốc nói rằng vừa gặp đồng chí Lê-nin. Ông lạnh run lên trong khi giải thích với chúng tôi rằng ông không thể chờ đến sáng mai để tiễn đưa người bạn tốt nhất của nhân dân thuộc địa… Cuối cùng ông hỏi chúng tôi có trà nóng không”.

Theo ông Ép-ghê-nhi Cô-bê-lép, người Xô-viết, nhà viết tiểu sử Hồ Chí Minh, sau khi tham dự đám tang Lê-nin trở về, Nguyễn Ái Quốc tự nhốt mình trong phòng và viết một bài về sự đau khổ của ông trước cái chết của nhà lãnh đạo Bôn-sê-vích hào hiệp, người đã dành thời gian và sức lực để chăm lo cho việc giải phóng nhân dân thuộc địa. Ông kết luận “Trong cuộc đời mình , Lê-nin là người cha, người thầy, người đồng chí và người cố vấn của chúng ta. Giờ đây, ông là ngôi sao soi đường cho chúng ta trong quá trình cách mạng xã hội. Lê-nin vẫn sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta. Ông là bất tử.”

Tuy nhiên, một số tiểu tiết lại cho thấy rằng không phải tất cả mọi thứ đều có thể mê hoặc ông. Khi chuyển đến khách sạn Lux vào đầu tháng 12 năm 1923, ông được xếp ở một phòng nhỏ gồm có 4 hay 5 sinh viên rõ ràng là không làm ông hài lòng. Tháng 3 sau đó, ông viết một bức thư phàn nàn về các điều kiện – ban ngày thì ông bị đánh thức bởi tiếng ồn, ban đêm thì tiếng côn trùng làm ông không ngủ được – và ông tuyên bố rằng ông rút lại 5 rúp tiền thuê phòng một tháng để phản đối. Cuối cùng ông cũng được thu xếp ở phòng khác.

Trong một tư liệu quan trọng hơn, Nguyễn Ái Quốc không phải lúc nào cũng hài lòng với các quyết định chiến lược. Trong nhiều tháng trời, ông đã khuấy động những người quen của mình về vấn đề chủ nghĩa thực dân. Tháng 2 năm 1924, ông viết cho một người bạn ở trụ sở Quốc tế Cộng sản (có thể là Đi-mi-tơ-ri Ma-nu-xki) để cảm ơn vì đã nêu vấn đề thuộc địa tại hội nghị của Đảng Cọng sản Pháp tại Ly-ông. Cũng trong ngày hôm đó, ông viết thư cho Tổng Thư ký Quốc tế Cộng sản Gờ-ri-gô-ri Di-nô-vi-ép yêu cầu được phỏng vấn để thảo luận vấn đề thuộc địa. Không có hồi âm, ông viết một lá thư thứ hai phàn nàn rằng ông không nhận được hồi âm về đề nghị phỏng vấn của mình. Không có biểu hiện gì là Di-nô-vi-ép đã trả lời đề nghị của ông.

Không chắc điều mà ông muốn thảo luận với Di-nô-vi-ép là gì, nhưng trong một bài báo xuất bản trong số tháng 4 của tờ Inprecor có tựa đề “Đông Dương và Thái Bình Dương”, Nguyễn Ái Quốc đã tuyên bố rằng mặc dù thoạt nhìn vấn đề châu Á không có liên quan gì đến các công nhân châu Âu, trên thực tế vấn đề Đông Dương và châu Á có tầm quan trọng đối với công nhân trên tất cả các nước. Ông nói, bóc lột của thực dân ở khu vực không chỉ làm giàu cho các nhà tư bản và các chính trị gia làm bừa, mà còn có nguy cơ làm bùng nổ một cuộc chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc mới. Những hành động đó đã trở thành mối đe doạ đối với công nhân ở Đông Dương và Châu Á và cả với giai cấp vô sản quốc tế nữa.

Khi đề cập mốí quan hệ giữa các điều kiện ở châu Âu và châu Á, Nguyễn Ái Quốc, không biết là cố tình hay vô ý, đã đề cập đến một khu hầm mỏ lúc đó đang là đề tài của các cuộc tranh luận gay gắt ở các cuộc họp của Quốc tế Cộng sản kể từ sau Đại hội thứ hai năm 1920. Những người phát ngôn của nhân dân phương Đông thuộc địa như M.N.Roi đã tranh luận rằng một giải pháp cho “vấn đề phương Đông“ là cần thiết quyết định số phận cuối cùng của cách mạng thế giới, nhưng nhiều nhà cộng sản châu Âu phản bác lại rằng không thể có cách mạng ở châu á chừng nào các đảng Cộng sản chưa cầm quyền ở các nước châu Âu.

Lúc đầu, những người chủ trương một chiến lược dựa vào châu Á có thuận lợi là có bạn bè ở địa vị cao-trong đó có Lê-ni và thậm chí cả Giô-dép Xta-lin đến những người rõ ràng là thấu hiểu các quan điểm của họ. Nhưng cho đến năm 1924, Lê-nin mất và Xta-lin đến trở nên bận rộn với cuộc đấu tranh nội bộ đảng để giành vị trí chủ chốt ở Mát-xcơ-va. Di-nô-vi-ép, người lúc đó đang đứng đầu Quốc tế Cộng sản, tỏ ra không hứng thú gì với vấn đề này. Nhà cộng sản người Hà Lan, ông Ma-rinh, đã rời bỏ Quốc tế Cộng sản và ngay cả Ma-nu-xki, nhà bảo trợ lúc đầu của Nguyễn Ái Quốc, là một người U-crai-na và biết rất ít về châu á đã tập trung hoạt động của mình ở vùng Ban-căng.

Khi đó người ta chẳng quan tâm gì đén vai trò của nông dân. Sau sự khởi đầu rầm rộ, Cơ-rét-xơ-tin-tơn đã mất thanh thế và không được các quan chức trong đảng quan tâm đến công nhân ở Mát-xcơ-va để ý đến. Ngay cả Ni-cô-lai Bu-kha-rin, một trong những nhà lãnh đạo có hiểu biết hơn của đảng Bôn-sê-vích, đã nhắc đến Thô-mát Đôm-ba như một “tầm nhìn của nông dân”. Nguyễn Ái Quốc đã cố gắng không để cho vấn đề này bị lãng quên và đã nói lên vấn đề giai cấp nông dân tại một hội nghị của Cơ-rét-xơ-tin-tơn vào tháng 6 năm 1924, nhưng ông ít được hưởng ứng. Khi nhận xét với một người bạn, ông đã coi mình như một “tiếng khóc mờ nhạt trên chính trường”.

Đại hội lần thứ năm Quốc tế Cộng sản tổ chức vào đầu mùa hè năm 1924, là một cơ hội hiếm hoi cho Nguyễn Ái Quốc trình bày quan điểm của mình trong một tổ chức lớn hơn Quốc tế Cộng sản, Đại hội thực ra có thể là lý do ban đầu cho việc ông đến Mát-xcơ-va, khi mà Đi-mi-tơ-ri Ma-nui-xki coi ông là một nguồn thông tin vì ông sẽ phát biểu về vấn đề thuộc địa tại hội nghị. Vì ở Đông Dương chưa có Đảng Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia hội nghị với tư cách là đoàn viên của đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Pháp.

Đại hội lần thứ năm khai mạc vào ngày 17 tháng 6 và các phiên họp diễn ra tại Nhà hát lớn ở trung tâm Mát-xcơ-va. Hơn 500 đại biểu đại diện cho gần 50 nước đã tham dự. Ban lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản ngày càng trở nên nhạy cảm với những lời buộc tội của những người đồng chí châu á về thái độ xao lãng và đã quyết định dành một phiên đặc biệt thảo luận về vấn đề thuộc địa và các vấn đề liên quan đến các dân tộc không phải là người Nga. Ngoài ra, Đại hội đã thành lập một uỷ ban giải quyết vấn đề này. Nhưng Đại hội lại diễn ra vào lúc cao điểm của cuộc đấu tranh giành quyền lực giữa Xta-lin và đối thủ của ông là Lê-ôn Trốt-xki, và các thành viên hàng đầu của Đảng Cộng sản Liên bang Xô-viết bận rộn với cuộc đấu tranh trong điện Crem-lanh nên chẳng quan tâm đến vấn đề phương Đông. Trong phát biểu khai mạc, Tổng Thư ký Di-nô-vi-ép, ít lâu sau trở thành một trong những thách thức lãnh đạo Đảng của Xta-lin, chỉ nhắc qua vấn đề quốc gia và thuộc địa chủ yếu tập trung vào các nước ở Đông Âu. Có thể là do Nguyễn Ái Quốc hối thúc – người mà có thể trước đó đã làm phiền ông về việc nêu vấn đề đó-ông đã chỉ trích Đảng Cộng sản Pháp đã không quan tâm đầy đủ đến vấn đề thuộc địa.

“Ngay từ đầu, Nguyễn Ái Quốc đã làm cho mọi người biết đến sự có mặt của ông. Trong phiên khai mạc, khi đại biểu Va-xi-li Cô-la-rốp đang đọc bản thảo nghị quyết được chuẩn bị công bố sau khi nghỉ, Nguyễn Ái Quốc đã hỏi liệu Đại hội có đáp ứng một lời kêu gọi đặc biệt cho nhân dân các nước thuộc địa không. Cô-la-rốp lo ngại trả lời rằng vấn đề thuộc địa đã có trong chương trình nghị sự rồi và do đó bất cứ đại biểu nào cũng có thể nêu lên tại hội nghị. Nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn giữ ý kiến của mình và yêu cầu mọi bài phát biểu đều phải có câu “đối với nhân dân các nước thuộc địa”. Đề nghị này đã được các đại biểu chấp thuận.”

Ngày 23 tháng 6, Nguyễn Ái Quốc phát biểu, ông nói với các đại biểu: “Tôi có mặt ở đây, để liên tục nhắc nhở Quốc tế Cộng sản về sự tồn tại của các thuộc địa và để nêu rõ rằng cuộc cách mạng phải đối mặt với một hiểm hoạ từ các nước thuộc địa cũng như một tương lai huy hoàng ở các thuộc địa. Dường như những người đồng chí không hiểu hết một thực tế là số phận của giai cấp vô sản thế giới, và đặc biệt là số phận của giai cấp vô sản ở các nước hiếu chiến đã xâm lược các thuộc địa, có gắn liền với số phận của những người bị áp bức ở các thuộc địa. Nếu điều này là đúng thì tôi sẽ tận dụng mọi cơ hội có thể hoặc, nếu cần thiết, tạo cơ hội để chỉ rõ tầm quan trọng của ván đề thuộc địa…

Các bạn phải tha thứ cho sự thẳng thắn của tôi, nhưng tôi không thể không nhìn nhận rằng các bài phát biểu của các đồng chí từ mẫu quốc đã để lại cho tối ấn tượng rằng họ muốn giết một con rắn bằng cách đánh giập đuôi. Tất cả các bạn đều biết rằng ngày nay cả nọc độc và sức sống của con rắn tư bản tập trung nhiều ở thuộc địa hơn là ở mẫu quốc. Thuộc địa cung cấp nguyên liệu thô cho công nghiệp. Thuộc địa cung cấp lính cho quân đội. Trong tương lai, các thuộc địa sẽ là những thành trì phản cách mạng. Tuy nhiên, trong các cuộc thảo luận về cách mạng, các bạn đã bỏ qua không nói về thuộc địa. Nếu bạn muốn đập vỡ một quả trứng hay một hòn đá, bạn phải cần tìm một công cụ mà sức mạnh của nó tương ứng với vật mà bạn định làm vỡ. Tại sao trong cuộc cách mạng này bạn lại không làm cho sức mạnh và sự tuyên truyền của bạn ngang tầm với kẻ thù mà bạn định đánh bại? Tại sao bạn lại bỏ qua thuộc địa, tại sao chủ nghĩa tư bản lại sử dụng chúng để hỗ trợ cho chính nó, tự bảo vệ và đánh bại bạn?”

Ngày 1 tháng 7, ông Nguyễn Ái Quốc một lần nữa lại phát biểu để nhấn mạnh việc Đi-mi-tơ-ri Ma-nu-xki chỉ trích các Đảng Cộng sản châu Âu đã thất bại trong việc giải quyết vấn đề thuộc địa. Trong một báo cáo dài, ông đã nêu ra không chỉ các Đảng Cộng sản Pháp mà các Đảng Cộng sản Anh và Hà Lan thiếu nỗ lực thực hiện một chính sách thuộc địa mạnh mẽ và liên lạc với các bộ phận cách mạng ở các nước thuộc địa. Khi nêu ra thực tế là các tờ báo của Đảng Cộng sản Pháp đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội để làm cho độc giả chý ý đến vấn đề này, ông kêu gọi cần có một số biện pháp cụ thể để cải thiện tình hình. Trong bài phát biểu tại hội nghị về nông dân, ông đã không khẳng định vai trò trung tâm của nông thôn trong cuộc cách mạng tới, nhưng ông đã cố gắng chỉ ra rằng nông dân sẽ đóng vai trò tích cực.

Trong tất cả các thuộc địa của Pháp, nạn nghèo đói đều tăng, sự phẫn uất ngày càng lên cao. Sự nổi dậy của nông dân bản xứ đã chín muồi. Ở nhiều nước thuộc địa, họ đã vài lần nổi dậy nhưng lần nào cũng bị dìm trong máu. Nếu hiện nay nông dân vẫn còn ở trong tình trạng tiêu cực, thì nguyên nhân là vì họ còn thiếu tổ chức, thiếu người lãnh đạo. Quốc tế Cộng sản cần phải chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng.

Với những gì ông làm tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ năm, Nguyễn Ái Quốc đã làm cho các nhà lãnh đạo của phong trào cộng sản thế giới để ý. Hoạ sĩ người Liên-Xô, ông N.I Cơ-rốp-chen-kô đã yêu cầu ông cho vẽ chân dung, bức chân dung này sau đó xuất hiện trên tờ Rabôtaya Gazeta (Tạp chí Công nhân) vào cuối tháng 7, trong khi tờ Prav-da kể lại các nhận xét của ông với tựa đề mang tính khiêu khích là “Từ lời nói đến việc làm, Phát biểu của đại biểu Đông Dương Nguyễn Ái Quốc”. Lúc đó, ông vẫn theo chính sách chính thức nhưng chẳng bao lâu sau việc ông nhấn mạnh vào tầm quan trọng của giai cấp nông dân đối với cuộc cách mạng ở châu Á bị coi là lập dị và bị trừng phạt nặng nề ở Mát-xcơ-va.

Kết quả là Đại hội không mang lại sự thay đổi nào đối với chính sách của Quốc tế Cộng sản, nhưng nó đã cho thấy nhận thức về vấn đề thuộc địa đã được cải thiện. Giới lãnh đạo dường như đã nhận ra là phải cần thiết tăng cường tuyên truyền và vận động ở các vùng thuộc địa, và đã thiết lập một uỷ ban về tuyên truyền quốc tế. Nguyễn Ái Quốc được coi là một trong những thành viên sáng lập ra uỷ ban này. Tuy nhiên, Đại hội đã không đưa một tuyên bố đặc biệt nào về vấn đề thuộc địa vào nghị quyết cuối cùng-một sai sót sau này đã được sửa chữa tại Đại hội 4 năm sau đó. Nhưng Quốc tế Cộng sản đã đưa ra một lời kêu gọi rộng rãi “những người nô lệ ở thuộc địa”, như Nguyễn Ái Quốc đã đề xuất tại phiên khai mạc.

Dù có phải là đáp lại sự chỉ trích của Nguyễn Ái Quốc hay không, lãnh đạo Quốc tế Cộng sản đã bắt đầu chú ý đến việc đưa nhiều nhà cách mạng châu Á hơn sang học ở Liên-Xô. Trong những năm sau khi Đại hội diễn ra, nhiều người ở châu á hơn, trong đó có hơn 100 người Việt Nam được cử đến Mát-xcơ-va hoặc Lê-nin-grát (thành phố Pê-trô-grát lấy tên này sau khi Lê-nin mất) để đào tạo và cuối cùng trở về quê hương để hoạt động cách mạng. Nhóm đầu tiên gồm ba người Việt Nam đã đến từ Pháp vào giữa năm 1925.

Bộ máy trung tâm của chương trình đào tạo các nhà cách mạng châu Á vẫn là trường Xta-lin. Về phần mình, Đảng Cộng sản Pháp đã được chỉ dẫn sửa những sai lầm của mình. Uỷ bân nghiên cứu thuộc địa được tổ chức lại thành Uỷ ban Thuộc địa, đứng đầu là Giăc Đô-ri-ốt. Đầu năm 1925, Đảng đã thành lập một trường thuộc địa bí mật gần cửa ô Cơ-li-nhăng-cua vùng ngoại ô phía bắc Pa-ri để đào tạo các nhà cách mạng từ các thuộc địa để chuẩn bị học ở Liên-Xô. Trong lớp đầu tiên, một trong tám sinh viên là người Việt Nam. Trong nhiều năm sau, nhóm từ 5 đến 10 người Việt Nam đến Mát-xcơ-va hằng năm. Đa số đến từ Pháp nhưng có một số người đến thẳng từ Đông Dương.

Việc Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ năm đã đánh dấu sự chấm dứt giai đoạn ông học làm cách mạng và bắt đầu giai đoạn nhà lãnh đạo châu Á của phong trào cộng sản quốc tế. Giờ đây ông được công nhận là người phát ngôn về vấn đề phương Đông và ủng hộ chính sách quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề liên quan đến giai cấp nông dân. Bằng lòng với chính mình và thoả mãn mong muốn được hướng Quốc tế Cộng sản chú ý hơn đến vấn đề thuộc địa, ông cảm thấy đã hoàn thành nhiệm vụ ở Mát-xcơ-va và sẵn sàng quay lại châu Á để phát động quá trình xây dựng phong trào cách mạng ở Đông Dương.

Lúc đầu, Nguyễn Ái Quốc đến Mát-xcơ-va với ấn tượng rằng ông sẽ chỉ ở đó trong thời gian ngắn trước khi trở về tổ quốc. Trong một bức thư gửi Ban Điều hành Quốc tế Cộng sản tháng 4 năm 1924, ông đã phàn nàn rằng cả Ban Quốc tế Cộng sản lẫn Đảng Cộng sản Pháp đều không biết nhiều về tình hình ở các thuộc địa của Pháp. Ông khẳng định điều thiết yếu là phải thiết lập kênh liên lạc với thuộc địa, và ông tự cử mình làm sĩ quan liên lạc. Bức thư đã bày tỏ một cách đầy đủ ý định của ông: “Khi tôi đến Mát-xcơ-va, tôi đã quyết định rằng sau 3 tháng ở đây, tôi sẽ đi Trung Quốc để thiết lập kênh liên lạc với đất nước. Tôi ở đây đến nay đã là tháng thứ chín rồi và đây là tháng thứ sáu mà tôi chờ, tuy nhiên việc tôi đi vẫn chưa được quyết định. Tôi không cảm thấy cần thiết phải nói với các bạn về các phong trào cách mạng hay quốc gia dù cũ hay mới, về sự tồn tại hay không tồn tại của các tổ chức công nhân, hay về các hoạt động của các tổ chức bí mật và các nhóm khác, bởi vì ở đây tôi không có ý định trình bày một luận án, nhưng tôi muốn nêu rõ sự cần thiết là chúng ta phải nghiên cứu tình hình một cách thận trọng và nếu không thì cũng tạo ra một cái gì đó.

Chuyến đi của tôi sẽ là chuyến đi điều tra và nghiên cứu. Tôi phải cố gắng. a) thiết lập các kênh liên lạc giữa Đông Dương với Quốc tế Cộng sản, b) nghiên cứu tình hình chính trị, kinh tế và xã hội ở thuộc địa đó, c) thiết lập kênh liên lạc với các tổ chức đã có từ trước, d) cố gắng tổ chức một cơ sở thông tin và tuyên truyền.

Làm thế nào tôi có thể hy vọng hoàn thành công việc đó? Trước hết, tôi phải đi Trung Quốc. Từ đó, làm bất cứ gì trong khả năng có thể. Số tiền cần có để hỗ trợ cho các hoạt động của tôi sẽ là bao nhiêu? Tôi sẽ phải di chuyển nhiều, duy trì quan hệ với nhiều nhóm, trả tiền thư từ, mua các ấn phẩm phát hành ở Đông Dương, thu xếp chỗ ăn ở, v.v… Sau khi thảo luận với các đồng nghiệp người Trung Quốc ở đây, tôi dự tính là tôi sẽ cần một ngân sách khoảng 100 đô-la một tháng, không kể tiền đi từ Nga đến Trung Quốc. Tôi không tính tiền thuế. Tôi hy vọng rằng những điều trên đây sẽ là cơ sở để thảo luận vấn đề tôi trở lại Viễn Đông”.

Nguyện vọng trở lại châu Á của Nguyễn Ái Quốc có thể đã trở nên mạnh mẽ hơn sau các cuộc nói chuyện với nhân viên người Liên-Xô là S.A. Đa-lin, vừa tiến hành các hoạt động tuyên truyền ở Quảng Châu về. Ở Quảng Châu, nhà yêu nước người Trung Quốc Tôn Dật Tiên đã thiết lập các trụ sở tạm thời của phong trào cách mạng. Năm trước đó, ông Tôn đã ký một thoả thuận cho phép một phái đoàn tư vấn Xô-viết dưới sự lãnh đạo của nhân viên Quốc tế Cộng sản Mi-kha-in Bô-rô-đin đóng ở Quảng Châu để giúp tổ chức lại Quốc dân đảng của ông Tôn theo đường lối của chủ nghĩa Lê-nin. Đa-lin đã là thành viên của nhóm đến Quảng Đông cùng với Bô-rô-đin vào tháng 10. Khi trở về Mát-xcơ-va, Đa-lin ở khách sạn Lux, nơi mà ông gặp Nguyễn Ái Quốc và nói chuyện với ông về các điều kiện ở nam Trung Quốc. Rõ ràng là Nguyễn Ái Quốc đã rất vui mừng khi được biết là có một số đáng kể người Việt Nam di cư ở đó tham gia các hoạt động nhằm tiêu diệt chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương.

Tuy nhhiên, vì nhiều lý do, chuyến đi của ông bị trì hoãn. Tháng 4 năm 1924, ông đã được cử đến I-a-cút, ở vùng Xi-bê-ria Liên-Xô, để hộ tống một đoàn đại biểu Trung Quốc đến Mát-xcơ-va. Chẳng bao lâu sau khi quay trở lại, người bảo hộ của ông là Đi-mi-tơ-ri Ma-nu-xki đã gọi ông đến. Ma-nu-xki chào ông: “Thế nào, đồng chí, đồng chí có muốn chiến đấu không?”. Nguyễn Ái Quốc nhân dịp này nói lên quan điểm của mình với bạn, lập luận rằng các điều kiện đã có đủ cho “một đảng Bôn-sê-vích” ở Đông Dương. Phong trào công nhân đang lên và có nhiều người Việt Nam di cư đang sống ở Nam Trung Quốc. Ông đề nghị tổ chức họ thành các hạt nhân của một Đảng Cộng sản trong tương lai. Ma-nu-xki đồng ý, nhưng với một điều kiện là Nguyễn Ái Quốc sẽ dùng kinh nghiệm của mình để giúp đỡ các dân tộc khác ở khu vực. Ít lâu sau, Nguyễn Ái Quốc được bổ nhiệm làm một uỷ viên của Ban thư ký Viễn Đông của Ban Điều hành Quốc tế Cộng sản.

Tuy nhiên, các bộ máy quan liêu chuyển động một cách chậm chạp. Trong một bức thư gửi Gơ-ri-go-ri Voi-tin-xki vào ngày 11 tháng 9, ông Quốc đã phàn nàn rằng chuyến đi đến Trung Quốc của ông đã bị trì hoãn “vì lý do này hay lý do khác” và “từ tuần này đến tuần khác”, và sau đó “từ tháng này đến tháng khác”. Ông cũng thất vọng khi phát hiện ra rằng Đan-bu-rô đã không thể tài trợ cho chuyến đi của ông hoặc bổ nhiệm ông vào một chức vụ chính thức ở phái đoàn của Quốc tế Cộng sản với tư cách nào đó, nhưng khi các kế hoạch này không được thông qua thì chuyến đi lại bị hoãn. Không đủ kiên nhẫn để chờ, cuối cùng ông đề nghị tự xin việc làm sau khi đến Quảng Đông nếu Văn phòng Viễn Đông có thể cung cấp vé cho ông. Ngày 25 tháng 9, do thúc giục của đại diện của Đảng Cộng sản Pháp ở Mát-xcơ-va, Văn phòng Viễn Đông đã chấp nhận yêu cầu của ông “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc cần đi đến Quảng Châu. Chi phí sẽ do Văn Phòng Viễn Đông chịu”.

Cuối cùng Nguyễn Ái Quốc đã thuyết phục được Quốc tế Cộng sản cho phép ông trở lại châu Á để hoạt động cách mạng. Tuy nhiên, như ông nói với một người bạn, sắp xếp đó có “những điểm bất tiện” vì ông bị buộc phải hoạt động một cách bất hợp pháp ở Quảng Đông, dưới con mắt giám sát của Sở Mật thám Pháp ở tô giới Pháp trong thành phố (trong thế kỷ thứ 19, các quốc gia châu Âu đã gây áp lực đối với triều đình nhà Thanh nhượng cho họ các vùng ở nhiều nơi dọc theo bờ biển nơi mà người nước ngoài có thể hoạt động dưới quyền tài phán của châu Âu). Ông phải tự trang trải các chi phí ở một nước mà ông chưa bao giờ đến và làm việc đó bằng một ngôn ngữ mà ông chỉ có thể đọc và viết nhưng không nói được. Để tìm cho mình một chỗ dựa và một nguồn tài trợ nào đó, ông đã đến các văn phòng của cơ quan thông tấn Xô-viết ROSTA và đồng ý gửi đến Mát-xcơ-va các bài báo viết về hoàn cảnh ở Trung Quốc.

Tháng 10, Nguyễn Ái Quốc đã rời Mát-xcơ-va bằng tàu hoả từ nhà ga I-a-rốt-láp-xki. Cũng như trước kia, ông đi mà không báo cho bạn bè, chỉ yêu cầu Thô-mát Đôm-ba nói lại với mọi người là ông bị ốm, bởi vì ông sẽ sống bất hợp pháp ở Trung Quốc. Để xoá mọi dấu vết của chuyến đi, ông viết thư cho một người quen Pháp, giải thích rằng ông sẽ trở lại Pháp vì không được phép đến Đông Dương. Lá thư được một điệp viên báo lên cho Sở mật thám Pháp.

Đi Vla-đi-vô-xtốc trên tàu tốc hành xuyên Xi-bê-ri thường mất 3 tuần, vì tàu bị buộc phải thường xuyên dừng để lấy than và nước, và thỉnh thoảng nằm lại để tránh tàu. Từ cửa sổ, Nguyễn Ái Quốc đã chứng kiến thiệt hại lớn ở các thị trấn và làng mạc ở Xi-bê-ri do hậu quả của cuộc nội chiến đau thương giữa người Bôn-sê-vich và Bạch vệ, tuy cuộc nội chiến đã kết thúc cách đó 4 năm. Nhiều lần, các đơn vị Hồng quân mang súng máy lên tàu và kiểm tra hành khách xem có mang tài liệu chống cách mạng không. Dừng ở Vla-đi-vô-xtốc một thời gian ngắn, ông ở tại Khách sạn Lê-nin trên đại lộ chính của thành phố. Ông lại lên một con tàu biển Liên-Xô đi Trung Quốc. Tàu cập bến ở Quảng Châu ngày 11 tháng 11 năm 11 năm 1924.
 
Chương iv: Người con của rồng

Châu Á ngày Nguyễn Ái Quốc quay trở về vào cuối năm 1924 khác so với châu Á mà ông đã từ đó ra đi 13 năm trước. Trong khi hệ thống thuộc địa ở Nam và Đông Nam Á vẫn không thay đổi sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), tình hình ở Trung Hoa đã thay đổi mạnh mẽ. Vào mùa thu năm 1911, một biến động lớn đã gây ra sự tan rã của hệ thống phong kiến cũ ở Bắc Kinh. Bốn tháng sau khi Nguyễn Ái Quốc rời cảng Nhà Rồng vào tháng 6, một cuộc nổi dậy của các thành viên của đảng cách mạng của Tôn Dật Tiên đã nhanh chóng dẫn đến sự sụp đổ của triều đại Mãn Châu và sự xuất hiện của một chính phủ mới ở Trung Hoa. Nhưng những đảng viên của Tôn Dật Tiên đã không tận dụng được tình thế. Tướng Viên Thế Khải, chỉ huy trưởng các lực lượng vũ trang Mãn Châu, khéo léo và khôn ngoan hơn cả về chính trị lẫn quân sự, nên vào tháng 2 năm 1912, ông Tôn bị buộc phải nhường cho tướng Viên chức Chủ tịch nước cộng hoà mới sẽ được thiết lập ở Bắc Kinh.

Tướng Viên, với hy vọng sẽ tuyên bố một triều đại mới mang tên mình, đã cố gắng khôi phục luật pháp và trật tự dựa vào các phương pháp cai trị chuyên quyền truyền thống. Điều này đã gây xung đột với đảng của ông Tôn, đảng viên của đảng này chiếm gần một nửa số ghế của Quốc hội mới được thành lập. Tháng 1 năm 1914, Viên đã giải tán quốc hội và cố gắng cai trị bằng sắc lệnh. Đảng của ông Tôn bị tuyên bố là bất hợp pháp và ông Tôn trốn đi Nhật Bản. Nhưng sau khi Viên chết đột ngột vì bị ốm năm 1916, Trung Hoa lại bắt đầu tan rã, vì các chỉ huy quân sự của các vùng, thường được gọi là tư lệnh, đã nắm quyền kiểm soát ở nhiều tỉnh khác nhau trên toàn đất nước. Mặc dù một chính phủ suy yếu vẫn tiếp tục nắm quyền ở Bắc Kinh, một làn sóng bất an trong xã hội và giới trí thức bắt đầu bùng nổ trên khắp đất nước; năm 1919, các cuộc biểu tình lớn của sinh viên đã nổ ra ở thủ đô và các thành phố lớn khác. Cùng năm đó, Tôn Dật Tiên đã thiết lập thành công cơ sở cho đảng Cách mạng của mình, nay được đặt tên là Quốc dân đảng ở Quảng Đông, thủ phủ của tỉnh Quảng Đông, đặt dưới sự bảo hộ của ông Trần là tư lệnh ở vùng đó. Tháng 4 năm 1921, ông Tôn chính thức tuyên bố thành lập một chính phủ quốc gia mới do ông làm chủ tịch.

Trong hai năm sau cuộc cách mạng Bôn-sê-vích, chính phủ Xô-viết mới ở Mát-xcơ-va không thể tận dụng được những sự kiện đang diễn ra ở Trung Hoa và chính phủ quan tâm hơn đến việc thiết lập quyền kiểm soát ở nhiều vùng lãnh thổ rộng lớn của đất nước một thời là đế chế Nga ở Xi-bê-ri, lúc đó tạm thời bị các lực lượng chống cộng sản chiếm giữ. Nhưng đến mùa xuân năm 1920, sự thống trị của Liên Xô đối với vùng này đã được củng cố và một Ban thư ký Viễn Đông đã được thành lập ở I-cút-xcơ để chỉ đạo các hoạt động của cộng sản ở khu vực Đông Á và Thái Bình Dương rộng lớn. Tháng 4 năm đó, Gri-gô-ri Vôi-tin-xki, lúc đó là một nhân viên của Quốc tế cộng sản đóng ở I-cút-xcơ đã đi Bắc Kinh. Sau khi dừng lại ở Bắc Kinh một thời gian ngắn, ông đi tiếp đến Thượng Hải, nơi ông đã giúp thành lập một tổ chức lâm thời gồm những nhà cách mạng đang hoạt động ở vùng đó. Mùa hè sau, những người theo đường lối cấp tiến trên mọi miền của Trung Hoa đã tập trung tại Thượng Hải và chính thức thành lập đảng Cộng sản Trung Quốc.

Một trong những quyết định đầu tiên mà đảng mới phải đưa ra là liệu có hợp tác với chế độ cách mạng mới của Tôn Dật Tiên ở Quảng Đông không. Một số đản viên, do tin rằng các thành viên chủ chốt của đảng của ông Tôn về cơ bản là phản cách mạng, đã không muốn hợp tác với lực lượng Quốc dân đảng. Nhưng nhà cộng sản người Hà Lan, ông Ma-rinh, người kế nhiệm Vôi-tin-xki làm trưởng đại diện của Quốc tế cộng sản ở Trung Hoa lại rất cương quyết. Tháng 1 năm 1923, Tôn Dật Tiên và đại diện Liên Xô là An-đốp Giô-phơ đã ký một thoả thuận ở Thượng Hải nhằm thiết lập một mặt trận thống nhất giữa hai đảng và dàn xếp để Liên Xô hỗ trợ cho việc hoàn thành thống nhất Trung Hoa. Thoả thuận đó, được mô tả là “liên minh bên trong”, đã kêu gọi các đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc gia nhập Quốc dân đảng, là lực lượng chính trị chủ chốt ở Quảng Đông.

Bắt đầu từ cuối năm 1923, hai đảng này với sự giúp đỡ của phái bộ mới của Quốc tế cộng sản của Mi-khai-in Bô-rô-đin đã bắt đầu chuẩn bị cho một cuộc hành trình về phương bắc để hạ bệ các chế độ tư lệnh tham tàn đã tồn tại ở Trung Hoa kể từ sau cái chết của Viên Thế Khải. Tuy là một đối tác ở cấp thấp hơn trong liên minh và không có người ủng hộ cũng như uy tín của Quốc dân đảng, rõ ràng rằng đảng Cộng sản Trung Quốc là một lực lượng mới và năng động trong nền chính trị Trung Hoa, một đảng của tương lai chứ không phải là quá khứ.

Ở Đông Dương thuộc Pháp cũng đang có những thay đổi, mặc dù cùng tốc độ với Trung Hoa. Dân số của ba vùng này gia tăng nhanh chóng. Từ bảy triệu năm 1880 đã lên đến khoảng 16 triệu năm 1926, với sáu triệu ở Bắc Kỳ, năm triệu ở Trung Kỳ và khoảng bốn triệu ở Nam Kỳ. Mặc dù hơn ba phần tư dân số vẫn sống ở nông thôn, dân số thành thị đã tăng mạnh, lên đến gần 1 triệu người vào giữa những năm 1920. Hầu hết trong số này sống ở các thành phố lớn là Sài Gòn và Hà Nội.

Trong mười ba năm kể từ khi Nguyễn Ái Quốc rời Sài Gòn, phong trào khôi phục nền độc lập của Việt Nam đã mất chỗ đứng. Với việc Phan Châu Trinh đã bị bắt và đày sang Pháp, người chủ trương cải cách phi bạo lực đã có uy tín nhất đã tạm thời im lặng. Trong khi đó, tổ chức một thời đầy hứa hẹn của Phan Bội Châu, được sự ủng hộ của nhiều nhà yêu nước có uy tín nhất Việt Nam, đã dần dần không còn quan trọng như trước nữa sau nhiều lần nổi dậy không thành công và tiếp đó là việc chính nhà lãnh đạo phong trào dân tộc chủ nghĩa bị bắt và bỏ tù ở Nam Trung Hoa.

Khi nghe tin về cuộc cách mạng năm 1911 ở Trung Hoa, Phan Bội Châu đã bỏ kế hoạch thành lập một chế độ quân chủ lập hiến và thay vào đó thành lập một chính đảng mới, gọi là Quang Phục Hội nhằm thiết lập một nền cộng hoà độc lập theo mô hình của Tôn Dật Tiên. Rõ ràng là Phan Bội Châu đã hy vọng có được sự giúp đỡ của Trung Hoa để lật đổ người Pháp; trong một cuộc họp với Tôn Dật Tiên ở Quảng Đông đầu năm 1912, ông Tôn đã hứa với Phan Bội Châu rằng Việt Nam sẽ là nước đầu tiên được Trung Hoa giúp đỡ một khi các nhà cách mạng củng cố quyền lực của mình ở Trung Hoa. Tuy nhiên, ít lâu sau, Phan Bộ Châu bị một tư lệnh địa phương bắt vì tội thực hiện các hoạt động lật đổ. Đến khi Phan Bộ Châu ra tù năm 1917, đảng của Tôn Dật Tiên đã mất quyền và bản thân ông Tôn đang ở Nhật Bản. Hy vọng được sự giúp đỡ của nước ngoài lại một lần nữa tiêu tan, Phan Bội Châu có vẻ như đã mất phương hướng. Trong lúc tuyệt vọng, ông thậm chí đã đề xuất hợp tác với người Pháp miễn là họ giữ lời hứa thực hiện các cuộc cải cách kinh tế chính trị ở Đông Dương. Cho đến đầu những năm 1920, tổ chức cách mạng ở Việt Nam hầu như đã tan rã. Ông vẫn bị đày ở Trung Hoa, xung quanh là một nhóm môn đệ trung thành, một nhân vật đã ngày càng trở nên không hợp thời. Rõ ràng là Phan Bội Châu đã hết thời.

Sự sụp đổ phong trào của Phan Bội Châu và việc Phan Châu Trinh bị đi đày cho thấy có những thay đổi lớn hơn diễn ra trong xã hội Việt Nam; dấu chấm hết thời của hai người họ Phan trùng với sự đi xuống của giới học giả truyền thống đã từng có ảnh hưởng lớn đối với nền chính trị Việt Nam trong nhiều thế kỷ. Mặc dù được hối thúc bởi các nhân vật yêu nước như Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh, nhiều nhà Nho đã bỏ niềm tin trước kia của họ và cố gắng tham gia vào chính trị quần chúng, với tư cách một giai cấp họ chưa bao giờ cảm thấy thoải mái thực sự trong vai trò mới này; nhiều người thấy khó có thể thích nghi với những điều kiện đang thay đổi dưới sự thống trị của thực dân Pháp. Phan Bội Châu rất thích phong trào gồm “mười nghìn anh hùng vô danh” chỉ tồn tại trên sách báo. Họ là những người sẽ đuổi người Pháp ra biển, nhưng xét cho cùng đảng, của ông chủ yếu bao gồm những người thuộc giới thượng lưu và được giáo dục tốt trong xã hội và hầu như không có nông dân tham gia. Mặc dù phong trào của ông đã cố gắng thúc đẩy thương mại và công nghiệp làm phương tiện để làm giàu cho xã hội Việt Nam, các thành viên có thâm niên của phong trào là đại diện của giới quý tộc địa chủ. Các nhà Nho yêu nước có thiện chí mặc áo thụng mở cửa hàng để gây quỹ và khuyến khích thương mại ở địa phương và sau đó đã làm khách hàng xa lánh mình do thái độ kẻ cả của họ.

Vào cuối Chiến tranh thế giới thứ nhất, ảnh hưởng của các nhà Nho (khoảng 20.000 người vào cuối thế kỷ trước) trong xã hội Việt Nam đã bắt đầu suy yếu. Các kỳ thi Nho giáo đã bị loại bỏ trên cả ba vùng lãnh thổ và được thay thế bằng một hệ thống giáo dục mới do người Pháp đặt ra. Quốc ngữ, chuyển tự từ tiếng Việt sang hệ chữ cái La-tinh, lúc đó được thúc đẩy mạnh mẽ bởi cả các nhà truyền giáo đạo Cơ đốc ở Nam Kỳ và các trí thức theo đường lối cải cách ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ và ngày càng được thừa nhận là hệ thống thay thế hữu ích cho hệ thống chữ Nôm phức tạp. Trong khi hầu hết người Việt Nam trẻ tuổi tiếp tục được hưởng giáo dục truyền thống ở làng quê của họ thì con em của nhiều người trong giới Nho học, giờ đây đã không còn được hưởng hệ thống giáo dục Nho giáo để tiến bộ , được đào tạo ở các trường Pháp Việt mới như trường Quốc học Huế, nơi mà các bài giảng là bằng tiếng Pháp. Nhiều người sang Pháp để học tiếp.

Trong khi đó, một tầng lớp trung lưu người Việt mới và Tây hoá hơn đã xuất hiện. Một số đã thành lập các công ty thương mại và sản xuất để đáp ứng như cầu và nguyện vọng của các gia đình khá giả sống ở các thành phố lớn. Những người khác làm cho các công ty của châu Âu, theo các nghề khác nhau hoặc giữ một vị trí trong bộ máy hành chính quan liêu. Mặc dù nhiều thành viên của giới thành thị mới này ngưỡng mộ Phan Bội Châu và các môn đệ của ông về lòng yêu nước của họ, họ kín đáo chế nhạo các bậc đàn anh về thái độ bảo thủ và cổ hủ. Những người thuộc thế hệ mới này cũng cam kết đối với sự nghiệp độc lập dân tộc, đã từ bỏ quá khứ và có kiến thức tinh tế hơn về phương Tây. Nhiều người mặc đồ Tây, uống rượu Pháp và nói chuyện bằng tiếng Pháp. Như nhà báo Pháp Pôn Mô-nê đã viết, những người thuộc thế hệ mới này là “hình mẫu của nền văn hoá (Pháp) của chúng ta, không còn niềm tin truyền thống và rời bỏ mảnh đất của tổ tiên, hoàn toàn không quan tâm đến đạo Khổng, đạo đức mà họ không thích bởi vì họ không hiểu về nó”. Các quan chức Pháp thường coi những bước phát triển này như là một dấu hiệu về sự thành công của sứ mệnh văn minh hoá, nhưng họ cũng sớm nhận ra rằng thế hệ này sẽ là một thách thức lớn hơn so với các cha ông của họ.

Các quan chức cao cấp của Pháp đã vô tình làm người Việt Nam càng bực tức hơn đối với những hậu quả của chế độ thực dân. Năm 1919, kẻ thù tương lai của Nguyễn Ái Quốc là An-be Xa-rô, lúc đó là toàn quyền Đông Dương, đã làm cho những trái tim Việt Nam cảm động vì lời hứa của ông về một kỷ nguyên cải cách mới. Ông nói với những người cấp dưới của mình: “Tôi sẽ đối xử với các bạn như một người anh đối với một người em và sẽ dần dần cho các bạn chân giá trị của một con người”. Những lời lẽ đó đã làm loé lên hy vọng ở Việt Nam và thậm chí Nguyễn Ái Quốc đã khâm phục lời lẽ đó. Ông vẫn là người luôn ngưỡng mộ nền văn hoá đã sản sinh ra khẩu hiệu cách mạng “tự do, bình đẳng và bác ái”.

Tuy nhiên, sau khi Xa-rô rời Hà Nội đi Pa-ri để làm Bộ trưởng Thuộc địa, những lời hứa của ông về cải cách vẫn chưa được thực hiện. Thí dụ, hệ thống giáo dục mới hầu như không nhận được nguồn tài trợ từ chính quyền thực dân và kết quả là chỉ có ảnh hưởng nhất định đối với dân chúng địa phương. Các trường làng đặc biệt thiếu kinh phí và đa số trẻ Việt Nam được đi học không đến bốn năm. Vào giữa những năm 1920, chỉ có khoảng 5.000 học sinh trên toàn đất nước được học đến cấp tương đương trung học. Những thống kê đó cho thấy đạo đức giả của người Pháp khi họ nói rằng họ đang thực hiện sứ mệnh khai hoá văn minh ở Đông Dương; trong khi đó theo hệ thống truyền thống, khoảng một phần tư dân số có thể đọc được các bài viết bằng chữ Hán, trong thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, tỷ lệ biết chữ quốc ngữ và chữ Nôm ước tính chỉ khoảng 5% dân số.

Trong suốt khi đó, mặc dù nhiều người Việt Nam đã đóng góp cho sự nghiệp của Pháp trong suốt Chiến tranh thế giới thứ nhất, các nhà cầm quyền thực dân vẫn từ chối cho các thần dân của mình quyền đóng một vai trò tích cực trong nền chính trị trên đất nước của mình. Khoảng 10.000 viên chức thực dân ở Đông Dương được trả lương nhiều hơn so với người Việt Nam làm cùng một công việc. Nhiều người trong số 40.000 người châu Âu sống và làm việc ở Đông Dương, một số khi đến hầu như không có gì ngoài một chiếc áo sơ-mi khoác trên người, đều thường xuyên đối xử thô bạo và có thái độ trịch thượng đối với dân bản địa. Người nước ngoài, trong đó có hơn 200.000 Hoa kiều sống chủ yếu ở các thành phố và thị trấn tiếp tục chi phối nền kinh tế đô thị. Ghê thay, một nhà văn Pháp đã cho các chính sách cải cách của Xa-rô, những chính sách đôi khi được mô tả là “nền chính trị hợp tác”, lá sự gian dối, trong khi Tổng thống Pháp Ray-mông Pôn-ca-rê thừa nhận rằng các chính sách đó chỉ được thực hiện về mặt hình thức.

Trong khi đó, đa số dân chúng phải chịu các mức thuế gia tăng và sự độc quyền của chính phủ đối với việc sản xuất và buôn bán thuốc phiện, muối và đồ uống có cồn , điều này làm tăng giá bán lẻ tất cả ba loại sản phẩm này. Ở Nam Kỳ, các chủ đất vắng mặt mua đất trống ở châu thổ sông Cửu Long đã đòi lãi suất quá cao đối với người thuê mới, đôi khi chiếm tới hơn 50% tổng giá trị mùa màng trên mảnh đất đó, trong khi các chủ đát này vẫn có dinh cơ ở Sài Gòn. Trên khắp đất nước có khoảng hơn nửa triệu nông dân không có đất, so với khoảng 50 nghìn địa chủ. Trong một cuốn sách có tựa đề Forceries humaines được viết vào giữa thập kỷ, tác giả Gioóc-giơ Ga-rốt đã nhận xét rằng nếu bị khiêu khích như vậy thì chắc hẳn người Pháp đã nổi dậy rồi. Thực ra, như Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét một cách giận dữ với nhà báo Ô-síp Man-de-xtam trong cuộc phỏng vấn năm 1923 ở Mát-xcơ-va thì Việt Nam là một “dân tộc chìm trong bóng tối”.

Nỗi thất vọng về tình hình đó đã dấy lên một làn sóng chính trị mạnh mẽ mới vào giữa những năm 1920. Đứng đầu là một thế hệ các trí thức trẻ thuộc tầng lớp trung lưu được giáo dục theo hệ thống của Pháp. Giống như những người cùng cảnh ngộ ở thế giới thuộc địa, nhiều người có tình cảm phức tạp với nền văn hoá phương Tây, họ ngưỡng mộ nhưng lại không chấp nhận nền văn hoá đó. Nhiều người trong số họ đọc tiểu thuyết và tạp chí bằng tiếng Pháp, trong đó có các tạp chí viết bằng chữ quốc ngữ như Phụ nữ Tân Văn phục vụ thị hiếu phương Tây và các nhìn nhận thanh niên có học thức. Nhưng họ lại phẫn nộ về việc người Pháp đối xử với dân thuộc địa của mình bằng một thái độ trịch thượng và nghi ngờ, tại sao các quan niệm của Pháp được quảng cáo nhiều như tự do, bình đẳng và bác ái mà họ được học ở trường lại không thể áp dụng được ở Đông Dương.

Những dấu hiệu thay đổi đầu tiên xuất hiện ở Sài Gòn, thành phố mà so với tất cả các thành phố khác ở Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất bởi sự có mặt của thực dân Pháp. Một tỷ lệ lớn người châu Âu ở Đông Dương đã đến định cư ở đây vì Nam Kỳ là một thuộc địa và do đó trực thuộc chính quyền Pháp, và vì cơ hội thu lợi nhuận từ các đồn điền cao-su, chè và cà-phê được dựng ở các khu vực lân cận. Ở Sài Gòn, có nhiều công nhân nhà máy hơn bất cứ vùng nào ở Việt Nam. Ở Sài Gòn, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, người bản xứ và người nước ngoài rõ ràng nhất. Tại đây, ngay cả người Việt Nam giàu có nhất cũng có lý do bất bình về việc người nước ngoài thâu tóm toàn bộ nền kinh tế. Các thương nhân Hoa kiều quản lý các nhà máy sản xuất gạo, các ngân hàng và các tiệm cầm đồ, trong khi người châu Âu sở hữu hầu hết các nhà máy lớn và chi phố xuất nhập khẩu. Nhà nông học giàu có Bùi Quang Chiểu, người mà Nguyễn Ái Quốc đã gặp trước khi đi sang châu Âu, đã đi đầu trong việc thổi bùng lên thái độ bất bình này. Là một chủ đất nhưng ở Sài Gòn, ông Chiểu cũng tham gia nhiều hoạt động kinh doanh và sáng lập ra tờ báo Diễn đàn người bản xứ đại diện cho lợi ích của thương nhân địa phương. Vài năm sau, ông cùng với người quen thành lập đảng Hiến pháp, đảng chính trị chính thức đầu tiên ở Đông Dương thuộc Pháp. Trong khi Bùi Quang Chiểu và các cộng sự của mình hy vọng ép người Pháp dành cho người Việt Nam một vị trí cao hơn trong tiến trình chính trị thì một mục tiêu nữa là giảm sự chi phối của các thương nhân Trung Hoa đối với nền kinh tế ở Nam Kỳ.

Cũng như ở nhiều xã hội ở Đông Nam Á, các thương nhân Trung Hoa từ lâu đã là lực lượng chi phối các nền kinh tế đô thị ở Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia. Con cháu của những người nhập cư trong các thế kỷ trước đến vùng này từ các vùng duyên hải ở Nam Trung Hoa thường được những người sản xuất và thương mại trong khi không khuyến khích người dân bản địa làm như vậy. Thường thì họ sống trong các khu nhà ổ chuột ở đô thị và tiếp tục duy trì văn hoá Trung Hoa, trong đó có đạo Khổng và tiếng Hán. Khi Bùi Quang Chiểu và các cộng sự của ông chú trọng đến việc giảm ảnh hưởng của Hoa kiều hơn là các nhà cầm quyền thực dân, họ có thái độ tương tự như thái độ ở một số thuộc địa khác trong khu vực.

Một đối thủ nguy hiểm hơn ông Chiểu, theo người Pháp, là nhà trí thức được đào tạo ở Pa-ri tên là Nguyễn An Ninh. Là con của một nhà Nho Nam Kỳ có liên hệ với Trường Đông kinh Nghĩa thục Hà Nội, và sau đó phục vụ trong phong trào của Phan Bội Châu, ông Ninh học luật ở Pháp, nơi mà ông nói là đã gặp Nguyễn Ái Quốc và từ đó có say mê chính trị. Khi trở về Sài Gòn vào đầu những năm 1920, ông sáng lập một tờ báo có tên là Cái chuông nứt, nhằm nâng cao tinh thần yêu nước của người Việt Nam và thúc giục người Pháp tiến hành cải cách chính trị. Giống như Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh cũng là người ngưỡng mộ cuồng nhiệt văn hoá phương Tây và tin rằng nó là chuẩn mức để điều chỉnh hệ thống Nho giáo truyền thống mà ông tin là đã bóp nghẹt khả năng sáng tạo của đồng bào mình và giúp Pháp chinh phục họ.

Vào đầu và giữa những năm 1920, nhà báo trẻ theo trường phái châm biếm này đã trở nên nổi tiếng trong giới thanh niên Nam Kỳ. Các bài phát biểu không thường xuyên của ông được người đọc mong đợi. Trong một bài phát biểu tháng 10 năm 1923 tại Nha học chính ở Sài Gòn, ông đã kêu gọi mọi người hưởng ứng một nền văn hoá mới không bị ảnh hưởng bởi các ý tưởng du nhập của Khổng Tử, Mạnh Tử và Lão Tử. Giống như Ma-hát-ma Gan-di ở Ấn Độ, ông Ninh lập luận rằng giải pháp cho các vấn đề của Việt Nam cơ bản là tinh thần và câu trả lời chỉ có thể do người dân tìm ra.

Ảnh hưởng của các hoạt động của Nguyễn An Ninh đối với thanh niên Nam Kỳ ngày càng làm cho các nhà chức trách Pháp lo ngại, cuối cùng ông được triệu tập đến nói chuyện với Phó Toàn quyền Mô-rít-xơ Cô-nhắc, người đã cảnh báo ông rằng các hoạt động của ông bị các nhà chức trách kiểm soát chặt chẽ và rằng nếu ông quyết định thực hiện các hoạt động của mình thì họ sẽ dùng các biện pháp cần thiết để buộc ông chấm dứt. Cô-nhắc cho rằng người Việt Nam quá chất phác để có thể hiểu thông điệp của ông Ninh. Ông nói thêm một cách châm biếm, nếu ông Ninh muốn kêu gọi các trí thức thì hãy đến Mát-xcơ-va. Tuy nhiên, lời cảnh báo của Cô-nhắc bị bỏ qua và Nguyên An Ninh lại thực hiện chiến dịch của mình.

Và ngày Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Đông bằng tàu từ Vla-đi-vốt-xtốc giữa tháng 11 năm 1924, thành phố bị xáo động, với hàng ngàn người chen lấn trên đường phố gần bến cảng để bày tỏ sự ủng hộ của họ đối với chính phủ của Tôn Dật Tiên và tiễn vị chủ tịch đi Bắc Kinh. Từ tháng 2 năm 1923, ông Tôn đã thực hiện chiến lược “khối liên minh bên trong” đã được thương lượng với nhân viên Ma-rinh của Quốc tế cộng sản vài tháng trước đó. Ông Tôn đã chuyển Quốc dân đảng sang cánh tả bằng cách đưa thêm một số đảng viên Đảng cộng sản Trung Quốc vào các vị trí có trách nhiệm. Sau khi nhân viên Quốc tế cộng sản Mi-khai-in Bô-rô-đin đến từ Mát-xcơ-va vào tháng 10, đảng đã được tổ chức lại theo đường lối của chủ nghĩa Lê-nin và một học viện quân sự mới được thành lập ở đảo Hoàng Phố để cung cấp các sĩ quan được đào tạo. Tưởng Giới Thạch, một trong những sĩ quan trẻ tin cậy của Tôn Dật Tiên, được coi là sĩ quan chỉ huy của trường, trường nằm cách thành phố vài dặm xuôi theo sông. Chu Ân Lai trở thành chính uỷ của trường.

Tuy nhiên, việc Tôn Dật Tiên chuyển sang cánh tả không phải là không phải trả giá; quan hệ giữa chính phủ ông với các đại diện quyền lợi châu Âu ở Quảng Đông đã bắt đầu xấu đi. Đối với nhiều thương gia và nhà ngoại giao phương Tây ở thành phố, quyết định của ông Tôn thiết lập một quan hệ chính thức với nước Nga Xô-viết và đảng Cộng sản Trung Quốc đã cung cấp chứng cứ cho phép kết luận rằng ông và đảng của ông về cơ bản là chống phương Tây và đã trở thành tay sai của Mát-xcơ-va.

Trong những tháng sau, tình hình càng trở nên căng thẳng hơn, Mùa hè năm 1924, các cuộc đình công phản đối các công ty của Anh ở Quảng Đông đã nổ ra trước một sự cố do các nhà chức trách Anh khiêu khích. Người Anh đã áp đặt sự kiểm soát của cảnh sát để trấn áp các cuộc biểu tình trên đường phố ở đảo Sa Diện, một nhượng tô của người Pháp dọc bờ sống phía Tây. Chính phủ của ông Tôn đã tuyên bố ủng hộ những người đình công. Mùa thu năm đó, Hiệp hội các thương nhân Quảng Đông, bị chi phối bởi những lợi ích thương mại của châu Âu, đã thiết lập một lực lượng quân sự của ông Tôn và các vụ xô xát đã xảy ra giữa các đơn vị dân quân và quân đội của chính phủ.

Trong khi đó, tình hình bên ngoài Quảng Đông thay đổi đột ngột, U Pê-phu, một tư lệnh đã nhiều năm kiểm soát các vùng ở phía bắc Trung Hoa, bị lật đổ bởi “vị tướng đạo Thiên chúa” là Pheng I-ung-xi-ang. Mặc dù Pheng cũng là một tư lệnh, ở Quảng Đông ông được coi là thấu hiểu công cuộc cách mạng Trung Hoa hơn là U Pê-phu; khi Pheng mời Tôn Dật Tiên đến Bắc Kinh để đàm phán một dàn xếp hoà bình, ông Tôn đã đồng ý.

Mặc dù Nguyễn Ái Quốc không được cử đi Trung Hoa với tư cách chính thức nhưng không phải là ông không có liên lạc với ai. Ngay lập tức ông đã liên hệ với Mi-khai-in Bô-rô-đin. Mi-khai-in Bô-rô-đin đã mời Nguyễn Ái Quốc đến ở căn hộ của ông ở Bao-gông Guan, một biệt thự kiểu Tây rộng rãi bao quanh là một khu vườn trải dài từ các trụ sở của Quốc tế cộng sản đến trung tâm thành phố. Ở tầng trệt của toà nhà là văn phòng của 20 đại diện của Quốc tế cộng sản được cử từ Mát-xcơ-va đến. Trên tầng hai là căn hộ riêng của Bô-rô-đin, nơi Nguyễn Ái Quốc làm thành phòng nghỉ riêng của mình. Để tự vệ trước sự giám sát của Pháp hay khỏi bị các nhà chức trách bắt giữ vì nhập cư trái phép, Nguyễn Ái Quốc tự xưng là người Trung Hoa có tên là Lý Thuỵ. Chỉ có Bô-rô-đin có thể sẽ giúp ích rất nhiều cho người đồng nghiệp trẻ của mình.

Sau khi dọn đến ở nơi ở mới, Nguyễn Ái Quốc được cử làm tại văn phòng của thông tấn xẽ Xô-viết ROSTA nằm ở tầng trệt của trụ sở của Quốc tế cộng sản ở Bao-gông Guan. Nguyễn Ái Quốc đã viết bài cho thông tấn xã này, những bài báo này được gửi về Mát-xcơ-va và in với bút danh Ni-lốp-xki, ông cũng làm phiên dịch và đại diện địa phương không chính thức của Quốc tế Nông dân. Tuy nhiên, mục tiêu chính của ông là gây dựng hạt nhân cho đảng cách mạng Việt Nam mới được xây dựng theo mô hình của Lê-nin. Sau đó có thể ông bắt đầu theo đuổi mục tiêu dài hạn hơn là lập trật tự cho phong trào kháng chiến của Việt Nam và biến nó thành một lực lượng đáp ứng những mong ước của ông.

Chiến lược cách mạng do Quốc tế cộng sản đưa ra tại Đại hội lần thứ hai ở Mát-xcơ-va đã cho ông đường lối chung để khởi động tiến trình cách mạng. Một trong những chỉ dẫn đó là cần phải có biện pháp hợp tác với các nhóm chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản hiện đang hoạt động, một mục tiêu mà ông đã đưa ra trong các báo cáo của mình gửi lãnh đạo của Quốc tế Cộng sản ở Mát-xcơ-va. Nhưng Nguyễn Ái Quốc đã nhận thức được rằng những chỉ dẫn đó không đáp ứng hoàn toàn đầy đủ nhu cầu của ông. Tại một cuộc họp nhằm thảo luận vấn đề thuộc địa tại Đại hội của Quốc tế Cộng sản lần thứ năm mùa hè năm 1924, ông đã hỏi Đi-mi-tơ-ri Ma-nu-in-xki, chuyên gia vè thuộc địa của Quốc tế cộng sản, rằng những người công nhân cộng sản châu Á cần phải làm gì khi không có đảng dân tộc nhân dân. Không rõ Ma-nuyn-xki, một người ít có kinh nghiệm về các vấn đề châu Á, đã bao giờ nghĩ đến câu hỏi này chưa. Tuy nhiên, ông vẫn cố gắng giải thích chiến lược “mặt trận thống nhất” của Lê-nin theo lối ứng khẩu, cho rằng khi không có phong trào dân tộc quần chúng thì đảng cộng sản trong nước cần phải có sáng kiến thành lập một phong trào dưới sự lãnh đạo của đảng.

Thực hiện gợi ý của Ma-nuyn-xki ở Đông Dương không dễ dàng chút nào. Như Nguyễn Ái Quốc đã báo cá cho các đồng nghiệp của Quốc tế Cộng sản trong khi ông vẫn sống ở Mát-xcơ-va, giai cấp công nhân Việt Nam, có thể là lực lượng đầu đàn trong đảng Mác Lê-nin sau này, vẫn còn trong giai đoạn phôi thai, chỉ chiếm khoảng 20% dân số, bao gồm công nhân mỏ, những người sống rải rác ở cả ba miền là Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ. Về nhận thức chính trị thì công nhân Việt Nam xếp sau các đồng nghiệp của mình ở nước Trung Hoa láng giềng và thiếu nhiều khả năng lãnh đạo phát động một cuộc khởi nghĩa của dân chống thực dân Pháp.

Ở Mát-xcơ-va, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy rằng chính các trí thức yêu nước đã lãnh đạo cuộc kháng chiến đầu tiên của người Việt Nam chống lại hệ thống thuộc địa. Thật không may ở Pháp chẳng mấy người hiểu biết tư tưởng Mác-xít. Quan điểm cấp tiến về xã hội trong giới trí thức đã có ít nhất từ cuộc cách mạng năm 1789; ở Nga, những quan điểm này đã nảy sinh vào giữa thế kỷ 19 với Na-rốt-nic-xơ; ngay ở Trung Hoa, các tư tưởng cấp tiến từ phương Tây như chủ nghĩa vô chính phủ và chủ nghĩa cộng sản đã trở nên quen thuộc với các thành viên hàng đầu của phong trào tiến bộ vào đầu thế kỷ 20. Nhưng ỏ Việt Nam, những tư tưởng cách mạng nước ngoài bị cấm đoán vì chỉ bắt đầu du nhập trong những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngay cả khi các trí thức Việt Nam bắt đầu biết về cuộc cách mạng Bôn-sê-vích thì những tin tức về cuộc cách mạng chủ yếu là tin tiêu cực hoặc các tin tức bị kiểm duyệt của Pháp bóp méo nghiệm trọng. Sách về Các Mác hay nước Nga Xô-viết bị cấm ở Đông Dương trong khi các bài báo trên những tờ báo và tạp chí địa phương nói đến các đề tài đó bị các quan chức Pháp thường xuyên tịch thu. Chỉ một số người có đủ may mắn để có được các bản sao về các tác phẩm của Các Mác hoặc tờ Người cùng khổ của Nguyễn Ái Quốc được chuyền cho nhau một cách lén lút đọc được về mặt sau của vấn đề.

Người Việt Nam bình thường do không có kiến thức sâu sắc về chủ nghĩa Mác nên không thể hiểu biết về cách mạng Bôn-sê-vích. Thành phần xã hội và quan điểm thế giới của giới cách mạng của Việt Nam làm cho các tư tưởng Mác-xít khó có thể được chấp nhận một cách thực sự một khi những tư tưởng này trở nên phổ biến hơn. Đối với đa số trí thức Việt Nam, cuộc sống đô thị là một kinh nghiệm tương đối mới. Được nhắc đén trong tư tưởng Nho giáo, tư tưởng có thành kiến sâu sắc chống lại việc chạy theo lối sống đô thị như thương mại và công nghiệp, những trí thức này không chắc đã thấy được sự liên quan của học thuyết Mác với những vấn đề của một nước Việt Nam đa số là ở nông thôn. Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác đã được những người đang chờ đợi một sự thay thế mang tính thuyết phục cho thế giới quan Nho giáo chấp nhận; việc những người theo chủ nghĩa Mác có ác cảm sâu sắc đối với chủ nghĩa đế quốc phương Tây chẳng gây hại cho ai. Như một người theo chủ nghĩa dân tộc Việt Nam đã nói: “Chúng tôi sẽ không đi theo chủ nghĩa cộng sản mà đén với những người theo chủ nghĩa cộng sản, vì ở đây, như ở các nước khác, khi những người cộng sản hứa đem lại cho mọi người dân quyền tự quyết, họ sẽ được chờ đợi như những vị cứu tinh”. Nhưng như lẽ thường, thái độ của họ là ngây thơ. Một người Việt yêu nước có nói: “Nếu bị phương Tây ghét thì hẳn người Nga và những người cộng sản phải là những người tốt”.

Nguyễn Ái Quốc ý thức được điều này. Năm 1922, trong một bài báo viết ở Pa-ri, ông đã nhận xét rằng chỉ có một số trí thức ở các thuộc địa như Việt Nam hiểu được ý nghĩa của chủ nghĩa cộng sản, và hầu hết trong số những người hiểu được thì lại thuộc giới tư sản trong nước và thích “mặc áo có mác và chỉ quan tâm đến quyền lợi của mình”. Ông nhận thấy, đối với hầu hết những người dân ở các thuộc địa, chủ nghĩa Bôn-sê-vích “có nghĩa là tiêu huỷ tất cả hoặc giải phóng khỏi ách áp bức của nước ngoài”. Nghĩa thứ nhất đưa dân chúng ngu dốt và nhút nhát rời xa chúng ta; nghĩa thứ hai đưa họ lại gần với chủ nghĩa dân tộc. Cả hai nghĩa này đều nguy hiểm như nhau.

Hàm ý của nó là Việt Nam vẫn chưa sẵn sàng cho sự thành lập một đảng cộng sản. Dân chúng “tỏ ra sẵn sàng nổi dậy nhưng hoàn toàn không có học thức. Họ muốn tự giải phóng nhưng lại không biết làm như thế nào”. Giới có học thức bồn chồn không biết phải làm gì nhưng không sẵn sàng chấp nhận luận thuyết Mác. Cần phải có thời gian để người Việt Nam dần dần nhận thấy rằng cách mạng xã hội chính là câu trả lời cho các vấn đề của họ. Trong khi đó, một chính đảng cần được thành lập để có thể đại diện cho các ý tưởng của Mác và Lê-nin tuy ở dạng phôi thai nhưng có thể tập hợp quần chúng xoay quanh một vấn đề chính: độc lập dân tộc.

Một người Việt bất đồng ý kiến nổi tiếng nhất lúc đó sống ở Trung Hoa là Phan Bội Châu. Sau khi ra khỏi tù năm 1917 và sau một thời gian thử nghiệm tư tưởng thoả hiệp với người Pháp, Phan Bội Châu đã quay lại với quan điểm chống Pháp trước khi ông bị bắt. Tuy già nhưng vẫn khoẻ mạnh, với bộ râu màu nâu và cặp kính, người chiến binh 55 tuổi đến ở Hàng Châu, một khu nghỉ có quang cảnh đẹp ở tây nam Thượng Hải, nhà của Hồ Học Lâm, một người ủng hộ sau này đóng vai trò quan trọng trong phong trào suốt Chiến tranh thế giới thứ hai. Mặc dù Phan Bội Châu không còn các hạt nhân của tổ chức chống thực dân yêu nước ở Đông Dương, tên của ông vẫn có sức lôi cuốn quần chúng; đầu những năm 1920, một số người Việt Nam yêu nước đầy nhiệt huyết đã đến nam Trung Hoa để gia nhập đội ngũ những môn đệ của ông. Trong số này nổi bật nhất có Lê Hồng Phong, Lê Văn Phan (trong phong trào cách mạng được biết đến nhiều hơn với tên Lê Hồng Sơn), Lê Quang Đạt và Trương Văn Lệnh. Tất cả những người này cuối cùng đã trở thành thành viên sáng lập của tổ chức cách mạng đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc.

Khi ở Nam Trung Hoa, những thành viên đầy nhiệt huyết này trở nên mất kiên nhẫn trước hoạt động không hiệu quả của tổ chức của Phan Bội Châu; tháng 3 năm 1924, tám tháng trước khi Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Đông, họ quyết định tự tách ra, thành lập một đảng mới gọi là Tâm Tâm Xã (Hiệp hội những người cùng chí hướng, dịch sát nghĩa là Hội những trái tim cùng nhịp đập). Cũng như hầu hết các tổ chức yêu nước được thành lập ở Việt Nam vào đầu thế kỷ 20, lãnh đạo của đảng mới là thành viên của giai cấp trí thức truyền thống. Các cuộc biểu tình của sinh viên nổ ra vào giữa những năm 1920 làm họ có tư tưởng cấp tiến, họ quyết định bỏ học để tham gia các hoạt động chống thực dân. Một vài người trong số họ làm lao động chân tay trước khi quyết định di cư ra nước ngoài. Hầu hết tất cả đều cùng quê Nghệ An với Nguyễn Ái Quốc.

Các thành viên của tổ chức mới, với tính hoạt động sôi nổi và dễ nghiêng ngả về thiên hướng chính trị, đã cho rằng hệ tư tưởng không phù hợp với nhu cầu cách mạng trước mắt. Triết lý của họ tương tự như triêt lý trong phong trào nổi dậy của Au-gút-xtê Bờ-lanh-qui ở châu Âu ở thế kỷ 19. Phong trào khuyến khích nổi dậy, tuy không thành công ở Pháp, I-ta-li-a và Tây Ban Nha. Mục tiêu cuối cùng của họ là dùng tuyên truyền và các hành động khủng bố để làm dấy lên một biến động của dân chúng nhằm lật đổ chế độ thực dân Pháp ở Đông Dương.

Một trong những việc đầu tiên mà đảng mới dự định thực hiện là việc ám sát toàn quyền Đông Dương người Pháp, ông Mác-xi-an Méc-lanh, nhân chuyến thăm Quảng Đông của ông sau một chuyến đi thăm chính thức một số thành phố ở Đông Á giữa tháng 6 năm 1924. Với sự cố vấn và hỗ trợ về tài chính của Lâm Đức Thứ, một công dân 36 tuổi từ Bắc Bộ, người trước đó đã đến Quảng Đông để gặp Phan Bội Châu cách đó vài năm, nhóm này đã đưa ra những kế hoạch giết Méc-lanh bằng cách nổ bom trong các lễ kỷ niệm ở tô giới châu Âu là đảo Sa Diện. Mặc dù lấy một người vợ giàu có và bản thân ông già hơn nhiều so với các đồng sự của mình, ông Thứ (tên thật là Nguyễn Công Viên) được xem là một thành viên tích cực của tổ chức vì có khả năng gây quỹ và liên hệ với người Pháp. Do xuất thân từ một gia đình phản đối sự xâm chiếm của Pháp, không ai nghi ngờ sự trung thành của ông đối với công cuộc chống chủ nghĩa thực dân. Trụ sở của tổ chức được đặt ở tiệm thuốc tây do ông Thứ và vợ quản lý trong một ngõ nhỏ trên đường De Zheng và cách các trụ sở của Quốc tế cộng sản không xa.

Lúc đầu, người ta quyết định rằng nhà cách mạng trẻ tuổi đẹp trai có nước da sẫm Lê Hồng Sơn sẽ được chọn để thực hiện hoạt động đó, bởi vì ông đã ám sát một gián điệp hai mang trong nội bộ đảng; do cách biểu lộ tình cảm mạnh mẽ của ông nên thậm chí các đồng sự của ông cũng sợ ông như sợ một “kẻ giết thuê” của tổ chức. Nhưng Lê Hồng Sơn cũng bị các nhà chức trách biết rõ tung tích, do đó việc này cuối cùng được giao cho Phạm Hồng Thái, một người Việt Nam trẻ tuổi vừa mới đến từ Đông Dương để gia nhập tổ chức khủng bố. Thái là con trai của một công chức tỉnh Nghệ An, tham gia phong trào Cần Vương của Phan Đình Phùng, thời thanh niên. Thái đã học tại trường Pháp Việt ở Hà Nội và sớm say mê các lý tưởng cách mạng. Sau khi học xong, ông xin làm thợ cơ khí ở ga-ra ôtô và sau đó làm việc ở mỏ than. Đầu năm 1924, ông đến Trung Hoa với bạn là Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Phong và trở thành thành viên của Tâm Tâm Xã.

Rõ ràng là do khao khát được hy sinh vì sự nghiệp, Phạm Hồng Thái đã đồng ý nhận trách nhiệm đưa quả bom đến mục tiêu định trước. Tối ngày 19 tháng 6, các quan chức Pháp đã thu xếp một bữa tiệc ở khách sạn Víc-to-ri-a ở đảo Sa Diện để chào mừng Toàn quyền Méc-lanh và giới thiệu ông với các thành viên có uy tín của cộng đồng doanh nghiệp địa phương. Bữa tiệc sẽ được tổ chức ở một phòng ăn lớn cạnh khu phố đó. Vào khoảng 8 giờ 30 tối, ngay khi xúp được đem ra, ông Thái đã ném quả bom qua cửa sổ vào phòng tiệc. Quang cảnh được một tờ báo địa phương mô tả như sau: “Tiếng nổ kinh hoàng vang khắp đảo Sa Diện; sức của nó mạnh đến nỗi tất cả dao dĩa trên bàn tiệc văng vào các nhân viên, gây ra những vết thương khủng khiếp… Một nhân chứng ở gần khách sạn vào thời điểm xảy ra vụ việc và đến giúp mô tả cảnh tượng cho chúng tôi bằng những từ đơn giản: kinh hoàng, rất kinh hoàng. Khách nằm trên ghế hoặc trên đất vưói những vết thương khủng khiếp”.

Năm người khách đã chết vì vụ nổ đó (ba người chết tại chỗ và những người khác chết do bị thương nặng) và hàng chục người bị thương. Tuy nhiên, thật kỳ lạ là Toàn quyền Mác-xi-an Méc-lanh đã sống sót. Trong khi tìm cách chạy vào đất liền, Phạm Hồng Thái đã nhảy từ trên cầu xuống Châu Giang và chết đuối. Méc-lanh đã đi Hà Nội trên một tàu chở khách của Pháp ngày hôm sau để tránh có thể lại bị tấn công trong lễ tang của kẻ ám sát trẻ tuổi.

Méc-lanh đã thoát chết vì ông có ngoại hình rất giống một trong số những người khách, người đã chết vì trúng bom. Nhưng những người chủ mưu nghi ngờ về việc một kẻ phản bội trong hàng ngũ của họ đã chuyển thông tin về kế hoạch ám sát cho Pháp. Những nghi ngờ dồn về Lâm Đức Thứ, những thói quen và mối liên hệ với các quan chức Pháp của ông ta đã làm ông ta trở thành kẻ bị tình nghi. Lê Quang Đạt, một trong những thành viên của Tâm Tâm Xã đã kể cho Lê Hồng Sơn về mối lo sợ của mình, nhưng Sơn trả lời rằng Lâm Đức Thứ đã liên hệ với người Pháp để gây các quỹ cho các hoạt động bí mật của tổ chức. Quan hệ của Thứ với tổ chức vẫn tạm được duy trì.

Vụ nổ bom ở khách sạn Vích-to-ri-a là cố gắng đầu tiên của các nhà cách mạng châu Á nhằm ám sát một quan chức cao cấp thực dân Pháp và việc này đã làm cho cộng đồng người Pháp ở Đông Dương bị sốc. Ở Hà Nội, báo chí thực dân đã đổ lỗi về vụ tấn công cho các cán bộ phong trào Xô-viết. Nhưng vụ ám sát này đã làm cho Phạm Hồng Thái thành người hy sinh vì sự nghiệp chống chủ nghĩa đế quốc. Chính phủ của Tôn Dật Tiên đã dựng một ngôi mộ cho người thanh niên Việt Nam yêu nước tại nghĩa trang ở Quảng Đông, nghĩa trang dành riêng cho các liệt sĩ hy sinh vì cách mạng Trung Hoa; Phan Bội Châu đã có tuyên bố gián tiếp nói rằng ông Thái là một thành viên của tổ chức của ông và tuyên bố rằng kế hoạch ám sát là nhằm trả đũa các hoạt động tàn ác của người Pháp ở Đông Dương. Phan Bội Châu đặt một câu hỏi cường điệu, việc giết và áp bức thì việc nào tồi hơn? Sau đó ông viết một bài miêu tả đầy chi tiết không đúng sự thật về cuộc đời của ông Thái.

Phan Bội Châu cũng nhân sự kiện Sa Diện được biết đến rộng rãi để khôi phục tổ chức chính trị của mình ở Nam Trung Hoa, tổ chức này đã trở nên suy yếu trong những năm ông ở trong tù. Tháng 7 năm 1924, ông đến Quảng Đông để tham dự một lễ xây mộ cho Phạm Hồng Thái. Ở đó ông nói chuyện với một số môn đệ của mình về việc thay thế Việt Nam Quang Phục hội của ông bằng một số tổ chức chính trị mới có tên là Việt Nam Quốc dân đảng, theo Quốc dân đảng của Tôn Dật Tiên. Phan Bội Châu trở lại Hàng Châu vào tháng 9.

Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Đông năm tháng sau vụ ám sát hụt ở đảo Sa Diện. Vài ngày sau đó, trong vai một nhà báo Trung Hoa tên là Oang San-y, ông đã liên lạc với các thành viên của Tâm Tâm Xã. Hoạt động cấp tiến của họ rõ ràng là đã làm nhà cách mạng trẻ tuổi đồng cảm. Tất nhiên, việc họ thiếu lý tưởng chủ đạo sẽ thuận tiện vì như vậy Mác và Lê-nin sẽ lấp lỗ hổng đó. Và việc nhiều thành viên hàng đầu của nhóm là đồng hương với ông không gây phiền phức gì cả. Rõ ràng là Nguyễn Ái Quốc đã có ấn tượng với Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu, nhưng đặc biệt là với Lê Hồng Phong, người thấp, chắc nịch, có đôi vai rộng và con của một gia đình gia giáo ở Nghệ An mà Phan Bội Châu đã tuyển để đi học nước ngoài.

Nguyễn Ái Quốc đã không mất nhiều thời gian để thuyết phục những người này theo quan điểm của ông. Trong một bức thư gửi trụ sở của Quốc tế cộng sản ở Mát-xcơ-va đề ngày 18 tháng 12 năm 1924, ông báo cáo rằng ông đã liên lạc với một số “nhà cách mạng dân tộc” Việt Nam và bắt đầu hợp tác với họ. Cho đến tháng hai năm sau, ông đã thành lập một nhóm bí mật gồm 9 thành viên, lấy tên là Quốc dân đảng Đông Dương. Một số người đã trở về Đông Dương để tuyển thêm người, trong khi những người khác gia nhập quân đội của Tôn Dật Tiên hoặc xin gia nhập đảng Cộng sản Trung Quốc. Năm người trong số này được ông mô tả là ứng cử viên của một đảng cộng sản tương lai. Mặc dù vậy, ông nhấn mạnh rằng ông rất cần có thêm kinh phí và tài liệu tuyên truyền để thực hiện các hoạt động bổ sung.

Rất có thể là qua các thành viên của Tâm Tâm Xã mà Nguyễn Ái Quốc đã liên lạc được với Phan Bội Châu. Mặc dù Nguyễn Ái Quốc không đồng tình với các phương pháp của nhà hoạt động cao tuổi này, có thể ông đã coi Phan Bội Châu là một công cụ hữu ích để xây dựng một tổ chức cho riêng mình. Về phần mình, Phan Bội Châu rõ ràng là đã nghe nói về những kỳ công của một con người bí ẩn là Nguyễn Ái Quốc khi ông còn sống ở Hàng Châu, mặc dù có thể ông chưa nhận ra ngay được lai lịch thực của Nguyễn Ái Quốc vốn là con trai của người bạn cũ của ông là Nguyễn Sinh Sắc. Hơn nữa, Phan Bội Châu đã quan tâm hơn đến chủ nghĩa xã hội và tư tưởng Các Mác, mặc dù theo ý kiến chung thì sự hiểu biết của ông về hệ tư tưởng Mác còn rất sơ sài.

Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Đông hai tháng sau khi Phan Bội Châu đi Hàng Châu vào tháng 9, nhưng rõ ràng là ông đã biết đến bài phát biểu của ông từ các thành viên của Tâm Tâm Xã. Theo các nguồn tin tình báo Pháp, Nguyễn Ái Quốc đến Thượng Hải vào tháng 1 năm 1925 để gặp Phan Bội Châu. Tuy nhiên, mật thám Pháp đã tường thuật rằng không có sự liên hệ nào giữa hai người vào thời điểm đó.

Cho đến lúc đó, Phan Bội Châu đã biết được lai lịch thật của Lý Thuỵ, vì vào khoảng tháng 2 hay tháng 3, ông đã viết thư cho Nguyễn Ái Quốc từ Hàng Châu, ca ngợi công việc của Nguyễn Ái Quốc và nhắc ông nhớ về cuộc gặp trước đó của họ ở làng Kim Liên hai thập kỷ trước đó. Phan Bội Châu cũng bày tỏ mong muốn cộng tác với người đồng hương trẻ và muốn đến Quảng Đông để gặp anh ta. Đáp lại, Nguyễn Ái Quốc đã cố gắng giải thích về sự cần thiết phải tổ chức lại đảng của Phan Bội Châu và nói về chiến lược của ông và học thuyết Lê-nin đằng sau chiến lược đó. Phan Bội Châu đã đồng ý hợp tác và cung cấp cho người thanh niên danh sách các thành viên trong tổ chức của mình.

Nhưng Nguyễn Ái Quốc nhanh chóng nhận ra rằng Phan Bội Châu và nhiều đồng sự nhiều tuổi của ông không thể làm cơ sở cho phong trào cách mạng mới mà ông đã thấy trước. Ông nhanh chóng tập trung mọi sức lực để chuyển Tâm Tâm Xã thành một tổ chức cách mạng Mác-Lê-nin mới. Bước đầu tiên của ông là thành lập một hạt nhân gồm những môn đệ tận tâm thành một cộng sản Đoàn mới, hoạt động dưới danh nghĩa một tổ chức lớn hơn mà ông vừa thành lập. Trong số những thành viên sáng lập này là năm nhân vật chủ chốt của Quốc dân đảng Đông Dương, gồm có Lê Hồng Sơn, Lê Hồng Phong và Hồ Tùng Mậu. Họ cùng lập một danh sách các cá nhân từ năm tỉnh khác nhau ở Đông Dương làm cơ sở cho một tổ chức cách mạng trong nước. Các đặc phái viên được cử từ Quảng Đông đến hộ tống họ sang Trung Hoa để đào tạo các phương pháp tổ chức; sau đó, những người được tuyển dụng sẽ quay về các tỉnh nhà. Các thành viên nhiều hứa hẹn khác của phong trào sẽ được cử đến Mát-xcơ-va để được truyền bá học thuyết và thực tiễn cách mạng ở Trường Xta-lin. Nguyễn Ái Quốc cũng đã thực hiện các bước để thiết lập một cơ sở cách mạng ở Xiêm cũng như ở một số thành phố khác ở Nam Trung Hoa, nơi một trụ sở tạm thời có thể sẽ được đặt ở đó trong trường hợp các hoạt động ở Quảng Đông bị làm gián đoạn. Cuối cùng, ông có kế hoạch tuyển dụng các đảng viên trong số những thuỷ thủ Việt Nam phục vụ trên tàu dọc theo bờ biển Nam Trung Hoa để làm đầu mối liên lạc đáng tin cậy giữa các trụ sở và nhiều cơ sở đảng ở Đông Dương.

Sự xuất hiện đột ngột của người thanh niên lạ mặt đầy nhiệt huyết ở trụ sở của Quốc tế cộng sản đã gây sự chú ý của các nhà chức trách Pháp ở Quảng Đông và cả ở Đông Dương. Trung tuần tháng 2 năm 1925, theo các báo cáo thì người mới đến tự xưng là Lý Thuỵ đã liên lạc với các thành phần cấp tiến trong cộng đồng người Việt lưu vong ở Nam Trung Hoa dẫn đến việc các nhà chức trách Pháp ở Hà Nội và Quảng Đông lo lắng kêu gọi Bộ Thuộc địa làm rõ nơi ở hiện tại của Nguyễn Ái Quốc. Lúc đầu, Pa-ri báo là Nguyễn Ái Quốc vẫn đang ở Mát-xcơ-va, nhưng sau vài tuần các nhà chức trách Pháp bắt đầu nghi ngờ ông Lý Thuỵ đầy bí ẩn thực ra là Nguyễn Ái Quốc. Ở Quảng Đông, một sĩ quan cảnh sát người Pháp mới đến với tên hiệu là “Nô-en” đã thúc điệp viên của mình xác minh lai lịch của người lạ đó.

Điệp viên được việc nhất của Nô-en là đồng sự của Nguyễn Ái Quốc tên là Lâm Đức Thứ, người mà dù có phẩm chất yêu nước đã đồng ý làm người cung cấp tin tức cho Pháp. Với bí danh “Pi-nốt”, Thứ đã cung cấp cho Pháp thông tin hữu ích về các hoạt động của phong trào cách mạng Việt Nam cho đến cuối thập kỷ. Lúc đầu, Thứ tức giận khi phải cố sức thu thập thông tin để xác minh lai lịch của người mới đến. Ông cho biết là Lý Thuỵ rất thận trọng và từ chối không chụp ảnh. Nhưng ông đã chụp được ảnh của Lý Thuỵ cùng với một nhóm đông người trước trụ sở của Quốc dân đảng vào tháng 3. Từ bức ảnh đó, các điệp viên của Sở Mật thám khẳng định rằng Lý Thuỵ chính là Nguyễn Ái Quốc.

Cuối mùa xuân, nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc nhằm thiết lập một tổ chức cách mạng hoạt động theo các nguyên tắc Mác-Lê-nin và với sự hướng dẫn của Quốc tế cộng sản đã tiến triển tốt đẹp. Theo một trong những thành viên chính nhớ lại, quyết định chính thức về việc thành lập một đảng cách mạng mới đã được đưa ra vào khoảng đầu tháng 6. Vài ngày sau đó, cuộc họp đầu tiên đã được tổ chức tại nhà của Lâm Đức Thứ ở trung tâm Quảng Đông. Các thành viên chủ chốt của Nhóm cộng sản của Nguyễn Ái Quốc cũng được tham gia với tư cách là các thành viên sáng lập. Mặc dù tên chính thức của tổ chức mới này vẫn còn chưa ngã ngũ, chẳng bao lâu sau nó được biết đến với cái tên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.

Nguyễn Ái Quốc cũng bắt đầu xuất bản tờ báo Thanh Niên, để tuyên truyền tư tưởng của nhóm, một trường đào tạo đã được thành lập ở trung tâm Quảng Đông để tuyên truyền cho những người mới được tuyển. Nguyễn Ái Quốc vẫn áp dụng chiến thuật mà ông đã sử dụng thành công ở Pa-ri bằng cách thiết lập một liên minh rộng mở hơn gồm các nhà hoạt động cấp tiến từ một số nước thuộc địa và bán thuộc địa ở châu Á. Vào cuối tháng 6, ông đã phối hợp với nhân viên người Ấn Độ của Quốc tế cộng sản M.N.Roi và nhà lãnh đạo cánh tả Quốc dân đảng Li-ao Dông-cai thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức. Li-ao Dông-cai lãnh đạo tổ chức này và Nguyễn Ái Quốc làm tổng thư ký kiêm thủ quỹ. Hội bao gồm các thành viên từ Triều Tiên, Ấn Độ, Trung Hoa và Đông Ấn thuộc Hà Lan (nhiều người trong số đó đã bị cuốn hút bởi Quảng Đông, được biết đến với cái tên “Đông Mát-xcơ-va” do quan hệ giữa Tôn Dật Tiên với Quốc tế cộng sản), cũng như từ Đông Dương. Hội đã tổ chức cuộc họp đầu tiên ở Quảng Đông vào giữa tháng 7. Một tuyên bố được đưa ra nhân dịp đó lên án nghiêm khắc những hành động tàn ác của chủ nghĩa đế quốc và kêu gọi nhân dân bị áp bức ủng hộ phong trào cách mạng thế giới.

Trong thời gian ngắn lưu lại ở Quảng Đông, Nguyễn Ái Quốc chủ yếu dành thời gian cho hoạt động của hội. Hội được thành lập một cách khôn khéo để thể hiện những đánh giá của ông về tình hình đang nổi lên ở Đông Dương. Nhu cầu trước mắt là thu hút các trí thức yêu nước và các thành phần cách mạng dân tộc khác tham gia sự nghiệp chung để cung cấp những nhân vật chủ chốt cho việc thành lập một đảng cộng sản chính thức. Vì những lý do thực tiễn, cơ sở chính cho lời kêu gọi đó là cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc. Tuy nhiên, điều cần thiết là giành được sự ủng hộ của công nhân và nông dân bị áp bức, những người mà đối với họ độc lập dân tộc không thiết thực bằng cuộc đấu tranh cùng cực vì miếng cơm manh áo hằng ngày. Hội cũng cần đặt nền móng cho giai đoạn hai của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Những bài báo của tờ Thanh Niên, nhiều mục trong đó do chính Nguyễn Ái Quốc viết, đã cẩn thận đặt nền móng cho một tầm nhìn mới vượt qua vấn đề độc lập dân tộc và bao gồm cả mục tiêu cách mạng thế giới rộng lớn hơn.

Do đó, chương trình của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã tập trung vào hai trụ cột là chủ nghĩa dân tộc và cách mạng xã hội. Khi gắn kết hai vấn đề này, Nguyễn Ái Quốc trung thành với mô hình của Lê-nin mà trước đó đã được Đại hội Quốc tế cộng sản lần thứ hai thông qua năm 1920. Nhưng khi Lê-nin coi tình cảm dân tộc chủ yếu là một thủ đoạn mang tính chiến thuật để giành được sự ủng hộ của các thành phần theo chủ nghĩa dân tộc chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc thế giới, chương trình của Hội và nhiều bài viết trong tờ báo của Hội dường như coi trọng vấn đề chủ nghĩa dân tộc không kém, nếu không muốn nói là hơn so với vấn đề cách mạng thế giới.

Việc nhấn mạnh chủ nghĩa dân tộc trong chương của Hội, một đặc điểm sau này trở thành một phần không thể thiếu được của hình ảnh Nguyễn Ái Quốc với tư cách là một người yêu nước và một nhà cách mạng, là một trong các yếu tố mà qua thời gian, một số nhà quan sát đã đặt dấu hỏi về sự gắn bó của ông đối với ý thức hệ Mác-xít và cuộc đấu tranh để xây dựng xã hội cộng sản không tưởng. Thực ra, trong những năm 1920, nghi ngờ về sự trung thành của ông với học thuyết Mác-xít thậm chí đã xuất hiện ở Mát-xcơ-va và một số thành viên của chính tổ chức đảng của ông; như chúng ta thấy, vài năm sau, sự chỉ trích đó đã xuất hiện trên các ấn phẩm.

Có các lý do xác đáng để lập luận rằng Nguyễn Ái Quốc trước hết là một nhà yêu nước. Năm 1961, chính ông đã thừa nhận trong một bài báo ngắn “Con đường đưa tôi đến chủ nghĩa Lê-nin” rằng chính khát vọng giành độc lập cho Việt Nam trước tiên đã đưa ông đến với chủ nghĩa Mác. Và trong khi người thầy của ông, Lê-nin dường như xem mối quan hệ giữa những người cộng sản và những người tư sản dân tộc như một thủ đoạ chiến thuật để tăng cường các đảng cộng sản ở các xã hội có giai cấp công nhân còn bé nhỏ thì Nguyễn Ái Quốc lại nhìn nhận vấn đề độc lập dân tộc như là mục tiêu cuối cùng và chế độ cộng sản không tưởng chỉ là một ý tưởng đến sau và có thể trì hoãn đến một tương lai vô định. Ông thường nói rằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sẽ được tiến hành vào thời điểm thích hợp.

Tuy nhiên, cũng có các bằng chứng thuyết phục chứng tỏ rằng Nguyễn Ái Quốc thời trẻ nhìn nhận chủ nghĩa Mác-Lê-nin không chỉ là một công cụ để đánh đuổi người Pháp. Dù ông hiếm khi đề cập học thuyết Mác-xít trong các bài viết của mình, trong những năm ông ở Pa-ri và trong thời gian học tập sau này ở Mát-xcơ-va, ông luôn nói về tương lai của cách mạng thế giới với sự nhiệt thành ngày càng tăng rằng, theo suy nghĩ của ông, cách mạng thế giới nhất định sẽ chấm dứt hệ thống bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Ông cho rằng cuộc đấu tranh chống lại các lực lượng đế quốc ở châu Á sẽ lên đến đỉnh cao là một cuộc cách mạng toàn cầu. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn một phóng viên Xô-viết trước khi qua đời, Hồ Chí Minh thừa nhận rằng nhiệt tình cách mạng tuổi trẻ của ông có thể đã hơi thái quá và buồn bã nói rằng khi sống ở Liên Xô, ông đã mắng mỏ một phụ nữ trẻ vì đã mặc váy lụa dài và đi giày cao gót. Ông nhớ lại rằng cô này đã đáp lại đầy phẫn uất rằng tự tay cô đã làm tất cả những thứ đó. Cô hỏi: “Giới trẻ ngày nay có cơ hội để ăn ngon mặc đẹp có phải là điều tồi tệ không?”. Nhiều thập kỷ sau, lời nói của cô vẫn còn đọng lại trong tâm trí ông.

Nếu nói hồi đó ông vừa là người dân tộc chủ nghĩa, vừa là nhà Mác-xít là đúng thì làm thế nào ông có thể kết hợp hài hoà giữa chủ nghĩa yêu nước và những đòi hỏi của chủ nghĩa Mác-xít quốc tế? Câu trả lời có thể tìm thấy ở Lê-nin. Khi định nghĩa về khái niệm cuộc cách mạng hai giai đoạn trong “Luận cương về các vấn đề Dân tộc và Thuộc địa” của mình, Lê-nin đã đưa ra khái niệm một “liên bang” đóng vai trò như một giai đoạn chuyển tiếp giữa độc lập dân tộc và giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản, khi có sự “thống nhất hoàn toàn của nhân dân lao động thuộc các quốc gia khác nhau”. Lê-nin xem các liên bang được lập ra vào đầu những năm 1920 giữa nước Nga cách mạng và Phần Lan, Hung-ga-ri và Lát-vi-a, giữa A-déc-bai-dan và Ác-mê-ni-a như là các mô hình có thể cho các nước liên kết các quốc gia độc lập và “các liên minh liên bang” như các thí dụ làm thế nào các liên minh có thể được thiết lập trong giai đoạn quá độ chuyển sang chủ nghĩa cộng sản toàn cầu trong một tương lai lâu dài. Nguyễn Ái Quốc rõ ràng là đã tiếp thụ được các học thuyết đó khi ông sống tại Liên Xô năm 1923-1924, và ông đã đề cập khái niệm này trong một bức thư gửi Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản III vào tháng 5 năm 1934 khi ông cố gắng biện minh cho đề xuất tuyển thêm các nhà cách mạng châu Á vào Trường Xta-lin như là một bước tạo “nền tảng mà trên đó Liên bang cộng sản của phương Đông có thể được xây dựng”.

Lần thứ hai Nguyễn Ái Quốc đề cập vấn đề một liên bang quá độ là trong một văn bản được phát hiện mới đây trong kho lưu trữ của Mát-xcơ-va. Trong khi tác giả chỉ được nêu là “Nguyễn” thì gần như chắc chắn là tài liệu này được Nguyễn Ái Quốc viết vào khoảng thời gian năm 1924. Trong báo cáo, “Nguyễn” bàn về ý tưởng một đảng cộng sản Việt Nam tương lai và tuyên bố rằng, với tầm quan trọng của vấn đề quốc gia tại đó, điều tối quan trọng là phải “giương cao ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc bản địa dưới danh nghĩa Quốc tế Cộng sản III”. Theo như nhận xét của một người quan sát tư sản thì đây là một “nghịch lý táo bạo”, nhưng lại là một “thực tế tuyệt vời”. Ông lập luận rằng hiện tại, không thể nào giúp nhân dân Việt Nam mà lại không tôn trọng thực tế cơ bản về tình hình xã hội đặc trưng của họ. Ông tiên đoán rằng vào thời điểm cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc của họ thắng lợi “phần lớn thế giới đã được Xô-viết hoá, và như vậy, chủ nghĩa quốc gia tất yếu sẽ trở thành chủ nghĩa quốc tế”.

Sau khi đến Quảng Đông, Nguyễn Ái Quốc một lần nữa đề cập khái niệm này trong một dự thảo Cương lĩnh cho tương lai của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được viết vào tháng 2 năm 1925. Bản thảo hứa hẹn dành cho tất cả những ai muốn gia nhập tổ chức mới: thứ nhất, tham gia cuộc đấu tranh lật đổ chủ nghĩa đế quốc và tái thiết lập độc lập dân tộc, sau đó chuyển sự chú ý sang cuộc đấu tranh xoá bỏ phân biệt giai cấp và tham gia cách mạng thế giới, “mục tiêu cuối cùng của cuộc đấu tranh của chúng ta”. Lời cam kết xuất hiện trong chương trình của Hội và cuối cùng được đưa ra vào tháng 6 và được đề cập trong một bài báo phát hành tháng 7 trên tờ Thanh Niên: “Sau cuộc cách mạng chính trị và xã hội vẫn còn có những dân tộc bị áp bức. Vẫn còn có sự khác biệt giữa các quốc gia. Khi đó điều cần thiết là phải có một cuộc cách mạng thế giới. Sau đó, các dân tộc ở khắp bốn phương trên trái đất sẽ là bè bạn của nhau. Đó sẽ là kỷ nguyên của tình anh em trên toàn thế giới”

Tại sao Nguyễn Ái Quốc lại tin rằng cần phải có cuộc cách mạng thế giới? Tại sao một cách tiếp cận phi bạo lực để giành độc lập dân tộc lại không đủ? Suy nghĩ của ông về các vấn đề này thường không xuất hiện trên các ấn phẩm, nhưng một bức thư ông viết từ Quảng Đông cho Nguyễn Thượng Huyền, một học trò của Phan Bội Châu đang sống cùng với nhà yêu nước lớn tuổi này ở Hàng Châu đã cho thấy một số điểm thú vị về những quan điểm của ông. Ông Huyền là cháu của Nguyễn Thượng Hiền, một học giả yêu nước, từng là hiệu trưởng của Trường Đông kinh Nghĩa thục Hà Nội. Mùa xuân năm 1925, ông Huyền đã gửi cho ông Nguyễn Ái Quốc một bản sao bài báo về cách mạng mà ông vừa viết dự định sẽ cho xuất bản và hỏi ý kiến của ông Nguyễn. Trong bài viết, đó ông Huyền lấy nguồn gốc của khái niệm cách mạng từ cuốn sách Trung Hoa cổ Kinh Dịch trong đó nói rằng cách mạng tương đương với thay đổi triều đại. Sau đó, ông kết luận rằng cuộc đấu tranh chống lại chế độ thuộc địa đã thất bại bởi sự tàn bạo của người Pháp và rằng cách tốt nhất để giành độc lập là bằng các chiến thuật phi bạo lực tương tự phong trào tẩy chay mà Ma-hát-ma Gan-di phát động ở Ấn Độ thuộc Anh.

Trong thư trả lời, Nguyễn Ái Quốc nêu lên sự hoài nghi về nguồn gốc Trung Hoa của khái niệm này (Nguyễn Ái Quốc cho rằng cách mạng có nguồn gốc văn hoá phương Tây) và đưa ra định nghĩa riêng của mình, trong đó đối lập cách mạng với cải cách. Cải cách, theo như Nguyễn Ái Quốc, liên quan đến những thay đổi về thể chế của một nước cụ thể nào đó. Cho dù cải cách có hay không đi kèm bạo lực thì một số trật tự cũ vẫn luôn tồn tại. Thay đổi triều đại, mặt khác hoàn toàn xoá bỏ một hệ thống và thay bằng một hệ thống khác. Vì vậy, thay đổi triều đại không tương đương với cách mạng, vì những người chiến thắng vẫn giữ lại hệ thống quân chủ. Đối với trường hợp của Gan-di, Nguyễn Ái Quốc nói thêm, vị lãnh đạo tinh thần của Ấn Độ rõ ràng là một người cải cách hơn là nhà cách mạng, vì ông chỉ đòi hỏi người Anh cải cách các thể chế của Ấn Độ mà không kêu gọi người Ấn Độ nổi dậy giành độc lập, và ông cũng không đòi hỏi người Anh tiến hành các thay đổi toàn diện trong chính phủ Ấn Độ. Nguyễn Ái Quốc nhận xét rằng chỉ sau khi Anh từ chối các yêu sách của mình, Gan-di mới kêu gọi tẩy chay.

Đối với nhận xét của ông Huyền rằng cách mạng đã thất bại ở Việt Nam vì sự tàn ác của người Pháp, Nguyễn Ái Quốc đáp lại với đôi chút bực bội: “Anh trông đợi điều gì? Anh nghĩ rằng họ sẽ cho chúng ta tự do muốn làm gì thì làm, để chúng ta làm mọi cách để đuổi họ đi ư? Anh nghĩ rằng họ sẽ khoanh tay ngồi nhìn chúng ta tấn công vào lợi ích của chính họ ư? Thay vì trách cứ người khác, tôi cho rằng tốt hơn hết là tự trách mình. Chúng ta phải tự hỏi rằng “Tại sao người Pháp lại có thể đàn áp chúng ta? Tại sao nhân dân chúng ta lại ngu muội như vậy? Tại sao cách mạng của chúng ta chưa thành công? Bây giờ chúng ta phải làm gì?” Anh so sánh chúng ta với những kinh nghiệm thành công của Ai Cập và Ấn Độ, nhưng họ thì giống như cái ô tô có bánh xe và lái xe, còn chúng ta chỉ như cái khung gầm xe. Ấn Độ và Ai Cập có các đảng chính trị, có các đảng viên, các nhóm nghiên cứu, các hội nông dân. Và tất cả họ đều biết phải yêu nước như thế nào. Gan-di đã thực hiện chính sách tẩy chay, liệu chúng ta có làm được như vậy không? Các đảng của chúng ta đâu? Chúng ta chưa có đảng, không có tuyên truyền, không có tổ chức và anh vẫn muốn chúng ta sẽ tẩy chay người Pháp”.

Nguyễn Ái Quốc kết luận bằng một câu cách ngôn của La Phông-ten về những con chuột không dám gắn chuông vào con mèo để được báo động trước khi bị tấn công. Thế còn những người con của Rồng (tức là người Việt Nam), ông nêu câu hỏi: “Chúng ta mà lại như chuột à? Thật là nhục nhã”.

Tại Hàng Châu, Phan Bội Châu đã quan tâm chút ít đến sự xuất hiện của tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Nguyễn Ái Quốc đã hứa sẽ giúp nhà yêu nước cao tuổi theo kịp các nhà hoạt động của mình, và họ đã nhất trí rằng Phan Bội Châu sẽ dàn xếp một chuyến đi đến Quảng Đông trong mùa hề năm 1925. Trong bức thư gửi Nguyễn Ái Quốc đầu năm đó, Phan Bội Châu đã ca ngợi sự sáng suốt và bề dày kinh nghiệm của người thanh niên này và tuyên bố rằng ông vui mừng khi biết có ai đó sẽ làm tiếp công việc của ông khi ông đã cao tuổi và trở nên lạc hậu. Tuy nhiên, Phan Bội Châu cũng nói rõ rằng ông muốn tham gia phong trào; trong một lá thư khác gửi Hồ Tùng Mậu, một trong các đồng sự của Nguyễn Ái Quốc, ông đã ngầm chỉ trích Nguyễn Ái Quốc bằng việc cảnh cáo những người yêu nước trẻ tuổi này không nên đi quá nhanh.

Thậm chí trước khi Phan Bội Châu có thể thực hiện các kế hoạch đi đến Quảng Đông, ông đã phàn nàn rằng Nguyễn Ái Quốc đang phớt lờ mình. Vào giữa tháng 5, Phan Bội Châu rời Hàng Châu đi Thượng Hải bằng tàu hoả, nhưng giới chức Pháp ở Trung Hoa đã được một mật thám là chính tuỳ tùng của ông thông báo về kế hoạch này. Khi tới nhà ga Thượng Hải, là tô giới quốc tế của thành phố, Phan Bội Châu đã bị các nhân viên an ninh cải trang thành lái tắc-xi của Pháp bắt và đưa về Hà Nội để xét xử với tội danh phản quốc.

Câu chuyện này đã gây tranh cãi kéo dài nhất trong lịch sử rối rắm của phong trào dân tộc chủ nghĩa Việt Nam. Ngay từ đầu, nhiều đảng viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã nghi ngờ rằng người phản bội Phan Bội Châu thông báo cho người Pháp là Nguyễn Thượng Huyền, thư ký riêng của ông. Bản thân Phan Bội Châu cũng viết tương tự trong hồi ký của mình. Tuy nhiên, một số nguồn tin dân tộc chủ nghĩa phi cộng sản lại cho rằng thủ phạm chính là người cộng sự gần gũi của Nguyễn Ái Quốc, ông Lâm Đức Thứ, hoặc thậm chí chính Nguyễn Ái Quốc đồng loã với ông Thứ cố tình phản bội Phan Bội Châu để giành tiền thưởng và tạo ra một vật hy sinh cho sự nghiệp dân tộc chủ nghĩa. Lời cáo buộc này cũng được một số cây viết phương Tây nhắc lại, dù không có bằng chứng cụ thể nào để khẳng định. Các nguồn tin cộng sản luôn luôn phủ nhận lời cáo buộc này, nhắc lại rằng âm mưu phản bội Phan Bội Châu là của Nguyễn Thượng Huyền, người cuối cùng đã rời bỏ phong trào cách mạng để làm việc cho Pháp.

Cuộc tranh cãi diễn ra chủ yếu là theo hướng ý thức hệ. Bằng chứng từ kho lưu trữ của Pháp không đưa ra kết luận dứt khoát, nhưng dường như cho rằng Nguyễn Ái Quốc không chịu trách nhiệm về vụ này. Cũng có những khả năng để buộc tội rằng Lâm Đức Thứ là chỉ điểm, vì khi là thành viên của Hội, ông đã là chỉ điểm rồi, và có tin rằng ông đã nhận trách nhiệm về hành động đó trong những năm về sau. Nhưng giả thuyết đó có thể không có cơ sở; một báo cáo của mật vụ viết tại thời điểm đó khẳng định rằng có một chỉ điểm Pháp – có thể, nhưng không chắc chắn là Nguyễn Thượng Huyền – đã sống với gia đình Hồ Hắc Lâm ở Hàng Châu. Ông ta có thể có các thông tin tốt hơn về phong trào của Phan Bội Châu và có thể cung cấp các thông tin đó cho người Pháp. Ông Thứ được nhiều người biết đến như một kẻ khoác lác và có thể đã nhận có dính líu đến vụ bắt giữ này để khuếch trương tầm quan trọng của bản thân. Rất có khả năng là ông Huyền đã phản bội Phan Bội Châu.

Trong tình huống nào đi nữa, khó có khả năng là Nguyễn Ái Quốc được lợi gì khi Phan Bội Châu bị Pháp bắt. Điều này không có nghĩa là phủ nhận khả năng ông có thể phản bội nhà yêu nước cao tuổi này nếu ông tin rằng điều đó phục vụ lợi ích cách mạng. Giá trị của Phan Bội Châu rõ ràng đã bị hạn chế bởi tuổi tác, thiếu tinh tế chính trị và thái độ miễn cưỡng tán thành cách tiếp cận bạo lực. Vào năm 1925, ông rõ ràng là có giá trị như một biểu tượng của chủ nghĩa dân tộc hơn là một người thực sự tham gia phong trào kháng chiến và sự căm thù dấy lên ở Việt Nam do việc ông bị bắt và bị kết án có thể là hành động tuyên truyền nào đó cho sự nghiệp cách mạng. Mặt khác, Hội cũng không chú trọng lắm đến tuyên truyền việc Phan Bội Châu bị bắt mà vẫn tiếp tục tập trung sự chú ý vào sự hy sinh anh dũng của Phạm Hồng Thái, cái chết của ông đã là phương tiện thúc đẩy chính cho việc giáo dục người mới tuyển ở Quảng Đông.

Liệu nhu cầu tài chính có thể là động cơ Nguyễn Ái Quốc trao Phan Bội Châu cho Pháp như một số người lập luận? Không thể bị phủ nhận hoàn toàn lời cáo buộc này bởi vì Nguyễn Ái Quốc chỉ có được nguồn tài trợ hạn hẹp của đảng Cộng sản Trung Quốc và đôi khi buộc phải dùng nguồn tài chính riêng để tiến hành các hoạt động của mình. Nhưng mặt khác, Nguyễn Ái Quốc chưa chắc đã dám mạo hiểm làm việc đó vì có thể chính người Pháp lại công khai tiết lộ âm mưu này và làm mất uy tín của Hội và ngưòi lãnh đạo bí mật của Hội. Xét cho cùng, ông chắc phải nhận thấy rằng việc Phan Bội Châu tự do sẽ có lợi hơn vì ông có thể đóng vai trò người đứng đầu không có thực quyền, một người đứng ở phía trước để kiểm soát trong một mặt trận thống nhất do những người cộng sản chiếm đa số. Điều đáng nói là trong các phát biểu đưa ra trong thời gian sống lưu vong cho đến cuối đời, Phan Bội Châu tiếp tục đánh giá cao Nguyễn Ái Quốc và không bao giờ nói công khai rằng ông có thể buộc trách nhiệm về việc mình bị bắt giữ ở Thượng Hải cho người đồng sự trẻ tuổi hơn này.

Phiên toà xử Phan Bội Châu được mở ở Hà Nội trước Uỷ ban Hình sự Hà Nội ngày 23 tháng 11 năm 1925. Bên bị được hai luật sư giúp đỡ, nhưng mặc dù có sự có mặt của một đám đông lớn biểu tình ủng hộ Phan Bội Châu – khi bên nguyên yêu cầu tử hình, một ông già thậm chí còn yêu cầu chết thay cho ông – ông phải nhận bản án chung thân khổ sai. Năm đó Phan Bội Châu 58 tuổi. Ngày hôm sau, biểu tình diễn ra trên toàn quốc và sinh viên ở Hà Nội in truyền đơn rải trên các đường phố. Vài ngày sau, một Toàn quyền mới đến Hà Nội. Là một đảng viên đảng Xã hội và là người chỉ trích chính sách thuộc địa của Pháp, ông A-lếch-xan-đơ Va-ren không hề mong muốn bắt đầu nhiệm kỳ của mình với một vụ tai tiếng như thế, và sau khi gửi một bức điện về Pháp để xin phép, tháng 12, ông giảm án cho Phan Bội Châu thành quản thúc tại nhà ở Huế.

Trước khi giảm án, Va-ren tìm cách dụ dỗ kẻ nổi loạn cao tuổi này hợp tác với chế độ thuộc địa. Ban đầu, Phan Bội Châu từ chối, nhưng sau này, ông dịu dần và mặc dù vẫn có quan hệ thường xuyên với các thành viên của phong trào dân tộc chủ nghĩa, thỉnh thoảng ông lại đưa ra các bài phát biểu trước sinh viên của trường Quốc học Huế, Phan Bội Châu ca ngợi chất lượng giáo dục cao của Pháp tại Đông Dương. Những bài phát biểu như vậy làm dấy lên sự giận dữ trong phong trào dân tộc chủ nghĩa và khiến Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Đông bình luận rằng đó là những “lời chẳng có nghĩa lý gì”. Theo thông tin của một chỉ điểm của Pháp, một số người dân tộc chủ nghĩa còn có cuộc tranh luận xem liệu có nên có hành động bạo lực chống lại ông không. Phan Bội Châu chết năm 1940.

Trong khi việc xét xử Phan Bội Châu đang được tiến hành, nhà cải cách cao tuổi Phan Châu Trinh trở về Đông Dương sau hơn một thập kỷ ở nước ngoài. Việc ông về đến Sài Gòn khiến cho dân chúng phấn khởi và các bài phát biểu của ông trong vài tháng sau đó với nội dung ủng hộ một chính sách cải cách phi bạo lực đã thu hút được nhiều sự quan tâm. Khi ông chết vì bệnh ung thư ở tuổi 53, đám tang của ông đã trở thành dịp để dân chúng toàn quốc biểu lộ sự thương tiếc; hàng ngàn người xếp hàng trên các đường phố để nhìn quan tài của ông được đưa từ Sài Gòn tới khu nghĩa trang ở gần sân bay Tân Sơn Nhất, ngoại vi phía bắc của thành phố. Nguyễn Ái Quốc rõ ràng không tán thành những hành động đông đảo như vậy với lý do là nó làm phân tán sự chú ý của công chúng vào những vấn đề quan trong hơn. Theo một báo cáo của mật vụ, khi ông nghe báo cáo về biểu tình xung quanh đám tang của Phan Châu Trinh, Nguyễn Ái Quốc đã nhận xét rằng có thể chúng đã được báo chí Pháp thổi phồng lên để làm bẽ mặt Toàn quyền Va-ren, người tìm cách làm cho chính sách thuộc địa của Pháp ở Đông Dương trở nên nhân đạo hơn.

Qua các nỗ lực của Nguyễn Ái Quốc, các đồng nghiệp gần gũi của ông ở trong Nhóm cộng sản Đông Dương đã dần dần được tiếp thụ các ý tưởng của chủ nghĩa Mác-Lê-nin. Đồng thời, dòng người Việt Nam yêu nước liên tục được tuyển mộ và đưa sang Quảng Đông, nơi họ được đào tạo và giáo dục tại trường đào tạo có cái tên rất ấn tượng là Viện Chính trị đặc biệt cho Cách mạng Việt Nam. Viện này lúc đầu đặt ở phố Reng-xing. Khi trở nên quá chật chội, trường được chuyển sang một toà nhà ba tầng lớn hơn của những chủ nhân có cảm tình với cộng sản ở phố Oen Minh, qua trường Đại học Quảng Đông (bây giờ là bảo tàng Lỗ Tấn) và gần với đại bản doanh của đảng Cộng sản Trung Quốc. Trường xây theo kiểu Trung Hoa, tầng một dành làm cửa hàng. Các lớp học được tổ chức ở tầng hai trong một phòng học lớn có số ghế tựa, một chiếc bàn và có ảnh của các bậc tiền bối cộng sản treo trên tường. Sau lớp học là một văn phòng nhỏ và một chiếc giường dành cho Nguyễn Ái Quốc. Tầng ba là chỗ ngủ cho học viên. Có một cửa ẩn dẫn ra một lối đi bí mật trong trường hợp bị cảnh sát tấn công. Bếp nằm ở mảnh vườn phía sau nhà.

Hầu hết các giáo viên Việt Nam ở trường như Hồ Tùng Mậu hay bản thân Nguyễn Ái Quốc đều là đảng viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nhưng đôi khi cũng có những giảng viên mời từ đảng cộng sản Liên Xô như Va-xi-lin Blu-chơ (Galen) P.A. Páp-lốp, M.V.Cu-bai-sốp và V.M.Pri-ma-cốp hoặc từ phía đảng Cộng sản Trung Quốc, các nhà lãnh đạo tương lai như Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai và Li Fuqun cũng như nhà tổ chức nông thôn Peng Pai. Một phần ba chi phí của lớp học là do đảng Cộng sản Trung Quốc chịu, phần còn lại được tài trợ từ các tổ chức địa phương hoặc từ nguồn quyên góp của học viên Việt Nam của Học viện Quân sự Hoàng Phố từ học bổng hằng tháng của họ. Chương trình của học viện được mô phỏng khá giống với các viện đào tạo ở Liên Xô, với các lớp học có các môn như sự lớn mạnh của chủ nghĩa tư bản, tư tưởng Mác-Lê-nin, tổ chức của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và tình hình thế giới hiện tại. Để giúp làm quen với các điều kiện địa phương, cũng có các khoá học về tư tưởng của Tôn Dật Tiên (điều mà Nguyễn Ái Quốc cho là một dạng chủ nghĩa xã hội sơ khai) và tiếng Trung Hoa. Một trong những khoá học do Nguyễn Ái Quốc dạy là về khái niệm Lê-nin về mặt trận thống nhất.

Theo trí nhớ củ nhiều học viên, Nguyễn Ái Quốc, người giảng dạy dưới biệt hiệu là Vương, là giáo viên được ưa chuộng nhất ở trường. Họ nhớ ông là người mảnh dẻ, mắt sáng và giọng nói ấm áp, thánh thiện và hài hước mặc dù ông ít khi cười. Ông Vương rất dễ gần và kiên nhẫn với học viên. Ông giảng giải các từ khó và đưa ra những giải thích rất chi tiết về những khái niệm khó. Ông đọc nhiều, và là cuốn từ điển sống về các con số thống kê. Một trong các học viên nhớ lại “với việc thuộc làu làu ngày tháng và các con số, ông có thể nói cho chúng tôi về số tấn gạo mà thực dân Pháp đã cướp đoạt để gửi về mẫu quốc, về lãi ròng lớn của Ngân hàng Đông Dương, về các thùng đồ cổ quý từ các cuộc khai quật khảo cổ mà Toàn quyền Va-ren đã chất lên tàu đưa về Pháp”.

Như ở Pa-ri, Nguyễn Ái Quốc không những chỉ là giảng viên mà còn là cố vấn tinh thần, một phụ huynh và là cổ động viên tại chỗ. Ông dạy về cách ăn nói và hành vi sao cho chính trực (để phục vụ sự nghiệp cách mạng), về cách nói trước công chúng, cách phát biểu trước đám đông công nhân, nông dân, trẻ em và phụ nữ , cách nhấn mạnh sự nghiệp dân tộc và nhu cầu có cách mạng xã hội, cách đối xử không kẻ cả với những người nghèo và mù chữ. Ông rất chăm lo xem xét các điều kiện sống và ăn uống của họ để bảo đảm rằng họ khoẻ mạnh và được chăm sóc tốt; khi họ buồn và chán, ông động viên họ. Một cựu học viên nhớ lại về tính lạc quan cao độ của ông. Khi các sinh viên tỏ ra thất vọng vì sự tham nhũng đê tiện của các quan chức Việt Nam và sự thiếu quan tâm, phớt lờ đối với dân cư ở các làng, ông đáp: “Chính những vật cản trở và sự đồi bại của xã hội này khiến cho việc làm cách mạng trở nên cần thiết. Một nhà cách mạng trước hết phải lạc quan và tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng”.

Sau khi kết thúc chương trình đào tạo, kéo dài từ ba đến bốn tháng, các học viên thường đi cùng Nguyễn Ái Quốc trong một chuyến thăm có tính nghi thức tới mộ của bảy mươi hai liệt sĩ cách mạng Trung Hoa ở đồi Hoàng Hoa, ngoại vi Quảng Đông và mộ của người liệt sĩ yêu nước Phạm Hồng Thái, họ đọc lại những lời thề có tính nghi lễ là phụng sự cho sự nghiệp cách mạng. Sau đó, hầu hết trong số họ trở về Việt Nam. Một số học viên tài năng hơn như Lê Hồng Phong, đảng viên của Tâm Tâm Xã được gửi đi Mát-xcơ-va để đào tạo thêm. Một số khác lại làm việc cho cảnh sát Trung Hoa hoặc các lực lượng vũ trang hoặc được đưa vào làm cho Học viện Quân sự Hoàng Phố nổi tiếng do Quốc dân đảng điều hành với sự giúp đỡ của Quốc tế cộng sản III. Nguyễn Lương Bằng, một thành viên xuất thân từ một gia đình nông dân, được chỉ thị tìm việc làm tại một hãng tàu biển hơi nước để thiết lập mạng lưới liên lạc giữa Hồng Công và cảng Hải Phòng của Việt Nam. Đến mùa xuân năm 1927, hơn 70 học viên đã theo học tại trường.

Khi trở về Việt Nam, số học viên tốt nghiệp từ Học viện tìm cách quảng bá cho học thuyết cách mạng trong số bạn bè và người quen và tuyển những người mới để gửi đi Quảng Đông. Vì hầu hết các học viên tốt nghiệp này xuất thân từ tầng lớp trí thức, điều tất yếu là những người đầu tiên mà họ tuyển cũng có xuất xứ tương tự. Các nguồn tin tình báo Pháp ước tính rằng khoảng 90 phần trăm số học viên thuộc tầng lớp trí thức tiểu tư sản, số còn lại là công nhân hoặc nông dân. Họ từ khắp mọi miền của đất nước, nhưng có một số lớn là từ quê của Nguyễn Ái Quốc, Nghệ An và các nơi khác thuộc miền Trung Việt Nam. Đến năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã có khoảng 300 đảng viên ở Đông Dương, 150 người từ Nam Bộ (chủ yếu là Sài Gòn và các thị xã của các tỉnh châu thổ là Mỹ Tho và Cần Thơ), 80 ở Trung Kỳ (đặc biệt là Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Ngãi) và 70 ở Bắc Kỳ (Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình, Hà Nội, Hải Phòng). Một năm sau, số đảng viên đã tăng lên 1.700 người.

Với việc thành lập Hội, Nguyễn Ái Quốc đã có bước đi đầu tiên hướng tới cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Rõ ràng, đó là một bước đi nhỏ và thận trọng, nhưng là một sự khỏi đầu càn thiết. Như ông đã viết vài năm trước đó: “Nói rằng một khu vực (thí dụ Đông Dương) với hơn hai mươi triệu dân bị bóc lột đã sẵn sàng cho một cuộc cách mạng là sai. Nhưng nói rằng khu vực đó không muốn có một cuộc cách mạng và bằng lòng với chế độ lại càng sai hơn.”

Nguyễn Ái Quốc đã có đủ kinh nghiệm để nhận ra rằng tuyên truyền đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng một phong trào phôi thai. Tờ báo Thanh Niên đã giúp quảng bá thông điệp của ông. Được in tại Quảng Đông, tờ tuần báo này được gửi bằng đường biển vào Việt Nam. Tổng số 208 số đã được phát hành trong thời gian từ 21 tháng 6 năm 1925 đến tháng 5 năm 1930. Tạp chí được viết với văn phong giản dị quên thuộc của ông và được minh hoạ thêm bằng các khẩu hiệu và tranh biếm hoạ chế nhạo chế độ thuộc địa của Pháp và triều đình Huế yếu hèn. Cũng như tờ Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc viết rất nhiều các bài xã luận dù khong ký tên mình. Hội cũng xuất bản hai tạp chí khác, tờ bán nguyệt san Lính Kách Mệnh và tờ nguyệt san Việt Nam Tiền Phong.

Phù hợp với các mục tiêu đã tuyên bố của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên, tờ Thanh niên chủ yếu nhấn mạnh vấn đề độc lập dân tộc. Nhưng một số bài báo cũng đề cập chung chung đến vấn đề toàn cầu do chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản gây ra, nói một cách gián tiếp rằng chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới đem lại sự giải phóng và hạnh phúc xã hội. Trong một số báo, Nguyễn Ái Quốc chỉ ra rằng cách mạng là phương thuốc duy nhất cho căn bệnh của nước ông: “Cách mạng là sự thay đổi từ xấu sang tốt; nó là tổng thể của mọi hành động và qua đó một dân tộc bị áp bức trở nên mạnh mẽ. Lịch sử của mọi xã hội đã dạy chúng ta rằng chỉ có cách mạng mới có thể đem lại một hình thức chính phủ, giáo dục, công nghiệp và tổ chức xã hội tốt hơn, v.v”. Chỉ có một số phát hành đầu mùa hè năm 1926 nói một cách công khai về chủ nghĩa cộng sản như là một giải pháp cho các vấn đề đang gây đau khổ cho các dân tộc Đông Dương.

Đối với các học viên dự khoá đào tạo, ông làm việc một cách nghiêm túc hơn. Hồi đó, gần như không có bất kỳ tài liệu gì về chủ nghĩa Mác-Lê-nin bằng tiếng Việt. Mặc dù Nguyễn Ái Quốc thường xuyên kêu gọi giúp đỡ nhưng ông nhận được rất ít tài liệu tuyên truyền từ Mát-xcơ-va. Để lấp vào chỗ trống đó, ông viết những tài liệu cơ bản sử dụng cho khoá học tại học viện đề cập các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Quyển sách mỏng nhan đề Đường Kách Mệnh giới thiệu khái quát chủ nghĩa Mác-Lê-nin và giải thích tính phù hợp của nó với Việt Nam. Mặc dù hầu hết các bản sao được các học viên trong lớp sử dụng, một số ít bản được đưa về Việt Nam cùng với tờ Thanh Niên.

Trong cuốn sách, thông điệp của Nguyễn Ái Quốc rất đơn giản. Vì các học viên thiếu sự tinh nhanh và không quen với các thuật ngữ phương Tây (từ Kách mệnh tiếng Việt chỉ xuất hiện vào đầu thế kỷ 20, tương đương với từ “revolution” trong tiếng Anh và “ge min” trong tiếng Hán, theo nghĩa đen là “thay đổi sứ mệnh”), điều không lấy gì làm ngạc nhiên là ông bắt đầu cuốn sách với một định nghĩa ngắn gọn về cách mạng. Ông nói, cách mạng là xoá bỏ cái cũ và xây dựng cái mới, hoặc xoá bỏ cái xấu để xây dựng cái tốt.

Sau đó, tác giả giải thích một cách ngắn gọn về các hình thức cách mạng. Theo ông, có ba loại hình cách mạng trên thế giới:

1. Cách mạng tư bản chủ nghĩa, như trường hợp nổi dậy ở Pháp, Nhật Bản và Mỹ.
2. Cách mạng dân tộc chủ nghĩa, như cuộc cách mạng hồi thế kỷ 19 ở I-ta-li-a và cuộc cách mạng năm 1911 ở Trung Hoa.
3. Cách mạng giai cấp, như cuộc cách mạng Bôn-sê-vích ở Nga.

Tất cả các cuộc cách mạng đó, ông giải thích tiếp, cuối cùng sẽ xảy ra theo hai giai đoạn riêng biệt, giai đoạn đầu tiên là “cách mạng dân tộc chủ nghĩa” và giai đoạn thứ hai là “cách mạng thế giới”, khi công nhân và nông dân trên toàn thế giới đoàn kết để lật đổ trật tự của chủ nghĩa tư bản và đem lại hạnh phúc và sự đoàn kết cho nhân dân của mọi dân tộc.

Ý tưởng về một cuộc cách mạng hai giai đoạn đương nhiên là hoàn toàn của Lê-nin, nhưng Nguyễn Ái Quốc đã tự thêm vào một số sắc thái. Thứ nhất, mặc dù ông đã thận trọng khi viết rằng giai đoạn dân tộc chủ nghĩa của cách mạng thế giới sẽ được tiếp nối bởi một giai đoạn chủ nghĩa xã hội để đem lại hạnh phúc xã hội và đoàn kết toàn cầu, Nguyễn Ái Quốc không nói cụ thể khi nào thì giai đoạn thứ hai sẽ xảy ra, và nói gián tiếp rằng ở Việt Nam, điều đó sẽ không xảy ra cho đến khi toàn bộ thế giới đã sẵn sàng chuyển từ dân tộc chủ nghĩa sang giai đoạn cuối cùng chủ chủ nghĩa quốc tế. Điều này có thể phản ánh niềm tin của ông lúc đó rằng giai đoạn thứ hia sẽ không xảy ra ở Việt Nam cho đến khi đa số các nước trên thế giới đã trải qua các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa của chính mình. Khi đưa ra khái niệm hai giai đoạn, Lê-nin đã cho rằng giai đoạn đầu tiên sẽ nhanh chóng chuyển sang giai đoạn hai, như đã xảy ra ở nước Nga Xô-viết.

Thứ hai, như chúng ta thấy, Nguyễn Ái Quốc đề cao giá trị độc lập dân tộc trong tiến trình cách mạng hơn Lê-nin, giải thích điều đó như là một kết quả đáng mong muốn của sự liên kết giữa các giai cấp trong xã hội Việt Nam. Ông dự đoán rằng các cuộc đấu tranh tương tự nhằm giải phóng dân tộc cuối cùng sẽ nổ ra ở các nơi khác ở châu Á. Những giai cấp nào sẽ lãnh đạo cách mạng ở Việt Nam? Tất nhiên, đó là một trong các vấn đề mấu chốt trong cuộc tranh luận về chiến lược của Quốc tế cộng sản III. Lê-nin đã lấy chiến lược của mình dựa trên khái niệm về liên minh bốn giai cấp, với nòng cốt là liên minh công nông. Trong cuốn Đường Kách Mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra liên minh công-nông (những người làm việc nặng nhọc nhưng không nhận được thành quả lao động của họ) như là kẻ thù chính của những người tư bản (những người không làm việc nhưng lại nhận được tất cả lợi nhuận). Nhưng ông cũng lấy ý tưởng của Lê-nin về một mặt trận thống nhất đa giai cấp của các giai cấp tiến bộ để đi đến giai đoạn hai của cách mạng. Liên minh này có thể bao gồm sinh viên, tiểu thương, và thậm chí cả địa chủ nhỏ. Tuy nhiên, các nhóm như vậy sẽ không thể là đồng minh tin cậy của công nhân và nông dân khi tiến hành giai đoạn hai của cách mạng, bởi vì họ có thể chống lại giai đoạn xã hội chủ nghĩa. Như ông đã viết trong cuốn Đường Kách Mệnh, công nhân và nông dân là lực lượng lãnh đạo của cách mạng: “Bởi vì thứ nhất, công nhân và nông dân bị đàn áp nặng nề hơn; thứ hai, công nhân và nông dân đoàn kết nên sẽ có được sức mạnh lớn nhất; và thứ ba là họ sẵn đã nghèo, nên nếu bị thất bại, họ sẽ có cả thế giới. Đó là lý do tại sao công nhân và nông dân là gốc của cách mạng, trong khi sinh viên, tiểu thương và địa chủ, dù có bị đàn áp, nhưng không bị đau khổ như công nhân và nông dân, chỉ có thể là những người bạn cách mạng của công nhân và nông dân” .

Cuối cùng, mặc dù Nguyễn Ái Quốc theo Lê-nin nhấn mạnh tới sự cần thiết phải có sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, đặc biệt là trong giai đoạn hai củ cuộc cách mạng giai cấp, và nhấn mạnh trong toàn bộ cuốn sách một thông điệp ngầm rằng nông dân là một nhân tố tối quan trọng của liên minh cách mạng. Tất nhiên, đây là một lập trường mà ông đã nêu lên nhưng không mấy thành công ở Mát-xcơ-va. Ông lập luận rằng thiếu liên minh chặt chẽ giữa nông thôn và thành thị đã báo trước sự thất bại của cuộc cách mạng Công xã Pa-ri năm 1870-1871 và cuộc cách mạng Nga năm 1905. Chỉ khi hai giai cấp này liên minh lại, như đã xảy ra trong cuộc cách mạng Bôn-sê-vích năm 1917 thì cách mạng mới thành công. Ông cho rằng, điều này đặc biệt đúng với một nước như Việt Nam, nơi 90 phần trăm dân số sống dựa và nông nghiệp và rất nghèo. Giống như giai cấp vô sản trong Tuyên ngôn cộng sản của Các Mác, nông dân của Nguyễn Ái Quốc không có gì để mất ngoài xiềng xích. Tất cả những gì họ cần, như ông đã chỉ ra trong các bài báo viết ở Pháp, là sự lãnh đạo và tổ chức.

Nguyễn Ái Quốc thừa nhận rằng thắng lợi không phải dễ dàng, bởi vì khó có thể thay đổi một xã hội hàng nghìn năm thành một xã hội mới. Điều quan trọng nhất là có được một đảng cách mạng có khả năng huy động được quân chúng bị áp bức trong nước và liên lạc được với các đảng khác trên toàn thế giới. Ông viết rằng, giống như một con tàu không thể tiến lên nếu không có người chèo lái tốt, cuộc cách mạng không thể thành công nếu không có một đảng vững mạnh. Ông viết tiếp, một nhóm người nổi loạn có thể có đôi chút thành công bằng cách ám sát vài quan chức chính phủ. Những hành động như vậy chỉ có thể dẫn đến bị đàn áp chứ không dẫn đến giải phóng. Chìa khoá để có được một đảng vững mạnh là học thuyết của nó. Một đảng cần có một ý thức hệ mà các đảng viên có thể hiểu và theo đuổi. Một đảng không có ý thức hệ cũng giống như một người đàn ông không có trí khôn hoặc một con tàu không có la bàn.

Trong phần mở đầu của cuốn Đường Kách Mệnh, tác giả đã liệt kê một danh sách các đặc điểm có thể xác định “hành vi của nhà cách mạng”. Thật thú vị nếu đem so sánh danh sách này với cuốn “Hỏi đáp của một nhà cách mạng” nổi tiếng của tên khủng bố Nga thế kỷ thứ 19 Xéc-gây Nê-cha-ép. Nê-cha-ép nhấn mạnh rằng vai trò của nhà cách mạng cũng giống như một công cụ mù quáng của sự nghiệp cách mạng. Anh ta phải biết tàn nhẫn, thậm chí xảo quyệt để xúc tiến mục đích của mình. Anh ta phải tuân thủ tuyệt đối đối với đảng của mình, và sẵn sàng từ bỏ mọi mối quan hệ với bạn bè và gia đình. Anh ta cũng phải sẵn sàng hy sinh những chuẩn mực đạo đức thông thường để nói dối và lừa bịp vì lợi ích của cách mạng. Trong khi sự thái quá của Nê-cha-ép bị chỉ trích nhiều bởi các thành viên khác trong phong trào cấp tiếng Nga, bản thân nguyên tắc này lại được Lê-nin khá ngưỡng mộ và trở thành kinh thánh cho những người Bôn-sê-vích của ông.

Có một số điểm giống nhau giữa các nguyên tắc ứng xử của Nguyễn Ái Quốc và Lê-nin và đều bị ảnh hưởng bởi Nê-cha-ép. Cả hai đều nhấn mạnh nghĩa vụ của các đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng. Sự khác biệt chính nằm ở tinh thần phía sau hai loại chuẩn mực cách mạng này. Trong khi Lê-nin cho rằng các chuẩn mực đạo đức đương đại không thích ứng với quy tắc ứng xử cách mạng và trên thực tế, có những mâu thuẫn không thể điều chỉnh giữa hai mặt trên, chuẩn mực đạo đức cơ bản trong danh mục nguyên tắc ứng xử của Nguyễn Ái Quốc lại làm người ta nhớ lại đạo Khổng truyền thống: cần kiệm, thân ái, vô tư, kiên quyết sữa chữa khuyết điểm, cẩn trọng, tôn trọng học tập, nghiên cứu và quan sát, tránh kiêu căng, tự phụ và phải rộng lượng. Thực tế, trừ những phần đề cập đến đảng, những điều dạy bảo nhà cách mạng của Nguyễn Ái Quốc có thể dễ dàng được chấp nhận như là các chuẩn mực hành vi cho bất kỳ gia đình Nho giáo nào.

Tất nhiên, cũng có thể nói rằng nguyên tắc đạo đức cách mạng của Nguyễn Ái Quốc như là việc khoác một khái niệm mới lên một chiếc áo quen thuộc; chứ không phải là ý nghĩ đó chỉ thoáng qua trong đầu ông. Rốt cuộc, rõ ràng là nhóm người được tuyển mộ ban đầu cho sự nghiệp của ông đều xuất thân từ những gia đình có học. Mặc dù hầu hết từ chối ý thức hệ Nho giáo truyền thống, họ vẫn bị ảnh hưởng một cách vô thức bởi nhiều giá trị của nó, và Nguyễn Ái Quốc luôn tìm cách làm cho thông điệp của mình phù hợp với thiên hướng của người nghe. Dù vậy, các chuẩn mực đạo đức cá nhân mà ông dạy ở viện đã trở thành một trong những khía cạnh quan trọng trong di sản của ông cho phong trào cộng sản Việt Nam và không nên xem chúng như một thứ hình thức giả tạo. Đối với nhiều đồng nghiệp của Nguyễn Ái Quốc, chính cách cư xử của ông, hình ản về lòng tốt và sự giản dị, sự lạc quan vô tận của ông, sự nghiêm túc và tận tuỵ với sự nghiệp của ông là những gì được ghi nhớ nhất sau khi ông qua đời. Đạo đức cách mạng của Nguyễn Ái Quốc đã trở thành dấu son trong ảnh hưởng của ông đối với đảng của mình, và , đối với nhiều người, thì đó là đặc điểm riêng biệt của chủ nghĩa cộng sản Việt Nam.

Thông điệp của Nguyễn Ái Quốc chứa đựng một lô-gíc sâu xa cho Việt Nam. Tự bản thân mình, đất nước này dường như không có sức mạnh để giải phóng cho mình. Kể cả nhà dân tộc chủ nghĩa gan dạ Phan Bội Châu cũng đã đi ra nước ngoài, đầu tiên là Nhật Bản, sau đó là Trung Hoa để tìm sự giúp đỡ. Điều được khẳng định trong cuốn Đường Kách Mệnh là dân tộc Việt Nam sẽ phải tìm kiếm sự giúp đỡ của quần chúng cách mạng trên toàn thế giới để đấu tranh tự giải phóng. Đìeu cũng rất đáng hài lòng khi được biết là chính phương Tây cũng phải trải qua những giai đoạn biến động xã hội.

Những chỉ trích trong cuốn sách đối với các phong trào dân tộc chủ nghĩa trước đó đặc biệt có ý nghĩa đối với những người yêu nước Việt Nam trẻ tuổi. Điểm yếu của các tổ chức dân tộc chủ nghĩa là rất rõ ràng, tất cả các tổ chức này rõ ràng đều thiếu một ý thức hệ. Họ chỉ đơn giản là chỉ ra sự nghiệp chung là hiện đại hoá và độc lập dân tộc. Không tổ chức nào vạch ra một cách chi tiết những đặc điểm của một Việt Nam độc lập trong tương lai. Khác với các tổ chức trong khu vực, các phong trào dân tộc chủ nghĩa Việt Nam không có khả năng tập hợp xung quanh những biểu tượng của một tín ngưỡng tôn giáo chung. Đạo Phật không chấp nhận sự tồn tại trên thực tế thế giới vật chất và thuyết giáo một triết lý khổ hạnh, không thể là một tác nhân thay đổi thích hợp nữa. Nho giáo, mặc dù ăn sâu như một tập hợp các phương châm chính trị và xã hội vào giới quý tộc Việt Nam đã bị mất tín nhiệm vì sự đầu hàng hèn hạ của triều đình phong kiến trước người Pháp xâm lược. Kết quả là hầu hết các phong trào dân tộc chủ nghĩa phi cộng sản đều có xu hướng thiên về khu vực địa lý, bởi các chiến thuật hoặc bởi cá nhân. Hành động của các thành viên, dù nhiều khi dũng cảm, nhưng lại thường là các cử chỉ căm thù vô nghĩa chống lại một kẻ thù hùng mạnh, kẻ có thể làm các lực lượng nổi loạn chạy tán loạn chỉ với một cái vỗ tay.

Đường Kách Mệnh là nỗ lực đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc nhằm truyền bá học thuyết Mác-Lê-nin trong đồng bào mình. Là một tuyên bố về ý thức hệ, nó không mang lại được nhiều cho các nhà nghiên cứu nghiêm túc Việt Nam hiện đại hoặc sử học của phong trào cộng sản thế giới. Như Nguyễn Ái Quốc đã từng thừa nhận với các đồng sự của mình, việc miêu tả học thuyết Mác-Lê-nin và thực tiễn của nó vào trong cuốn sách chỉ có tính chất sơ khai và trong một số trường hợp rất khó hiểu. Phần trình bầy không tinh tế và sự mập mờ về ý thức hệ trong cách xử lý của Nguyễn Ái Quốc về khái niệm hai giai đoạn và liên minh bốn giai câp đã khiến một số người nghi ngờ liệu ông có hiểu học thuyết Mác-Lê-nin không, hoặc nếu không, sự cam kết của ông đối với học thuyết này là như thế nào. Bởi vì ông cũng không miêu tả một cách cụ thể “vai trò lãnh đạo” của giai cấp công nhân (một nguyên lý then chốt của chủ nghĩa Lê-nin) trong cuộc cách mạng Việt Nam, một số nhà quan sát đã cho rằng cuốn sách như là một thí dụ về “chủ nghĩa cộng sản nông dân”, một cách tiếp cận không chính thống đối với chiến lược cách mạng Mác-xít Lê-nin mà sau này người ta gán cho Mao Trạch Đông.

Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu như cố gắng suy luận quá nhiều về quan điểm của Nguyễn Ái Quốc được thể hiện trong cuốn sách này. Khi đó, ông đang cố quảng bá các ý tưởng Mác-xít trong một xã hội chủ yếu là nông thôn và thiếu sự tinh tế chính trị. Có thể Nguyễn Ái Quốc- theo đúng niềm tin của mình cho rằng trong tuyên truyền, càng đơn giản càng tốt- đã cố tình tạo ra một thứ chủ nghĩa Mác phổ thông hay “bình dân” mà người dân Việt Nam có thể hiểu được trong bối cảnh riêng của mình. Mặc dù chưa thể hiện rõ sự am hiểu của ông đối với học thuyết Mác-xít, nhưng cuốn sách là một công cụ hữu hiệu để giới thiệu chủ nghĩa Mác-Lê-nin cho những người mới học.

Trong những năm sống ở Mát-xcơ-va, Nguyễn Ái Quốc đã bầy tỏ niềm tin rằng nông dân Việt Nam cũng như ở châu Phi và châu Á, là nạn nhân chính của chủ nghĩa thuộc địa phương Tây, và như vậy, đương nhiên là sẽ liên minh chặt chẽ với giai cấp công nhân. Trong cuốn sách, ông đã nêu lên rằng sự ủng hộ của nông dân sẽ là điều kiện tiên quyết cho thắng lợi. Ông có thể giải thích quan điểm của mình như là một cách hiểu chính thống của chủ nghĩa Lê-nin, thậm chí dù đường lối chính thức của Mát-xcơ-va từ lâu đã không phải như vậy. Dù sao chăng nữa, Nguyễn Ái Quốc rõ ràng là chẳng quan tâm gì đến các vấn đề lý thuyết. Nhận xét của ông trong cuốn Đường Kách Mệnh có thể đơn giản là nhằm mục đích làm rõ các lời bình luận mà ông đã đưa ra ở Mát-xcơ-va vài năm trước đây.

Tuy vậy, nhấn mạnh vai trò của nông dân, Nguyễn Ái Quốc đã có một bước tiến dài trong phát triển phong trào cách mạng Việt Nam. Các nhà lãnh đạo và các nhóm dân tộc chủ nghĩa khác chỉ nói đãi bôi về vai trò của quần chúng nông dân trong cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam. Phan Bội Châu đã nêu lên mong muốn có được sự ủng hộ của nông dân, nhưng lời kêu gọi của Phan Bội Châu là chung chung và ông đã không có bước đi cụ thể nào để biến nó thành hiện thực. Bằng việc nói lên quyết tâm của mình tập trung chú ý vào quần chúng ở nông thôn, Nguyễn Ái Quốc đã cố gắng cảnh tỉnh đồng bào mình cũng như các nhà cách mạng trên toàn thế giới thuộc địa về tầm quan trọng của nông thôn trong cuộc cách mạng sắp tới châu Á.

Trong vòng một vài tháng sau khi đến Quảng Đông, Nguyễn Ái Quốc đã tuyển được một nhóm những người cấp tiến trẻ có thể lãnh đạo một phong trào kháng chiến dân tộc mới và mạnh mẽ trong tương lai. Từ vị trí thuận lợi ở Nam Trung Hoa nhìn vào Việt Nam, tình hình có vẻ như khả quan. Bước vào năm 1925, sự bất bình âm ỉ lâu ngày của nhân dân Việt Nam đối với những kẻ cai trị thuộc địa bùng phát thành cuộc phản đối công khai. Được châm ngòi bởi vụ bắt giữ và xét xử Phan Bội Châu và đám tang của Phan Châu Trinh, điều xảy ra vài tháng sau đó, thái độ chống Pháp đã dâng cao nhanh chóng đến mức chưa từng thấy kể từ trước khi bùng nổ của Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.

Trong điều kiện đó, vài đảng chính trị phôi thai như đảng Thanh niên ở Nam Kỳ đã bắt đầu xuất hiện. Ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ, Tân Việt Cách mạng đảng được các đảng viên cũ của tổ chức của Phan Bội Châu cùng cộng tác với một số các sinh viên trẻ yêu nước ở Hà Nội thành lập. Đảng Tân Việt có trong hang ngũ của mình các đảng viên có nhiều xu hướng chiến thuật khác nhau và niềm tin ý thức hệ khác nhau- từ những người theo trường phái cải cách cho đến những người ủng hộ bạo lực cách mạng, từ những người ủng hộ mô hình phương Tây cho đến những nhà cách mạng Mác-xít và những người đi theo con đường Lê-nin. Mẫu số chung của họ là chống lại sự cai trị của người Pháp và sự tận tuỵ đối với sự nghiệp độc lập dân tộc.

Trong khi đó Nguyễn An Ninh, nhà báo trẻ, người đã chọc giận viên Trung Uý Mô-rít-xơ Cô-nhắc bằng thái độ khiêu khích của mình, tiếp tục khuấy động công chúng bằng những bài phát biểu và bài báo nảy lửa của mình. Có một lần, ông đã diễn thuyết cho mọi người rằng họ là người phải chịu trách nhiệm cho chính những đau khổ của mình, bởi vì “các bạn không có khả năng áp đặt ý tưởng của mình, các bạn không buộc chính phủ chấp nhận điều mình muốn”. Miêu tả sự cộng tác mà An-be Xa-rô trao cho người Việt Nam cũng giống như mối quan hệ giữa con trâu và chủ của mình, ông cảnh cáo: “Đừng hy vọng quá nhiều vào những điều mà viên Toàn quyền xã hội chủ nghĩa (như A-lếch-xan-đơ Va-ren) đã chuyển đến các bạn. Ông ta đến đây để lừa dối các bạn, ông ta nói rất nhiều, nhưng ông ta sẽ chẳng làm gì cả. Không thể có sự cộng tác giữa người Pháp và người An Nam. Người Pháp không còn gì hơn để làm ở đây cả. Hãy buộc họ trả lại chúng ta đất đai của tổ tiên, buộc họ trao cho chúng ta quyền phát biểu và để chúng ta tự làm chủ mình. Đất nước chúng ta đã sản sinh ra vô số anh hung, những con người biết hy sinh cho tổ quốc mình! Nòi giống của chúng ta chưa bị tuyệt diệt!”.

Bài phát biểu của ông Ninh đã gợi lại những kỷ niệm về Phan Bội Châu, người đã chống Pháp từ khi ông lưu vong ở Nhật Bản. Người Pháp cho rằng họ phải phản ứng. Vào ngày 24 tháng 3 năm 1926, khi đội tang lễ chuẩn bị đưa thi hài của Phan Châu Trinh đến nơi an nghỉ cuối cùng, Nguyễn An Ninh đã bị bắt.

Buổi chiều cùng ngày, tàu biển Pháp Amboise cập bến Sài Gòn. Trong số hành khách có Bùi Quang Chiếu, người lãnh đạo đảng Hợp hiến, mà Nguyễn Ái Quốc đã gặp trên con tàu Đô đốc La-tút-xơ Tơ-rê-vin, gần 15 năm trước đây. Cũng giống như Nguyễn An Ninh, ông Chiếu rất thất vọng trước việc Toàn quyền A-lếch-xan-đơ Va-ren không giữ lời hứa hào phóng của mình, và vào đầu năm 1926, ông đã đến Pa-ri để kêu gọi cải cách chính trị và kinh tế. Trong các cuộc đàm thoại với các quan chức ở đó, ông đã cảnh cáo rằng nếu tình hình ở Đông Dương không được cải thiện, người Pháp sẽ bị đuổi khỏi đó sau 15 năm nữa. Ông Chiếu cũng gặp gỡ những người dân tộc chủ nghĩa trong cộng đồng người Việt lưu vong tập trung quanh Nguyễn Thế Truyền, người kế nhiệm Nguyễn Ái Quốc ở Liên hiệp Thuộc địa quốc tế, nhưng cuối cùng, ông cũng từ chối hợp tác với ông Truyền. Việc này làm cho ông lo lắng. Khi trở về Sài Gòn, ông đột nhiên miễn cưỡng chú ý đến các yêu sách của đám đông trên đường phố nhằm tăng áp lực lên chính phủ thuộc địa, và bài phát biểu của ông khi đến Sài Gòn chứa đựng lời kêu gọi ủng hộ hoà hợp Pháp- Việt. Với việc Nguyễn An Ninh bị bỏ tù và Bùi Quang Chiếu không sẵn sang nắm ngọn cờ, náo động ở thành thị tại Nam Bộ nhanh chóng xẹp xuống, dẫn đến việc một nhà yêu nước trẻ kêu lên một cách tuyệt vọng: “Tất cả chúng ta đã quên mất Phan Châu Trinh rồi sao?”

Đối với Nguyễn Ái Quốc, hiện ở Quảng Đông chăm chú theo dõi lòng căm thù chống thực dân đang tăng lên trong đồng bào mình, tình hình này đưa đến cả những cơ hội và thách thức. Tổ chức cách mạng đang trưởng thành của ông nên cộng tác với các thành phần dân tộc của chủ nghĩa ở Đông Dương và hải ngoại đến mức độ nào? Mặc dù ông M.N.Roi và một số người khác ở Mát-xcơ-va, những người cho rằng cộng tác với các nhóm tư sản dân tộc chủ nghĩa là nguy hiểm, có bảy tỏ sự không tán thành, Nguyễn Ái Quốc ban đầu quyết tâm tạo ra một mạng lưới rộng nhằm huy động sự ủng hộ nhằm chống lại chế độ thực dân. Trong báo cáo ông viết ở Mát-xcơ-va năm 1924, ông đã nhận xét rằng chính tinh thần dân tộc chủ nghĩa đã gây ra cuộc nổi dậy ở miền Trung Việt Nam, dạy cho những người cu li phản đối các điều kiện làm việc của mình, khêu gợi quyết tâm của các thương gia Việt Nam cạnh tranh với người châu Âu, người Trung Hoa hải ngoại và khuyến khích sinh viên biểu tình và gia nhập tổ chức của Phan Bội Châu. Ông viết rằng, ngọn đuốc giờ đây đang được chuyển từ thế hệ này sang thế hệ khác. Ông tin rằng, khi những người Việt Nam trẻ tuổi bắt đầu sử dụng các chiến thuật của phương Tây, các hoạt động của họ có thể được sử dụng cho mục đích của ông.

Nguyễn Ái Quốc đã chuyển sang chú ý đến việc mở rộng nền tảng của phong trào bằng việc liên minh với các tổ chức chống thực dân khác ngay sau khi ông đến Quảng Đông, cố gắng thiết lập quan hệ với các thành phần tập hợp xung quanh Nguyễn Hải Thần, một học trò của Phan Bội Châu, người gần đây đã giúp Phan Bội Châu trong nỗ lực chuyển Quang phục Hội cũ của ông thành một đảng Dân tộc chủ nghĩa Việt Nam theo mô hình tổ chức của Tôn Dật Tiên ở Trung Hoa. Nguyễn Ái Quốc cũng đã thảo luận với Lâm Đức Thứ khả năng liên hệ với những thành phần dân tộc chủ nghĩa trong nước. Ở miền Trung Việt Nam, ông tìm cách liên lạc với cái mà ông gọi là “Những loại hình hiện đại và trẻ” (có thể như là Tân Việt), nhưng ông cũng muốn tiếp cận với các thành phần dung hoà ở Nam Kỳ như Bùi Quang Chiếu và Khánh Kỳ (một người quen cũ ở Pa-ri) để xem họ có chịu hợp tác không. Các đồng nghiệp của ông cũng cảnh báo ông cần phải thận trọng trong việc thiết lập quan hệ với ông Chiếu cho trừ khi biết rõ là Phan Bội Châu sẽ nhất trí, nhưng Nguyễn Ái Quốc phản bác lại rằng nếu như ông Chiếu nhất trí cộng tác thì ông ta sẽ sẵn sang cung cấp tài chính.

Tuy nhiên, đối với Nguyễn Ái Quốc, các đảng dân tộc chủ nghĩa cũng đặt ra một vấn đề tế nhị. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nên hợp tác với họ đến mức nào? Đại hội lần thứ hai của Quốc tế cộng sản III năm 1920 đã kết luận rằng các phong trào giải phóng tư sản như vậy nên được ủng hộ “chỉ khi các phong trào này thực sự cách mạng và khi những nhân vật tiêu biểu của họ không cản trở công việc của chúng ta là giáo dục và tổ chức nông dân và quần chúng rộng rãi thuộc tầng lớp bị bóc lột theo tình thần cách mạng”. Nhưng một số thành viên lãnh đạo của tổ chức này như nhà cộng sản Pháp Giắc Đô-ri-ốt lại có lời khuyên khác. Trong một bức thư gửi một trong các đại hội của các tổ chức mặt trận đề ngày 4 tháng 3 năm 1927, Đô-ri-ốt đề xuất một cách tiếp cận rộng hơn. Ông nói rằng “mặc dù đảng của các bạn cần luôn nhớ rằng các lực lượng cơ bản của cuộc đấu tranh ở Đông Dương là giai cấp công nhân, nông dân và tiểu thương thành thị”, nhưng: Không được quên rằng dưới ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, toàn thể nhân dân (công nhân, nông dân, chủ cửa hiệu, trí thức) trừ một phần rất nhỏ những kẻ trục lợi đều có lợi ích trong việc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Không được xem nhẹ bất kỳ nỗ lực nào lôi cuốn họ và tổ chức họ hằng ngày trong cuộc đấu tranh. Không được từ chối bất kỳ sự hợp tác nào. Ngược lại, phải làm tất cả để khuyến khích điều đó.

Nguyễn Ái Quốc thận trọng nghe theo lời khuyên của Đô-ri-ốt. Phù hợp với đường lối của Quốc tế cộng sản III chỉ hợp tác với các nhóm dân tộc chủ nghĩa là “thiết thực cách mạng”, theo chỉ thị của ông, Hội đã rất thận trọng trong việc thiết lập các liên minh. Sau việc bày tỏ sự quan tâm đến Bùi Quang Chiếu, Nguyễn Ái Quốc tỏ ra khinh thị các nhóm của “những kẻ theo đường lối cải lương quốc gia” như đảng Hợp hiến của ông Chiếu. Trong một báo cáo cảu ông gửi cho Mát-xcơ-va, ông tả nhóm này chống lại chủ nghĩa cộng sản và ủng hộ hợp tác với Pháp. Hướng tới các đảng có tính cấp tiến hơn như đảng Thanh niên ở Nam Kỳ và Tân Việt ở miền Trung Việt Nam. Hội dung hoà hơn, gửi các đại diện đàm phán với họ để thiết lập một liên minh nếu có thể được.

Nhưng lập trường đàm phán của Hội lại luôn cứng rắn. Hội bác bỏ ý tưởng về việc sáp nhập một cách bình đẳng và chỉ trao cho các nhà lãnh đạo đối địch vai trò thứ yếu trong Hội. Trong khi các cuộc đàm phán đang tiếp diễn, các thành viên của Hội đã tích cực lôi kéo các đại biểu của đảng đối địch vào tổ chức của mình. Khi các đảng viên của các nhóm đối địch đến Quảng Đông để học tập tại viện đào tạo, họ được chỉ thị không nối lại liên lạc với các đồng chí của mình khi quay về Việt Nam. Không có gì đáng ngạc nhiên là các lãnh đạo các đảng dân tộc chủ nghĩa bất bình trước những cách làm như vậy và bác bỏ liên minh với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên theo các điều kiện của Hội.

Do Nguyễn Ái Quốc buộc phải ở lại Trung Hoa để tránh bị mật thám bắt, sự tham gia đàm phán trực tiếp của ông với các lãnh đạo của các nhóm ở Việt Nam có vẻ như là rất ít. Nhưng rất có thể là các quyết định cuối cùng là của ông. Các nhận xét mà ông đưa ra đối với đồng sự và học viên tại trường ở Quảng Đông cho thấy thái độ của ông đối với các đảng đối địch là sự kết hợp giữa sự sẵn sàng một cách thận trọng hợp tác vì sự nghiệp đấu tranh với sự hoài nghi cơ bản về những động cơ cuối cùng của họ. Ông thường xuyên nhận xét rằng các liên minh với các đảng có thể hữu ích, nhưng chỉ nhằm các mục đích chiến thuật mà thôi.

Trong khi đẩy mạnh các nỗ lực xây dựng phong trào cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc cùng tìm cách hoàn thành nghĩa vụ vô sản của mình bằng cách cộng tác với các thành phần tiến bộ ở nam Trung Hoa và các phong trào cách mạng Trung Hoa. Trước khi Nguyễn Ái Quốc rời Mát-xcơ-va, Tho-mát Đôm-ba đã đề nghị ông làm việc với tư cách là đại diện của Nông dân Quốc tế tại Quảng Đông và giúp huy động nông dân Trung Hoa. Trong một khoảng thời gian ngắn, việc này dường như có thể thành công với sự hợp tác của Quốc dân đảng, tổ chức mà đại diện của họ ở Mát-xcơ-va đã tìm kiếm sự giúp đỡ của Nông dân Quốc tế trong việc soạn ra một cương lĩnh nông dân. Đôm-ba cũng gợi ý Nguyễn Ái Quốc lập ra các hội nông dân ở toàn bộ các vùng thuộc tỉnh Quảng Đông hầu hết đang dưới sự kiểm soát của chế độ Quảng Đông.

Để thực hiện nghĩa vụ này, sau khi đến Quảng Đông, Nguyễn Ái Quốc bắt đầu thăm Học viện Phong trào Nông dân, một đơn vị đào tạo do chính phủ Quốc dân đảng lập ra năm 1924 để thúc đẩy cách mạng nông thôn chống lại các chế độ lãnh chúa cát cứ ở phương Bắc. Viện được đặt ở một ngôi chùa cổ không xa đại bản doanh của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Đông và Nguyễn Ái Quốc đã báo cáo các hoạt động của mình bằng một bài viết gửi về Mát-xcơ-va. Trong quá trình nghiên cứu về các điều kiện của nông dân ở Trung Hoa, ông đã quen với Peng Pai, một nhà hoạt động xuất sắc của đảng Cộng sản Trung Quốc và là một trong các cán bộ lãnh đạo của viện. Ông Peng là người thúc đẩy chính thiết lập Xô-viết Hai Lu Pheng, những hội nông dân được thành lập năm 1923 dưới sự thúc ép của ông ở hai huyện miền đông của Quảng Đông. Nguyễn Ái Quốc rất thích những thí nghiệm đó, và một lần ông đã đến thăm khu vực này và viết một bài báo về chủ đề đó. Đáp lại, Peng đôi khi tham gia dạy tại học viện của Nguyễn Ái Quốc.

Nguyễn Ái Quốc đến Trung Hoa vào thời điểm khi phong trào cách mạng ở đó đang trong giai đoạn biến chuyển nhanh chóng. Mùa hè năm 1925, các cuộc biểu tình lớn của ngươi lao động đã diễn ra tại Quảng Đông để phản ứng lại cái gọi là sự kiện 30 tháng 5 tại Thượng Hải khi cảnh sát Anh đã bắn vào những người biểu tình và giết chết vài người. Nguyễn Ái Quốc tham gia các cuộc biểu tình, đọc các bài diễn văn khuyến khích những người biểu tình và tuyên bố bằng giọng đặc sệt Quảng Đông-rằng nhân dân Quảng Đông ủng hộ họ. Ông cũng tham gia các hoạt động chính thức hơn như Đại hội lần thứ II của Quốc dân đảng tổ chức vào tháng 1 năm 1926 theo thúc giục của các thành phần cánh tả để chống lại ảnh hưởng của các lực lượng chống cộng ngày càng tăng trong đảng. Nguyễn Ái Quốc đã phát biểu trước đại hội và miêu tả tình hình ở Đông Dương. Ông tuyên bố rằng người Pháp đang cố gắng một cách tuyệt vọng để ngăn chặn các tin tức về tình hình bất an ở Trung Hoa đến với nhân dân Việt Nam. Ông hứa rằng các đồng bào của ông và tất cả các dân tộc thuộc địa ở châu Á sẵn sang đoàn kết với nhân dân Trung Hoa để chống lại những kẻ thù xâm lược chung. Tuy nhiên, tuyên bố có tính chất phóng đại hơn là thực tế. Lúc đó, Hiệp hội các dân tộc bị áp bức ở châu Á mà ông đã giúp thành lập năm trước đang gặp phải chịu những tranh cãi giữa các nhóm dân tộc – một điều nhắc nhở Nguyễn Ái Quốc đến vấn đề ông gặp phải ở Liên hiệp thuộc địa Pa-ri-và tan rã.

Vào mùa xuân năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã có mặt ở Quảng Đông hơn 2 năm. Ông đã trở thành nhân vật nổi bật và một thành viên được tôn trọng của cộng đồng cách mạng, và đã có được các mối quan hệ gần gũi với các đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc như Chu Ân Lai, nhà tổ chức trẻ Giang Tai-lê và nhà lãnh đạo tả khuynh Quốc dân đảng Li-ao Dong-kai. Cuộc sống của ông ở nam Trung Hoa, ít nhất cho đến lúc đó, đã có vẻ ổn định, và (có lẽ vì lý do đó) ông đã nghĩ đến việc có một người vợ Trung Hoa để giúp ông học tiếng Hán và chăm lo các nhu cầu cá nhân. Để có được ngưòi phù hợp, ông rõ ràng là đã thảo luận vấn đề với người đồng sự gần gũi của mình, Lâm Đức Thứ, người đã sống ở Trung Hoa trong nhiều năm và có rất nhiều người quen trong dân chúng địa phương. Tuy nhiên, Nguyễn Ái Quốc khăng khăng là sẽ không tuân theo phong tục cưới truyền thống của Trung Hoa-ông từ chối trả tiền để cưới vợ.

Ít lâu sau, Lâm Đức Thứ giới thiệu cho Nguyễn Ái Quốc một phụ nữ Trung Hoa trẻ tên là Tăng Tuyết Minh, con gái vợ lẽ thứ ba của một thương gia Quảng Đông giàu có. Bị đuổi khỏi nhà sau khi bố chết, Tuyết Minh sống trong hoàn cảnh khó khăn cho đến khi cô làm bạn với vợ của Lâm Đức Thứ, người đã giới thiệu cô với Nguyễn Ái Quốc. Người phụ nữ trẻ này ít được học hành, do vậy một số cộng sự phản đối cuộc hôn nhân này, nhưng Nguyễn Ái Quốc phớt lờ những lời khuyên của họ và cầu hôn. Sau đám cưới, đôi uyên ương chung sống ở căn phòng của Nguyễn Ái Quốc ở biệt thự Bô-rô-đin. Mặc dù Minh Tuyết hấp dẫn về mặt hình thức (một người quen tả là cô có thân hình mảnh dẻ, da trắng, tóc đen ngang vai, mặt tròn, miệng nhỏ) nhưng lại ít quan tâm đến chính sự, và sau vài nỗ lực bất thành, chồng cô nhanh chóng từ bỏ việc cải hoá cô theo những tư tưởng chính trị của mình. Có những nguồn tin cho rằng, Nguyễn Ái Quốc có một con gái từ cuộc hôn nhân này.

Dù sao chăng nữa, những ngày Nguyễn Ái Quốc ở Quảng Đông cũng đang sắp kết thúc. Trong khi ông đang vật lộn để thổi bùng ngọn lửa bất bình ở Việt Nam, tình hình ở Trung Hoa cũng chuyển biến nhanh chóng. Trong vài năm, đảng Cộng sản Trung Quốc đã hợp tác một cách không thoải mái với Quốc dân đảng của ông Tôn ở các tỉnh phía nam Trung Hoa. Liên minh này được duy trì chủ yếu là do sức ép cá nhân của ông Tôn và mối quan hệ công việc của ông với cố vấn của Quốc tế cộng sản III là Mi-khai-in Bô-rô-đin. Nhưng ông Tôn chết vì ung thư gan tháng 2 năm 1925, trong khi ở Bắc Kinh đàm phán với viên tư lệnh cát cứ Pheng I-ung-xi-ang, và sau một hồi đấu tranh quyền lực, Tưởng Giới Thạch, cố vấn quân sự của ông Tôn và là tư lệnh của Học viện Quân sự Hoàng Phố, đã kế nghiệp ông. Vì các lý do chiến thuật, Tưởng tạm thời vẫn duy trì liên minh với đảng Cộng sản Trung Quốc, bất chấp thái độ chống cộng đang gia tăng trong phái bảo thủ của Quốc dân đảng. Tuy nhiên, bản thân Tưởng cũng nghi ngờ những người cộng sản; có thể do chuyến thăm của ông ta tới Liên Xô năm 1923, ông ta đã có ý thức được các mục tiêu lâu dài của Mát-xcơ-va sử dụng liên minh với đảng của ông ta rồi sau đó vứt bỏ. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, giữa cuộc Bắc Phạt chống lại chính phủ của các tư lệnh cát cứ ở miền Trung và miền Bắc Trung Hoa do cả hai bên tiến hành, liên minh này tan vỡ. Khi phái tả của Quốc dân đảng kêu gọi loại bỏ Tưởng Giới Thạch, ông ta đã ra lệnh thảm sát thảm sát hang ngàn người cộng sản và những người ủng hộ họ ở Thượng Hải, thành phố lớn nhất của Trung Hoa, khi quân đội của ông ta tới đó.

Hành động của Tưởng lập tức được lặp lại ở Quảng Đông. Ngày hôm sau, các đơn vị quân đội do tư lệnh theo Dân tộc chủ nghĩa Li Di-sen vây ráp hai nghìn người tình nghi cộng sản trên toàn bộ tỉnh Quảng Đông. Học viện Quân sự Hoàng Phố bị chiếm và hàng trăm người bị tình nghi là phái tả, trong đó có các học viên Việt Nam thuộc Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã bị bao vây và bị bắn. Giang Tai-lê, bạn của Nguyễn Ái Quốc, là một trong số các nạn nhân. Khi quân đội của Li bao vây các ngôi nhà của các quan chức làm việc tại toà lãnh sự Xô-viết, Mi-khai-in Bô-rô-đin và một vài cố vấn của ông đã chuyển đến Vũ Hán, nơi chính phủ Quảng Đông đã chuyển đại bản doanh vào mùa đông trước.

Đầu tiên, giới chức Pháp tưởng là Nguyễn Ái Quốc đã theo Bô-rô-đin và tuỳ tùng của ông ta đã đến miền Trung Trung Hoa. Trên thực tế, Nguyễn Ái Quốc vẫn ở lại Quảng Đông vì tin rằng một người Việt Nam có quan hệ tốt với nhiều quan chức Quốc dân đảng sẽ không bị bắt. Để giúp bảo đảm an ninh của mình, ông đã trú ngụ tại một địa điểm bí mật và tự nuôi mình bằng cách bán báo. Nhưng vào khoảng cuối tháng 4 và đầu tháng 5, ông đã được Trương Văn Lệnh, một trong các đồng sự gần gũi của Tâm Tâm Xã và làm việc cho lực lượng bảo vệ thành phố địa phương, cho biết rằng ông có thể sớm bị bắt. Ông Lệnh đã khuyên ông trốn khỏi Quảng Đông càng sớm càng tốt.

Mỉa mai thay, chính một người mà Nguyễn Ái Quốc cho là đồng minh trong cộng đồng Việt Nam lưu vong đã báo cho cảnh sát Li Di-sen rằng ông là cộng sản. Kể từ khi đến Quảng Đông, Nguyễn Ái Quốc đã tìm cách thiết lập mối quan hệ hợp tác với Nguyễn Hải Thần và các cựu binh khác thuộc Việt Nam Quốc dân đảng của Phan Bội Châu. Ông Thần là bạn thân của Lâm Đức Thứ, và đã từng sống tại nhà ông ta. Vào mùa thù năm 1926, quan hệ của Nguyễn Ái Quốc với ông Thần đã trở nên căng thẳng bởi ông này ngày càng chỉ trích xu hướng cộng sản của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Nguyễn Ái Quốc cũng giận dữ trước các nỗ lực của ông Thần làm suy yếu hoặc thu hút tổ chức của mình. Cuối năm 1926, Trương Bội Công, một trong các thành viên lãnh đạo của Quốc dân đảng đã từ Bắc Kinh đến Quảng Đông để thúc đẩy Nguyễn Hải Thần thành lập một đảng chính trị mới tập trung vào độc lập dân tộc và chống lại ảnh hưởng của Hội. Hố ngăn cách giữa hai nhóm Việt Nam trở nên rộng them, và người ta cho rằng chính Nguyễn Hải Thần đã báo cho chính quyền Trung Hoa về sự có mặt của Nguyễn Ái Quốc vào đầu tháng 5.

Điều kỳ lạ là chính Lâm Đức Thứ, dù là người thông báo thường xuyên về các hoạt động của Hội cho mật thám, chưa bao giờ phản bội Nguyễn Ái Quốc cho người Pháp, có lẽ vì sợ vai trò của mình là một nhân viên mật thám bị tiết lộ. Tuy nhiên, ông ta đã dàn xếp để chụp ảnh các thành viên của Hội. Một lần, ông ta đã trao những bức ảnh này cho lãnh sự Pháp. Những bức ảnh này (hiện đang nằm trong hồ sơ lưu trữ của Pháp) rõ ràng đã giúp chính quyền thuộc địa nhận diện các cộng sự của Nguyễn Ái Quốc. Sự bất cẩn của Nguyễn Ái Quốc trong việc để cho những bức ảnh như thế được chụp và sự tin cẩn vào Lâm Đức Thứ sau này đã bị một số cộng sự chỉ trích mạnh mẽ.

Ngày 5 tháng 5 năm 1927, Nguyễn Ái Quốc rời nơi cư trú bí mật của mình đi Hồng Công, bỏ lại người vợ ở Quảng Đông. Cùng ngày, nơi cư trú của ông bị các quan chức Trung Hoa tấn công. Một lần nữa, ông lại lên đường.
 
Chương v: Gươm thần

Trên chuyến tau tới Hồng Công nhìn những cánh đồng lúa xuân xanh mơn mởn, Nguyễn Aí Quốc chắc đang có những suy nghĩ lẫn lộn về tình cảnh hiện tại của mình. Kết quả hai năm làm việc của ông tại Quảng Châu của ông là dáng hài lòng xét về một số mặt. Ông đã xây nên những nền tảng vững chắc cho một đảng Cộng sản tương lai ở Đông Dương và đã đào tạo gần một trăm chiến sĩ tận tâm, một số đã trở về ba kỳ của Việt Nam để xây đựng một mạng lưới cách mạng. Tuy nhiên, vụ tấn công phủ đầu của Tưởng Giới Thạch vào đảng Cộng sản Trung Quốc ở Quảng Châu là một bước thụt lùi nghiêm trọng cho tổ chức non trẻ này. Việc tiếp tục hoạt động của Hội Thanh niên Cách mạng Việt Nam ở miền nam Trung Quốc giờ rất khó khăn, và đại bản doanh cũng phải rời đi nơi khác. Bản thân ông cũng đã bắt đầu một cuộc hành trình vào nơi vô định, và các mối liên lạc của ông đối với các cộng sự chắc sẽ bị cắt đứt, có thể là trong nhiều năm.

Nguyễn Aí Quốc (vẫn hoạt động dưới cái tên Lý Thụy) ban đầu có thể hi vọng ở lại Hồng Công, thuộc địa của Anh, trong một thời gian dài để duy trì liên lạc với các thành viên khác của Hội và tìm một địa điểm mới để đặt đại bản doanh. Nhưng nhà chức trách địa phương nghi ngờ giấy tờ tùy thân của ông nên đã ra lệnh cho ông phải rời khỏi Hồng Công trong vòng 24 giờ. Ngày hôm sau, ông đi bằng tàu biển đến Thượng Hải. Thành phố thương mại khổng lồ này vẫn còn kinh hoàng sau vụ “khủng bố trắng” của Tưởng Giới Thạch tháng trước nhằm vào các phần tử cộng sản ở trong vùng. Để tránh bị phát hiện, Nguyễn Aí Quốc thuê một phòng ở một khách sạn đắt tiền và ăn mặc như một nhà tư sản giàu có. Tiền bạc cũng nhanh chóng cạn kiệt nhưng cuối cùng ông cũng lên được tàu đi Vơ-la-đi-vô-xtốc.

Tại Vơ-la-đi-vô-xtốc, đại bản doanh của các hoạt động cách mạng ở vùng Viễn Đông, Nguyễn Aí Quốc đã gặp lại người bạn cũ, Giắc-cơ Đô-ri-ô, một ngôi sao đang lên của Đảng Cộng sản Pháp. Ông cũng gặp Gri-gô-ry Voi-tin-xki, nhân viên Quốc tế Cộng sản III, người đã xúc tiến việc thành lập phong trào Cộng sản ở Trung Quốc. Đô-ri-ô đề nghị ông trở về châu Âu và sau đó về Xiêm để cố gắng gây dựng lại phong trào ở Đông Dương với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp và những nhà hoạt động của Hội tại đó. Voi-tin-xki gợi ý rằng ông trở lại Thượng Hải để làm việc với các binh lính Việt Nam đóng tại tô giới của Pháp tại thành phố này.

Nguyễn Aí Quốc lắng nghe Voi-tin-xki một cách lịch sự, nhưng ông nghiêng mạnh về đề nghị của Đô-ri-ô. Thực tế, trước khi rời khỏi Quảng Châu, ông đã kết luận rằng ông chỉ có hai sự lựa chọn – ở lại Trung Hoa với rủi ro bị bắt giữ hay sang Xiêm để khôi phục liên lạc với phong trào ở Đông Dương láng giềng. Ông đi tàu tới Mát-xcơ-va và tới nơi vào đầu tháng 6. Ở đó, ông gửi một yêu cầu đến Văn phòng Viễn Đông, lập luận rằng ông muốn sang Xiêm hơn là quay trở lại Trung Hoa. Ông nói, nhiệm vụ quan trọng nhất là củng cố phong trào bên trong Đông Dương vì tin tức về các sự kiện gần đây ở Trung Hoa rõ ràng đã làm người ta nản lòng. Ông thấy rằng mình có thể gây ảnh hưởng đến các sự kiện ở Đông Dương từ Xiêm hiệu quả hơn là từ Thượng Hải.

Trong yêu cầu gửi cho Văn phòng Viễn Đông, Nguyễn Ái Quốc nói rằng ông xin kinh phí cho chuyến đi Xiêm, và từ đó đến Đông Dương để “thời gian lưu lại ở thuộc địa này khoảng hai năm”. Trong khi chờ đợi quyết định của Quốc tế Cộng sản III, ông được chỉ định giữ một vị trí tạm thời ở đại bản doanh của Quốc tế Cộng sản III, và trong lúc nhàn rỗi, ông viết một số bài báo cho đăng trên tờ Inprecor về hoàn cảnh ở Đông Dương. Sau một thời gian nghỉ ở nhà điều dưỡng tại Ép-pa-to-ri-a, gần Cơ-rưm trên bờ biển Đen, nơi ông được điều trị một chứng bệnh chưa được biết đến, ông nhận được Trường Xta-lin chấp thuận lập một bộ phận riêng cho các sinh viên Việt Nam, những người trước đó đã được sắp xếp để gửi đi học từ Quảng Châu. Trong số năm học viên hiện đang ở Mát-xcơ-va có Trần Phú, một chiến sĩ trẻ mạnh mẽ có nét mặt thanh người gốc Quảng Ngãi. Là con của một viên quan triều đình, Trần Phú theo học tại trường Quốc học Huế và gia nhập một trong những đảng quốc gia chủ nghĩa ở miền Trung Việt Nam. Được các đồng sự gửi sang Quảng Châu để đàm phán với Nguyễn Ái Quốc để lập một liên minh, ông quyết định gia nhập Hội và được cử đi Mát-xcơ-va năm 1927 và ở đó ông sớm tạo được ấn tượng với sự thông minh xuất chúng và tận tụy của mình.

Tháng 11 năm 1927, Nguyễn Ái Quốc nhận được hồi âm từ phía Quốc tế Cộng sản III đối với đề nghị đi công tác của mình. Thay vì đi Xiêm, ông được chỉ thị đi Pháp để giúp đỡ Đảng Cộng sản Pháp soạn thảo một chương trình hành động hữu hiệu để xây dựng một phong trào cách mạng ở Đông Dương, không những chỉ trong số những người Việt sống tại Pháp, mà còn bằng việc thiết lập một cơ sở ở Xiêm hoặc nơi khác trong khu vực. Tuy nhiên, không có khoản kinh phí nào dành cho việc ông trở về châu Á trong tương lai.

Trên đường trở về Pháp, ông dừng lại ít lâu ở Béc-lin, nơi ông giúp các đồng chí Đức tại đó thiết lập một chi nhánh Liên đoàn chống đế quốc, một tổ chức vỏ bọc cho các hoạt động của Liên Xô ở nước ngoài. Sau đó, ông tiếp tục sang Pa-ri bằng một tên giả, nơi ông báo cáo với đại bản doanh của Đảng Cộng sản Pháp ở Mông-mác-tơ. Đảng Cộng sản Pháp không dành cho ông việc gì cũng như không giúp đỡ ông về tài chính, điều đó rõ ràng làm ông bực mình. Trong thư gửi một đồng sự ở Mát-xcơ-va tháng 5 năm đó, ông bày tỏ sự thất vọng đối với việc Đảng Cộng sản Pháp tiếp tục không giải quyết các vấn đề thuộc địa. Mặc dù thừa nhận rằng Đảng Cộng sản Pháp đã dành một sự chú ý nào đó cho các vấn đề thuộc địa, ông phàn nàn rằng hầu hết các tiến bộ mới chỉ đạt được trên giấy. Để chứng minh cho quan điểm của mình, ông dẫn kinh nghiệm của bản thân: “Trong thời gian một tháng rưỡi tôi ở Pa-ri, Đô-ri-ô đang bị cầm tù và tôi không có cơ hội để nói chuyện với những người khác. Tôi thường xuyên đề nghị có một địa chỉ để tôi có thể liên lạc với họ sau khi tôi trở về Viễn Đông, nhưng họ từ chối. Họ nói rằng Ban Thuộc địa có ngân sách cho các hoạt động liên quan đến thuộc địa, nhưng tôi được biết là ngân sách đó trống rỗng. Tôi cho rằng các khoản tài chính của Ban Thuộc địa cần phải được điều tra và Ban này cần phải thường xuyên báo cáo cho các đồng chí khác về hoạt động và kế hoạch của mình. Hơn nữa, ủy ban phải tổ chức các phương tiện hữu hiệu hơn để liên lạc với người của chúng tôi ở Đông Dương để tôi có thể giữ liên lạc được với họ”.

Nguyễn Aí Quốc có thể có ý định ở lại pháp cho đến khi ông có được khoản tài chính cho việc trở về châu Á, nhưng những người quen cảnh báo ông rằng mật thám đã nghe được tin đồn ông đã trở về Pháp và đang tăng cường các nỗ lực để tìm ông. Vào đầu tháng 12, ông đi Bỉ để dự một cuộc họp của hội đồng chấp hành của Liên Đoàn chống đế quốc. Không có tư liệu nói về việc ông phát biểu công khai tại hội nghị, nhưng ông đã tận dụng cơ hội để làm quen với một số đại biểu tại hội nghị, trong đó có các nhân vật theo chủ nghĩa dân tộc như Su-ca-no của In-đô-nê-xi-a, Mô-ti-la-la Nê ru (bố đẻ của thủ tướng tương lai Gia-oa-hác-lơn Nê-ru) của Ấn-Độ và vợ góa của Tôn Dật Tiên, bà Tống Khánh Linh. Ông cũng nối lại tình bạn với nhà cộng sản Nhật Ka-ta-y-a-ma Sen, người ông biết tại Pa-ri và Mat-xcơ-va. Vào một thời điểm quan trọng sau này, bà Tống là người đặc biệt hữu ích đối với ông.

Sau khi hội nghị kết thúc vào giữa tháng 12, Nguyễn Aí Quốc về Pháp ở một thời gian ngắn, và sau đó đi tàu hỏa đến Béc-lin. Khi đến nơi, ông viết một bức thư cho Thô-mát Đôm-ban ở Mat-xcơ-va, giải thích rằng ông hi vọng được trở về Đông Dương trong vòng hai hoặc ba tuần và đề nghị Quốc tế nông dân cung cấp tài chính cho việc đi lại cũng như các kế hoạch hành động để giúp cho công việc tương lai của ông. Nhưng trong thư trả lời của Đôm-ban, lá thư mãi đến đầu tháng giêng mới tới nơi, lại không có cam kết gì về đề nghị giúp đỡ tài chính của ông, lấy lý do là ông ta không biết rõ về tình hình ở Đông Dương, Đôm-ban gợi ý với ông rằng trước tiên nên chuyển hướng sang nhiệm vụ huy động nông dân ở các tỉnh ở các tỉnh ở cả hai phía của biên giới Trung Hoa, tổ chức các hội nông dân và tiến hành tuyên truyền, nhưng ông ta không đả động gì đến khả năng trợ giúp tài chính.

Trong vòng vài tháng tiếp theo, Nguyễn Ái Quốc ở lại Béc-lin trong khi chờ đợi một câu trả lời rõ ràng cho đề nghị của ông. Để hạn chế chi tiêu đến mức tối đa, ông sống cùng với một người quen là đảng viên của Đảng Cộng sản Đức. Ông viết báo về nhiều chủ đề, trong đó có một bài về phong trào Xô-viết Ha Lu Feng của Peng Pai ở tỉnh Quảng Đông, và đưa ra kế hoạch viết một cuốn hồi ký về những kinh nghiệm của ông khi làm việc với phong trào nông dân ở Trung Hoa. Trong một bức thư gửi một đồng chí ở Mát-xcơ-va, ông ước tính rằng cuốn sách sẽ vào khoảng 120 trang và chia làm 5 phần. Tuy nhiên, vào tháng 4, tiền nong cạn kiệt, ông ngày càng trở nên sốt ruột và gửi thư khẩn cho Văn phòng Viễn Đông báo cáo về tình hình của mình. Lá thư có vẻ ngắn, nhưng diễn cảm:

“Do không thể làm việc ở Pháp, chẳng có ích gì ở Đức, nhưng ở Đông Dương lại cần đến, nên tôi đã yêu cầu trơ về đó. Trong lúc bức thư gửi các đồng chí tôi đã đưa ra số tiền chi phí đi lại và làm việc. Khi Đô-ri-ô ghé qua Béc-lin, ông ta hứa sẽ chú ý đến tình hình của tôi. Tôi nói với ông ta rằng nếu không có kinh phí để hoạt động, tối thiểu cũng phải cấp cho tôi chi phí đi lại để tôi có thể đi, vì hơn một năm qua, tôi đã lang thang không mục đích từ nước này sang nước nọ trong khi ở Đông Dương lại có rất nhiều việc phải làm. Nhưng cho đến bây giờ, tôi vẫn không nhận được chỉ thị nào từ các đồng chí hoặc trả lời tử Đô-ri-ô. Bây giờ tôi đang ở một tình thế khó khăn 1) chờ đợi vô thời hạn (chờ chỉ thị đã bốn tháng), 2) không có tiền để sống, nên tôi đã nói với MOPRE (cơ quan thuộc Quốc tế Công sản III được chỉ thị giúp đỡ các đồng chí cách mạng) nhưng họ nói rằng họ không thể cung cấp tài chính vô tận cho tôi, chỉ có mười tám mác một tuần (số tiền đó không đủ để sống ). Vậy chỉ thị hãy cho tôi càng sớm càng tốt tôi phải làm gì và khi nào tôi có thể đi.”

Hai tuần sau, cuốc cùng ông cũng nhận được một bức thư từ Mát-xcơ-va cho phép ông trở về Đông Dương, với tiền đi lại và ba tháng tiền thuê phòng và tiền ăn do Đảng Cộng sản Pháp cung cấp. Giữa tháng 5, ông viết thư cho Văn phòng Viễn Đông nói rằng ông đã được phép đi và sẽ đi vào cuối tháng.

Cuối tháng 6, Nguyễn Ái Quốc rời Béc- lin và đi bằng tàu hỏa sang Thụy Sĩ đến I-ta-li-a. Nhiều năm sau, ông nhớ lại chuyến đi:

“Khi (tôi) yêu cầu cấp giấy phép đi qua I-ta-li-a, chính phủ phát xit hỏi rất nhiều câu hỏi phức tạp. Tại biên giới, lính biên phòng tra cuốn từ điển Chống Quốc tế Cộng sản III gồm hai nghìn trang, trong đó cung cấp tên của các nhà cách mạng của tất cả các nước từ A đến Z, họ không thấy tên tôi ở đó nên cho phép tôi đi qua.”

Đi qua Mi-lan, ông tiếp tục hành trình đến Rô-ma, nơi ông bị đưa đến đồn cảnh sát, bị thẩm vẫn, và (theo chính ông kể lại) bị đánh đến gần như bất tỉnh. Sau đó, tên chỉ huy hỏi cung bắt tay ông và mời ông hút thuốc, sau đó tiếp tục hỏi cung. Với những người thiếu kinh nghiệm, Nguyễn Ái Quốc sau này cảnh báo người đọc, rất dễ rơi vào bẫy của bọn tư bản. Sau khi được thả, ông tiếp tục đến Napoli, nơi ông đáp một chuyến tàu biển Nhật Bản để đi Xiêm vào cuối tháng 6.

Nguyễn Ái Quốc đến Băng – cốc vào khoảng tháng 7 năm 1928. Bởi vì Xiêm không phải là thuộc địa của châu Âu và có một xã hội tương đối ổn định, chính phủ cho phép người nước ngoài đi lại khá tự do, kể cả nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc nổi tiếng Vương quốc này cũng có khá nhiều người Việt Nam sinh sống (người Việt Nam hải ngoại được người Việt Nam gọi là Việt kiều), hầu hết sống ở vùng đồng bằng khô ráo ở Khô-rát, miền Đông Bắc của nước này. Ở miền Đông Bắc, các đảng viên của Hội Thanh niên Cách mạng Việt Nam, theo mệnh lệnh của ông, đã bắt đầu thiết lập một chi nhánh hoạt động trong cộng đồng Việt kiều. Điều có ý nghĩa là chỉ đi bộ khoảng 2 tuần từ Đông Bắc Xiêm qua núi Trường Sơn là đến miền Trung Việt Nam.

Người Việt Nam chống thực dân đã sử dụng khu vực này như một thánh địa trong nhiều năm. Hầu hết trong số hơn hai mươi nghìn người Việt Nam sống ở Xiêm thời đó là người di cư đến Xiêm hồi đầu thế kỷ. Nhiều người đã ủng hộ phong trào Cần Vương và phong trào chống thuộc địa của Phan Bội Châu. Sau khi một số các môn đồ của mình bắt đầu định cư ở đó, ông Châu thăm Băng-cốc năm 1908 và đề nghị chính phủ hoàng gia cho phép họ được làm nghề nông. Nhiều quan chức Xiêm không tin người Pháp và có cảm tình với sự nghiệp của người Việt Nam, nên họ đã chấp thuận đề nghị của ông và một trang trại của người Việt Nam đã được lập nên ở Phi-chít, ở thung lũng Chao Phơ-rây-a phía Bắc Băng-cốc. Vài năm sau, Quang phục Hội của ông Châu đã thiết lạp một chi nhánh ở Xiêm, và một số người Việt Nam cấp tiến, trong đó có những thành viên tương lai của Hội như Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Phạm Hồng Thái, đã qua đất Xiêm sang Trung Hoa. Sau khi đến Quảng Châu từ Mát-xcơ-va năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu các kế hoạch thiết lập một cơ sở của Hội Thanh niên Cách mạng Việt Nam tại khu vực này. Năm 1925, Hồ Tùng Mậu đã được cử sang đó để thiết lập bốn chi nhánh, tại Phi-chít và ở các cộng đồng người Việt tại Na-khôn Pha-nôm, U-đôn Tha-ni và Sa-côn Na-khôn ở vùng Đông Bắc. Ở đây, cộng đồng được tổ chức chặt chẽ, các hợp tác xã đã được thiết lập để tiến hành việc canh tác và sản xuất vì lợi ích chung.

Tháng 8 năm 1928, một người Việt Nam mặc bộ quần áo địa phương giản dị và tự nhận là cậu Chín đột nhiên tới Ban-đông, huyện Phi-chít, khoảng hai trăm dặm phía Bắc Băng-cốc. Làng này có khoảng hơn hai chục gia đình Việt Nam, và một chi nhánh của Hội đã được lập tại đó năm 1926. Người lạ mặt ở lại làng khoảng hai tuần, thăm từng gia đình một và thông báo cho họ tình hình thế giới và các điều kiện ở Đông Dương.

Tháng 12, sau khi đi đến kết luận rằng cộng đồng ở đó quá nhỏ, không thể làm căn cứ hoạt động được, Nguyễn Ái Quốc (vẫn đang mang tên Cậu Chín) rời Ban-đông và đi U-đôn Tha-ni ở Đông Bắc. Chuyến đi gian khổ đó mất mười lăm ngày, trong đó có mười ngày đi bộ theo đường rừng. Những người trong nhóm mang theo đồ dự phòng và hành lý riêng. Thoạt tiên, Cậu Chín gặp khó khăn và bị tụt lại sau những người khác, chân ông trầy da, thở gấp. Nhưng bằng nghị lực, ông vẫn quyết tâm đi, vào cuối chuyến đi, ông đã cho thấy bản lĩnh của mình và có những ngày đi được 70 cây số.

U-đôn là một thị trấn lớn hơn nhiều so với Ban-đông, và có cộng đồng người Việt lớn hơn và là đầu mối giao thông thuận tiện với các trung tâm đô thị khác ở vùng đồng bằng Khô-rát. Vì vậy, chi nhánh địa phương của Hội thiết lập năm 1926 trở thành đại bản doanh cho mọi hoạt động của Hội ở Xiêm. Vẫn mang tên Cậu Chín (chỉ một số nhỏ các thành viên của cộng đồng người Việt biết tên thật của ông), ông đã chỉ ra cho các cộng sự cần thiết phải mở rộng tổ chức và xây dựng một cơ sở quần chúng cho Hội bằng cách kêu gọi tập hợp toàn bộ dân cư địa phương chứ không chỉ các thanh niên cấp tiến.

Nguyễn Ái Quốc ở lại U-đôn vài tháng, đề xuất các thay đổi trong thói quen làm việc và sinh sống của các đồng bào mình. Hầu hết người Việt ở Đông Bắc Xiêm là tiểu thương và thợ thủ công, những người không quen lao động nặng nhọc. Ít ai có mối liên hệ với dân cư địa phương hoặc có học tiếng Thái. Ông đã rất nỗ lực để thay đổi những thói quen này, cố gắng làm gương bằng cách tham gia lao động nặng nhọc (khi chính phủ cho phép thành lập trường học địa phương, ông đã giúp xây trường bằng cách khuân gạch). Các buổi tối, ông nói chuyện với dân làng về các sự kiện trên thế giới và tình hình ở Đông Dương. Cộng đồng người Việt địa phương đã dần dần cải thiện mối quan hệ với cư dân Thái-lan ở các khu vực lân cận bằng cách đào giếng, đốn cây và xây trường học. Bản thân ông cũng cố gắng học tiếng Thái, đặt ra thời khóa biểu chặt chẽ phải nhớ được mười từ mỗi ngày và đã xây dựng các trường học cho cư dân Việt Nam để học tiếng Thái và đề cao các phong tục địa phương. Ông quả quyết với đồng bào mình rằng người Xiêm thông cảm với cuộc đấu tranh ở Đông Dương, vì Xiêm tồn tại được như là một quốc gia độc lập nhờ có có sự rộng lượng nhân từ của các nước thực dân trong khu vực.

Nguyễn Ái Quốc cũng bắt đầu có các bước để nâng cao nhận thức chính trị đồng bào mình, viết các bài thơ và vở kịch miêu tả một cách sống động việc Việt Nam bị mất độc lập vào tay người Pháp. Hoạt động dưới cái lốt Hiệp hội Thân ái, một tổ chức đã được các đảng viên của Hội lập ra trong khu vực, ông di chuyển liên tục, lập các chi bộ mới cho các hoạt động của Hội từ Mu-kha-han ở miền Đông đến Nông Khai, nơi chỉ vượt qua sông Mê-công là đến thủ đô hành chính Viêng Chăn của Lào. Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền của Hội, ông tổ chức lại tạp chí tiếng Việt địa phương Đồng thanh, đặt tên mới là Thân ái, và đơn giản hóa văn phong để làm cho người đọc địa phương dễ đọc hơn.

Đầu năm 1929, Nguyễn Ái Quốc đi Sa-kon Na-khon, nơi có nhiều người Việt hơn ở U-đôn. Tuy nhiên, theo sự hồi tưởng của các thành viên của Hội sống tại khu vực, Việt kiều tại Sa-kon Na-khon có giác ngộ chính trị kém hơn ở U-đôn. Nhiều người theo Thiên Chúa giáo, những người khác theo Phật giáo hoặc thờ anh hùng quân sự Việt Nam truyền thống Trần Hưng Đạo.

Nhận thấy nhiều người vẫn còn đi cúng ở các đền địa phương để chữa bệnh, ông đã giới thiệu y học hiện đại với họ và mời các bác sĩ về khu vực này khám bệnh. Tuy nhiên, ông không ngần ngại sử dụng các tín ngưỡng địa phương cho các mục tiêu của mình và viết lời cho các bài hát về Trần Hưng Đạo: “Tại đền Diên Hồng và trước các thánh thần chúng tôi cầu khấn, Nhân dân, tất cả một lòng, tất cả quyết tâm, Và bất kỳ ai muốn cướp nước Việt Nam Phải giết hết chúng ta đến người cuối cùng Chừng nào chỉ còn một người Việt Nam còn lại trên mảnh đất này Non sông Việt Nam vẫn còn là tổ quốc của chúng ta.”

Các nhà chức trách Pháp không biết hành tung của Nguyễn Ái Quốc trong suốt hai năm sau khi ông rời Quảng Châu tháng 5 năm 1927. Tuy nhiên, các báo cáo phỏng đoán rằng ông đã ở Mát-xcơ-va, và cuối cùng mật vụ cũng khẳng định được rằng ông đã ở Pa-ri trong một thời gian ngắn cuối năm 1927. Nhưng họ mất dấu vết của ông sau khi ông rời khỏi Brúc-xen tháng 12 năm đó. Tuy nhiên, năm 1928 và 1929, họ có nghe tin đồn rằng ông đang có mặt ở Xiêm và về một người lạ mặt đi quanh các làng Việt kiều ở miền Đông của Xiêm. Ông phải rất thận trọng trong các hành động của mình; cả người Pháp và chính phủ triều đình Huế đều đang tìm kiếm ông. Ngày 10 tháng 10 năm 1929, một tòa án ở Vinh đã kết án tử hình vắng mặt ông về tội xúi giục bạo loạn ở An Nam. Trong hồi ký của mình, ông viết rằng người Pháp biết ông đang ở Xiêm, nhưng vì họ không biết chính xác ông ở đâu, họ đã phái cảnh sát đến để tìm kiếm ông. Có một dịp, ông đã bị đuổi gấp và phải trốn vào trong một ngôi chùa, cắt tóc ngắn để cải trang.

Trong khi Nguyễn Ái Quốc trên đường đến Xiêm, các cộng sự của ông ở nam Trung Hoa phải rất vất vả để duy trì được hoạt động của Hội Thanh niên Cách mạng Việt Nam. Hầu hết các thành viên của tổ chức đã bị bắt, nhưng lại nhanh chóng được thả và cố gắng nối lại các hoạt động của mình ở Quảng Châu dưới sự lãnh đạo của Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu. Tuy nhiên, họ đã chuyển đại bản doanh sang một thung lũng gần phố Ren Xing, gần cửa Da Dong và vị trí ban đầu của viện đào tạo. Tháng 12 năm 1927, các nhà hoạt động tuyệt vọng của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiến hành một cuộc nổi dậy ở thành phố. Một số thành viên của Hội đã tham gia cuộc nổi dậy này và một vài người đã bị lính Quốc dân Đảng giết khi chính phủ đến đàn áp. Những người khác, trong đó có Lê Hồng Sơn, bị bắt và bị bỏ tù vì tội lật đổ. Nhưng các nhà chức trách Quốc dân Đảng không thể chứng minh được tội của họ trước tòa, do vậy những người bị giam giữ cuối cùng cũng được thả, mặc dù họ bị buộc rời khỏi Trung Hoa. Trong khi đó, Hồ Tùng Mậu đã chuyển đại bản doanh của Hội sang Hồng Công, nơi Hội tạm thời bị mất liên lạc với Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc tế Cộng sản III ở Mát-xcơ-va.

Mặc dù có những thất bại đó, vào đầu năm 1928, Hội trở thành một cơ sở đã được định hình của phong trào kháng chiến Việt Nam. Hội đã mở rộng mạng lưới của mình ở trong nước, và tiếp tục đàm phán với các đảng dân tộc chủ nghĩa phi cộng sản để thành lập một mặt trận thống nhất chế độ thuộc địa của Pháp. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán với các nhóm dân tộc chủ nghĩa khác vẫn thường xuyên bị bao trùm bởi sự nghi ngờ lẫn nhau và các khó khăn nảy sinh từ việc Hội luôn khăng khăng rằng tất cả các đảng phái khác đặt dưới sự lãnh đạo của Hội. Tháng 12 năm 1927, một đảng mới tên là Việt Nam Quốc dân Đảng (VNQDĐ) đã được những người dân tộc chủ nghĩa cấp tiến ở Hà Nội đã được thành lập. Mặc dù đảng mới có cùng tên với tổ chức lưu vong của Phan Bội Châu ở Trung Hoa, tổ chức hiện gần như không còn tồn tại, đảng này là một nhóm riêng biệt, bao gồm các giáo viên và nhà báo trẻ ở Bắc Kỳ và miền Bắc Trung Kỳ. Trong những tháng sau khi thành lập, VNQDĐ đã đàm phán với Hội. Một lần, đảng này thậm chí còn cử đại diện sang Xiêm để đàm phán với các đại diện của Hội, nhưng các đại diện của Hội đã không đến gặp. Tuy nhiên, cũng có những khác biệt lớn về ý thức hệ: các nhà lãnh đạo VNQDĐ đi theo hướng chủ nghĩa xã hội trung dung, lấy “ba nguyên tắc của nhân dân” của Tôn Dật Tiên làm cương lĩnh chính thức của mình, phản đối khái niệm đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác. Ở mức độ chiến thuật cũng có sự khác biệt, vì các nhà lãnh đạo của VNQDĐ khăng khăng giữ quyền lãnh đạo của tổ chức mình ở trong nước. Kết quả là sự cạnh tranh giữa hai nhóm này trở nên gay gắt.

Ngoài các khó khăn để đạt được một lập trường chung với các nhóm chống thực dân khác ở Việt Nam, Hội cũng bắt đầu gặp phải các rạn nứt nội bộ sâu sắc. Mặc dù Hội đã trở thành một lực lượng năng động nhất trong số các phong trào dân tộc chủ nghĩa Việt Nam, tuyển mộ được nhiều người từ cả ba kỳ cũng như trong số Việt kiều ở nước ngoài, phía sau vẻ bề ngoài đó đã bắt đầu có sự bất bình. Hội đã xây dựng với hai cương lĩnh cạnh tranh lẫn nhau, với các mâu thuẫn tiềm tàng do người này sáng lập đầy mưu mẹo, Nguyễn Ái Quốc khéo léo điều chỉnh. Mặc dù có nguồn động viên là khát vọng độc lập dân tộc, Hội dưới sự lãnh đạo của ông có cam kết thực hiện các mục tiêu quốc tế của chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít. Đối với một người Mác-xít, xung đột cơ bản của xã hội hiện đại bắt nguồn từ sự bất bình đẳng giữa các dân tộc bị áp bức và những nước bóc lột họ. Tuy nhiên, việc tuyên truyền của Hội lại tập trung chủ yếu vào vấn đề độc lập dân tộc, và đặc điểm của những người ủng hộ Hội cũng có xu hướng phản ánh một thực tế là nhiều thành viên của Hội từng là đảng viên của các đảng dân tộc chủ nghĩa khác chuyển sang.

Nguyện vọng của Nguyễn Ái Quốc vận dụng luận cương của Lê-nin kết hợp hai vấn đề về chủ nghĩa dân tộc và đấu tranh giai cấp trong điều kiện ở Đông Dương tiếp tục được phản ánh trong sự chỉ đạo ngay sau khi ông rời Quảng Châu mùa xuân năm 1927. Nhưng trong khi một số người kế cận của ông, như các thành viên cựu trào của Tâm Tâm Xã là Hồ Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn rõ ràng là đã say mê chủ nghĩa Mác, những thành viên cựu trào khác như Lâm Đức Thu lại theo xu hướng chủ nghĩa dân tộc. Rạn nứt trở nên rõ ràng vào mùa xuân năm 1928, khi Hội tổ chức một cuộc họp không chính thức tại nhà riêng của Lâm Đức Thu tại Hồng Công. Tại cuộc họp, ông Thu tiếp quản vị trí lãnh đạo của tổ chức và đã thông qua một cương lĩnh nhấn mạnh chủ nghĩa dân tộc hơn là cách mạng xã hội.

Trong ba năm tồn tại đầu tiên của Hội, đấu tranh giữa chủ nghĩa dân tộc và cách mạng xã hội đã được kiềm chế. Nhưng sau cuộc họp ở Hồng Công, mâu thuẫn đã nổ ra công khai, và cuối cùng dẫn đến sự phá hủy Hội. Trước tiên, sự bất bình tập trung quanh nhóm lãnh đạo của Ủy ban khu vực của Hội ở Bắc Kỳ; bí thư thứ nhất của Ủy ban Trần Văn Cung. Là một người gốc Nghệ An và là một đảng viên cũ của Đảng Cách mạng Tân Việt, người đã tham gia cuộc nổi dậy năm 1927 ở Quảng Châu và ngồi tù một thời gian ở nhà tù Trung Hoa, ông Cung đã dự cuộc họp tại nhà của Lâm Đức Thu và thất vọng với điều mà ông cho là sự ủy mị về ý thức hệ của đường lối mà ban lãnh đạo mới của Hội đưa ra. Ông không tin là chủ đề về độc lập dân tộc và lòng yêu nước sẽ nhận được sự ủng hộ của nông dân nghèo và công nhân. Ông thấy cần phải giải quyết các lợi ích kinh tế thiết thực của họ. Lập luận của ông Cung không được hoan nghênh lắm tại cuộc họp. Khi quay về Hà Nội, ông thuyết phục các đảng viên khác thuộc ủy ban khu vực Bắc Kỳ về tính đúng đắn của quan điểm của mình và họ bắt đầu lên kế hoạch ứng phó.

Mối lo ngại của họ là thành phần hội viên của tổ chức. Theo quan điểm của ông Cung, Hội không có những nỗ lực đúng mức để nhận vào hội viên thuộc giai cấp vô sản tuy còn ít ỏi nhưng đang gia tăng. Nhà tổ cwhcs công nhân Tôn Đức Thắng là một ngoại lệ. Sau khi làm thợ máy hải quân ở Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông quay về Đông Dương để lập nên một hội của những người bốc vác ở Sài Gòn, và một vài công đoàn “đỏ” đã được thành lập trong các nhà máy ở các thành phố công nghiệp miền Trung Việt Nam. Tuy nhiên, ở các nơi khác, rất ít công nhân được kết nạp vào Hội. Việc kết nạp tiếp tục chủ yếu là do các hoạt động của các học viên, những người thuộc tầng lớp gia đình trí thức trở về từ Trung Hoa. Họ đã nhân rộng sự ủng hộ đối với phong trào trong bạn bè và người thân.

Giống như vậy, hoạt động của các đảng viên của Hội tại các khu vực nông thôn tương đối ít, mặc dù một số hội nông dân đã được thành lập năm 1928. Thậm chí dù các cuộc bạo động chống Pháp đã nổ ra ở các khu vực nông thôn kể từ khi bị Pháp chiếm vào cuối thế kỷ trước, Hội cũng không có các nỗ lực lớn để xây dựng cơ sở ở ngoài các thành phố. Đa số các hội viên của Hội (mật vụ ước tính khoảng 90 phần trăm) xuất thân từ giai cấp tư sản thành thị.

Bất bình thứ hai đối với Trần Văn Cung và các cộng sự của ông là thái độ chậm trễ của giới lãnh đạo Hội trong việc hướng tới thành lập một Đảng Cộng sản, một quyết định mà họ thấy vô cùng cần thiết để củng cố các nền tảng ý thức hệ của phong trào cách mạng Việt Nam. Theo ông Cung, khi ông đưa vấn đề này ra tại cuộc họp tháng 5 năm 1928 ở Hồng Công, Lâm Đức Thu đã né tránh bằng một câu đơn giản “để xem”.

Những bất bình cấp tiến như vậy rõ ràng đã xuất hiện trước khi triệu tập Đại hội lần thứ VI của Quốc tế Cộng sản III ở Mát-xcơ-va vào mùa hè năm 1928. Tuy nhiên, Đại hội tổ chức lần đầu tiên kể từ năm 1924 khi đó Nguyễn Ái QUốc cũng tham dự, rõ ràng đã tăng thêm sức nặng cho những lời bất bình trên, vì các quyết định đưa ra tại Mát-xcơ-va báo hiệu sự chuyển hướng lớn trong chiến lược toàn cầu của chủ nghĩa cộng sản. Thất vọng với những diễn biến tại Trung Hoa, nơi mà liên minh Lê-nin-nít giữa những người cộng sản và những người dân tộc chủ nghĩa đã chấm dứt bằng cuộc thảm sát đẫm máu các nhà hoạt động của Đảng Cộng sản Trung Quốc và do các cân nhắc chính trị trong nước phải áp dụng một đường lối tả khuynh hơn trong các vấn đề đối nội, Giô-sép Xta-lin (người đã tranh giành với Li-ông Tờ-rốt-xki quyền lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô) thúc ép các đại biểu tại Đại hội từ bỏ chiến lược một mặt trận thống nhất rộng lớn mà Đại hội II đưa ra tám năm về trước. Các Đảng Cộng sản ở các nước trong các khu vực thuộc địa được chỉ thị từ chối liên minh với các đảng tư sản dân tộc chủ nghĩa với lý do là những người tư sản bản địa đã quay lưng lại với cách mạng và không thể là liên minh đáng tin cậy của giai cấp vô sản. Thêm vào đó, bản thân các Đảng Cộng sản phải thanh lọc các phần tiểu tư sản và “bôn-sê-vích hóa”. Thực tế, điều này có nghĩa là cần phải tăng đại diện của giai cấp công nhân trong đó tất cả các tổ chức cộng sản và phải tiến hành các phong trào chỉnh đốn Đảng để loại bỏ những phần tử không trong sạch. Các đảng viên có nguồn gốc trung lưu cần phải qua một quá trình “vô sản hóa” (thông thường, điều đó có nghĩa khoác áo công nhân và tìm việc tại các nhà máy) để tăng nhận thức của họ về quan điểm của giai cấp vô sản.

Dưới sức ép của Xta-lin, Đại hội VI tuyên bố rằng một làn sóng cách mạng mới sắp trào dâng trong khi sự bất ổn kinh tế ngày càng tăng ở châu Âu cho thấy nguy cơ của một cuộc suy thoái mới trên thế giới. Các tổ chức cộng sản và ủng hộ cộng sản trên khắp thế giới được chỉ đạo phải làm hết sức mình không những để nâng cao khả năng đáp ứng với bất bình ngày càng tăng trong xã hội của mình mà còn khuyến khích nâng cao giác ngộ cách mạng bằng cách tổ chức các cuộc đình công và biểu tình quần chúng trong công nhân và nông dẫn nghèo và thành lập cơ sở Đảng tại các nhà máy, trường học và làng mạc, tất cả đều nhằm chuẩn bị cho một cao trào cách mạng trong tương lai.

Vì chưa phải là một Đảng Cộng sản chính thức nên Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không có đại diện chính thức tại Đại hội VI nhưng ba người Việt Nam đã dự Đại hội với tư cách là đại biểu của Đảng Cộng sản Pháp. Trong số đó có Nguyễn Văn Tạo, người gốc Nghệ An, bị đuổi học ở Sài Gòn vì tham gia các hoạt động cấp tiến thời kỳ giữa những năm 1920 và sau đó bí mật sang Pháp. Tại đại hội này, với tên gọi mới là An, ông đã trình bày một bài phát biểu chính. Ông lập luận rằng mặc dù có một số người cho rằng Việt Nam chưa sẵn sàng cho việc thành lập một Đảng Cộng sản nhưng trên thực tế trong nước hiện đã có một giai cấp vô sản, tuy ít ỏi nhưng đang trên đà gia tăng và rất cần có một Đảng Cộng sản, bởi tầng lớp tư sản trong nước không thể lãnh đạo cách mạng. Trên thực tế, những tổ chức “cách tân quốc gia” như Đảng Duy Tân và Đảng An Nam độc lập (do Nguyễn Thế Truyền, một thời là cộng sự của Nguyễn Ái Quốc thành lập tại Pa-ri) là “cực kỳ nguy hiểm” vì các tổ chức này ủng hộ việc người Pháp rút lui hòa bình khỏi Đông Dương, và điều đó có thể làm giảm sự ủng hộ rộng rãi cho một cuộc cách mạng xã hội chân chính. Sau khi Đại hội VI kết thúc, Quốc tế Cộng sản đã gửi một chỉ thị bí mật thông qua Đảng Cộng sản Pháp đến Hội để hướng dẫn hoạt động của Hội trong tương lai.

Những quyết định của Đại hội VI tới Việt Nam vào cuối năm đã làm gay gắt thên cuộc tranh luận và tăng quyết tâm của nhóm cấp tiến ở Bắc Kỳ chuyển Hội thành một Đảng Cộng sản đặt trọng tâm nhiều hơn vào ý thức hệ. Đứng đầu những người có tâm trạng bức xúc vẫn là Trần Văn Cung, người đã từng làm công nhân tại một nhà máy và kinh nghiệm của ông cho thấy nếu thiếu những khẩu hiệu yêu nước rõ ràng thì không thể thuyết phục những người công nhân thành thị ủng hộ Hội. Đảng phải chú trọng đến những vẫn đề quan trọng nhất đối với công nhân như tăng lương, cải thiện điều kiện làm việc, giảm giờ làm để có sự ủng hộ mạnh mẽ của người lao động. Và ông có cảm giác là điều này sẽ không thực hiện được nếu không chuyển Hội thành một Đảng Cộng sản thực sự.

Vấn đề này đã trở thành vấn đề nổi bật tại Đại hội chính thức đầu tiên của Hội Việt Nam Thanh niên cách mạng ở Hồng Công năm 1929. 17 đại biểu đã có mặt tại đại hội đại diện cho 1.200 thành viên trong đó có 800 của Bắc Kỳ, 200 của Trung Kỳ và 200 của Nam Kỳ. ngay sau khi đến nơi Nguyễn Văn Cung đã gặp ngay Lê Hồng Sơn yêu cầu giải tán Hội để thay bằng một Đảng Cộng sản. Lê Hồng Sơn không hoàn toàn bác bỏ đề nghị đó. Ngay từ đầu đã là một thành viên của nhóm cộng sản của Nguyễn Ái Quốc tại Việt Nam và là một trong những nhân vật gây ấn tượng nhất của phong trào, ông Sơn tất nhiên trung thành với việc nhất thiết phải chuyển Hội thành một tổ chức Mác- xít Lê-nin nít vững chắc. Tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau, Đại hội này chưa phải là thời điểm thích hợp để đưa ra một quyết định như vậy. Thứ nhất, như ông đã nói chuyện riêng với Trần Văn Cung, nhiều đại biểu đến dự đại hội tại Hồng Công hoặc là không có sự tinh tế chính trị hoặc là không có đủ sự cấp tiến để có thể trở thành những đảng viên thực thụ của một đảng mới. Thứ hai, việc thành lập một Đảng Cộng sản tại Đại hội Hồng Công tất nhiên sẽ do chính quyền Trung Hoa tại tỉnh Quảng Đông bên cạnh chú ý và khuyến khích họ gia tăng các biện pháp trấn áp Hội. Lê Hồng Sơn khuyên là nên thận trọng và nên bắt đầu một quá trình chuyển đổi dần dần và kín đáo để biến Hội thành một tổ chức có thể thực hiện hiệu quả hơn những chỉ đạo của Đại Hội VI của Quốc tế Cộng sản.

Tuy nhiên, ông Cung cứng rắn vẫn kiên quyết đưa vấn đề ra thảo luận tại Đại hội. Khi ông và những đại biểu khác của Bắc Kỳ chính thức đưa vấn đề ra trước đại hội, họ thấy người phản đối chủ yếu là Chủ tịch Lâm Đức Thu, người tiếp tục phản đối việc thành lập một Đảng Cộng sản và nói rằng đề nghị này là không thể thực hiện được. Trong lúc tức giận, Trần Văn Cung và tất cả đại biểu Bắc Kỳ, trừ một người đã rời đại hội, tuyên bố họ sẽ quyết tâm thành lập một đảng gồm những người cùng lý tưởng với họ khi trở lại Việt Nam. Ngay khi về đến Hà Nội, họ đã thành lập một tổ chức mới có tên là Đông Dương Cộng sản Đảng và bắt đầu đấu tranh với Hội trong việc thu hút đảng viên mới và nói rằng Hội chỉ gồm toàn những người “cách mạng giả hiệu” không bao giờ nỗ lực vì các tầng lớp vô sản hoặc tuân thủ Quốc tế Cộng sản.

Trong khi đó, những đại biểu còn lại cố giải quyết rạn nứt đó. Hầu hết đều thông cảm với lập trường của Trần Văn Cung về mặt nguyên tắc nhưng lại ngần ngại lên tiếng chống lại người đồng sự cao niên Lâm Đức Thu. Sau việc ra đi của các đại biểu Bắc Kỳ, đại hội đã dự thảo một chương trình hành động và nghị quyết trong đó nêu rõ Đông Dương cần có một Đảng Cộng sản nhưng thời gian chưa chín muồi bởi tầng lớp lao động của Việt Nam chưa có sự tinh tế về chính trị và thiếu hiểu biết về lý luận cách mạng. Sau khi thông qua nghị quyết, các đại biểu chính thức yêu cầu Quốc tế Cộng sản công nhận và sau đó bế mạc Đại hội.

Tranh chấp nhanh chóng chuyển từ một cuộc khủng hoảng thành một sự lố bịch. Trong những tháng sau Đại hội, Đông Dương Cộng sản Đảng (CPI) bắt đầu thuyết phục các thành viên của Hội rút khỏi Hội, buộc lãnh đạo ở Hồng Công phải nhận ra rằng họ đã gây ra một sai lầm chiến thuật nghiêm trọng khi không nhận ra được mức độ ủng hộ việc cần có một Đảng Cộng sản trong hàng ngũ của Hội và ở Việt Nam. Vào tháng 8 khi được trả tự do ở Quảng Châu, Hồ Tùng Mậu và Lê Quang Đạt đã trở về Hồng Công và được sự đồng ý của Lê Quang Sơn họ đã quyết định thành lập một Đảng Cộng sản bí mật của riêng mình nằm trong khuôn khổ của Hội gọi là An Nam Cộng sản Đảng (ACP) bao gồm những thành viên tiến bộ nhất của Hội. Ban chấp hành là một “chi nhánh đặc biệt” bao gồm Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu, Lê Quang Đạt và hai người khác. Vì nhóm đó không tin tưởng Lâm Đức Thu nên ông không được tham khảo ý kiến trong vấn đề này.

Tại Nam Kỳ, những cơ sở đầu tiên của Đảng mới đã được thành lập vào tháng tám năm 1929 và chính tại đây, dù mang tên An Nam Cộng sản Đảng, Đảng vẫn thu hút đảng viên mới một cách có hiệu quả. Nhưng sự rạn nứt trong nội bộ phong trào vẫn chưa được hàn gắn. Cùng tháng đó, Hồ Tùng Mậu đã gửi một bức thư cho Trần Văn Cung và lãnh đạo Đông Dương Cộng sản Đảng gợi ý rằng những đại biểu của hai Đảng nên gặp nhau tại Quảng Châu để thảo luận việc hợp nhất lại. Nhưng những nhà lãnh đạo của Đông Dương Cộng sản Đảng trả lời một cách khinh khỉnh rằng họ không thể dự được vì “quá bận”. Thất vọng, Hồ Tùng Mậu đã đề nghị Quốc tế Cộng sản hỗ trợ thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất: “Nếu chúng ta không chú ý đến việc thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất ngay lập tức tôi sợ rằng chúng ta sẽ rơi vào tình trạng có hai đảng riêng biệt, một ở miền Bắc và một ở miền Nam. Một khi cùng có hai đảng được thành lập ở Việt Nam thì rất khó có thể thống nhất được. Đến lúc đó làm thế nào chúng tao có thể dựa vào Quốc tế Cộng sản III để giải quyết vấn đề? Chúng ta tự giải quyết vấn đề này có tốt hơn không?”

Những đảng viên cấp tiến của Tân Việt Cách mạng Đảng tại miền Trung Việt Nam đã làm cho tình hình phức tạp hơn khi họ vào cuộc. Trong một nỗ lực tuyệt vọng nhằm giữ chân những đảng viên của mình, nhiều người đã đi theo những Đảng đối địch, họ đã đổi tên tổ chức của mình thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Vì vậy, ngoài Hội lúc đó gần như đã không còn tồn tại, ở Đông Dương thuộc Pháp có ba Đảng Cộng sản. Chính vào lúc này, Lê Hồng Sơn vẫn còn ở Hồng Công và biết được Nguyễn Ái Quốc đang ở Phi-chít. Là người sáng lập ra Hội và là người lãnh đạo của Hội được tất cả mọi người kính trọng, Nguyễn Ái Quốc có thể sử dụng tài đàm phán xuất chúng của mình để tìm ra một con đường giải quyết vấn đề. Ông Sơn đã chỉ thị cho một cộng sự, ông Lê Huy Diệm, sang Xiêm tìm Nguyễn Ái Quốc và đề nghị ông trở về Hồng Công giúp gỡ rối tình hình mà không báo cho Lâm Đức Thu. Cuối tháng tám, ông Diệm rời Hồng Công.

Phản ứng của Mát-xcơ-va đối với những sự kiện rắc rối diễn ra tại Việt Nam là có thể dự đoán được. Ngày 27 tháng 10, Quốc tế Cộng sản đã gửi một chỉ thị nghiêm khắc cho ban lãnh đạo An Nam Cộng sản Đảng chỉ trích tổ chức đã không ngăn chặn được sự chia rẽ giữa các lực lượng cách mạng ở Việt Nam thành ba phe đối lập. Theo Quốc tế Cộng sản việc thiếu một đảng thống nhất vào thời điểm đầy hứa hẹn này đe dọa nghiêm trọng đến sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản và là “hoàn toàn sai lầm”. Chỉ thị của Quốc tế Cộng sản đã công khai ủng hộ nhóm của Trần Văn Cung ở Hà Nội và khẳng định rằng những điều kiện khách quan cho một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đã hiện hữu ở Việt Nam và rằng “việc không có một Đảng Cộng sản trong khi phong trào công nhân và nhân dân đang phát triển là rất nguy hiểm đối với tương lai trước mắt của cách mạng Đông Dương”. Hội đã bị phê bình vì đã tỏ ra “thiếu quyết đoán và hờ hững” và vì không cố gắng nhiều hơn nữa để kết nạp thêm công nhân Việt Nam. Cuối cùng, Mát-xcơ-va kết luận rằng “nhiệm vụ quan trọng và cấp bách nhất của tất cả những người cộng sản tại Đông Dương là việc thành lập một đảng cách mạng mang những đặc trưng giai cấp của những người vô sản, đó chính là một Đảng Cộng sản của quảng đại quần chúng ở Đông Dương”. Để tháo gỡ những khó khăn trước mắt, Quốc tế Cộng sản đề nghị triệu tập một cuộc họp dưới sự chủ tọa của một đại diện của Quốc tế Cộng sản được cử đến với tư cách là người trung gian hòa giải.

Lời kêu gọi cấp thiết phát đi từ Mát-xcơ-va rõ ràng đã mạnh mẽ hơn do những sự kiện xảy ra tại thế giới tư bản, khủng hoảng kinh tế bắt nguồn từ sự thất bại trong ngành ngân hàng Áo ngày càng trầm trọng. Khi tin tức về sự sụp đổ đột ngột cảu thị trường chứng khoán Nưu Ước lan đến Liên Xô, ban lãnh đạo Xô-viết chắc hẳn đã tin rằng sự tan rã được dự đoán từ lâu của hệ thống tư bản chủ nghĩa cuối cùng đã tới.

Trong suốt thời gian còn lại của nwam 1929, ba nhóm tiếp tục tranh chấp với nhau từ việc cạnh tranh thu hút thêm đảng viên mới đến việc chỉ trích lẫn nhau (từ hay được dùng nhất là “Men-sê-vích”, trước đây được dùng để chỉ những đối thủ tương đối cấp tiến của Lê-nin trong phong trào cách mạng của Nga trước cách mạng Bôn-sê-vích). Một bức thư của nhóm ông Cung tố cáo An Nam Cộng sản Đảng và Hội là phản cách mạng và phải bị giải tán và sáp nhập vào Đông Dương Cộng sản Đảng. Nếu Quốc tế cộng sản nhất quyết đòi thống nhất phong trào thì các nhà lãnh đạo Đông Dương Cộng sản Đảng sẽ đồng ý nhưng chỉ rõ những khó khăn có thể nảy sinh. Từ Hồng Công, Hồ Tùng Mậu, đại diện của An Nam Cộng sản Đảng, cố gắng xoa dịu các đối thủ của mình, lập luận rằng thành phần của Hội vào mùa xuân năm 1929 còn quá hỗn tạp, khó có thể thành lập một Đảng Cộng sản chính thức; vì nhiều thành viên của Hội còn thiếu những phẩm chất cách mạng của một người cộng sản, việc gợi ý thành lập Đảng Cộng sản vào thời điểm đó sẽ là một việc làm dại dột. Ông cũng cảnh báo rằng nếu đơn giản chỉ thành lập một Đảng Cộng sản bí mật được người ta dán cho mác “bôn-sê-vích” thì về nguyên tắc đó cũng chỉ là bình mới rượu cũ.

Nhưng Đông Dương Cộng sản Đảng không sẵn sàng thỏa hiệp. Đầu tháng 10, Đảng này nhắc lại yêu cầu đòi Hồ Tùng Mậu phải giải tán hoàn toàn Hội. Ông Cung cho rằng ông và những cộng sự của mình đã nhận thấy rằng tại hội nghị tháng năm, chỉ có họ là muốn thành lập một đảng bí mật. Họ đã đề nghị “ghi vào lịch sử cách mạng rằng Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên không phải là cộng sản, và làm cho nhân dân thấy được sự khác nhau giữa Hội và những người cộng sản thực sự”. Khi Hội nghị bác bỏ đề nghị của họ, họ quyết định ra khỏi Hội và thành lập một tổ chức của riêng mình. Nhằm tìm kiếm một giải pháp cho sự chia rẽ này, ông Cung đề nghị rằng bất kỳ cá nhân nào với đầy đủ phẩm chất cách mạng đều có thể gia nhập Đông Dương Cộng sản Đảng. Những người khác có thể đợi và gia nhập sau. Ông cũng nói rằng Đông Dương Cộng sản Đảng sẵn sàng hợp tác với Việt Nam Quốc dân Đảng trên cơ sở tạm thời nhưng vẫn coi Việt Nam Quốc dân Đảng là tổ chức dân tộc chủ nghĩa đơn thuần. Hợp tác chỉ có thể có nếu Việt Nam Quốc dân Đảng chấp nhận không phản đối việc Đông Dương Cộng sản Đảng tìm cách lôi kéo các đảng viên của Đảng này về với Đông Dương Cộng sản Đảng. Đối với khả năng Nguyễn Ái Quốc có thể trở về Hồng Công tìm cách hợp nhất, ông Cung tuyên bố một cách khó hiểu rằng “nếu ông ấy trở về, chúng tôi sẽ theo ông ấy cũng như theo các ông”.

Cuối tháng 10, Đông Dương Cộng sản Đảng cử một đại diện là ông Đỗ Ngọc Du đến Hồng Công theo yêu cầu của ông Hồ Tùng Mậu để gặp lãnh đạo An Nam Cộng sản Đảng nhằm đạt một giải pháp không có sự can thiệp từ bên ngoài. Nhưng ông Du, có lẽ theo lệnh cấp trên, vẫn khăng khăng cho rằng có thể hợp nhất An Nam Cộng sản Đảng trước tiên phải giải tán, và các đảng viên sau đó có thể gia nhập Đông Dương Cộng sản Đảng với tư cách cá nhân. Chẳng có gì ngạc nhiên khi các đại biểu An Nam Cộng sản Đảng từ chối đề nghị này.

Trong khi tranh chấp vẫn tiếp tục, lãnh đạo An Nam Cộng sản Đảng ở Hồng Công chờ đợi chuyến thăm của thanh tra viên mà Quốc tế Cộng sản đã nhắc tới trong bức thư ngày 27-10. Họ đã được một đồng sự ở Mát-xcơ-va thông báo qua thư rằng họ chưa thể gia nhập Quốc tế Cộng sản chứng nào việc thanh tra chưa được hoàn tất. Thực ra, Văn phòng Viễn Đông (còn gọi là Văn phòng Viễn Đông, FED) mới mở một văn phòng chi nhánh ở Thượng Hải mùa thu năm 1928, vừa quyết định thành lập một cơ cấu mới để điều phối mối quan hệ với các tổ chức cộng sản trong khu vực. Kế hoạch này kêu gọi thành lập một tổ chức mới có tên là Liên đoàn các nhóm cộng sản Insulinde đóng trụ sở tại Xin-ga-po. Tất cả các tổ chức Cộng sản ở châu Á hiện chưa thuộc một đảng quốc gia (thí dụ như những tổ chức còn non nớt ở Đông Nam Á, bao gồm cả Đông Dương) sẽ được đặt dưới sự kiểm soát của tổ chức này, còn bản thân tổ chức này sẽ chịu sự kiểm soát trực tiếp của một “ban thư ký của các dân tộc bị áp bức ở phương Đông” thuộc Văn phòng Viễn Đông ở Thượng Hải. Rõ ràng, lãnh đạo An Nam Cộng sản Đảng được biết về kế hoạch này vào khoảng mùa thu; một bức thư do Hồ Tùng Mậu viết vào giữa tháng cho thấy một đại biểu Trung Hoa trên đường từ Xin-ga-po tới Thượng Hải để thảo luận về kế hoạch này đã dừng chân ở Hồng Công ngày 2-11 và cho họ biết về dự án đó. Tuy nhiên, những người Việt Nam lại không thích ý tưởng này. Đảng Cộng sản Nam Dương được thành lập ở Xin-ga-po vào giữa những năm 1920 và được cho rằng sẽ chỉ đạo văn phòng khu vực mới ở đó, chủ yếu bao gồm những Hoa kiều từ Xin-ga-po và chịu sự giám sát của trụ sở Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Thượng Hải. Như vậy, trên thực tế, phong trào cách mạng Việt Nam sẽ bị đặt dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong con mắt nhiều đồng chí Việt Nam, các nhà cách mạng Trung Hoa có xu hướng tập trung chủ yếu vào những mục tiêu của riêng họ và thường có thái độ trịch thượng đối với các hoạt động các dân tộc khác. Lê Hồng Sơn cử Lê Quang Đạt tới Thượng Hải để lập luận cho việc An Nam Cộng sản Đảng phải là một đảng quốc gia đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Văn phòng Viễn Đông.

Ngày 16-12-1929, ông Hồ Tùng Mậu cùng một cộng sự đã gặp một đại diện Quốc tế Cộng sản đang ở Hồng Công trong chuyến đi thanh tra tất cả các tổ chức cộng sản trong khu vực. Vị đại diện này đã nói với hai ông rằng cả Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên (hay sau này là An Nam Cộng sản Đảng), Đông Dương Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đều chưa được xem là “cộng sản” và không thể được Quốc tế Cộng sản chính thức công nhận. Chừng nào một đảng hợp nhất chưa được thành lập thì mọi chỉ thị cho tất cả các nhóm mácxít ở Đông Dương đều do Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra.

Tại Xiêm, Nguyễn Ái Quốc đã được nghe về sự chia rẽ trong nội bộ Hội do hai đại biểu dự Đại hội tháng 5-1929 kể lại, và vào tháng 9, ông đã viết một bức thư gửi các nhà lãnh đạo của Đông Dương Cộng sản Đảng, trong đó ông tuyên bố thẳng thừng rằng ông không thể tin tưởng ai ngoại trừ những người cộng sản thực sự. Ông viết rằng họ có thể thể hiện sự trung thành của mình bằng cách liên kết với Quốc tế Cộng sản, và ông đã mời họ cử một đại diện tới dự một cuộc họp dự kiến được tổ chức trong năm 1930 tại Vla-đi-vốt-xtoocs. Nhưng những nhà lãnh đạo Đông Dương Cộng sản Đảng nhận bức thư từ một Việt kiều gửi từ Xiêm và đọc bức thư đó trước một cuộc họp Đảng tại Hà Nội, đã không đưa ra quyết định nào về vấn đề này. Nguyễn Ái Quốc đã hai lần cố vào Việt Nam nhưng không qua được biên giới do có cảnh sát canh giữ cẩn mật. Ông đang chuẩn bị thử lần thứ ba thì một cộng sự mới đến từ Hồng Công (có lẽ là Lê Duy Diệm) thông báo cho ông biết về tính khẩn cấp của tình hình. Ngay lập tức Nguyễn Ái Quốc đi Băng-cốc để rồi từ đó lên tàu tới Quảng Châu.

Ngày 20-1-1930, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu, vào ở tại một khách sạn và viết thư cho các cộng sự ở Hồng Công, yêu cầu họ tới gặp ông tại Quảng Châu. Có lẽ ông sợ bị cảnh sát Anh luôn cảnh giác phát hiện tại biên giới. Tuy nhiên, cuối cùng thì họ đã thuyết phục ông rằng gặp gỡ ở Hồng Công sẽ an toàn fhown vì ở đó chính quyền Anh khá khoan dung đối với các hoạt động của người nước ngoài trên lãnh thổ của họ nếu những hành động đó không trực tiếp đe dọa sự ổn định láng giềng, và dân số chủ yếu là người Trung Hoa ở đây cũng tở ra khá im hơi lặng tiếng mặc dù trong những năm 1920 cũng đã nổ ra một vài cuộc đình công. Hồ Tùng Mậu cử một cộng sự của mình tháp tùng Nguyễn Ái Quốc trở lại Hồng Công bằng xe lửa, tại đó ông vào ở tại một khách sạn tại Cửu Long.

Sau khi tới Hồng Công, Nguyễn Ái Quốc tới ngay căn hộ của Lê Hồng Sơn, tại đó ông làm quen với tình hình và thảo luận với ông Mậu và những thành viên khác của Hội. Ông phê bình họ vì đã xa rời quần chúng và vì họ không dự đoán trước được sự chia rẽ mà theo ông là “trẻ con”. Ông cũng liên lạc với trụ sở của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại đây. Sau đó, ông mời các thành viên của ba phái tranh chấp ở Đông Dương tới Hồng Công để chuẩn bị hợp nhất ba nhóm thành một Đảng mới.

Cuối tháng 1-1930, đại diện An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Đảng từ Đông Dương đã tới Hồng Công. Các đại biểu Đông Dương Cộng sản liên đoàn đã rời Đông Dương trên một chuyến tàu nhưng bị bắt trên đường do bị quân của những người lao động ở Cửu Long. Sau đó, hội nghị đã phải di chuyển tới một số địa điểm khác, trong đó có một phiên họp được diễn ra dưới một sân vận động ở Cửu Long. An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Đảng đều có hai đại biểu mỗi đảng. Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu dự hội nghị với tư cách là đại diện cho đại bản doanh của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên cũ ở Hồng Công.

Theo một số người tham dự kể lại hội nghị dễ dàng đi đến thống nhất một cách đáng ngạc nhiên. Nguyễn Ái Quốc đã khai mạc hội nghị bằng cách tự giới thiệu mình và sau đó phê bình nhẹ nhàng các đại biểu vì đã để xảy ra sự chia rẽ. Ông cho rằng cả hai bên đều phải chịu trách nhiệm, và nhấn mạnh rằng vấn đề chủ yếu lúc này là khôi phục sự thống nhất của phong trào. Hội nghị cũng nhanh chóng nhận thấy rằng những mâu thuẫn tồn tại giữa các thành viên của hai phái là do mâu thuẫn cá nhân và những vấn đề nhạy cảm mang tính khu vực hơn là ý thức hệ. Các đại biểu Bắc Kỳ và Nam Kỳ nghi ngờ về tư chất cách mạng thực sự của nhau (người miền Bắc thường cho rằng người miền Nam lười biếng và dễ dãi, trong khi người miền Nam lại cho rằng người miền Bắc quá nghiêm khắc và ngoan cố) và đều không bằng lòng vì những đảng viên gốc Nghệ An quê của Nguyễn Ái Quốc lại nắm giữ những vị trí chủ chốt trong lãnh đạo phong trào. Đối với lãnh đạo An Nam Cộng sản Đảng, do tác động của bức thư chỉ trích của Mát-xcơ-va hồi tháng 10, họ đã thấy được sự cần thiết của việc thành lập một Đảng Cộng sản chính thức. Vấn đề lớn duy nhất còn lại cần giải quyết là làm thế nào chấm dứt sự chia rẽ và hợp nhất các phái, bao gồm cả Đông Dương Cộng sản Liên đoàn hiện đang vắng mặt, vào thành một đảng duy nhất với những điều khoản thỏa mãn tất cả các bên. Lúc này, tư cách đại diện Quốc tế Cộng sản của Nguyễn Ái Quốc rất có lợi cho ông. Ông gợi ý rằng giải pháp đơn giản nhất không phải là nhập đảng này vào đảng khác hay sáp nhập các đảng lại mà là giản tán cả hai và thành lập một tổ chức mới, với các chương trình và điều lệ mới, và tất cả những ai ủng hộ mục tiêu và đáp ứng các tiêu chuẩn cần thiết đều có thể trở thành thành viên của tổ chức này. Tất cả các đại biểu đều chấp nhận đề nghị này một cách nhanh chóng và có thể mọi người đều thấy thoải mái.

Vấn đề duy nhất còn gây tranh cãi là tên của đảng hợp nhất mới. Nguyễn Ái Quốc đã suy nghĩ đến vấn đề này trước khi triệu tập hội nghị. Trong một ghi chép cá nhân ngày 6-1, ông đã liệt kê năm điểm chính cần đưa ra trước hội nghị; một trong những vấn đề đó là thống nhất tên gọi mới của đảng. Tại hội nghị, ông đưa ra ý kiến của mình, cho rằng tên của các đảng hiện nay đều là chưa đủ, vì “Đông Dương” hàm ý chỉ toàn bộ Đông Nam Á, trong khi “An Nam”, một từ Hán có nghĩa là “miền nam yên bình”, giờ đây lại được người Pháp sử dụng để chỉ vùng đất họ bảo hộ ở miền trung Việt Nam. Ông gợi ý rằng đảng mới phải có tên mới, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông gợi ý rằng đảng mới phải có tên mới, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam. Trước khi triệu tập hội nghị, Nguyễn Ái Quốc đã quyết định rằng của tên gọi này là thích hợp. Việt Nam không chỉ là tên gọi chính thức của đất nước dưới triều Nguyễn độc lập trong thế kỷ 19, mà Việt Nam còn gợi lại hình ảnh đất nước Nam Việt đầu tiên được hình thành ở đồng bằng sông Hồng trước khi quân Trung Hoa sang xâm chiếm vào thế kỷ thứ hai trước Công nguyên. Các đại biểu ngay lập tức chấp nhận cái tên này.

Sau khi giải quyết được những vấn đề gai góc nhất, những vấn đề còn lại được dàn xếp một cách dễ dàng. Những phiên họp sau, được cho là tiến hành trong “không khí đoàn kết và thân ái”, đã thảo ra chương trình hành động, các quy định và điều lệ của đảng mới. Nguyễn Ái Quốc đã xem một báo cáo tóm tắt về kết quả Đại hội lần thứ 6 của Quốc tế Cộng sản và ít ra là cũng đã biết chút ít về những thay đổi trong đường lối chung của phong trào vào thời điểm đó. Nhưng rõ ràng là ông chưa nhận được văn bản chỉ trích chương trình hành động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên mới được thảo tại trụ sở Quốc tế Cộng sản ở Mát-xcơ-va. “Những nhiệm vụ cấp bách của những người cộng sản Đông Dương”, rõ ràng được viết vào khoảng tháng 12 và gửi tới trụ sở Đảng Cộng sản Pháp tại Pa-ri, nhưng vì lý do nào đó lại không được gửi tới trụ sở của Hội ở Hồng Công. Lê Hồng Phong, một trong những người đồng sáng lập Hội, đang được đào tạo ở Liên Xô, đã có được một bản ở Mát-xcơ-va và gửi văn bản này cho một cộng sự ở Nam Kỳ. Nhưng không may là tài liệu này đã tới nơi sau khi kết thúc hội nghị hợp nhất.

Quốc tế Cộng sản chỉ trích chương trình của Hội vì tính mập mờ trong một số vấn đề. Mặc dù Quốc tế Cộng sản thừa nhận rằng cuộc cách mạng duy nhất có khả năng nổ ra lúc này ở VIệt Nam là cách mạng dân chủ tư sản, nhưng việc giai cấp công nhân đóng vai trò lãnh đạo trong cuộc đấu tranh này là vấn đề sống còn. Để đóng vai trò bao trùm trong phong trào, Đảng Cộng sản tương lai phải ra sức đấu tranh chống lại sự ảnh hưởng của “chủ nghĩa cải lương dân tộc” (thí dụ như Đảng hợp hiến) và tìm cách tận dụng sự chia rẽ của giai cấp tư sản địa phương. Tài liệu này cũng chỉ trích các giải thích về chương trình cách mạng hai giai đoạn của Lê-nin. Về thuyết giành quyền lực trong nhiều giai đoạn, tài liệu này cho rằng thuyết này “là một hình thức của chủ nghĩa cải lương chứ không pahir của chủ nghĩa cộng sản, vì không thể dự đoán trước sự tồn tại của các giai đoạn trong phong trào cách mạng để có thể chuyển phong trào từ một thành công nhỏ nhất sang tấn công trực tiếp vào chế độ”. Tài liệu này cảnh báo rằng cách tiếp cận như vậy sẽ “trên thực tế chỉ kìm hãm hành động của quần chúng nhân dân và làm suy yếu họ thay vì phải động viên họ”. Bản chỉ trích này còn cho rằng trong bất kỳ trường hợp nào thuyết về một cách mạng nhiều giai đoạn sẽ cho phép một nhóm nhỏ trí thức cộng sản lãnh đạo cuộc đấu tranh, một kết cục trái ngược với những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác. Mát-xcơ-va nhấn mạnh rằng “nhân dân là những người làm cách mạng và những người cộng sản chỉ có nhiệm vụ hướng dẫn, tổ chức và chỉ đạo nhân dân”. Cuối cùng, Mát-xcơ-va kết luận rằng không cần phải đợi đến khi An Nam Cộng sản Đảng được tổ chức hoàn chỉnh mới khuấy động một cuộc khởi nghĩa cách mạng.

Lời kêu gọi được thảo ra tại hội nghị tháng 2-1930 cho thấy sự chuyển hướng chiến lược được thông qua trước đó tại Đại hội lần thứ 6 tháng 7-1928 cũng đã tác động đến suy nghĩ của Nguyễn Ái Quốc. Trong khi lời kêu gọi này nhằm mục tiêu là đa số dân chúng Việt Nam (công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh, “các anh chị em” bị áp bức bóc lột), nó cũng xóa bỏ quan điểm cũ của Nguyễn Ái Quốc về một đội tiên phong của giai cấp vô sản và nông dân (ám chỉ một cuộc cách mạng giai cấp rộng lớn hơn) và tuyên bố một cách công khai rằng tổ chức mới này là “đảng của giai cấp vô sản” sẽ đấu tranh lật đổ thực dân Pháp, chế độ phong kiến cũng như giai cấp tư sản phản cách mạng, và thành lập một “chính quyền công-nông-binh”. Chính quyền đó sẽ dần nhường bước cho giai đoạn thứ hai, giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, rõ ràng là Nguyễn Ái Quốc chưa sẵn sàng từ bỏ hoàn toàn cách tiếp cận của Lê-nin về một mặt trận thống nhất rộng rãi mà ông đã chủ trương trong suốt thời gian tồn tại của Hội. Một văn kiện chiến lược được thông qua tại hội nghị kêu gọi cần có những nỗ lực giành sự ủng hộ của trí thức, trung nông (thuật ngữ của Đảng chỉ những người nông dân có đủ đất để sống nhưng không thuê nhân công), tiểu tư sản, cũng như những nhóm dân tộc chủ nghĩa như Đảng Thanh niên Hy vọng của Nguyễn An Ninh. Ngay cả những phú nông và địa chủ nhỏ cũng có thể được tập hợp nếu họ không phản cách mạng. Chỉ có Đảng Hợp hiên do nhà cải lương ôn hòa Bùi Quang Chiêu lãnh đạo bị coi là phản động.

Từ những nhận xét trong bức thư ngày 18-2 gửi Văn phòng Viễn Đông được viết sau khi hội nghị kết thúc, có thể thấy rõ là Nguyễn Ái Quốc đã tin rằng những văn kiện soạn thảo ra tại hội nghị hợp nhất đều phù hợp với đường lối của Quốc tế Cộng sản. Tuy nhiên, trên thực tế họ đã xa rời chiến lược mới của Mát-xcơ-va trong một số điểm; mặc dù Nguyễn Ái Quốc vẫn là một người trung thành với chiến lược của Lê-nin về các khu vực thuộc địa, nhưng Mát-xcơ-va trước đó đã có sự thay đổi. Chính sự chệch hướng đó đã gây khó khăn đối với ông trong những năm sau này.

Cuối hội nghị, các đại biểu đã bầu ra ban chấp hành trung ương lâm thời và sau đó họ chuẩn bị trở lại Đông Dương để thành lập bộ máy ở đại phương cho đảng mới này. Một vài ngày sau, Nguyễn Ái Quốc đến Thượng Hải. Trước khi đi, ông viết thư gửi Lê Quang Đạt, nói với ông này rằng ông dự định giải quyết vấn đề quan hệ của đảng mới ở Đông Dương với Văn phòng Viễn Đông. Sau đó, trong bức thư ngày 18-2, ông thông báo kết quả hội nghị hợp nhất với I-la-rê Nu-lăng-xơ, người đứng đầu mới của Văn phòng Viễn Đông tại Thượng Hải. Hội – tổ chức mà ông miêu tả như “một vỏ trứng mà từ đó nở ra một chú chim non cộng sản” – lúc này đã chính thức bị xóa bỏ và một đảng mới đã được thành lập. Đảng có 204 đảng viên ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, 51 đảng viên ở Nam Kỳ và 40 đảng viên ở Xiêm. Các tổ chức quần chúng của sinh viên, nông dân và công nhân do Hội và những đảng kế nhiệm của Hội lập ra cuối những năm 1920 vào thời điểm đó đã có 3.500 hội viên.

Với việc thành lập một đảng mới vào tháng 2 năm 1930, Nguyễn Ái Quốc sẵn sàng chuyển cách mạng Việt Nam sang một giai đoạn mới. Như ông đã miêu tả trong thư gửi cho Nu-lăng-xơ, đảng này chỉ là một trong số các đảng và phe phái chính trị ở Việt Nam bao gồm Đảng Hợp hiên, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (đảng sẽ sớm bị giải thể và hầu hết các đảng viên gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam), Việt Nam Quốc dân Đảng ở Hà Nội, và Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên không còn tồn tại. Mặc dù Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn còn nhỏ bé và non trẻ, nhưng ông nói rằng đó là “một đảng có tổ chức tốt nhất và năng động nhất trong tất cả các đảng”. Giờ đây, khi cuộc chiến giữa hai phái cộng sản nổi bật nhất đã chấm dứt, ông tin tưởng rằng Đảng Cộng sản Việt Nam được trang bị bằng một chính sách đúng đắn và tinh thần đoàn kết nội bộ mới sẽ nhanh chóng phát triển. Cuối cùng, Nguyễn Ái Quốc đã cầm thanh gươm thần, vũ khí mà Lê Lợi, nhà yêu nước hồi thế kỷ thứ 15 sử dụng, để giành lại tự do cho đồng bào mình từ tay kẻ thù.
 
Chương xiii: địa điểm mang tên điện biên phủ

Dự đoán rằng Hồ Chí Minh sẽ về thủ đô ăn Tết năm 1951 quả là hấp tấp. Mặc dù trong giai đoạn khởi đầu, cuộc tấn công của Việt Minh đã bắt đầu một cách đầy hứa hẹn – với việc các đơn vị Việt Minh từ các cánh rừng dưới chân núi Tam Đảo tràn ra trong một cuộc tấn công theo kiểu “biển người” của Trung Quốc nhằm vào các vị trí của đối phương tại Vĩnh Yên – các chỉ huy của họ đã đánh giá thấp quyết tâm của tướng Giăng Đơ Lát Đơ Tát-xi-nhi mới đến Đông Dương ngày 19 tháng 12 năm 1950 với tư cách là Cao uỷ mới và Tổng tư lệnh các Lực lượng viễn chinh Pháp (FEF) tại Đông Dương. Đơ Lát là đối thủ xứng đáng của tướng Giáp. Là một anh hùng chiến tranh và một con người vô cùng tự tin và có hàm quân sự cao nhất, Đơ Lát đã hành động ngay lập tức để củng cố vị thế quân Pháp. Để nâng cao tinh thần binh lính, ông huỷ bỏ lệnh của người tiền nhiệm sơ tán nhân dân Pháp khỏi Hà Nội. Để bẻ gẫy cuộc tấn công của Việt Minh, ông đã huy động lực lượng dự bị chiến lược từ các nơi khác đồng thời ra lệnh cho máy bay Pháp sử dụng bom na-pan mới tiếp nhận từ Hoa Kỳ.

Kết quả thật kinh ngạc. Binh lính Việt Minh chưa từng gặp phải tác động của ga cháy, đã tháo chạy tán loạn và thị xã Vĩnh Yên vẫn nằm trong quyền kiểm soát của người Pháp. Một người tham gia lực lượng tấn công sau này viết:

“Đơn vị của chúng tôi tấn công từ buổi sáng. Từ xa, ba con chim yến hiện ra to dần. Đó là những chiếc máy bay. Chúng bổ nhào và địa ngục mở ra ngay trước mắt tôi. Địa ngục trông giống như một chiếc công-te-nơ chứa đầy những quả trứng khổng lồ rời xuống từ chiếc máy bay đầu tiên, rồi từ chiếc thứ hai rơi xuống ngay bên phải tôi…Một quầng lửa dữ dội lan ra tới hàng trăm mét, gieo rắc kinh hoàng trong binh lính. Đó là bom na-pan, đám cháy từ trên trời rơi xuống. Một chiếc máy bay khác lại đến và các đám cháy mới lại bùng lên. Bom rơi phía sau chúng tôi và tôi cảm thấy hơi lửa đang lan toả khắp người tôi. Binh lính tháo chạy và tôi không thể nào cản họ lại được. Không có cách nào sống được dưới quầng lửa đang hoành hành và thiêu rụi mọi thứ trên đường đi của nó.”

Theo một báo cáo tình báo của Mỹ, khoảng từ 3.500 đến 4.000 lính trong tổng số 10.000 lính tham gia cuộc tấn công của Việt Minh đã bị thương. 400 lính Pháp chết và 1.200 bị thương. Các cuộc tiến công sau đó vào Mạo Khê và các cứ điểm dọc sông Đáy ít thành công hơn và cuối cùng, sau khi chịu nhiều thương vong, họ phải rút lên núi. Khi mối đe doạ đối với Hà Nội tạm thời dịu xuống, Đơ Lát thú nhận rằng quyết định huỷ bỏ lệnh sơ tán của ông chỉ là “tiếng huýt sáo trong bóng tối” và là một cuộc trình diễn trên khán đài nhằm khôi phục niềm tin của công chúng.

Không những không mở được đường tiến về Hà Nội, cuộc tiến công lại là một thất bại của các lực lượng Việt Minh và thực sự là một thất bại cá nhân đáng xấu hổ của Võ Nguyên Giáp – nhà chiến lược thượng hạng của Hồ Chí Minh. Mấy tuần sau đó, Bộ Tổng tham mưu bắt đầu suy tính lại cách đánh của mình. Tại một cuộc họp của các cán bộ cao cấp trong Đảng tổ chức giữa tháng 4, Hồ Chí Minh kêu gọi tự kiểm điểm để rút kinh nghiệm từ những bài học vừa qua và chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Một chương trình phát thanh của Việt Minh tháng 5 đã nói rằng chỉ nên phát động các chiến dịch quân sự lớn khi cầm chắc chiến thắng. Các nguồn tin chính thức đã thôi thúc không dùng khẩu hiệu “chuẩn bị chuyển sang giai đoạn tổng tấn công” và bắt đầu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của một cuộc kháng chiến trường kỳ. Trong các bài viết và nói chuyện của mình cuối năm 1951, Hồ Chí Minh đã gián tiếp đưa ra quan điểm tương tự, nói đến tầm quan trọng của kỹ thuật chiến tranh du kích trong việc tiến hành một cuộc đấu tranh lâu dài chống lại kẻ thù. Các cố vấn Trung Quốc rũ bỏ trách nhiệm thất bại bằng cách báo cáo cho cấp trên (một cách muộn màng) rằng binh lính Việt Minh thiếu kinh nghiệm cần thiết để tiến hành một chiến dịch quân sự đầy tham vọng như vậy. Họ cũng khuyên nên chuyển sang áp dụng chiến tranh du kích. Ông Giáp cũng thừa nhận rằng đối đầu với quân đội Pháp được trang bị tốt hơn trong một trận chiến bằng những lực lượng vẫn còn thiếu kinh nghiệm của mình là một sai lầm, và các lực lượng này đôi khi không có được một mức độ quyết chiến và quyết tâm cần thiết.

Tuy ảnh hưởng của Trung Quốc đối với chiến lược chiến tranh du kích của Việt Minh ngày càng trở lên nên rõ nét sau năm 1950, tác động của nó cũng rõ nét trong các thay đổi đang diễn ra trong chính sách đối nội của Việt Minh. Từ giữa những năm 50, các cán bộ Trung Quốc mặc trang phục kiểu Mao miệng hô hào các khẩu hiệu cách mạng bắt đầu đến Việt Nam với số lượng lớn để cố vấn cho phía Việt Nam trên mọi phương diện quản lý và hành vi ứng xử. Trước khi họ rời Trung Quốc, Lưu Thiếu Kỳ đã cẩn thận chỉ thị cho các thành viên của đoàn cố vấn không được áp đặt các kỹ thuật Trung Quốc vào Việt Nam, nhưng nhiều người đã phớt lờ lời khuyên này và làm dấy lên sự bực tức trong hàng ngũ binh lính và sĩ quan Việt Nam, những người từ lâu đã nhạy cảm trước thái độ trịnh thượng của những người anh em phương Bắc.

Đối với nhiều người Việt Nam, việc thiết lập các chương trình giáo dục tư tưởng cho đảng viên biểu hiện rõ nhất của ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc. Theo lý thuyết của Mao, mục đích của chương trình này là khích lệ cải huấn tư tưởng các đảng viên, nhưng nó lại thường biến tướng thành sự sỉ nhục và trừng phạt, thường mang đặc điểm của xung đột giai cấp khi các cán bộ xuất thân trong hoàn cảnh nghèo khó trả thù các đồng đội xuất thân từ các gia đình giàu có. Theo lời kể của một số người tham gia các chương trình này, chiến thuật tự kiểm điểm – trọng tâm của chương trình- đã làm kinh hoàng rất nhiều các bộ Việt Minh, những người hầu hết đã đọc một số tác phẩm Mác-xít-Lê-nín và động cơ tham gia phong trào Việt Minh của họ thường là vì lòng yêu nước hơn là ý thức hệ.

Kết quả của việc giáo dục tư tưởng này nhiều khi là bi kịch. Theo Gioóc Bu-đa-ren, một người cộng sản Pháp từng phục vụ trong một đơn vị của Việt Minh trong những năm đầu thập kỷ 50, người ta tịch thu dao cạo râu của các cán bộ Việt Minh bị tổn thương về tinh thần nhằm ngăn họ tự sát; đèn trong các lều của các trại huấn luyện được thắp sáng suốt đêm có lẽ cũng vì lý do này. Chính uỷ Việt Minh được cử xuống tất cả các đơn vị để theo dõi động cơ tư tưởng của binh sĩ. Nếu như chính uỷ và sĩ quan chỉ huy của một đơn vị bất đồng thì chính uỷ sẽ có quyền quyết định cuối cùng.

Bu-đa-ren cho rằng chính sách này có tác dụng tiêu cực. Trước mắt, chính sách này đẩy nhiều trí thức yêu nước ra khỏi phong trào và phá vỡ sự đoàn kết đang tồn tại trước đó giữa những người trung hoà và cấp tiến trong Đảng. Về lâu dài, hậu quả của các chính sách này rất nguy hại vì lo sợ bị phê bình và trả thù sẽ làm tê liệt tính sáng tạo của các văn nghệ sĩ. Các nguồn tin tình báo Pháp đã thu được nhiều tài liệu nói về sự rạn nứt giữa cán bộ Việt Nam và chuyên gia Trung Quốc; những người đào ngũ khỏi hàng ngũ Việt Minh thường viện dẫn việc họ rời bỏ cách mạng là do ảnh hưởng thái quá của học thuyết Mao-ít. Ngay cả những người ủng hộ Việt Minh và chấp thuận việc cần phải nghe theo những lời khuyên chiến lược từ các cố vấn Trung Quốc đôi khi cũng chán nản trước việc các chuyên gia Trung Quốc gần như đang chỉ huy các đơn vị quân đội của Việt Nam. Những người đào ngũ nói rằng nhiều cán bộ trung – cao cấp của Việt Minh đã bị thanh trừng do sức ép của Trung Quốc. Theo các nguồn tin từ phía Pháp, có thể là do sức ép của phía Trung Quốc mà tướng Nguyễn Bình, tư lệnh các lực lượng Vịêt Minh ở miền Nam và là người bị cho là phê phán ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong phong trào Việt Minh đã bị mất chức tháng 9 năm 1951 và được lệnh ra bắc để “định hướng lại” . Các nguồn tin chính thức của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố rằng ông đã bị giết trong một cuộc đụng độ với các lực lượng bảo hoàng Cam-pu-chia-a trên đường ra Việt Bắc; các báo cáo chưa được kiểm chứng thì nói rằng ông bị bắt đưa đi và “vui vẻ chấp thuận cái chết định mệnh trong chiến đấu hơn là bị xử tử”.

Ảnh hưởng của Trung Quốc bắt đầu lan đến vùng nông thôn nơi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà áp dụng các quy định về cải cách ruộng đất ngày càng chặt chẽ hơn. Các quy định này tập trung xoá bỏ ảnh hưởng kinh tế và chính trị của giai cấp địa chủ ở cấp xã. Kể từ khi chiến tranh bùng nổ tháng 12 năm 1946, chính sách ruộng đất của chính phủ phản ánh quyết định của Hồ Chí Minh đặt ưu tiên vào cuộc đấu tranh phản đế lên trên cách mạng phản phong. Vì thế chương trình kêu gọi giảm tô nhưng chỉ giới hạn việc tịch thu đất canh tác thuộc quyền sở hữu của các công dân Pháp và những người cộng tác với chính quyền Bảo Đại. Đất của các địa chủ yêu nước và các nông dân giàu có không bị tịch thu nhằm lôi kéo sự ủng hộ của những đối tượng này đối với phong trào.

Tuy nhiên, đến đầu những năm 50, ngày càng có nhiều chỉ trích từ giới quân sự rằng rất nhiều quy định của chương trình này đã bị phớt lờ ở cấp địa phương nơi rất nhiều địa chủ không thực hiện quy định giảm tô. Các lãnh tụ của Đảng như Trường Chinh lập luận rằng do không huy động được sự ủng hộ mạng mẽ hơn nữa của những tầng lớp dân nghèo ở nông thôn, chương trình này không đáp ứng lợi ích của cách mạng. Các cố vấn Trung Quốc với những kinh nghiệm mới mẻ về chương trình cải cách ruộng đất triệt để đang được tiến hành tại Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa bắt đầu thúc giục các cán bộ Việt Nam đối đầu với các phần tử “phong kiến” ở nông thôn một cách trực diện hơn. Kết quả là các quy định giảm tô và giới hạn việc tham gia của các địa chủ trong hội đồng xã bắt đầu được thực hiện chặt chẽ hơn.

Sự kiện nổi bật nhất đánh dấu sự chuyển hướng quyết định sang phía tả của chính phủ xẩy ra vào tháng 2 năm 1951 khi Đảng tổ chức Đại hội toàn quốc lần thứ hai – đại hội đầu tiên được tổ chức sau đại hội tại Ma Cao tháng 3-1935 – tại một địa điểm bí mật ở tỉnh Tuyên Quang, sâu trong rừng Việt Bắc. Tổng số 200 đại biểu đại diện cho khoảng nửa triệu đảng viên đã tham dự cuộc họp.

Có nhiều lý do xác đáng để tổ chức đại hội. Trước hết, mặc dù Đảng Cộng sản Đông Dương đã giải thể công khai tháng 11 năm 1945, tổ chức này vẫn lớn mạnh nhanh chóng trong những năm cuối thập kỷ 40 và rất nhiều đảng viên – đại đa số có nguồn gốc là nông dân và tiểu tư sản – mới chỉ được rèn luyện rất ít về hệ tư tưởng. Nhiều cán bộ bị nhiễm cái mà tài liệu của Đảng gọi là “thái độ phong kiến” (bao gồm những điều bị coi là tệ nạn xã hội như tín ngưỡng và mê tín, hống hách, gia trưởng), “đầu óc du kích” (ngụ ý thái độ bí mật và nghi ngờ người ngoài) và trình độ nhận thức chính trị thấp. Trong báo cáo trước các đại biểu, Tổng bí thư Trường Chinh tuyên bố rằng việc chống lại ảnh hưởng to lớn của chủ nghĩa cá nhân, ngạo mạn, thái độ và việc làm quan liêu, tham nhũng và đạo đức lỏng lẻo trong đảng viên là vô cùng quan trọng. Ông khẳng định rằng chỉ một Đảng Cộng sản có kỷ luật cao và trong sáng trước công chúng mới có khả năng đóng vai trò tích cực trong đấu tranh chống những tệ nạn đó và đóng vai trò tiên phong trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trong việc hoạch định chính sách đối nội cũng được thừa nhận công khai tại Đại hội. Trường Chinh tuyên bố rằng nước Việt Nam tương lai sẽ áp dụng mô hình “chuyên chính dân chủ nhân dân” kiểu Trung Quốc chứ không theo mô hình “chuyên chính vô sản” Đông Âu theo kiểu Liên Xô. Theo mô hình Trung Quốc, mục tiêu trước mắt là tiến hành giai đoạn đầu của cách mạng dân tộc chủ để chuẩn bị cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa sau này, nhưng không có thời kỳ quá độ kéo dài giữa hai giai đoàn này. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, theo cách nói của Lê-nin, sẽ “phát triển” sang giai đoạn xã hội chủ nghĩa. Để giành được sự ủng hộ rộng rãi của dân chúng, Mặt trận Việt Minh – một liên minh rộng rãi của các lực lượng yêu nước được hình thành năm 1941 và hiện công chúng thấy rõ là đang chịu sự lãnh đạo của những người cộng sản – cần được đổi tên thành Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam hay Mặt trận Liên Việt.

Để hoàn thành nhiệm vụ của mình, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng cần có tên mới – Đảng Lao động Việt Nam. Khi đưa từ dễ gây xúc động “Việt Nam” vào tên Đảng, các nhà lãnh đạo rõ ràng đã công nhận tầm quan trọng to lớn của cuộc đấu tranh phản đế trong việc giành sự ủng hộ của dân chúng, một quan điểm mà bản thân Hồ Chí Minh luôn tâm niệm kể từ giữa những năm 20. Đồng thời, quyết định này cũng là một cử chỉ ngầm đáp lại tinh thần dân tộc chủ nghĩa đang dâng lên ở các nước Lào và Cam-pu-chia-a, nơi các đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương người Lào và Khơ-me ngày càng thấy khó chịu trước sự chỉ đạo, đôi khi có tính chất nhồi nhét của các cấp trên người Việt và đòi phải có Đảng riêng của mình. Đảng lúc này đã chính thức công nhận rằng cách mạng ở ba nước sẽ phát triển với tốc độ khác nhau và mỗi nước sẽ có đảng riêng của mình để đóng vai trò tiên phong trong quá trình đó. Trong khi Việt Nam đang tiến tới cách mạng dân tộc dân chủ và sau đó tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, Lào và Căm-pu-chia đã đi theo hướng dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa của họ sẽ bị trì hoãn một số năm.

Tuy nhiên, quyết định tách Đảng Cộng sản Đông Dương thành ba đảng riêng biệt không có nghĩa là Hồ Chí Minh và các cộng sự không còn quan tâm đến các nước khác ở Đông Dương. Ngược lại, mặc dù các tổ chức được thiết lập tại Lào và Cam-pu-chia-a mang tên Đảng Nhân dân Cách mạng, kế hoạch thiết lập một liên minh chặt chẽ giữa ba nhóm đã được đưa ra ngay sau khi Đại hội II kết thúc. Theo một tài liệu chính thức của Đảng được đưa ra tại Đại hội sau này Pháp lấy được, người Việt Nam không hề có ý định chấm dứt sự kiểm soát đối với phong trào cách mạng trên toàn Đông Dương. Tài liệu này tuyên bố “Đảng Việt Nam giữ quyền giám sát hoạt động của các đảng anh em ở Lào và Cam-pu-chia-a.” Và mặc dù các nguồn tin của Việt Nam sau này xác nhận rằng quan niệm về một liên bang Đông Dương (lần đầu tiên được đề cập tại Hội nghị Ma Cao năm 1935) đã được công khai từ bỏ lại Đại hội năm 1951, nhưng tài liệu tịch thu được này lại nói ngược lại, rằng mặc dù có ba đảng riêng biệt, “sau này, nếu điều kiện cho phép, ba đảng cách mạng ở Việt Nam, Lào, Cam-pu-chi-a sẽ có thể thống nhất lại để thành lập một đảng duy nhất : Đảng liên bang Việt-Khơ-me-Lào”

Quyết định duy trì quan hệ chặt chẽ giữa ba nước, đoàn kết thống nhất trong Liên hiệp Pháp chứng tỏ rằng giới lãnh đạo Đảng nhận thấy tầm quan trọng chiến lược của Đông Dương như một khối thống nhất. Trong một cuốn sách học của Đảng mà người Pháp thu được năm 1950, ba nước được miêu tả như một khối thống nhất từ quan điểm đến địa lý, kinh tế, chính trị và chiến lược. Tài liệu này nói rằng các phong trào cách mạng ở ba nước được định hướng giúp đỡ lẫn nhau trong mọi lĩnh vực để tiến hành cuộc đấu tranh chống đế quốc xâm lược và xây dựng “nền dân chủ mới” trong tương lai.

Dấu ấn của Hồ Chí Minh có thể được tìm thấy trong nhiều tài liệu được Đại hội thông qua. Các cộng sự của ông đã chiếu theo ý kiến kiên quyết của Hồ Chí Minh cần phải đặt mục tiêu phản đế lên trên phản phong ở Đông Dương và công nhận cần phải hiệu triệu những phần tử ôn hoà trong xã hội Việt Nam. Nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cuộc cách mạng hai giai đoạn (dù có ngắn đến đâu) và sự cần thiết phải áp dụng ý thức hệ cách mạng vào điều kiện cụ thể ở mỗi nước, các đảng viên đã hưởng ứng khuynh hướng thực dụng, điều luôn là ý tưởng của ông từ những ngày đầu tiên của phong trào.

Tuy nhiên, khó tránh khỏi kết luận là Bắc Kinh cũng có ảnh hưởng chính đằng sau những quyết định tại Đại hội II. Bằng việc quyết định lập lại Đảng Cộng sản như một “lực lượng đưa đường chỉ lối” hiện hữu thúc đẩy cách mạng Việt Nam, người Việt Nam đã đáp lại chỉ trích từ Trung Quốc và Liên Xô rằng cuộc đấu tranh của họ từ trước đến giờ vẫn thiếu màu sắc Mác-xít cần thiết. Việc sử dụng thuật ngữ “nền dân chủ mới” là một sự bắt chước trực tiếp từ một mô hình mới được chính người Trung Quốc áp dụng, trong khi nhấn mạnh đến “sự lớn mạnh” của cách mạng từ giai đoạn một sang giai đoạn hai, họ nhấn mạnh đến những quan ngại từ phía Mát-xcơ-va và Bắc Kinh rằng Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn chưa chính thống trong các hoạt động của mình.

Phản ứng của Hồ Chí Minh trước các quyết định tại Đại hội có lẽ lẫn lộn. Là một người có đầu óc thực tế, ông hiểu tầm quan trọng của việc xoa dịu Bắc Kinh để khuyến khích sự ủng hộ của Trung Quốc cho cách mạng Việt Nam và ít người sánh được với ông về khả năng quỵ luỵ trước Mao Chủ tịch và các cộng sự hãnh tiến của Mao. Nhưng chắc ông cũng lo lắng về hiểm hoạ của những ảnh hưởng thái quá của Trung Quốc và nhận thức được rằng nhiều yếu tố trong mô hình Trung Quốc – cụ thể là nâng cao vai trò của Đảng, sự nhấn mạnh ngày càng nhiều tới cải huấn tư tưởng và sự trừng phạt nặng nề giành cho những ai bị tình nghi là phản động – có thể sẽ không thành công trên mảnh đất nhiệt đới của xứ Đông Dương thuộc Pháp này. Những bản năng bao quát của ông chắc chắn đã phản kháng khi biết rằng nhiều người yêu nước Việt Nam sẽ bị đẩy ra khỏi hàng ngũ của Mặt trận Việt Minh và rơi vào tay kẻ thù.

Những lo lắng của ông Hồ không qua được mắt những nhà quan sát thời đó và có nhiều lời đồn rằng mặc dù Hồ Chí Minh được khẳng định là Chủ tịch Đảng, cuộc họp đã đánh dấu một thất bại lớn của ông Hồ và ảnh hưởng của ông trong phong trào cách mạng Việt Nam. Theo các nguồn tin tình báo Pháp, một trong những kết quả của Đại hội là thay thế ảnh hưởng của những người ôn hoà như Hồ Chí Minh bằng những thành phần cứng rắn đứng đầu là trường Chinh – người vừa được bầu lại vào vị trí Tổng Bí thư Đảng và một nguồn tin báo chí tại Sài Gòn thậm chí đưa tin rằng ông Hồ đã bị tử hình theo lệnh của Võ Nguyên Giáp. Các nguồn thạo tin tại Hà Nội thừa nhận rằng Đại hội thể hiện thất bại của Hồ Chí Minh và thắng thế của những người như Trường Chinh – những người quyết tâm đi theo lời khuyên của Trung Quốc và áp dụng đường lối cứng rắn hơn đối với cách mạng Việt Nam. Một Uỷ ban Trung ương mới gồm 29 uỷ viên đã được bầu ra (thành phần chủ yếu là những nhà cách mạng lão thành đã hoạt động tích cực trong Đảng từ trước Chiến tranh thế giới thứ hai). Uỷ ban Trung ương lại bầu ra một Ban Chấp hành (bắt chước theo mô hình của Liên Xô là Bộ Chính Trị), gồm 7 đảng viên hàng đầu của Đảng và một uỷ viên dự khuyết. Bộ Chính trị sẽ điều khiển công việc của Đảng và chính phủ.

Các thành viên chính của tổ chức này được mọi người coi là “tứ trụ” là Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh. Tóm tắt tiểu sử đăng trên báo Nhân dân của Đảng tháng ba mô tả Trường Chinh như kiến trúc sư và người lãnh đạo cách mạng Việt Nam trong khi Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc cách mạng.

Sau khi ông Giáp thất bại trong cuộc tấn công ở đồng bằng sông Hồng, cuộc xung đột dần lắng xuống và trở thành cuộc chiến cân bằng. Năm 1951, hầu hết các cố gắng của Việt Minh tập trung vào phía Bắc. Sau thất bại của cuộc tiến công của ông Nguyễn Bình mùa hè năm 1950, các nhà chiến lược Việt Minh tạm gác cuộc đấu tranh ở Nam Bộ. Ông Bình tổ chức những cuộc tuần hành lớn ở Sài Gòn chống lại chiến tranh và những khó khăn kinh tế và xã hội do chiến tranh gây ra. Ông coi đó là một phần chiến lược của mình. Nhân dân, đặc biệt là công nhân và sinh viên, phải chịu cảnh lạm phát và quân dịch, đã tham gia vào các cuộc tuần hành nhưng nhiều người trung dung cảm thấy đường đột vì các cuộc tuần hành này có khả năng dẫn đến bạo lực và không ủng hộ phong trào. Nguyễn Văn Tâm, Thủ tướng mới của Bảo Đại, trước là Tổng trưởng cảnh sát được mọi người gọi là “mãnh hổ Mai Lai” vì đã áp đặt mạnh mẽ những hoạt động nổi dậy ở miền Nam, phá vỡ bộ máy của Việt Minh tại Sài Gòn và đến tháng 8, bộ máy Việt Minh hầu như đã chấm dứt hoạt động. Để chỉ đạo hoạt động cách mạng ở miền Nam, Đảng Lao động Việt Nam thành lập Trung ương Cục (tiếng Anh gọi là COSVN) và đặt trực tiếp dưới sự kiểm soát của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam.

Chiến trường Nam Bộ hầu như không hoạt động, ông Giáp và cộng sự của ông chuyển cố gắng của mình sang Lào và Cam-pu-chi-a cũng như vùng núi Tây Bắc Bắc Bộ. Mục tiêu của ông Giáp là giữ chặt lực lượng quân sự của Pháp và buộc Pháp phải dàn trải quân khắp Đông Dương. Điều này tạo điều kiện cho Việt Minh có thể chọn được điểm yếu của quân Pháp. Việt Minh có thể tấn công công khai lực lượng thù địch và rồi có thể giáng cho lực lượng này thất bại nhuc nhã.

Hoà Bình là một thời cơ như vậy. Quân Pháp cho rằng thành phố Hoà Bình nằm ở ngoại vi đồng bằng sông Hồng là ngã ba trọng yếu nối tổng hành dinh của Việt Minh ở Việt Bắc với miền Trung và miền Nam, nguồn cung cấp tân binh và lương thực chính. Hồ Chí Minh đã nói với cộng sự của mình: “Ruộng lúa là chiến trường”. Các đơn vị Pháp chiếm thành phố tháng 11 năm 1951 và với sự đồng ý của cố vấn Trung Quốc, Việt Minh tấn công mạnh vào các vị trí của Pháp ở khu vực này. Chiến sự dồn dập – như nhà sử học Béc-na Phôn gọi là cối xay thịt – đã diễn ra sau đó và quân Pháp đã bị bỏ vị trí của mình tháng 2 năm 1952, rút quân về đồng bằng. Vào lúc đó, tướng Đơ Lát về Pháp và chết vì ung thư vào tháng giêng. Đến thời điểm này, cách nhìn lạc quan trong các phần tử thân Pháp ở Đông Dương do tính năng động của ông Đơ Lát đem lại đã biến mất. Trận Hoà Bình được coi là thất bại lớn của Pháp; sứ quán Mỹ ở Sài Gòn báo cáo những người quốc gia chủ nghĩa không cộng sản nản lòng và ngày càng tin rằng đến mùa hè Việt Minh sẽ chiếm Hà Nội.

Theo lệnh của Đơ Lát, quân Pháp xây dựng một loạt đồn bốt hòng ngăn chặn Việt Minh xâm nhập đồng bằng, những phòng tuyến Đơ Lát cũng không hữu hiệu hơn phòng tuyến Ma-gi-nô của Pháp trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Việt Minh bỏ qua các đồn bốt đó hoặc tấn công và đánh chiếm từng đồn một. Đến cuối năm 1952, các đơn vị Việt Minh đã có thể tự do di chuyển trong vùng quanh Hà Nội, tổ chức cách mạng đã được thành lập trong nửa số làng ở vùng đồng bằng. Chiến thắng Hoà Bình mở ra triển vọng lớn.

Mùa thu năm ấy, các nhà chiến lược Việt Minh đã mở một mặt trận mới ở vùng Tây Bắc xa xôi. Quân Pháp đã chiếm giữ vùng rộng lớn đầy núi cao và thung lũng nhỏ hiểm trở từ khi cuộc chiến bắt đầu. Vào mùa thu năm 1952, theo gợi ý của cố vấn Trung Quốc, các nhà chiến lược Việt Minh bắt đầu soạn thảo kế hoạch tấn công vào đồn bốt quân Pháp ở vùng này chuẩn bị cho một chiến dịch ở Trung và Bắc Lào. Làm như vậy, Việt Minh đã đánh lạc hướng lực lượng địch chú ý tới vùng đồng bằng, càng làm cho quân địch dễ bị tấn công hơn. Tháng 9, Hồ Chí Minh bí mật đi Bắc Kinh tham khảo ý kiến về chiến dịch này. Ông còn đi tiếp Liên Xô, tham dự Hội nghị lần thứ 19 Đảng Cộng sản Liên Xô. Vào cuối tháng 9, kế hoạch tấn công căn cứ của Pháp tại Nghĩa Lộ được thông qua. Ông Hồ về Việt Nam tháng 12.

Vào giữa tháng 10 năm 1952, ba sư đoàn của Việt Minh tấn công căn cứ của Pháp ở Nghĩa Lộ. Các đơn vị của Pháp rút lui về vị trí đóng quân gần đó ở Nà Sản và Lai Châu, bỏ vị trí của mình ở Sơn La, cách Nghĩa Lộ 65 cây số về phía Tây. Quân Việt Minh chiếm Sơn La, tập trung tấn công Nà Sản nhưng không thành công và tổn thương hàng ngàn quân. Nhưng thất bại không chiếm được Nà Sản chỉ là tạm thời. Vào đầu mùa thu sau, Việt Minh tập kết và tiến quân sang phía bên kia biên giới Lào, chiếm Sầm Nưa và đe doạ kinh đô Luông Pra-băng. Và rồi sau khi buộc quân Pháp phải phân tán lực lượng của mình, quân Việt Minh trở về Việt Bắc.

Trong suốt giai đoạn này, Hồ Chí Minh vẫn là người vô hình đối với thế giới bên ngoài, một nhân vật huyền bí không được nguồn tin đáng tin cậy nào của phương Tây nói đến từ mùa thu năm 1947. Ở Hà Nội, có một số người dựa trên tin là ông ốm liên miên trong thời gian sau Chiến tranh thế giới thứ, đoán rằng ông đã chết và thậm chí còn bị đày ở Trung Quốc vì chống lại sự có mặt ngày càng tăng của Quân đội nhân dân Trung Hoa. Các nguồn tin tình báo của Pháp khẳng định rằng ông vẫn sống dựa vào bức ảnh của báo Nhân Đạo chụp khoảng tháng 7 năm 1952. Cuối cùng Giô-dép Xta-rô-bin, phóng viên tờ Công nhân hàng ngày đã gặp ông tại một địa điểm bí mật ở Việt Bắc tháng 3 năm 1953 và đăng bài phỏng vấn này lên báo của các nước nói tiếng Anh.

Tuy nhiên, ở vùng giải phóng, Hồ Chí Minh là người ai cũng biết đến, ông là nhà chiến lược chiến tranh, cổ động viên chính cho sự nghiệp cách mạng. Tháng 2 năm 1952, một tù binh Pháp được thả cho biết rằng người ta thấy ông Hồ ở khắp nơi, ở mặt trận, ở trong làng, trên đồng ruộng và trong các cuộc họp cán bộ địa phương. Ăn mặc như một nông dân, ông liên tục tiếp cận những người theo ông, đùa với họ và khuyến khích họ hy sinh tất cả vì mục tiêu chung. Mặc dù điều kiện sống ở vùng giải phóng có phần tốt hơn nhưng những tháng cuối cùng của Chiến tranh thế giới thứ hai, quân Pháp vẫn liên tục ném bom vùng này và cứ ba đến năm ngày thì ông Hồ phải thay đổi chỗ ở một lần để tránh bị phát hiện và bắt. Mặc dù đã hơn 60 tuổi, ông vẫn đi bộ 50 cây số mỗi ngày qua những đường núi ngoằn nghèo, trên lưng địu một gùi hàng. Ông dậy sớm tập thể dục. Sau khi làm việc, vào buổi tối ông chơi bóng chuyền, bơi và đọc sách.

Theo những tin tức lẻ tẻ của những người đào nhiệm hay tù binh được thả, tinh thần trong vùng giải phóng suy giảm và số người phàn nàn về điều kiện sống ngày càng tăng. Các nhà lãnh đạo Việt Minh đã buộc phải áp đặt lại chế độ lao động bắt buộc trong những vùng thuộc quyền kiểm soát của mình để thực hiện những dự án công. Theo chế độ này, người làm việc không được nhận lương ngoài một lượng lương thực rất nhỏ đủ ăn. Giới trí thức ngày càng lo sợ những buổi học chính trị và tự phê trong khi thuế thì cao, lao động tự nguyện và các trận ném bom không ngừng của quân Pháp làm nhân dân mất tinh thần. Tuy vậy, hầu hết các nhà quan sát đều cho rằng đa số cư dân địa phương tiếp tục ủng hộ Việt Minh vì đã có những cố gắng giành lại độc lập từ quân Pháp.

Chiến tranh leo thang, việc huy động quân và cung cấp lương thực ngày càng khó khăn hơn. Đến thời điểm này, nguồn nhân lực từ nông thôn hầu như đã cạn và bộ máy Việt Minh ở những thành phố lớn hầu như đã bị phá vỡ và Đảng buộc phải sử dụng các phương pháp mạng mẽ hơn để bắt lao động và bắt lính ở nông thôn. Có tin không chính thức là một số nông dân phải chuyển đi sinh sống ở vùng khác để trốn nghĩa vụ. Trong những năm đầu của cuộc xung đột, những đóng góp bằng thóc của nông dân theo nguyên tắc tự nguyện, sau này chính quyền buộc phải đánh thuế nông nhiệp là 15% hoa màu thu hoạch được hàng năm.

Một trong những khó khăn để huy động giúp đỡ và ủng hộ của nhân dân vùng nông thôn là thái độ bàng quan của nhiều nông dân đối với cuộc đấu tranh bởi vì họ không thấy được ý nghĩa của cuộc đấu tranh này đối với họ. Vào cuối những năm 40 đã có những biện pháp giảm địa tô, lãi suất tiền vay và phân phối lại đất của những người cộng tác với Pháp cho dân nghèo, nhưng những biện pháp này có kết quả rất hạn chế. Do vậy, nhiều địa chủ cảm thấy hoàn toàn an tâm khi không chú ý gì đến chỉ thị của Việt Minh hoặc tiếp tục ủng hộ quân Pháp trong một số trường hợp ở ngay trong vùng do cách mạng kiểm soát.

Đến thời điểm Hội nghị toàn quốc lần thứ hai của Đảng đầu năm 1951, những khó khăn này trở nên nghiêm trọng, cần phải có hành động và Trung ương Đảng đã thông qua một số biện pháp sửa đổi nhỏ. Nhưng những biện pháp quyết định vẫn không thể có được vì Đảng cố thực hiện chiến lược tạo dựng một mặt trận đoàn kết rộng rãi nhất có thể được chống kẻ thù chung là đế quốc. Mặc dù phương pháp giải quyết này chính là của Hồ Chí Minh, ngay cả Trường Chinh trong báo cáo của mình tại Đại hội đã thừa nhận rằng nhiệm vụ trọng yếu hiện tại là phản đế. Mặc dù phản phong cũng là nhiệm vụ rất quan trọng và “phải được thực hiện đồng thời với nhiệm vụ phản đế”, ông nói, nhiệm vụ này phải được thực hiện “từng bước” nhằm duy trì đoàn kết dân tộc trong cuộc đấu tranh chung. Do vậy, chính phủ đã không thực hiện chính sách trưng thu và phân phối lại toàn bộ đất đai do giai cấp địa chủ sở hữu. Tuy vậy, đến năm 1952, một số lãnh đạo có ảnh hưởng của Đảng đã bắt đầu lập luận rằng cần có những biện pháp triệt để hơn nữa để giành được sự ủng hộ của người nghèo ở nông thôn.

Tháng 1 năm 1950, một chỉ thị mới được công bố. Dựa trên kinh nghiệm của Trung Quốc trong thời kỳ nội chiến ác liệt nhất, chỉ thị này thông báo giảm tô mạnh và trưng thu đất của địa chủ không hợp tác tích cực trong kháng chiến. Toà án cải cách ruộng đất gồm nông dân cấp tiến được thành lập ở cấp xã tiến hành điều tra sở hữu đất đai trong xã để có thể phân chia lại. Các buổi phê bình công khai tương tự như các buổi “ôn nghèo kể khổ” ở Trung Quốc đã được tổ chức trong các xã giải phóng, khuyến khích người nghèo chỉ trích thái độ độc tài của các phần tử giàu có trong cộng đồng. Có những tin cho rằng trong một số trường hợp, do cố vấn Trung Quốc hối thúc, các nhà hoạt động Việt Minh đã hành quyết ngay những người bị buộc tội là phạm “tội phản dân”. Như tác giả Dương Văn Mai mô tả trong cuốn sách đầy hấp dẫn về những điều đã xẩy ra đối với gia đình bà trong cuộc xung đột. Cán bộ cải cách ruộng đất bắt giam những địa chủ bị buộc là đàn áp dân ngèo. Và rồi:

“Họ xử địa chủ tại phiên toà không chính thức, được chuẩn bị cẩn thận để những phiên toà này thể hiện ý chí của nhân dân. Khoảng 10 nông dân nghèo từng chịu đau khổ nhất và căm thù địa chủ nhất được chọn và chuẩn bị sẵn từ trước để tố cáo địa chủ trước toà. Khi nông dân lần lượt tố cáo dịa chủ ở toà, các nông dân ngèo khác sẽ hô to: “địa chủ cút đi” để tăng bầu không khí thù địch. Nếu là án tử hình, địa chủ sẽ bị hành hình ngay tại chỗ. Nếu là án tù, họ sẽ bị chuyển đi nơi khác. Tài sản của địa chủ phạm tội bao gồm đất đai, nhà cửa, trâu bò kéo và công cụ bị trưng dụng và phân phối lại cho những nông dân thiếu thốn nhất”.

Các nhà lãnh đạo Đảng hy vọng rằng những biện pháp như vậy sẽ làm nông dân nghèo nhất phấn khởi và khuyến khích họ tham gia kháng chiến. Ngày 4 tháng 6 năm 1953, đài phát thanh của Việt Minh đã truyền đi một bức thư mà theo đài là của một phụ nữ nông dân gửi cho Hồ Chí Minh:

‘Trong thời gian bị Pháp đô hộ, tôi và con tôi không có cơm ăn và cũng chẳng có áo mặc. Con của tôi phải đi ở đợ và tôi phải mót khoai và tìm củ mài để sống qua ngày…Cuối năm 1952, nông dân bắt đầu đấu tranh chống địa chủ bất lương và sấu xa…Nhờ có Chủ tịch, chúng tôi mới có cuộc sống dễ chịu. Chúng tôi không bao giờ quyên ơn này”.

Với các phần tử cấp tiến thì những biện pháp này chưa đủ vì số nông dân không có ruộng đất ở vùng giải phóng dù đã giảm nhưng vẫn ở mức 15% dân số. Tại Hội Nghị Nông nghiệp toàn quốc tháng 11, Trường Chinh đề xuất phải có chính sách cứng rắn hơn và đệ trình dự án luật cải cách ruộng đất mới cho phép tịch thu ruộng đất và tài sản của toàn bộ giai cấp địa chủ.

Thái độ của Hồ Chí Minh với dự án luật này chưa bao giờ rõ ràng, mặc dù rất có thể là ông đã có lập luận chống lại chương trình cải cách ruộng đất được tiến hành chặt chẽ đến mức phân hoá các phần tử trung dung. Tuy nhiên, nhu cầu về nhân lực của cách mạng cuối cùng đã thắng thế. Trong một diễn văn đọc trước Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vài tuần sau Hội nghị Nông nghiệp toàn quốc, ông Hồ công nhận rằng các chính sách trước đó của chính phủ chú ý quá nhiều đến quan điểm của giai cấp địa chủ mà không chú ý đầy đủ đến mỗi quan tâm của nông dân. Tháng sau, luật cải cách ruộng đất mới quy định thực hiện việc giảm tô và trưng thu đất đai của toàn bộ giai cấp địa chủ. Địa chủ được xếp là tiến bộ về mặt chính trị sẽ được đền bù bằng công trái nhà nước, nhưng vẫn phải từ bỏ toàn bộ ruộng đất của mình ngoài phần cần thiết để sống. Địa chủ bị buộc tội là cường hào ác bá sẽ bị trừng trị. Mục tiêu của luật mới này không những chỉ nhằm giành được sự ủng hộ của nông dân mà còn phá bỏ quyền lực của giai cấp địa chủ ở nông thôn. Tuy chương trình cải cách ruộng đất quy định tiến hành cải huấn cho địa chủ không bị buộc tội là phản dân, trên thực tế những quy định này không được các cán bộ đầy tham vọng cấp xã chú ý đến. Lần đầu tiên kể từ cuộc nổi dậy Nghệ Tĩnh năm 1930-1931, Đảng đã quyết định mở cuộc đấu tranh giai cấp ở nông thôn.

Tháng 1 năm 1953, Ai-xen-hao trở thành Tổng thống thứ 34 của Hoa Kỳ. Trong khi tranh cử, ông đưa ra Cương lĩnh “đẩy lùi cộng sản” và lãnh đạo Đảng Cộng Hoà chỉ trích việc mất Trung Hoa và tình thế tiến thoái lưỡng nam ở Triều Tiên và coi đó là di sản của Tổng thống Dân chủ trước đó. Trong diễn văn tình hình liên bang đầu tháng 2, Ai-xen-hao hầu như chẳng đề cập đến Đông Dương, mà chỉ nói rằng cuộc chiến tranh Triều Tiên là “một phần của cuộc tấn có tính toán trước của kẻ địch ở Đông Dương và Ma-lai-xi-a và một phần của tình hình chiến lược rõ ràng bao gồm Đài Loan và lực lượng Quốc dân Đảng đang chiếm giữ tại đó”. Trong khi hội đàm với Thủ Tướng Pháp Rơ-nê May-ê tại Nhà Trắng cuối tháng 3. Tổng thống Mỹ mới cho biết rằng ông sẵn sàng tăng viện trợ cho quân Pháp với điều kiện là nếu quân Pháp chứng tỏ ý chí giải quyết vấn đề mạnh bạo hơn trong công cuộc tìm kiếm thắng lợi cuối cùng ở Đông Dương.

Tuy nhiên, Pháp từ lâu đã từ bỏ ý định này. Ngay từ đầu tháng 12 năm 1949, tướng Các-păng-chi-lê đã cảnh báo Tổng thống Vanh-xăng Ô-ri-ô là nhiều nhất thì Pháp cũng chỉ có thể đạt được một giải pháp chính trị. Việc quân Pháp rút khỏi vùng biên giới một năm sau đó thể hiện sự chấp nhận ngầm quan điểm bi quan của Các-păng-chi-ê. Việc cử tướng Đơ-Lát Đơ Tát-xi-nhi chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương cuối năm 1950 đã làm cho mọi người tin rằng quân Pháp có thể thắng cộng sản, việc tướng Tát-xi-nhi về nước và cử tướng Xa-lăng thay thế một năm sau đã làm cho các tướng lĩnh và các nhà chính trị Pháp chỉ còn thấy giải pháp chính trị mà thôi.

Để nhận viện trợ của Mỹ nhằm cải thiện vị thế của mình trước khi có giải pháp thương lượng, quân Pháp cần phải chứng minh rằng họ đã có cách giải quyết vấn đề mạnh hơn. Trách nhiệm thuyết phục Nhà trắng tăng viện trợ quân sự của Mỹ nay thuộc về chỉ huy mới của Pháp là tướng Hăng-ri Na-va. Là tổng tham mưu trưởng lực lượng NATO của Pháp tại châu Âu, Na-va hoàn toàn không phải là người Oa-sinh-tơn ưa để thay Xa-lăng vì ông có tiếng là thận trọng và thậm chí không quyết đoán. Sau khi được cử làm chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp, Na-va đã cố giảm bớt mối nghi ngờ về mình bằng cách đưa ra một chiến lược đầy tham vọng giành thế chủ động trong chiến trận Đông Dương.

Việc May-ê tỏ ra có vẻ có lập trường mạnh bạo đối với Đông Dương có kết quả rất hạn chế ở OA-sinh-tơn và Oa-sinh-tơn vẫn nghi ngờ ý định của Pháp. Đầu tháng 8 năm 1953, một bài báo của tạp chí Đời sống chỉ trích mạnh mẽ những nỗ lực của Pháp ở Đông Dương và khẳng định rằng Pháp “đã thua”. Tuy vậy, chính quyền mới ở Oa-sinh-tơn không có mấy lựa chọn nữa. Tham mưu trưởng liên quân đã đồng ý với kế hoạch Na-va và tháng 9 chính quyền Ai-xem-hao ký hiệp ước mới tăng viện trợ của Mỹ cho lực lượng viễn chinh Pháp. Tuy vậy, Pa-ri đánh giá tình hình không khả quan. Rơ-nê Pơ-lê-ven, Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, cảnh báo rằng kế hoạch Na-va là không thực tế và tháng 7 sứ quán Mỹ tại Pa-ri cho biết chính phủ Pháp đã không chấp nhận đề nghị của tướng Na-va chuyển từ châu Âu sang thêm 12 tiểu đoàn. Sự ủng hộ của dân chúng đối với cuộc chiến tranh giảm sút nhanh chóng và khi tin tức về hiệp định viện trợ được thông báo tại Pa-ri ngày 29 tháng 9, những người chỉ trích cuộc chiến tranh lại nói rằng máu của người Pháp đang được đổi lấy đô-la-Mỹ.

Kế hoạch Na-va dự kiến sẽ phát huy tác dụng vào mùa thu và mùa hè năm 1954. Trong thời gian này, quân Pháp sẽ thực hiện chính sách phòng ngự, đồng thời củng cố vị trí của mình ở đồng bằng sông Hồng và các khu vực trọng yếu khác ở Việt Nam. Một trong những khu vực trọng yếu này là ở vùng Tây Bắc xa xăm, khu vực bị các đơn vị Việt Minh chiếm giữ từ mùa thu năm 1952 làm bàn đạp tấn công Lào. Tháng 11 năm 1953 theo lệnh của Pa-ri phải bảo vệ thủ đô Luông pha bang của Lào khỏi sự đe doạ của địch, Na-va quyết định chiếm giữ cứ điểm Điện Biên Phủ, một huyện lỵ nhỏ trong thung lũng núi xa xăm gần biên giới với Lào và coi đó là cách làm gián đoạn liên kết giữa Trung và Bắc Lào của Vịêt Minh. Huyện lỵ này trước đây đã bị Việt Minh chiếm giữ trong chiến dịch Tây Bắc. Giờ đây , quân Pháp nhảy dù xuống để chiếm lại.

Trong khi tướng Na-va cố thực hiện giai đoạn đầu chiến lược của mình, các nhà chiến lược Việt Minh cũng vạch ra kế hoạch tác chiến cho chiến dịch năm 1953. Tại một cuộc họp Trung ương đầu năm , các nhà hoạch định chính sách của Đảng đã quyết định tránh đối đầu công khai với lực lượng thù địch trong tương lai gần đồng thời tìm điểm yếu trong lá chắn của địch, đặc biệt là ở Lào, Cam-pu-chi-a và vùng Tây Bắc. Chiến lược này không thay đổi trong cả năm, thậm chí ngay cả khi Na-va đã quyết định một cách rõ ràng là phải tập trung lực lượng ở đồng bằng sông Hồng để ngăn chặn mối đe doạ của Việt Minh đối với vùng phụ cận Hà Nội. Ông Võ Nguyên Giáp đề xuất tiến hành chiến dịch lớn ở đồng bằng với mục tiêu cuối cùng là đánh chiếm Hà Nội và Hải Phòng, những cố vấn Trung Quốc lại muốn có chiến lược thận trọng hơn tập trung vào vùng núi Tây Bắc. Hồ Chí Minh ủng hộ ý kiến của các cố vấn Trung Quốc và Bộ Chính trị đã chấp thuận ý kiến này vào tháng 9. Kế hoạch này dự kiến sẽ được khẳng định tại một cuộc họp của Quận uỷ Trung ương tháng 11.

Tin quân Pháp chiếm đóng Điện Biên Phủ đến tổng hành dinh của Việt Minh trong lúc các nhà chỉ huy quân sự đang chuẩn bị trình Quân uỷ Trung ương kế hoạch tấn công Pháp ở Lai Châu, vị trí quân sự biệt lập cách Điện Biên Phủ 50 cây số về hướng Bắc. Với các nhà lãnh đạo Việt Minh, nếu Việt Minh chiếm lại căn cứ này thì sẽ tác động tới tinh thần quân Pháp và chuẩn bị cho những bước tiếp theo trong những năm tới. Khu vực này cũng có những lợi thế chiến lược. Cách Hà Nội 320 cây số, quân Pháp sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp viện cho Điện Biên Phủ.

Mặt khác, đánh Điện Biên Phủ sẽ là lần đầu tiên Việt Minh tấn công trực diện một căn cứ được lực lượng Pháp bảo vệ vững chắc. Tuy vậy, Điện Biên Phủ nằm ở thung lũng, gần biên giới với Trung Quốc và tổng hành dinh Việt Minh ở Việt Bắc cho phép Việt Minh dễ dàng chuyển khối lượng lớn vật dụng từ Trung Quốc. Sau khi tính toán kỹ lưỡng các khả năng và được cố vấn Trung Quốc và cấp trên ở Bắc Kinh khuyến khích, ngày 6 tháng 12, lãnh đạo Đảng quyết định tập trung nỗ lực trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Trong năm đó , lãnh đạo Đảng bắt dầu bí mật chuyển ba sư đoàn chủ lực mới được thành lập ở vùng núi quanh Điện Biên Phủ trong khi các đơn vị khác tiến vào Bắc Lào để đánh lạc hướng và buộc quân Pháp phải dàn trải lực lượng của mình.

Tại sao các nhà lãnh đạo Trung Quốc lại đột nhiên quyết định kêu gọi khẩn thiết đồng minhViệt Minh tham gia vào cuộc đụng đầu lớn với quân Pháp? Nghĩ cho cùng quyết định tấn công Điện Biên Phủ sẽ buộc Trung Quốc phải tăng viện trợ cả về chất và lượng; điểm mấu chốt dẫn đến thành công sẽ là khả năng pháo cao xạ của Việt Minh có thể làm yếu đi hoặc ngăn được quân Pháp tiếp viện và cung ứng cho khu vực này khi chiến sự leo thang. Mặc dù Bắc Kinh đã viện trợ cho Việt Minh trong cuộc chiến suốt ba năm và thấy được điểm lợi là vừa hoàn thành nghĩa vụ quốc tế Trung Quốc và bảo vệ biên giới phía Nam chống lại sự kiểm soát của đế quốc, trong những tháng đó các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã bắt đầu suy nghĩ. Tháng 7, ngừng bắn đã có hiệu lực ở bán đảo Triều Tiên. Trung Quốc đã trả giá cao cho hành động can thiệp của Quân Giải phóng Nhân dân và đã có dấu hiệu chứng tỏ các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã quyết định tìm cách cải thiện quan hệ với phương Tây để giảm bớt nguy cơ xung đột trong tương lai và tạo điều kiện cho chính phủ chuyển những nguồn lực hiếm hoi cho kế hoạch 5 năm tới. Trong môi trường mới, cách nhìn nhận ngày tận thế của Mao Trạch Đông về chiến tranh với đế quốc tất yếu ở châu Á đã mất đi sức mạnh. Trong một cuộc phỏng vấn ngày 24 tháng 8, Thủ tướng và Bộ trưởng Ngoại giao Chu Ân Lai tuyên bố rằng “các vấn đề khác” có thể được bàn đến tại Hội nghị hoà bình nhằm chấm dứt cuộc xung đột ở Triều Tiên. Tháng 12, ông thảo luận với các thành viên của một phái đoàn Ấn Độ về ý tưởng có một thoả thuận chung dựa trên những điều mà sau này trở thành “năm nguyên tắc chung sống hoà bình” giữa các quốc gia. Oa-sinh-tơn đã đáp lại một cách tế nhị khi Bộ trưởng Ngoại giao Đa-lét, trong một diễn văn cho đội quân lê dương Mỹ đầu tháng chín, đã gián tiếp nói rằng “Hoà Kỳ sẵn sàng xem xét một thoả thuận đàm phán để chấm dứt xung đột ở Đông Dương”.

Mát-xcơ-va cũng ngày càng quan tâm nhiều tới việc chấm dứt xung đột ở Đông Dương. Thủ tướng Liên Xô mới, ông Gioóc-gi Ma-len-cốp, đã trở thành nhân vật trên chính trường sau khi Giô-dép Xta-lin chết tháng ba. Ông có lý do phải có quan hệ tốt với phương Tây, kể cả việc phải giảm bớt ngân sách quốc phòng đã phình to để tập trung nguồn vốn hiếm hoi vào các dự án kinh tế. Cuối tháng 9, Liên Xô đề nghị họp hội nghị năm nước lớn nhằm giảm bớt tình hình căng thẳng quốc tế. Một vài ngày sau, Trung Quốc cũng làm như vây.

Quân Pháp chiếm Điện Biên Phủ đúng lúc các nhà lãnh đạo Trung Quốc (giống các nhà lãnh đạo Liên Xô) quyết định mở cuộc tấn công hoà bình nhằm đưa lại giải pháp đàm phán ở Đông Dương. Thắng lợi của Việt Minh ở Điện Biên Phủ có thể sẽ làm tình hình trong khu vực căng thẳng thêm khiến Hoa Kỳ can thiệp trực tiếp. Mặt khác, điều này có thể làm tăng thêm phong trào chống chiến tranh ở Pháp và tạo điều kiện cho một hiệp định hoà bình có lợi cho Việt Minh và Trung Quốc. Với Bắc Kinh, họ sẵn sàng chấp nhận nước cờ rủi ro này.

Trong khi Hồ Chí Minh và các cộng sự của ông chắc hẳn đã biết ơn Trung Quốc vì đã tăng cường giúp đỡ chiến dịch Tây Bắc, trước một loạt biểu hiện mong muốn có đàm phán hoà bình của các nước trên thế giới, Tổng hành dinh Việt Minh chắc đã có phản ứng thận trọng. Trong những tháng đầu của cuộc chiến khi Việt Minh rõ ràng yếu hơn kẻ thù của mình, ông Hồ đã bằng mọi cách cố gắng đạt được một giải pháp thoả hiệp. Điều kiện trên mặt trận ngày càng được cải thiện và Pháp rõ ràng không còn tìm kiếm một thắng lợi hoàn toàn thì rất có thể các nhà lãnh đạo Việt Minh cũng không mặn mà gì nữa với một thoả hiệp. Trong khi nói chuyện với ông Lê-ô Phi-ghe-rơ của Đảng Cộng sản Pháp tháng 3 năm 1950, ông Hồ nhấn mạnh rằng tuy vẫn muốn có một giải pháp thông qua thương lượng nhưng các nhà lãnh đạo Đảng không muốn có thoả hiệp lớn. Ông Trường Chinh thậm chí còn có thái độ thù địch hơn. Trong diễn văn kỷ niệm sáu năm ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tháng 9 năm 1951, ông Trường Chinh cảnh báo rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ không bị dụ dỗ vào bàn đàm phán và nhất mực cho rằng cần phải “xoá bỏ mọi ảo tưởng của những kẻ cơ hội về đàm phán hoà bình với kẻ thù”. Khi Pa-ri có những bước thăm dò về một giải pháp thoả hiệp cuối năm 1952, Việt Nam Dân chủ Cộng hóa đã không để ý tới. Đến tháng 9 năm 1953, Hãng thông tấn (TASS) của Liên Xô đã đưa tin rằng trong diễn văn kỷ niệm lần thứ 8 ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh đã tuyên bố rằng chỉ có thắng lợi trên chiến trường mới đem lại hoà bình.

Tuy nhiên, vài tuần sau các nhà lãnh đạo Đảng Việt Nam quyết định theo đề nghị của Mát-xcơ-va và Bắc Kinh là tìm một giải pháp chính trị. Trong một bài phỏng vấn ngày 20 tháng 10 với phóng viên tờ Expesse của Thuỵ Điển, ông Hồ tuyên bố rằng chính phủ sẵn sàng tham dự hội nghị quốc tế nhằm tìm giải pháp hoà bình cho Đông Dương. Ông Hồ nói “Nếu chính phủ Pháp mong muốn đình chiến và giải quyết vấn đề Việt Nam thông qua thương lượng, thì nhân dân và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẵn sàng xem xét đề nghị của Pháp”. Cuộc phỏng vấn này được báo chí thế giới đưa tin nhiều lần. Ít lâu sau, Bắc Kinh công khai bày tỏ sự dồng ý trong một xã luận của báo Nhân dân Nhật báo. Theo một nguồn ngoại giao Mỹ ở Sài Gòn, đề nghị tiến hành đàm phán hoà bình của ông Hồ đã gây ra một sự “khó hiểu, kinh ngạc và sợ hãi” trong những người Việt không cộng sản ở Sài Gòn.

Là người có đầu óc thực tế, Hồ Chí Minh biết rằng một giải pháp thông qua thương lượng là một khả năng tiến tới chấm rứt chiến tranh. Việc Hoa Kỳ tháng 7 năm 1953 quyết định tìm cách chấm dứt xung đột ở Triều Tiên là dấu hiệu an ủi cho thấy rằng đế quốc sẵn sàng nhượng bộ khi gặp phải khó khăn, tin tức này đã làm Việt Minh hy vong rằng Đông Dương có thể có một kết cục tương tự. Nhưng trong một bài diễn văn đọc trước một nhóm trí thức ở Việt Bắc sau đó vài tuần, ông Hồ lại cảnh báo rằng không nên có ảo tưởng là hoà bình sẽ đến một cách dễ dàng. Cũng như người Mỹ, người Pháp không sẵn sàng có nhượng bộ lớn trên bàn đàm phán trừ khi thua trên chiến trường. Ông cảnh báo rằng quân địch “đang bẫy chúng ta bằng mồi, nếu chúng ta vội vã như đàn cá và quên phải cảnh giác để tự vệ, chúng sẽ đánh bại”. Do vậy, điều quan trọng là phải cảnh giác và tiếp tục đấu tranh, thậm chí ngay cả khi Mỹ quyết định tham gia xung đột.

Trong tình hình như vậy, thậm chí ngay cả khi ông tỏ ý sẵn sàng tham gia hoà đàm, ông Hồ chắc phải có chút nghi ngờ vì điều kiện cho thắng lợi chưa hoàn toàn chín muồi như ông đã nêu với cộng sự của mình trong cuộc gặp tháng 11. Đồng thời, thái độ của Liên Xô và Trung Quốc là đáng lo ngại. Ủng hộ của Liên Xô đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam là cầm chừng, và do vậy không hy vọng gì nhiều từ Mát-xcơ-va. Nhưng sự ủng hộ vững chắc của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa là một phần trọng yếu trong chiến lược của Việt Minh, do vậy bất kỳ dấu hiệu nào chứng tỏ Bắc Kinh sẵn sàng thoả hiệp vấn đề này vì lợi ích dân tộc của họ chắc sẽ làm ông Hồ và cộng sự của ông ở Việt Bắc càng lo lắng hơn.

Mặt khác, Hồ Chí Minh biết rằng Việt Minh không thể tiếp tục đấu tranh lâu dài nếu không có sự hỗ trợ hoàn toàn của Trung Quốc. Đây không phải là lần đầu ông Hồ chấp nhận phải nhượng bộ để tiếp tục chiến đấu. Về phần mình, Mát-xcơ-va và Bắc Kinh hầu như chẳng cần sự đồng ý của Hà Nội để bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia của mình. Tại một Hội nghị tổ chức đầu năm 1954 ở Béc-lin, đại biểu các nước lớn thoả thuận rằng một hội nghị quốc tế khác sẽ được tổ chức tại Giơ-ne-vơ tháng 4 để thảo luận các vấn đề liên quan đến hoà bình thế giới. Tuy chính quyền Ai-xen-hao khó chịu, Đông Dương và tình hình ở Triều Tiên đều nằm trong đề mục thảo luận. Tháng ba, một phái đoàn Việt Nam đến Bắc Kinh tham khảo ý kiến các quan chức Trung Quốc và xây dựng một chiến lược chung tại Giơ-ne-vơ. Ít lâu sau, một phái đoàn Việt Nam do Hồ Chí Minh dẫn đầu đi Bắc Kinh và Mát-xcơ-va để hoạch định chiến lược đàm phán chung với các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Liên Xô. Dựa trên kinh nghiệm đàm phán với Mỹ nhằm chấm dứt xung đột ở Triều Tiên, Trung Quốc và Liên Xô khuyên Việt Nam phải có mục tiêu “thực tế” tại Hội nghị Giơ-ne-vơ.

Hai ngày sau khi Hội nghị Giơ-ne-vơ được công bố triệu tập, nguồn tin tình báo Pháp cho hay đơn vị Việt Minh ở thượng Lào đã chuyển quân theo hướng đông về Điện Biên Phủ. Mặc dù hoạt động của Việt Minh còn được tiến hành ở nhiều nơi khác như Bắc Bộ, Tây Nguyên, Lào và hành lang Hà Nội-Hải Phòng-vào đầu tháng 3, tài liệu do Pháp bắt được cho thấy rằng Việt Minh đang chuẩn bị tấn công lớn ở vùng Tây Bắc và cuộc tấn công này sẽ phối hợp với cuộc đàm phán sắp tới tại Giơ-ne-vơ. Có thêm những dấu hiệu chứng tỏ viện trợ quân sự của Trung Quốc cho Việt Minh đã tăng nhiều, tăng khả năng Việt Minh thắng trận.

Lần nay, nguồn tin tình báo của Pháp đã đúng. Bắt đầu từ tháng 12, các đơn vị Việt Minh đã dần tập trung ở vùng núi bao quanh căn cứ của Pháp tại Điện Biên Phủ, trong khi hàng ngàn dân công được huy động để chuyển đạn dược và pháo cao xạ từ biên giới Trung Quốc đến khu vực này. Một người tham gia đã kể lại cho một nhà báo Mỹ:

“Chúng tôi phải vượt núi, băng rừng, ban đêm thì hành quân còn ban ngày thì ngủ để tránh bom của kẻ thù. Có lúc chung tôi ngủ hầm, có lúc chúng tôi ngủ ngay cạnh đường. Mỗi chúng tôi đeo súng, đạn và ba-lô. Chúng tôi có chăn, màn và một bộ quần áo. Mỗi người đều có đủ gạo ăn một tuần và được nhận thêm tại các trạm dọc đường. Chúng tôi ăn rau và măng lấy trong rừng và thỉnh thoảng dân làng lại cho chúng tôi thịt. Tôi đã tham gia Việt Minh chín năm rồi nên quen như vậy”.

Để mang lại điều thuận lợi cần thiết trên chiến trường nhằm đạt được một giải pháp hoà bình tại bàn hội nghị, trong vài tháng liền Trung Quốc tăng viện trợ quân sự. Theo một nguồn tin của Trung Quốc, hơn 2.00 xe tải, 10.000 thùng dầu, hơn 100 súng ca-nông, 60.000 đạn cao xạ, 3.000 súng và khoảng 1.700 tấn ngũ cốc đã được chuyển cho quân đội Việt Nam cố thủ quanh Điện Biên Phủ. Để khuyến khích cố vấn Trung Quốc ở Việt Nam cố đạt được thắng lợi quân sự, Chu Ân Lai Gửi thông điệp sau: “ Nhằm giành thắng lợi trong lĩnh vực ngoại giao, chúng ta có thể cần phải tính đến việc giành thắng lợi mạnh ở Việt Nam trước đình chiến ở Triều Tiên”. Hồ Chí Minh hiểu rõ điều này. Trong một bức thư gửi ông Giáp tháng 12, ông viết: “Chiến dịch này rất quan trọng, không chỉ về mặt quân sự mà còn về mặt chính trị, không chỉ vì lý do trong nước mà còn vì lý do quốc tế nữa. Do vậy, toàn thể nhân dân ta, toàn thể lực lượng vũ trang ta và toàn thể Đảng ta phải đoàn kết để thực hiện việc này.”

Với ông Hồ và các cộng sự của ông, vấn đề không còn là liệu có tấn công cứ điểm quân Pháp hay không mà làm thế nào mà tấn công được. Ông Võ Nguyên Giáp vốn thận trọng ủng hộ kế hoạch làm suy yếu quân địch, sử dụng pháo binh bắn phá sân bay nhỏ ở thung lũng Điện Biên Phủ và cắt đường tiếp tế của quân Pháp. Quân Việt Minh sau đó có thể dần vô hiệu hoá hỏa lực của quân Pháp và chiếm từng cứ điểm bên ngoài căn cứ. Theo các nguồn tin Việt Nam, tướng Hoa Quốc Thanh, cố vấn cao cấp của trung Quốc, đã ủng hộ cách giải quyết khác, tiến hành cuộc tấn công thần tốc dựa trên chiến thuật “biển người” đã được các đơn vị giải phóng sử dụng rất có hiệu quả chống lại quân của Liên hợp quốc tại Triều Tiên.

Cuộc tấn công đầu tiên của Việt Minh vào Điện Biên Phủ bắt đầu vào giữa tháng một. Việt Minh đã tập trung 23 tiểu đoàn chính quy bao gồm 50.000 quân ở vùng núi quanh cứ điểm. Số quân này đối chọi với kẻ địch gồm 16.000 quân. Ngoài lực lượng chính quy, Việt Minh có hơn 55.000 quân hỗ trợ và khoảng 100.000 dân công. Nhiều dân công là phụ nữ ở các tỉnh miền trung đã phải đi qua khu vực địch chiếm ở đồng bằng sông Hồng để đến được khu tập kết dọc biên giới Trung Quốc. “Đội quân tóc dài” này mang vác pháo và phương tiện chiến tranh khác hàng trăm dặm đường địa hình khó khăn đến khu vực căn cứ. Mỗi dân công chuyển trung bình 15 cân hàng qua 16 cây số đường rừng mỗi đêm. Tuy hầu hết hàng cung cấp là xăng dầu và đạn dược, nhưng cũng còn có những khẩu pháo lớn của Liên Xô được chuyển từng bộ phận từ biên giới Trung Quốc ở Lạng Sơn, cách hơn 300 cây số.

Trong giai đoạn đầu, những người tấn công đã theo lời khuyên của Trung Quốc sử dụng chiến thuật “biển người”, nhưng tổn nặng nề đến mức cuối tháng một, Bộ Tư lệnh Việt Nam (theo kêu gọi khẩn thiết của Bắc Kinh) đã đánh giá lại tình hình và quyết định chuyển sang cách đánh thận trọng hơn. Trong vài tuần sau đó, quân Việt Minh đào mấy trăm cây số giao thông hào để tiến vào hệ thống phòng thủ bên ngoài của Pháp mà không bị hoả lực của Pháp khống chế. Đồng thời quân Việt Minh cũng đào một loạt đường hầm quanh cứ điểm đã bị bao vây. Pháo được dân công chuyển từ biên giới Trung Quốc từng phần đến đã được lắp ráp lại tại chỗ và đặt bên trong đường hầm; pháo có thể di động nhanh giữa các địa điểm khác nhau, ngăn không cho quân Pháp dưới cứ điểm phát hiện chính xác điểm bắn.

Lúc đầu, hàng tiếp tế và quân tiếp cận đến bằng đường không, nhưng rồi sân bay bên ngoài căn cứ không thể sử dụng được nữa vì bị bắn phá rất ác liệt. Máy bay hạ cánh để dỡ đồ tiếp tế hầu như bị pháo của Việt Minh từ núi bao quanh cứ điểm bắn phá. Ít lâu sau, phi công Pháp buộc phải bay vội qua thung lũng và thả dù tiếp tế và tiếp viện. Cuối cùng hoả lực của Việt Minh mạnh đến mức quân tiếp viện nhảy dù xuống thường chết trước khi xuống được đến đất.

Tình hình càng nguy hiểm, quân Pháp càng khẩn thiết cầu cứu viện trợ của Mỹ. Vào giữa tháng 3, Pa-ri cử tướng Pôn Ê-ly đến Oa-sinh-tơn yêu cầu Mỹ tiến hành không kích để giảm căng thẳng cho cứ điểm của Pháp và bảo vệ cho cứ điểm này khỏi nguy cơ sụp đổ. Đề nghị này được đô đốc A-thơ-Rét-pho, Chủ tịch Tham mưu trưởng liên quân và Phó Tổng thống Nich-xơn ủng hộ. Trong một cuộc nói chuyện với Đại sứ Pháp Hăng-ri Bô-nê ngày 28 tháng 4, Ních-xơn tuyên bố “ông hoàn toàn nhất trí với quan điểm của Đô đốc Rét-pho và ủng hộ máy bay Mỹ can thiệp ồ ạt để cứu Điện Biên Phủ”. Nhưng Tổng thống Ai-xen-hao, do ý nguyện tham gia cuộc chiến trên bộ ở châu Á của ông đã giảm vì kết cục không dứt khoát của hành động can thiệp tại bán đảo Triều Tiên, lại chần chừ không muốn đưa quân vào Đông Dương nếu không bảo đảm rằng cuộc chiến đấu sẽ được thực hiện trên cơ sở đa phương và với điều kiện là Pháp phải hứa sẽ trao quyền độc lập hoàn toàn cho ba nước Đông Dương. Trong chuyến đi Luân Đôn, Pa-ri, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Đa-lét phát hiện ra rằng cả Anh lẫn Pháp đều không đồng ý với điều kiện của Mỹ; Ai-xen-hao sau đó đã không chấp nhận yêu cầu của Pháp cung cấp yểm trợ bằng máy bay tuy vẫn thăm dò khả năng Mỹ can thiệp. Ai-xem-hao cũng chần chừ không muốn có một giải pháp thoả đáng trên bàn hội nghị.

Đầu tháng 5, Việt Minh thâm nhập vào tuyến phòng thủ bên ngoài của cứ điểm Điện Biên Phủ và bắt đầu bắn pháo vào các điểm bên trong. Theo nguồn tin của Trung Quốc, cuối cùng lòng tin của các nhà hoạch định kế hoạch chiến tranh của Việt Minh bị nao núng vì tổn thất lớn và mối đe doạ can thiệp của Mỹ. Với sự cổ vũ mạnh mẽ của Bắc Kinh, Việt Minh cuối cùng quyết định tấn công toàn bộ cứ điểm giành thắng lợi. Cuộc tấn công diễn ra ngày 6 tháng 5. Ông Võ Nguyên Giáp đã miêu tả một cách ngắn gọn là “bộ đội tấn công từ mọi phía, chiếm tổng hành dinh của địch và bắt sống toàn Bộ tham mưu” Quân Pháp thất bại hoàn toàn. Hơn 1.500 quân lính Pháp bị chết, 4.000 bị thương và số còn lại bị bắt làm tù binh hay mất tích. Khoảng 70 quân Pháp thoát trở về phòng tuyến của mình. Tổn thất của Việt Minh lớn hơn nhiều, 25.000 bị chết và bị thương, trong đó có 10.000 bị chết.

Ngày 7 tháng 5, một ngày sau khi quân Pháp đầu hàng tại Điện Biên Phủ, đàm phán hoà bình để giải quyết cuộc xung đột Đông Dương bắt đầu như đã định tại Giơ-ne-vơ. Tham dự hội nghị có đoàn đại biểu của Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Anh, Liên Xô, Trung Quốc và Hoa Kỳ cũng như đại diện chính phủ Bảo Đại, đại diện của chính phủ hoàng gia Cam-pu-chi-a và Lào, bấy giờ gọi là nước liên hiệp. Các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, thể hiện cảnh báo trước đây của Hồ Chí Minh cho rằng thắng lợi sẽ không dễ dàng, đến Hội nghị với thái độ thận trọng tuy nhiên họ cảm thấy rằng đó là cơ hội có những bước tiến quan trọng trong cuộc đấu tranh để hoàn toàn thống nhất đất nước.

Tại phiên khai mạc Hội nghị, phái đoàn Pháp đã nêu điều kiện cho một giải pháp, kêu gọi cả hai bên tập kết quân dưới sự giám sát của Uỷ ban Kiểm soát quốc tế. Ông Phạm Văn Đồng, đứng đầu đoàn đàm phán của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (cũng như tại Hội nghị Phông-ten-nơ-bơ-lô năm 1946) chấp nhận đề nghị của Pháp cần có ngừng bắn trước khi có giải pháp về các vấn đề chính trị, nhưng trong tất cả các lĩnh vực khác, điều kiện (do Bộ Chính trị soạn thảo) của ông khác hẳn với đề nghị của Pháp. Ông đòi quốc tế công nhận chủ quyền và độc lập hoàn toàn của ba nước Đông Dương, rút hết quân đội nước ngoài và tổ chức tuyển cử tự do dưới sự giám sát của chính quyền địa phương. Ngoài ra, ông còn yêu cầu đại diện của phong trào cách mạng Lào và Cam-pu-chi-a (mọi người vẫn gọi là Pa-thet Lào và Khơ-me đỏ) được dự Hội nghị với tư cách là đại diện của nhân dân hai nước này. Ông Đồng đã đồng ý xem xét khả năng gia nhập Liên hiệp Pháp dựa trên cơ sở tự nguyện và công nhận quyền lợi kinh tế và văn hoá của Pháp tại ba nước Đông Dương.

Pa-ri không còn khả năng mặc cả được gì. Các nguồn tin tình báo Pháp công khai dự đoán rằng Hà Nội có thể thất thủ nếu Việt Minh tấn công mạnh. Oa-sinh-tơn cũng có quan điểm bi quan như vậy. Tại một buổi thông báo tình hình của Hội nghị an ninh quốc gia ngày 8 tháng 5, giám đốc CIA A-len Đun dự rằng với 5.000 chiếc xe tải, quân Việt Minh có thể di chuyển dễ dàng từ Điện Biên Phủ đến đồng bằng Bắc Bộ trong vòng từ hai đến ba tuần. Mặc dù lực lượng vũ trang của Pháp ở đồng bằng là 200.000 quân so với 76.000 quân chủ lực của Việt Minh, hầu hết quân Pháp có tinh thần suy sụp và nằm bẹp trong đồn xung quanh toàn là dân cư thù địch hoặc không quan tâm gì. Còn quân đội quốc gia Việt Nam do chính phủ Bảo Đại thành lập sau khi ký Hiệp ước Ê-li-dê, như tướng Na-va gọi họlà “lũ ô hợp”.

Tuy nhiên, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gặp khó khăn nghiêm trọng tại Hội nghị. Mặc dù đại diện Việt Minh đã gặp đại diện của Trung Quốc và Liên Xô trước Hội nghị để soạn thảo chiến lược đàm phán chung, điều rõ ràng là cả Mát-xcơ-va và Bắc Kinh đều không muốn ủng hộ Việt Minh tiếp tục cuộc chiến, và họ cũng chẳng sẵn sàng đáp ứng hoàn toàn mọi yêu cầu của Việt Minh. Cả hai đều chú ý đến lợi ích an ninh của chính mình tại Giơ-ne-vơ và đều mong tránh phải đụng đầu với Hoa Kỳ. Sau khi các cuộc tranh cãi ban đầu lắng đi, rõ ràng cả Ngoại trưởng Liên Xô, ông Vi-a-chê-láp Mô-lô-tốp và trưởng phái đoàn Trung Quốc tại Hội nghị, ông Chu Ân Lai đều mong có thoả hiệp dựa trên việc chia cắt Việt Nam thanh hai khu vực tập kết, một do Việt Minh chiếm giữ và một do chính phủ Bảo Đại và những người ủng hộ chính phủ này chiếm giữ. Hơn nữa, sau thời gian đầu ủng hộ quan điểm của Việt Minh về Cam-pu-chi-a và Lào, Ngoại trưởng Chu Ân Lai nói rõ với ông Phạm Văn Đồng là Trung Quốc không ủng hộ yêu cầu của Việt Nam dân chủ Cộng hoà đòi Pa-thét Lào và Khơ-me đỏ tham gia Hội nghị như là đại diện chân chính của nhân dân Lào và Căm pu chia. Ông Chu Ân Lai còn cảnh báo vấn đề này sẽ gây nguy cơ đối với quá trình đạt đến giải pháp và dẫn đến can thiệp trực tiếp của Mỹ vào cuộc chiến. Ông tin rằng tốt hơn là chấp nhận trung lập hóa hai quốc gia này với chính phủ hoàng gia hiện hành. Để khuyến khích Việt Nam Dân chủ cộng hòa chấp nhận, ông Chu Ân Lai đồng ý kiên quyết lập trường phải cho lực lượng Pa – thét Lào có một khu vực tập kết sau khi xung đột kết thúc. Ông Phạm Văn Đồng rõ ràng là đã lưỡng lự do [?] đồng ý.

Nhiều năm sau các nguồn chính thức của Việt Nam lại cho rằng cách Chu Ân Lai cư xử tại Hội nghị Giơ-ne-vơ là do Trung Quốc muốn kéo Lào và Cam-pu-chi-a vào khu vực ảnh hưởng của mình. Mặc dù hầu như không có bằng chứng gì chứng tỏ điều này là đúng, rất có thể Bắc Kinh đã coi hai nước này có tầm quan trọng thiết yếu đối với an ninh của mình ở khu vực và do vậy không muốn có một Liên bang Đông Dương. Tuy nhiên, tại thời điểm đó, lý do chính là ngăn không cho đàm phán hoà bình sụp đổ loại bỏ khả năng Mỹ thiết lập căn cứ ở hai nước. Chắc chắn vì những lý do này mà ông Chu Ân Lai đã khẩn thiết kêu gọi ông Đồng chấp nhận thoả hiệp, một quan điểm mà phái đoàn Liên Xô ủng hộ mạnh mẽ.

Giải quyết xong vấn đề Lào và Cam-pu-chi-a, Hội nghị tạm nghỉ. Trong khi đó đoàn đại biểu Pháp và Việt Nam Dân chủ cộng hoà bắt đầu chú ý đến chi tiết của giải pháp ở Việt Nam. Trong hội đàm riêng về quân sự với Pháp, đại biểu Việt Minh nói rõ ràng họ muốn có một khu vực lãnh thổ liền kề nhau làm khu vực tập kết quân và những người theo họ bao gồm đồng bằng sông Hồng, kể cả Hà Nội và Hải Phòng. (Một nhà đàm phán cao cấp của Việt Minh nói: “ Chúng tôi phải được Hà Nội, chúng tôi phải có đường thoát”). Quân Pháp không muốn mất Hà Nội, nhưng lại nói một cách dán tiếp rằng họ muốn được rảnh tay ở phía Nam và ít nhất là một khu vực riêng ở phía Bắc để chuyển quân và dân ra khỏi vùng đồng bằng.

Do vậy, cuộc tranh luận tập trung vào đường phân chia hai khu vực tập kết và việc thực hiện những thảo thuận chung. Lúc đầu, ông Phạm Văn Đồng đòi đường phân chia phải ở vĩ tuyến 13 trong khi Pháp muốn đường này ở ngay phía Nam đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc. Để giám sát Hiệp định, đại biểu của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà muốn trong nước giám sát nhưng Pháp (với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ) yêu cầu phải thành lập Uỷ ban Giám sát quốc tế dưới sự bảo trợ của Liên hợp quốc.

Trong khi hai phái đoàn Pháp và Việt Nam tranh cãi về chi tiết, Chu Ân Lai về Bắc Kinh tham khảo ý kiến của Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo chính phủ khác. Trên đường về, ông dừng chân tại Ấn Độ, ông yêu cầu Thủ tướng Gia-oa-hắc-la Nê-ru ủng hộ lập trường của Trung Quốc tại bàn Hội nghị. Để giảm bớt lo lắng của Nê-ru về khả năng toàn bộ Đông Dương sẽ sớm rơi vào tay Cộng Sản (và do vậy rơi vào sự kiểm soát của Trung Quốc), Chu Ân Lai hứa rằng toàn bộ quân Việt Minh sẽ rút khỏi Lào và Cam-pu-chi-a, và hai nước này sẽ có chính phủ độc lập do họ tự chọn. Về tình hình Việt Nam, ông bảo đảm với các nhà lãnh đạo Ấn Độ rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tôn trọng bất kỳ thoả thuận nào chia cắt Việt Nam thành hai miền, ông tuyên bố thêm rằng chủ nghĩa xã hội không phải để “xuất khẩu”. Trong một thông báo đưa ra sau một loạt các cuộc gặp gỡ, hai nhà lãnh đạo đã khẳng định ủng hộ khái niệm năm nguyên tắc chung sống hoà bình và coi năm nguyên tắc này là cơ sở thích hợp cho quan hệ quốc tế ở châu Á và thế giới.

Dừng chân ngắn ở Răng-gun, ông đã thảo luận với Thủ tướng Miến Điện, ông U Nu. Sau đó ông Chu Ân Lai về Bắc Kinh và đi thẳng đến Lôi Châu, nơi đã từng là đại bản doanh của Trương Phát Khuê ở Nam Trung Quốc. Ở Lôi Châu, ông gặp Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp. Cuộc gặp này không được mấy ai chú ý. Một tuyên bố báo chí sauđó của Tân Hoa Xã chỉ nói rằng “Thủ tướng Chu Ân Lai và Chủ tich Hồ Chí Minh đã trao đổi toàn bộ ý kiến về Hội nghị Giơ-ne-vơ, vấn đề khôi phục hoà bình ở Đông Dương và các vấn đề có liên quan”. Tuy nhiên, một nguồn tin Trung Quốc gần đây cho biết ông Chu đã thuyết phục được ông Hồ thấy sự cần thiết phải có một giải pháp thoả hiệp ở Giơ-ne-vơ để tránh can thiệp trực tiếp của Mỹ vào cuộc chiến. Hai vị lãnh tụ đã thoả thuận chấp nhận vĩ tuyến 16 làm đường phân giới giữa hai khu tập kết. Hai vị lãnh tụ cũng thoả thuận chấp nhận việc thành lập chính phủ không cộng sản ở Lào và Cam-pu-chi-a, với điều kiện Pa-thét Lào cũng có một khu vực tập kết nhỏ. Ông Hồ cũng đồng ý đưa ra tuyên bố chung nói rằng ba nước Đông Dương sẽ tuân thủ năm nguyên tắc cùng chung sống hoà bình. Để đổi lại, Chu Ân Lai hứa Trung Quốc sẽ tiếp tục ủng hộ và viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong những hiệp định viện trợ ký tại Bắc Kinh ngày 7 tháng 7, Trung Quốc cam kết tăng thêm viện trợ thương mại và kinh tế. Những nguồn tin chính thức ở Việt Nam chỉ đưa tin cụt lủn về kết quả cuộc gặp. Báo Nhân dân của Đảng ghi nhận một cách không rõ ràng rằng “việc khôi phục hoà bình ở Đông Dương không thể chỉ do một bên quyết định”

Sau những cuộc tham khảo ý kiến ngắn ở Bắc Kinh, Chu Ân Lai trở lại Giơ-ne-vơ trong khi các đại biểu đang giải quyết nốt những vẫn đề tồn đọng, hiệp định đã được ký kết ngày 21 tháng 07 năm 1954. Một Uỷ ban Quốc tế sẽ giám sát Hiệp định. Uỷ ban này bao gồm Ấn Độ, Ca-na-da và Ba Lan. Một tuyên bố chính trị không mang tính ràng buộc kêu gọi chính quyền ở hai khu vực tập kết tiến hành hiệp thương và tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước hai năm sau. Điểm khó khăn cuối cùng là thảo thuận thiết lập đường phân giới giữa hai khu vực tập kết tại vĩ tuyến 17. Khi Phạm Văn Đồng có vẻ chần chừ không chấp nhận nhượng bộ, ông Chu lập luận rằng cho phép Thủ tướng Pháp, ông Pi-e Men-đéc-xơ Phơ-ran-xơ, giữ thể diện của mình là giá nhỏ phải trả cho việc quân Pháp tút. Ông Chu còn nói “Khi quân Pháp rút hoàn toàn, toàn bộ Việt Nam là của các bạn”

Tuy nhiên, theo quan điểm của Hồ Chí Minh và các cộng sự của ông thì có những tiến triển bất lợi ngay sau khi Hội nghị kết thúc. Chính quyền Ai-xen-hao đã lo ngại theo dõi đàm phán tại Giơ-ne-vơ và quyết định không chấp nhận các điều kiện của Hiệp định trừ khi ít nhất một phần của Việt Nam vẫn an toàn. Vì điều khoản về thống nhất hoàn toàn đất nước thông qua tuyển cử tổ chức năm 1956 mở ra khả năng cộng sản thắng lợi hoàn toàn, Oa-sinh-tơn cho thấy là sẽ không đồng tình với tuyên bố chính trị và sẽ không cam kết ủng hộ Hiệp định Giơ-ne-vơ. Phái đoàn của Bảo Đại cũng làm như vậy và không chịu chấp thuận tuyên bố chính trị, lập luận rằng quyết định chia cắt đất nước là của một nước lớn thuộc địa chứ không phải là nguyện vọng của nhân dân. Một vài ngày sau khi hội nghị kết thúc, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Đa-lét thông báo tại một cuộc họp báo rằng Mỹ sẽ gây dựng sự phát triển của một nhà nước không cộng sản ở Nam Việt Nam, Lào và Cam-pu-chi-a. Tuyên bố này tuyệt nhiên không hề là dấu hiệu tốt lành cho cuộc tổng tuyển cử trong tương lai.

Nhiều nhà quan sát tại hội nghị đã nhận thấy thái độ cay cú của phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trước việc Trung Quốc và Liên Xô phản bội lợi ích của mình. Nhớ lại điều này, Vương Bình Nam, một nhà ngoại giao Trung Quốc sau này nói rằng một số đại biểu “hy vọng sẽ thống nhất Việt Nam được ngay”.

Thái độ cay cú này rõ ràng không chỉ là thái độ của đoàn đại biểu Việt Nam mà còn thể hiện ở trong nước Việt Nam. Tình hình này rõ ràng nghiêm trọng đến mức Hồ Chí Minh cũng bắt đầu chú ý. Trong báo cáo chính trị cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam vài ngày trước khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, ông Hồ viết:

“Mốt số người say sưa với thắng lợi liên tục của chúng ta, muốn tiếp tục chiến đấu đến cùng với bất kỳ giá nào; họ chỉ thấy cây mà không thấy rừng; tập trung vào việc quân Pháp rút, họ không thấy âm mưu của chúng; họ thấy Pháp nhưng không thấy Mỹ; họ thiên về hành động quân sự và coi nhẹ ngoại giao. Họ không biết rằng chúng ta đang đấu tranh tại các hội nghị quốc tế cũng như tại chiến trường để đạt được mục tiêu”.

Hồ Chí Minh tranh luận với những người “muốn có kết quả nhanh, không biết rằng cuộc đấu tranh giành hoà bình là khó khăn và phức tạp.” Điều họ không thấy là ba nước đã có những bước tiến lớn trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho các nước Đông Dương. Tuy nhiên, bây giờ cần có một chiến lược, vì quân Mỹ đã kiên quyết phá hoại khả năng hoà bình can thiệp và biện hộ cho xung đột ở Đông Dương. Do hoàn cảnh mới, khẩu hiệu hiệu cũ “Kháng chiến đến cùng” phải được thay thế bằng khẩu hiệu “Hoà bình, đoàn kết, độc lập, dân chủ”. Một chính sách như vậy góp phần cô lập Hoa Kỳ (nay trở thành kẻ thù chính trực tiếp của nhân dân Đông Dương) trên trường quốc tế và đánh bại âm mưu thâm độc của chúng.

Hồ Chí Minh công nhận rằng giá phải trả cho hoà bình là sự chia cắt đất nước, Ông nhất mực cho rằng việc thiết lập khu vực tập kết không có nghĩa là đất nước bị chia cắt vĩnh viễn mà chỉ là tạm thời.

Do việc hoạch định và trao đổi vùng, một số vùng tự do trước đây sẽ bị địch tạm chiếm; nhân dân sẽ không bằng lòng; một số người sẽ chán nản và bị địch lừa bịp. Chúng ta phải làm cho đồng bào rõ là thử thách họ sẽ trải qua là vì lợi ích toàn đất nước, vì lợi ích lâu dài của chúng ta và sẽ là một sự nghiệp vinh quang mà cả nước đều biết ơn.

Hồ Chí Minh hứa rằng, với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và sự ủng hộ của các dân tộc trên thế giới , độc lập hoàn toàn và đoàn kết dân tộc chắc chắn sẽ đạt được.

Kêu gọi cộng sự của mình trong Đảng chấp nhận một giải pháp thông qua đàm phán về thực chất không phải là chiến thắng hoàn toàn, Hồ Chí Minh chắc chắn đã nghe theo lời khuyên của Chu Ân Lai. Ông Chu Ân Lai đã khẩn thiết kêu gọi ông Hồ chấp nhận một giải pháp như vậy trong cuộc gặp gỡ ở Lôi Châu trước đó vài ngày. Tuy vậy, thái độ sẵn sàng chấp nhận hoà bình trong nhân nhượng trên đường đến thắng lợi cuối cùng làm chúng ta nhớ lại cách giải quyết vấn đề của ông trong những dịp trước đó, đặc biệt là vào cuối chiến tranh Thái Bình Dương. Hồ Chí Minh nhận thấy rằng độc lập dân tộc và thống nhất đất nước không thể đạt được một cách riêng rẽ, nhưng phải đạt được trong bối cảnh những thay đổi phức tạp diễn ra trên trường quốc tế.
 
PHẦN KẾt: TỪ MỘT CON NGƯỜI - TỚI MỘT HUYỀN THOẠI

Những lời bình luận đổ dồn về từ khắp nơi trên thế giới khi có tin đồn Hồ Chí Minh qua đời. Các bài viết ca ngợi Hồ Chí Minh từ các thành phố lớn được tới tấp gửi đến và Hà Nội nhận được hơn 22.000 thông điệp từ 121 quốc gia chia buồn với nhân dân Việt Nam khi biết nhà lãnh đạo của họ qua đời. Một vài nước xã hội chủ nghĩa tổ chức tang lễ và có thể thấy trước được lời lẽ các bài điếu văn của họ là thiện chí. Một tuyên bố chính thức từ Mát-xcơ-va ca ngợi ông Hồ là “người con vĩ đại của nhân dân Việt Nam anh hùng, lãnh tụ kiệt xuất của phong trào giải phóng dân tộc và quốc tế cộng sản, người bạn lớn của Liên Xô”. Các nước thế giới thứ 3 ca ngợi ông là người bảo vệ cho các dân tộc bị áp bức. Một bài báo ở Ấn Độ miêu tả ông là tinh hoa của “dân tộc, hiện thân cho khát vọng cháy bỏng vì tự do, cho tinh thần kiên cường và sự nghiệp đấu tranh của họ”. Những người khác nhắc đến đức tính giản dị và đạo đức cao cả của ông. Một bài xã luận trên báo U-ru-goay nói rằng “ông có một tấm lòng bao la như vũ trụ và tình yêu thương vô bờ bến đối với nhi đồng. Ông là biểu tượng của đức giản dị trên tất cả các mặt”.

Phản ứng từ các thành phố phương Tây im ắng hơn. Nhà Trắng tránh không bình luận, và các quan chức chính quyền Ních-xơn cũng như vậy. Tuy nhiên, phương tiện truyền thông của phương tây cũng sôi nổi đưa tin về cái chết của ông. Các tờ báo ủng hộ sự nghiệp chống chiến tranh có khuynh hướng mô tả ông như một đối thủ đáng được kính trọng và người bênh vực các dân tộc yếu hèn bị áp bức. Thậm chí những người kịch liệt phản đối chế độ Hà Nội cũng kính trọng ông vì những cống hiến toàn bộ đời mình trước hết cho độc lập và thống nhất đất nước và sự ủng hộ bênh vực các dân tộc bị bóc lột trên thế giới.

Một vấn đề chủ chốt mà nhiều nhà bình luận suy nghĩ là việc ông qua đời có ảnh hưởng thế nào tới diễn biến của cuộc chiến tranh ở Đông Dương. Được biết đến như một người cộng sản kỳ cựu và một nhà cách mạng tận tuỵ, nhiều người xem Hồ Chí Minh như một người thực dụng, nắm vững diễn biến phức tạp của tình hình chính trị thế giới và biến động theo thời thế. Thậm chí cả Giôn-xơn, có lẽ là đối thủ đáng gờm nhất của ông trong những năm 60, đôi khi cũng nhận xét rằng nếu ông ta có thể ngồi với “ông Hồ”, hai nhân vật chính trị kỳ cựu bằng cách này hay cách khác có thể sẽ đi đến một thoả hiệp nào đó.

Với những người kế nhiệm, không ai được thế giới kính trọng như ông Hồ. Rất ít cộng sự của ông Hồ nổi tiếng ở thế giới bên ngoài. Trừ ông Hồ, không có quan chức cao cấp nào của Đảng từng sống hoặc đi khắp nước Pháp , huống hồ các nước phương tây khác. Trong số những người từng ra nước ngoài, hầu hết họ được đào tạo tại Trung Quốc hoặc Liên Xô, và thế giới quan của họ hạn chế bởi giáo lý cứng nhắc của chủ nghĩa Mác-lê-nin. Tổng Bí thư Lê Duẩn, người đã nhanh chóng thiết lập uy tín là người kế nhiệm chức của ông Hồ ở Hà Nội, hầu như không được phương Tây biết đến. Thậm chí ở Mát-xcơ-va và Bắc Kinh, ông Duẩn cũng không được biết đến nhiều.

Trong bản di chúc cuối cùng của mình và trong suốt đời mình, Hồ Chí Minh tìm cách cân bằng cam kết giành độc lập cho dân tộc Việt Nam với cam kết cống hiến cho phong trào thế giới. Trong bản di chúc khởi thảo lần đầu tiên năm 1965 và sau đó tự tay sửa đổi vào năm 1968 và 1969, mặc dù nhấn mạnh phải đặt ưu tiên hàng đầu cho hàn gắn vết thương chiến tranh và cải thiện mức sống của người dân Việt Nam, ông Hồ vẫn khẳng định tầm quan trọng của cả chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ông đặc biệt chú trọng thực hiện bình đẳng giữa nam và nữ. Ông ca ngợi Đảng đóng vai trò hàng đầu trong cuộc cách mạng Việt Nam nhưng cũng kêu gọi phát động chiến dịch tự phê bình và chỉnh đốn Đảng nhằm dân chủ hoá tổ chức và nâng cao đạo đức cho số cán bộ Đảng sau khi chiến tranh kết thúc. Cuối cùng, ông nhiệt thành kêu gọi thôi thúc tình đoàn kết của phong trào Cộng sản theo nguyên tắc chủ nghĩa quốc tế vô sản.

Đám tang Hồ Chí Minh được tổ chức tại Quảng trường Ba Đình ở Hà Nội ngày 8 tháng 9 năm 1969 với hơn 100.000 người tham dự gồm cả đại diện từ các nước xã hộ chủ nghĩa. Trong bài phát biểu trước Quốc hội, Lê Duẩn hứa rằng các nhà lãnh đạo Đảng sẽ tìm cách thực hiện khát khao cháy bỏng của Hồ Chí Minh đánh bại quân xâm lược Mỹ, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước. Sau đó ông hứa Đảng sẽ đem hết nỗ lực xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và khôi phục tinh thần đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa.

Về khía cạnh nào đó, Lê Duẩn cũng đã thực hiện lời hứa của mình. Dưới sự lãnh đạo cương quyết của ông, thời gian sau khi Hồ Chí Minh qua đời, Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tiếp tục theo đuổi chiến thắng cuối cùng ở Miền Nam. Mục tiêu trước mắt của Hà Nội là củng cố lực lượng ở miền Nam chuẩn bị phát động một cuộc tấn công quân sự mới trong thời gian diễn ra chiến dịch bầu cử tổng thống Mỹ năm 1972. Các đại diện miền Bắc Việt Nam tiến hành đàm phán với Mỹ ở Pa-ri, nhưng hầu hết không đạt được kết quả gì vì cả hai phía đều tìm cách tạo ra một bước ngoặt quân sự ở miền Nam Việt Nam làm phương tiện giành lợi thế trên bàn hội nghị. Mặc dù số thương vong của Hà Nội vẫn ở mức cao, các nhà lãnh đạo Đảng vẫn lạc quan vì tình cảm chống chiến tranh ở Mỹ đang dâng cao buộc Tổng thống Ních-xơn phải tuyên bố chương trình kêu gọi rút quân Mỹ về nước vào cuối nhiệm kỳ đầu của ông ta.

Trong những ngày lễ phục sinh năm 1972, với chưa đầy 50.000 quân Mỹ vẫn ở miền Nam Việt Nam, Hà Nội phát động một chiến dịch tấn công ở miền Nam Việt Nam. Giống như cuộc tổng tấn công tết Mậu Thân năm 1968, cuộc tấn công trong ngày lễ phục sinh lần này không đem lại chiến thắng hoàn toàn nhưng nó khiến cho cả hai phía đẩy nhanh tiến trình hoà bình . Tháng 1 năm 1973, Hà Nội và Oa-sinh-tơn cuối cùng đi đến một hiệp định thoả hiệp. Hiệp định hoà bình Pa-ri kêu gọi ngừng bắn và rút toàn bộ đơn vị lính chiến đấu của Mỹ về nước. Các cuộc đàm phán giữa hai bên sẽ quyết định phân chia lãnh thổ dưới quyền kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và chính quyền Sài Gòn thông qua việc thành lập một cơ cấu hành chính bên cạnh chính phủ (đó là Hội đồng quốc gia Hoà giải và Hoà hợp dân tộc) gồm đại diện của cả hai phía cũng như những phần tử trung lập. Hội đồng này sau đó sẽ bàn vấn đề tổ chức tổng tuyển cử.

Giống như Hiệp định Giơ-ne-vơ cách đây hai thập kỷ, Hiệp định Pa-ri không chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Hiệp định này chỉ đơn thuần giải quyết vấn đề quân Mỹ rút khỏi Việt Nam và khôi phục nguyên trạng tình hình đầu những năm 1960 ở miền Nam Việt Nam. Khi chẳng bên nào tỏ thái độ mong muốn tôn trọng các điều khoản của Hiệp định Pa-ri, xung đột ở các vùng nông thôn lại nổ ra. Đầu năm 1975, Hà Nội mở một cuộc tấn công mới với mục tiêu hoàn thành việc chiếm lại miền Nam một năm sau đó. Nước Mỹ suy yếu vì mùa hè trước Ních-xơn đã từ chức và người kế nhiệm của ông, tổng thống Pho, không dám đưa quân chiến đấu Mỹ trở lại miền Nam Việt Nam. Trên đà thắng lợi, tháng 3 quân đội Bắc Việt Nam tiến quân ra khỏi Tây Nguyên và tiến thẳng tới Sài Gòn trong khi các lực lượng khác đã chiếm được Đà Nẵng và toàn bộ phía Bắc. Vào tuần cuối cùng của tháng 4, lực lượng cộng sản gần như giành được chiến thắng khi các lực lượng kháng cự Sài Gòn suy sụp và những người Mỹ còn lại được trực thăng đưa đi từ nóc toà nhà đại sứ quán Mỹ tới hàng không mẫu hạm đậu ngoài khơi. Sau cuộc đấu tranh ác liệt kéo dài 15 năm khiến hơn một triệu người Việt Nam thiệt mạng, Tổng thống Pho tuyên bố “cuộc chiến đã chấm rứt”. Đồng thời trước đó hai tuần, lực lượng Khơ-me Đỏ đã nắm được chính quyền ở Phnôm Pênh, và một chính phủ cách mạng sẽ lên nắm chính quyền ở Lào vào cuối năm.

Đầu tháng 7 năm 1976, hai miền Việt Nam được thống nhất thành nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lê Duẩn đã thực hiện lời hứa của mình hoàn thành một trong những ước nguyện của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, khi thực hiện các điểm khác trong di chúc của Hồ Chí Minh, Lê Duẩn không tạo ấn tượng như vậy. Năm 1968, một chuyên gia của Liên Xô bí mật tới Hà Nội dạy Việt Nam thuật ướp xác. Tháng 3 năm đó, một đội chuyên gia Việt Nam sang Mát-xcơ-va tham khảo thêm ý kiến và báo cáo những tiến triển trong việc áp dụng kỹ thuật đó. Tuy nhiên, theo một nguồn tin, đây vẫn là một vẫn đề nhạy cảm trong giới lãnh đạo Đảng vì bản thân Hồ Chí Minh chắc sẽ phản đối rất mạnh bất cứ kế hoạch nào đi ngược lại ý nguyện được thiêu xác của ông. Vào thời điểm đó Hồ Chí Minh qua đời, Bộ Chính trị chưa có quyết định cuối cùng về cách thức giải quyết vẫn đề này. Sau khi tham khảo ý kiến khẩn cấp với Mát-xcơ-va, một chuyên gia khác của Liên Xô đến Hà Nội giữa tháng 9 giúp chuyên gia y tế của Việt Nam giữ gìn thi thể của ông Hồ.

Ngày 29 tháng 11 năm 1969, Bộ Chính trị chính thức thông qua kế hoạch khởi công xây dựng lăng để lưu giữ thi hài ông Hồ nhằm giáo dục thế hệ trẻ tương lai. Một uỷ ban có đại diện Bộ Xây dựng và Bộ Quốc phòng được chỉ định giám sát công trình với sự giúp đỡ của các cố vấn Liên Xô. Trong báo cáo cuối cùng gửi các nhà lãnh đạo Đảng, Uỷ ban này kết luận rằng lăng cần phải được thiết kế hiện đại nhưng phải thấm nhuần bản sắc dân tộc. Phù hợp với tính cách của Hồ Chí minh, vẻ bề ngoài của lăng cần phải đơn giản và được đặt ở địa điểm thuần tiện và dễ đi lại. Để đưa ra được khuyến nghị về thiết kế công trình, Uỷ ban đã nghiêm cứu một số cấu trúc lăng khác bao gồm cả kim tự tháp Ai Cập, tượng đài kỷ niệm Vích-to Ê-ma-nu-en ở Rôm, đài kỷ niệm Lin-côn ở Oa-sinh-tơn D.C., và lăng mộ Lê-nin ở Mát-xcơ-va. Sau khi Bộ Chính trị đưa ra gợi ý bổ sung, mô hình cấu trúc lăng được trưng bày ở khắp cả nước để trưng cầu ý kiến của công chúng. Cuối cùng có hơn 30.000 gợi ý khác nhau được trình lên Uỷ ban.

Tháng 12 năm 1971, Bộ Chính trị thông qua đề xuất cuối cùng và công việc xây dựng bắt đầu ngay sau khi hiệp định Pa-ri được ký kết. Địa điểm được chọn xây lăng là một trong những thánh địa của cách mạng Việt Nam – Quảng trường Ba Đình, Hà Nội gần với Phủ Chủ tịch và nhà sàn Hồ Chí Minh. Vào ngày 29 tháng 8 năm 1975, khi chính thức được mở công khai cho dân chúng, lăng Hồ Chí Minh gợi nhớ đến lăng Lê-nin ở Quảng trường Đỏ. Các mặt của lăng được ốp đá cẩm thạch xám, hầu hết được khai thác ở núi đá cẩm thạch, một mỏ đá lộ thiên ở phía nam Đà Nẵng – nơi quân Việt cộng sống tại một hang đá trong núi có thể xem lính Mỹ bơi tại bờ biển nổi tiếng gọi là bờ biển Trung Hoa, đây cũng là một trong những khu nghỉ mát nổi tiếng nhất trong vùng. Lăng được thiết kế mô tả hình tượng bông sen vươn lên từ bùn đen với vẻ hiện đại và do đó tạo ra sự tương phản với một ngôi chùa phật thế kỷ 11 ở một khuôn viên gần đó. Tuy nhiên, nhiều nhà quan sát cho rằng kiến trúc của lăng nặng nề chán ngắt hoàn toàn trái với tính cách hài hước và khiêm tốn của Hồ Chí Minh – người đang nằm trong lăng, hai tay bắt chéo và mặc bộ đại cán giản dị kiểu Tôn Trung Sơn. Như nhà sử học Huế, Tâm Hồ Tài, nhận xét, điều đó có tác dụng mô tả Hồ Chí Minh như một nhà lãnh đạo Cộng sản quốc tế chứ không tạo ra hình ảnh gần gũi hơn về Bác Hồ được các đồng bào của ông – hơn 15.000 lượt người đến thăm lăng mỗi tuần.

Khi thực hiện kế hoạch giữ gìn thi thể Hồ Chí Minh trong lăng, các nhà lãnh đạo Đảng rõ ràng đã không tổ chức lễ tang và lễ hoả táng đơn giản theo như yêu cầu của ông Hồ. Ông luôn coi thường cạm bẫy vật chất xa hoa. Năm 1959 ông thậm chí phản đối đề nghị xây một bảo tàng nhỏ tại làng Kim Liên khi mọi người biết ông là nhà cách mạnh nổi tiếng Nguyễn Ái Quốc, với lập luận rằng tốt hơn là sử dụng số tiền hiếm hoi đó để xây trường học. Để tránh bị công chúng chỉ trích vì quyết định làm trái với di nguyện của ông Hồ, các nhà lãnh đạo Đảng đã bỏ đi những phần trong di chúc của ông nói về việc thiêu xác. Bản di chúc công bố năm 1969 cũng không nói tới yêu cầu của ông Hồ miễn một năm thuế nông nghiệp cho nông dân và lời cảnh báo của ông đối với đồng bào mình rằng chiến tranh ở miền Nam còn có thể kéo dài một vài năm nữa. Đảng cũng tuyên bố rằng ông Hồ mất ngày 3 tháng 9, một sau khi ông Hồ thực sự qua đời để khỏi ảnh hưởng đến không khí kỷ niệm ngày quốc khánh mồng 2 tháng 9 năm 1945 khi Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình *.

Sau Đại hội toàn quốc lần thứ 4 tháng 12 năm 1976, các nhà lãnh đạo Đảng tuyên bố sẽ xây dựng “về cơ bản” chủ nghĩa xã hội trên toàn quốc vào thập kỷ này. Để biểu trưng cho giai đoạn mới của cuộc cách mạng này, Đảng Lao động Việt Nam đổi tên thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Những người kế vị Hồ Chí Minh cố dùng hình ảnh của ông để giành được sự ủng hộ của dân chúng cho chương trình đầy tham vọng của mình. Chân dung vị cố chủ tịch xuất hiện trên tem, tiền và tường của các toà nhà trên khắp cả nước trong khi sách giáo khoa và các cuốn sách nhỏ về cuộc đời, tư tưởng, và đạo đức cách mạng của ông được in rất nhiều. Các nhà lãnh đạo Đảng như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp kể lại chi tiết những kỷ niệm về ông Hồ và nhấn mạnh tư tưởng Hồ Chí Minh như một công cụ cốt yếu giúp xây dựng Việt Nam trong tương lai. Người ta khuyến khích thanh niên Việt Nam đi theo con đường Hồ Chí Minh, lấy đó làm định hướng cho hành động hằng ngày của mình và tên của ông được đặt cho các tổ chức thanh niên được thành lập trên khắp cả nước. Một số nước xã hội chủ nghĩa khác cố dùng danh tiếng của ông phục vụ mục đích riêng của mình, lấy tên đặt cho trường học, nhà máy, đường phố, quảng trường và tổ chức hội thảo học tập di chúc và các thành công trong sự nghiệp của ông.

Giá trị thực sự của tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trong bảo tàng Hồ Chí Minh. Bảo tàng này được hoàn thành vào mùa thu năm 1990 nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông. Được xây ngay sau lăng gần Quảng trường Ba Đình, kích thước của Bảo tàng gây ấn tượng mạnh nhưng không nặng nề như những công trình cạnh đó. Với các mặt được ốp đá cẩm thạch, bảo tàng cũng được thiết kế giống hình bông sen, mặc dù đối với một số nhà quan sát, cấu trúc bốn mặt với đường vào ở một góc gợi nhớ hơn đến mũi của một con tàu.

Cho dù Đảng rất cố gắng nêu bật tư tưởng Hồ Chí Minh như hiện thân của một nước Việt Nam mới, nhiều nhà quan sát vẫn nhận ra những khác biệt lớn giữa phong cách của Lê Duẩn và phong cách của người tiền nhiệm nổi tiếng của ông. Trong khi ông Hồ kiên trì khuyến khích cần phải từng bước tiến hành cách mạng Việt Nam nhằm phát huy tối đa sự ủng hộ của quần chúng từ mọi thành phần xã hội, Lê Duẩn lại thường áp dụng sách lược tham vọng hơn, gây chia rẽ trong ban lãnh đạo Đảng và cô lập bộ phận dân chúng. Và trong khi ông Hồ luôn chú trọng thích đáng tới thực tế tình hình thế giới khi tìm cách thực hiện chiến lược của mình thì những người kế nhiệm của ông lại theo đuổi chính sách đối ngoại hung hăng, không chỉ gây thù địch với các nước láng giềng của Hà Nội ở Đông Nam Á mà còn khiến Trung Quốc – từng là đồng minh thân cận nhất và là nước ủng hộ mạnh mẽ nhất của Hà Nội – khó chịu. Những người phản đối chính sách của Lê Duẩn bị đưa ra khỏi ban lãnh đạo Đảng (một thí dụ nổi bật là Võ Nguyên Giáp) hoặc chọn giải pháp sống lưu vong ở nước ngoài (như trường hợp Hoàng Văn Hoan).

Kết quả đó là bi kịch đối với một đất nước mới vừa thoát khỏi chiến tranh. Khi chế độ này đột nhiên tuyên bố quốc hữu hoá ngành công nghiệp và thương mại tháng 3 năm 1978, hàng ngàn người ra đi tìm nơi ẩn náu ở nước ngoài. Chương trình tập thể hoá nông nghiệp khiến hầu hết nông dân miền Nam phản kháng. Cuối những năm 70, nền kinh tế của Việt Nam lâm vào tình trạng hỗn độn, bị lung lay bởi nỗ lực không khôn ngoan của Đảng định hoàn thành xây dựng cơ sở cho một xã hội xã hội chủ nghĩa trước khi kết thúc thập kỷ.

Khủng hoảng ở bên ngoài đã làm tình hình trong nước trầm trọng hơn. Khi lên nắm quyền, chế độ diệt chủng và cuồng tín Pôn Pốt ở Cam-pu-chia phản đối gợi ý của Việt Nam thành lập liên minh quân sự giữa ba nước Đông Dương. Tháng 12 năm 1978, Hà Nội xâm lược Cam-pu-chia và dựng lên một chế độ bù nhìn ở Phnông Pênh. Để trả đũa, các lực lượng Trung Quốc mở chiến dịch tràn qua biên giới Việt Nam. Mặc dù không kéo dài, chiến dịch đã buộc Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tập trung những nguồn lực quân sự quý báu cho sự nghiệp bảo vệ đất nước. Giữa những năm 80, thái độ bất bình của dân chúng đối với ban lãnh đạo Đảng đã lên tới mức báo động – vì lãnh đạo chỉ còn là một nhóm người không làm theo lời khuyên của Hồ Chí Minh là phải mang lại hạnh phúc cho nhân dân sau khi giành chiến thắng.

Mùa hè năm 1986, sau khi lê Duẩn qua đời, các nhà lãnh đạo Đảng muộn màng nhận ra sai lầm của mình (như một ai đó mô tả là “chủ nghĩa phấn khích”) và bước vào một con đường mới. Dưới sự lãnh đạo của một vị Tổng Bí thư mới, một nhân vật cứng rắn người miền Nam cũ, ông Nguyễn Văn Linh, Bộ Chính trị thông qua kế hoạch khôi phục nền kinh tế trì trệ bằng việc áp dụng thị trường xã hội chủ nghĩa và mở cửa cho đầu tư nước ngoài, đồng thời khuyến khích thái độ khoan dung tự do tư tưởng của dân chúng. Được biết đến như chương trình cải cách, đổi mới, chương trình mới này làm người ta nhớ lại chính sách cải tổ của Goóc-ba-chốp ở Liên Xô, mặc dù những nguồn tin ở Hà Nội quả quyết rằng chiến lược này là của Việt Nam.

Tuy nhiên, đến cuối thập kỷ, các lực lượng bảo thủ trong Đảng đã suy nghĩ lại. Mặc dù giúp kích thích tăng trưởng kinh tế Việt Nam, việc áp dụng ý tưởng của nước ngoài ngày càng dẫn đến (ít nhất theo những người có quan điểm bảo thủ) những tệ nạn như thuốc phiện, gái điếm, AIDS và chủ nghĩa hưởng lạc trong thanh niên Việt Nam cũng như làm tăng thái độ chỉ trích sự thống trị của Đảng trên tất cả các mặt trong vấn đề nội bộ. Được báo động bởi sự sụp đổ của hệ thống cộng sản ở Đông Âu và nỗi lo lắng ngày càng tăng trước tác động của văn hoá phương Tây làm suy yếu dần những thể chế xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đảng bắt đầu thẳng tay đàn áp những nhân vật bất đồng chính kiến và những người mà các nhân vật bảo thủ coi là “cỏ độc của chủ nghĩa tư bản”. Dưới sự lãnh đạo của ông Đỗ Mười – người kế nhiệm Nguyễn Văn Linh và là một đảng viên lão thành – Hà Nội cũng áp dụng chính sách hậu Thiên An Môn của Trung Quốc thẳng tay đàn áp những nhà hoạt động bất đồng chính kiến dưới khẩu hiệu “cải cách kinh tế, ổn định chính trị” Trong khi tự do hoá kinh tế tiến triển với một nhịp độ khiêm tốn, Đảng khẳng định lại vai trò truyền thống của mình là một lực lượng chính trị duy nhất trên toàn đất nước.

Những người Việt Nam chủ trương cải cách nhanh chóng dùng di sản của Hồ Chí Minh để thúc đẩy sự nghiệp của chính họ. Khi nhắc đến ông Hồ như một người thực dụng, họ cho rằng ông có thể đã hiểu rằng cần phải nâng cao mức sống cho nhân dân trước khi tiến lên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa. Khi nhắc tới hình ảnh của ông như một người theo chủ nghĩa nhân văn với tinh thần vị tha cao cả trước những ý kiến đối lập, họ quả quyết rằng ông có thể đã ngăn cản sự chia rẽ trong ban lãnh đạo Đảng và tiến hành mọi biện pháp nhằm giành được sự ủng hộ của nhân dân. Vào cuối những năm 80, phe cải cách thắng thế khi người thư ký riêng cuối cùng của Hồ Chí Minh tiết lộ rằng Lê Duẩn và một số cộng sự của mình đã chữa lại bản di chúc của ông Hồ bằng cách không thực hiện lời kêu gọi miễn thuế nông nghiệp và tổ chức một lễ tang đơn giản. Bộ Chính trị buộc phải thừa nhận lỗi lầm này, nhưng bào chữa cho hành động của mình nói rằng Bộ Chính trị làm như vậy là vì có lợi ích cao cả của nhân dân Việt Nam và phù hợp với mục tiêu suốt đời của Hồ Chí Minh.

Không chỉ người Việt Nam mà người nước ngoài cũng không biết nên hiểu thế nào về nhân cách đích thực và di sản mà Hồ Chí Minh để lại. Nhiều người xem ông là một vị thánh suốt đời cống hiến cho sự nghiệp giải phóng người dân bị áp bức khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc phương Tây, người làm cho chuyên chính cộng sản phát triển khắp thế giới (có lẽ là quan điểm tệ hại nhất) hoặc là nhân vật cơ hội chủ nghĩa vô nguyên tắc, người đã sử dụng danh tiếng đứng đắn và giản dị của mình để ca tụng bản thân. Khi UNESCO tài trợ cho một hội nghị tại Hà Nội năm 1990 kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, những lời ca ngợi Hồ Chí Minh tại hội nghị bị bác lại bằng rất nhiều quan điểm chỉ trích của những người đến từ khắp nơi trên thế giới, những người phản đối sự sùng bái một con người mà họ cảm thấy phải chịu trách nhiệm cuối cùng đối với cái chết của quá nhiều đồng bào mình.

Đối với nhiều nhà quan sát, trọng tâm của cuộc tranh luận về Hồ Chí Minh tập trung vào vấn đề nên xác định ông là nhà cộng sản hay là người dân tộc chủ nghĩa. Rất nhiều người bạn nước ngoài của ông khăng khăng cho rằng ông Hồ là người yêu nước hơn là nhà cách mạng theo chủ nghĩa Mác. Dường như ông Hồ khẳng định quan điểm này năm 1961 khi ông công khai tuyên bố rằng chính lòng mong muốn cứu vớt đồng bào ngay từ đầu đã đưa ông đến với chủ nghĩa Lê-nin. Nếu ông cũng nói như vậy trong một số dịp khác, thì có lẽ không có lời giải thích nào rõ ràng hơn lời giải thích mà ông nhận xét với một điệp viên của Mỹ Sác-lơ phen năm 1945 rằng ông xem chủ nghĩa cộng sản là phương tiện đạt được mục tiêu dân tộc chủ nghĩa. Khi được yêu cầu giải thích, ông nói:

“Trước hết, bạn phải hiểu rằng giành độc lập từ một cường quốc lớn như Pháp là một nhiệm vụ nặng nề không thể đạt được nếu không có sự giúp đỡ từ bên ngoài, không nhất thiết là trang thiết bị như súng đạn mà bằng các cuộc tiếp xúc và những lời khuyên. Trên thực tế, không thể giành được độc lập bằng ném bom hay làm những việc tương tự như vậy. Đó là sai lầm mà các cuộc cách mạng trước đó thường gặp phải. Phải giành độc lạp bằng tổ chức , tuyên truyền, huấn luyện, và kỷ luật. Cũng cần phải có niềm tin, nguyên tắc chỉ đạo, phân tích thực tiễn, có thể bạn phải vận dụng kinh thánh. Chủ nghĩa Mác-Lê-nin đã trao cho tôi những khuôn mẫu như vây”.

Phen hỏi ông Hồ lý do tại sao ông không chọn chế độ dân chủ hay một hệ thống chính trị khác mà lại chọn một chế độ mà rõ ràng sẽ làm tổn thương thiện chí của Mỹ, đất nước mà ông nói ông rất ngưỡng mộ? Hồ Chí Minh trả lời chỉ khi ông đến Mát-xcơ-va thì ông mới nhận được viện trợ thực tế. Liên Xô là nước cường quốc duy nhất trong số các cường quốc thể hiện “bạn lúc khó khăn mới là bạn tốt” Lòng trung thành của Liên Xô đã giành được lòng trung thành của Hồ Chí Minh.

Điều rõ ràng là đối với Hồ Chí Minh sự sống còn của đất nước trước hết và luôn luôn là mối quan tâm lớn nhất của ông. Quả thực, điều đó khiến các nhà lãnh đạo Đảng cao cấp ở Hà Nội, Bắc Kinh và Mát-xcơ-va nghi ngờ không biết ông Hồ có phải là một nhà Mác-xít thực thụ hay không. Tuy nhiên, điều đó rõ ràng là, không nói đến chuyện ông có phải là một nhà Mác-xít chân chính hay không, ông là một nhà yêu nước có trái tim của nhà cách mạng tận tâm. Khuynh hướng cách mạng trong quan điểm của ông rất có thể là kết quả của những điều ông chứng kiến trong khi làm việc trên tàu thuỷ trước chiến tranh thế giới I. Ông nhận thấy nỗi đau khổ của đồng bào ông cũng là nỗi đau khổ của các dân tộc Á, Phi sống dưới ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc. Điều đó càng được củng cố thêm trong thời gian ở Pa-ri. Tại đó, ông nhận thấy thái độ giả dối của người Pháp không vận dụng những lý tưởng của mình vào các dân tộc thuộc địa. Hai năm ở Mat-xcơ-va trong những ngày đầu đầy sóng gió của cuộc thử nghiệm Xô-viết dường như đã làm dấy lên lòng nhiệt thành ngây thơ mong muốn xây dựng một xã hội cộng sản trong tương lai. Trong thế giới hoàn toàn mới mẻ của ông Hồ, chủ nghĩa yêu nước bị thay thế bởi quan điểm của Lê-nin về một liên bang xã hội chủnghĩa cộng sản toàn cầu trong tương lai.

Rõ ràng, những sự kiện sau này có tác động cảnh tỉnh thái dộ của ông. Những vụ thanh trừng ở Mát-xcơ-va, rõ ràng gần như đe doạ tới sự an toàn của ông, chắc hẳn làm tổn hại tới niềm tin của ông vào cuộc thử nghiệm của Xô-viết. Việc Mát-xcơ-va không tôn trọng cam kết tích cực ủng hộ sự nghiệp giải phóng dân tộc thuộc địa khiến ông nghi ngờ chủ nghĩa quốc tế vô sản trong một thế giới chính trị cường quyền. Tuy nhiên, không gì có thể làm lung lay niềm tin vào tính siêu việt của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Cho tới cuối đời, ông vẫn theo quan điểm cho rằng mô hình tư bản chủ nghĩa đã gây đau khổ vô hạn cho hàng triệu người bị áp bức trên toàn châu Á, châu Phi và Mỹ La-tinh.

Do đó, vấn đề không phải là liệu ông là một nhà dân tộc chủ nghĩa hay một người cộng sản – bằng con đường riêng của chính mình, ông là cả hai. Nói đúng hơn đó là vấn đề sách lược của ông. Hồ Chí Minh là một người tin vào nghệ thuật nắm bắt thời cơ, điều chỉnh lý tưởng của mình tuỳ theo điều kiện của phong trào. Đối với nhiều người, thậm chí những người trong đảng mình, lối cư xử của ông có vẻ như không có nguyên tắc, nhưng theo ông có thể đạt được tiến bộ bằng những bước rất nhỏ. Đối với Hồ Chí Minh, theo một câu trích nổi tiếng của một nhà khoa học xã hội Anh Oát-tơ-Bê-gơ-hốt, chín quá hoá nẫu. Ông Hồ có thái độ thực dụng trong chính sách đối ngoại. Thí dụ, ông thà chấp nhận những giải pháp thoả hiệp năm 1946 và 1954 chứ không tiến hành chiến tranh trong những điều kiện bất lợi. Ông còn có thái độ thực dụng trong những vấn đề nội bộ, luôn tin rằng cần từng bước tiến hành quá trình chuyển sang xã hội chủ nghĩa đồng thời với nỗ lực giành được sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng. Giống như Tổng thống Mỹ, Giôn-xơn, Hồ Chí Minh cho rằng ông là một nhà giao tiếp lớn, một người lãnh đạo tận dụng mọi cơ hội để đạt được mục đích của mình không bằng sức mạnh mà bằng lý lẽ. Trong một số trường hợp, ông thành công. Một số trường hợp khác, sự sẵn lòng thoả hiệp của ông đã tước đi vũ khí của đối thủ và cho phép ông biến yếu điểm quân sự trở thành thế mạnh chính trị. Đồng thời, hình ảnh giản dị , tốt bụng và vị tha tạo ra sức quyến rũ mạnh mẽ và do vậy đóng góp ý nghĩa vào sự ủng hộ rộng rãi ở trong nước cũng như ngoài nước đối với cách mạng và cuộc đấu tranh giành độc lập. Khó có thể tưởng tượng được làn sóng ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam trong những năm 60 trên toàn thế giới nếu như gương mặt ở Hà Nội lúc đó lại là Lê Duẩn hay Trường Chinh chứ không phải là Hồ Chí Minh.

Liệu hình ảnh Hồ Chí Minh có xác thực không? Cõ lẽ không có câu trả lời dễ dàng cho câu hỏi. Rõ ràng ông không thích sống xa hoa mà chỉ thích sống giản dị, khiêm tốn. Tuy nhiên, nhiều người hiểu rõ ông Hồ hơn nhận xét rằng có vẻ giả tạo bên ngoài cách ông sống như một người khổ hạnh, một học giả Nho giáo trở thành một nhà cách mạng theo chủ nghĩa Mác. Trong thời gian sống ở Pháp sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ông nói với thư ký riêng của mình, ông Vũ Đình Huỳnh rằng đôi khi nhưng giọt nước mắt giả dối cũng có ích để truyền đạt ý tới người nghe. Nhiều năm sau , đại diện của Ba Lan tại Uỷ ban giám sát và kiểm soát tại Hà Nội nhận xét rằng mặc dù công khai phản đối , ông Hồ dường như thích đồng bào khen mình. Cái tôi của ông rõ ràng đã nổi lên trong những năm 40 và 50 khi ông viết hai cuốn tự truyện tự khen mình dưới bút danh khác. Không chỉ những người khác nói về hình ảnh có tính chất thần thánh của Hồ Chí Minh mà bản thân ông còn khai thác điều này.

Dĩ nhiên có những lý do chính trị đáng để ông khuyến khích thái độ sùng bái cá nhân này. Năm 1947, một phóng viên Mỹ hỏi ông tại sao ông lại được ca tụng nhiều như vậy, ông trả lời rằng một phần người ta xem ông là biểu tượng của những ước nguyện của bản thân họ. Ông nói thêm có lẽ lý do là ông yêu tất cả trẻ em Việt Nam như thể chúng là cháu ông và để đáp lại họ dành tình yêu đặc biệt cho “Bác Hồ”. Thời gian đầu của cuộc đời ông khi dân tộc và nền văn hoá dường như đứng trên bờ vực của sự diệt vong , ông đã chứng kiến sự sùng kính mà thanh niên Việt Nam dành cho những ông đồ nho quê mùa, những người dành trọn cuộc đời và những lời giáo huấn của họ theo đuổi nguyên tắc bất dịch của nghĩa nhân văn Nho giáo. Trong suốt đời mình, ông Hồ dùng tính cách đó làm phương tiện cứu vớt nhân dân và phong trào nổi dậy của dân tộc mình.

Không biết quyết định đó đem lại lợi ích chính trị gì nhưng đôi khi Hồ Chí Minh phải trả giá cho hình ảnh vị tha và thực dụng của mình. Ông là một nhà hoà giải luôn tin vào sức mạnh của thuyết phục hơn là hăm doạ khi chỉ đạo Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngay từ đầu ông dựa vào sách lược lãnh đạo tập thể hơn là dựa vào sự thống trị của một cá nhân như cách của Lê-nin, Xta-lin, hay của Mao Trạch Đông. Trong thời gian những năm 30 và 40, sức mạnh thuyết phục, trên cơ sở uy tín và những gì ông đã trải qua trong suốt một thời gian dài là nhân viên Quốc tế Cộng sản, nhìn chung là thành công. Tuy nhiên, điều đó bắt đầu không có hiệu quả trong những năm 50 khi các cộng sự cao cấp bắt đầu đặt câu hỏi về tính đúng đắn trong những khuyến nghị của ông và xác lập vai trò của họ khi vạch ra chiến lược. Cuối cùng, Hồ Chí Minh gần như bất lực. Những cộng sự chỉ hứa sẽ cân nhắc những ý kiến của ông song những ý kiến đó ngày càng bị bác bỏ phản đối và bị xem là không thích hợp.

Phải chăng Hồ Chí Minh đã ngây thơ và tin vào cách ngôn của Tôn tử cho rằng chiến thắng thành công nhất là chiến thắng không dùng bạo lực? Nhìn lại, có thể nói rằng ông hơi nhẹ dạ vì hy vọng sẽ thuyết phục được Pháp rút khỏi Việt Nam một cách hoà bình sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau đó một vài năm, ông Hồ đã tính toán sai khi ông lập luận rằng Mỹ có thể quyết định chấp nhận chính phủ do Đảng Cộng sản thống trị ở Việt Nam nếu như chính phủ đó được thành lập không làm Mỹ bẽ mặt. Tuy nhiên, có bằng chứng cho rằng ông thường đánh giá tình hình quốc tế rất rõ ràng và nhận thấy cần phải có chính sách linh hoạt lường trước được tất cả các khả năng khác nhau. Mặc dù ông luôn cố đạt được mục tiêu của mình mà không dùng đến bạo lực, ông cũng săn sàng dùng tới lực lượng quân sự khi cần thiết. Những cộng sự của ông không thể làm những điều tương tự vì họ thiếu đi sự tinh tế và kiên nhẫn theo đuổi một giải pháp ngoại giao.

Người ta thường nói rằng Mỹ mất đi cơ hội vàng, tránh được một cuộc xung đột trong tương lai ở Đông Dương khi Mỹ không đáp lại những cử chỉ thiện chí của Hồ Chí Minh cuối chiến tranh thế giới thứ hai. Xét cho cùng, là người thực dụng ông Hồ chắc đã nhận ra rằng sau chiến tranh, Việt Nam có thể giành được nhiều viện trợ hơn từ Oa-sinh-tơn chứ không phải từ Mát-xcơ-va. Ông cũng thú nhận mình là người ngưỡng mộ văn minh Mỹ và đã đưa những lý tưởng của Mỹ vào bản Tuyên ngôn Độc lập. Nhiều nhà chỉ trích quả quyết rằng sau khi xem xét lại tình hình Đông Dương trong bối cảnh Mỹ và Liên Xô cạnh tranh ngày càng quyết liệt về tư tưởng, chính quyền Tơ-ru-man đã chuẩn bị cho cuộc chiến tranh Việt Nam.

Mặc dù điều này có phần đúng, cũng có thể phần nào là vì người Mỹ chỉ có hiểu biết mang tính huyền thoại về Hồ Chí Minh. Trước hết, có chứng cứ cho thấy ông Hồ đã tính toán chứ không phải là vấn đề hệ tư tưởng khi ông bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với Mỹ. Ông Hồ ca ngợi văn minh Mỹ cũng giống như ông ca ngợi nhiều đồng minh của mình và những đối thủ tiềm tàng của ông, chủ yếu để giành được lợi thế chiến thuật. Mặc dù ông ta luôn nghĩ rằng có khả năng các nhà lãnh đạo Mỹ cuối cùng sẽ nhận ra can thiệp vào Đông Dương là vô ích, ông luôn tin rằng những nhà lãnh đạo đó là đại diện cho hệ thống tư bản chủ nghĩa bóc lột ở mức độ nào đó có thể nguy hiểm cho các nước thành viên của khối xã hội chủ nghĩa. Ông không nghi ngờ về lòng trung thành của mình đối với cuộc chiến.

Vấn đề nổi lên là liệu Hồ Chí Minh có toàn quyền vạch ra chiến lượng ở Hà Nội giống như Xta-lin thống trị chính trường ở Mát-xcơ-va hay không. Trên thực tế, rất nhiều đồng nghiệp của ông Hồ không có chung niềm tin với ông về khả năng không dùng vũ lực để giải phóng dân tộc và có thể phản đối những điều mà họ cho là thoả hiệp vô nguyên tắc với kẻ thù giai câp. Giống như các Tổng thống phải cân nhắc những vấn đề nội bộ khi họ đề ra những mục tiêu chính sách đối ngoại của mình, Hồ Chí Minh cũng phải tranh luận với các cử tri của mình, chủ yếu với những cộng sự luôn luôn sốt ruột của mình trong Bộ Chính trị – rất nhiều người trong số họ như Trường Chinh và Lê Duẩn không thể chia sẻ thái độ nhẹ dạ tin vào sức mạnh của lỹ lẽ.

Có những lý do chính đáng cho thấy cử chỉ hoà giải của Nhà Trắng năm 1945 và năm 1946 đủ để đưa Hồ Chí Minh và các cộng sự của mình theo con đường tư bản chủ nghĩa. Rõ ràng việc Mỹ công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hoà rất được Hà Nội hoan nghênh song điều đó chưa đủ làm cho Đảng Cộng sản Đông Dương từ bỏ miền tin vào Mát-xcơ-va và từ bỏ học thuyết Mác-Lê-nin. Rất giỏi trong việc cân bằng quan hệ giữa Mát-xcơ-va và Bắc Kinh, ông Hồ và các cộng sự của mình chắc đã phải cố lèo lái trong quan hệ với Oa-sinh-tơn nhằm đạt được mục tiêu của mình. Như chúng ta đã biết, một số mục tiêu này có liên quan tới các nước khác. Cuối cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, Đông Nam Á đã trải qua một giai đoạn bất ổn chính trị và xã hội tương đối lớn. Nhiều người vẫn còn nghi ngờ về khả năng các nhà hoạch định chính sách của Mỹ có sẵn sàng ngồi đàm phán hay không trong khi Hà Nội tìm cách thúc đẩy phong trào cách mạng đang còn trong kỳ trứng nước ở các nước láng giềng Lào và Cam-pu-chia.

Tuy nhiên, việc các nhà hoạch định chính sách ở Pa-ri và Oa-sinh-tơn không nắm lấy bàn tay hữu nghị mà Hồ Chí Minh chìa ra cho họ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đã đem lại hậu quả xấu cho nhân dân Việt Nam và toàn thế giới. Tuy có mạo hiểm khi trao quy chế chính đáng cho một chính phủ mới ở Hà Nội, rõ ràng chính phủ này còn tốt hơn sự lựa chọn khác. Nếu vấn đề đạo đức và chính trị trong những nguyên tắc tư tưởng của Hồ Chí Minh ưu việt hơn so với những nguyên tắc của những đối thủ của ông là một vấn đề cần phải tranh luận, thì rất khó có thể bác bỏ luận điểm cho rằng trong điều kiện lúc đó các nhà lãnh đạo Việt Minh là lực lượng được chuẩn bị tốt nhất để đối phó với rất nhiều vấn đề có tác động đến các đồng bào của họ. Khả năng duy trì sự ủng hộ rộng rãi của quần chúng đối với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ít nhất là ở miền Bắc, phụ thuộc và khả năng duy trì thái độ trung thành của một thế hệ đấu tranh chống lại những âm mưu của Pháp và sau này là của Mỹ.

Ngày nay, ba thập kỷ sau khi ông qua đời, tệ sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh vẫn tồn tại ở Hà Nội. Tệ sùng bái này chủ yếu làm chỗ dựa cho một chế độ tuyệt vọng tìm cách duy trì tính chính đáng của mình khi tình hình đã thay đổi theo thời gian. Đối với nhiều người Việt Nam (đặc biệt là ở miền Bắc sự sùng kính ông Hồ vẫn rất mạng mẽ), hình ảnh ông vẫn còn đậm nét. Hình ảnh của ông mờ nhạt hơn ở miền Nam và ở đây chính phủ trung ương thường bị mất lòng tin, những người đại diện của chính phủ bị coi là những người đầu cơ chính trị. Tuy nhiên, những ước vọng suốt đời không dứt của ông Hồ về một đảng với nền tảng là sự trong sáng chính trị và quan tâm đến dân ngày nay không còn nguyên vẹn nữa. Trong những năm gần đây, hầu như chẳng ai làm gì để giải quyết nạn tham nhũng đang đe doạ nhấn chìm cuộc cách mạng trong sự giận giữ và bất bình đang dâng cao của nhân dân.

Rất khó khăn duy trì sự sùng bái ông Hồ trong tương lai. Có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy cho dù hầu hết thanh niên Việt Nam tôn trọng Hồ Chí Minh vì những đóng góp của ông cho sự nghiệp giành độc lập và tái thống nhất đất nước, nhiều người không còn coi ông là nhân vật trung tâm trong đời sống của họ. Gần đây, một thanh niên Việt Nam nói với tôi “Chúng tôi kính trọng ông Hồ, nhưng chúng tôi không quan tâm đến chính trị”. Đối với thế hệ trẻ lớn lên trước thềm thiên niên kỷ tới, ảnh hưởng của Hồ Chí Minh cũng chỉ như ảnh hưởng của A-bra-ham-Lin-côn đối với người dân Mỹ bình thường.

Thậm chí trong số những người thấy được giá trị của sự sùng bái ông Hồ, nhiều người xem đó như một thứ thuốc phiện đối với nhân dân. Như một trí thức Việt Nam nhận xét: Tất cả những người sống trong thời kỳ chiến tranh phải có những điều bí ẩn riêng của họ. Ngày nay, nhiều người cảm thấy rằng quan điểm chính thức coi Hồ Chí Minh như một mẫu mực hoàn hảo về đạo đức cách mạng cần phải được thay thế bằng một hình ảnh thực tế hơn, mô tả ông như một con người có thể có sai lầm. Trong những năm gần đây, có những lời đồn đại không được kiểm chứng về những đám cưới trong quá khứ và những vụ tình ái – và thậm chí những người con hoang – đã được lưu truyền rộng rãi bất chấp những lời chối bỏ mạnh mẽ về tính xác thực của nó từ các nguồn tin chính thức. Một bộ phim gần đây của Việt Nam đã bóng gió thể hiện mối quan hệ bất chính mà theo như đồn đại xảy ra trước khi ông bắt đầu đi Châu Âu.

Tương rự như vậy trên chính trường thế giới, hình ảnh của ông Hồ là một nhân vật có ảnh hưởng sâu rộng trong thế kỷ 20 không còn sức quyến rũ như cách đây một thế hệ, mặc dù sự hiện diện của những bức chân dung của ông trong một cửa hàng của một người di cư Việt Nam ở Ca-li-phoóc-ni-a đã đủ gây ra sự tức giận cho những người Mỹ gốc Việt. Cách đây một thế hệ, các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc nổ ra trên khắp thế giới thứ ba lúc đó nước Mỹ dường như là một nền văn minh đang suy tàn. Trong điều kiện như vậy, ông Hồ có vẻ như là tiếng nói của tương lai. Với việc chủ nghĩa cộng sản mất uy tín và chủ nghĩa tư bản đang lên trước thềm thiên niên kỷ mới, sự kết hợp đặc biệt của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội của ông Hồ có vẻ như là điều kỳ quặc, giống như Cách mạng văn hoá của Mao Trạch Đông hoặc những ý tưởng tinh thần của Ma-hát-ma Gan-đi. Ngày nay, Hồ Chí Minh thường được xem như là một nhà chiến thuật cách mạng thông minh của cuộc cách mạng và chỉ vậy thôi. Những bài viết của ông có vẻ như tẻ nhạt, phong cách tầm thường và không có nội dung tư tưởng. Tầm nhìn của ông về cách mạng thế giới xa rời thời gian không khác gì Mác nhìn người vô sản giận dữ đập cửa của những người áp bức tư bản chủ nghĩa.

Tuy nhiên, thái độ như vậy không đánh giá đúng tầm quan trọng của Hồ Chí Minh đối với thời đại của chúng ta. Nếu như tầm nhìn tương lai của ông về một xã hội cộng sản thế giới trong tương lai không hoàn mỹ (ít nhất giống như ngày nay người ta nhìn nhận) thì người ta cũng không phủ nhận rằng sự nghiệp mà ông thúc đẩy và chỉ đạo tạo ra những thời khắc có một không hai trong thế kỷ 20, là đỉnh cao của kỷ nguyên giải phóng dân tộc ở thế giới thứ ba và sự thừa nhận rõ ràng đầu tiên về hạn chế của chính sách ngăn chặn cộng sản của Mỹ . Sau Việt Nam, thế giới không bao giờ như cũ nữa.

Khó tưởng tượng ra một cuộc cách mạng Việt Nam không có sự tham gia tích cực của Hồ Chí Minh. Mặc dù xu hướng lịch sử hiện tại nhấn mạnh tầm quan trọng của những lực lượng xã hội lớn trong việc tạo ra những sự kiện lớn của thời đại chúng ta, điều rõ ràng là trong nhiều trường hợp như trong cuộc cách mạng Bôn-sê-vích và cuộc nội chiến của Trung Quốc, vai trò cá nhân đôi khi rất lớn. Điều đó cũng đúng với Việt Nam . Ông Hồ không chỉ là người sáng lập Đảng và sau này là Chủ tịch nước, mà ông còn là một nhà chiến lược chủ chốt và là một biểu tượng giành được nhiều cảm tình nhất. Một nhà tổ chức tài năng cũng như là một nhà chiến lược tinh tế và một nhà lãnh đạo lôi cuốn, Hồ Chí Minh là một nửa Lê-nin và một nửa Gan-đi. Đó là một sự kết hợp sống động. Cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam là một sự thực không thể phủ nhận làm thay đổi số phận của mỗi cá nhân, nếu không có ông thì có thể nó đã trở thành một vấn đề hoàn toàn khác và một kết cục hoàn toàn khác.

Đối với nhiều nhà quan sát thì bi kịch của cuộc đời Hồ Chí Minh là một tài năng kỳ lạ về nghệ thuật lãnh đạo mà đáng lẽ ra phải được sử dụng để hoàn thiện hệ tư tưởng chưa hoàn hảo và trên thực tế, hệ tư tưởng đó bị chối bỏ bởi nhiều người trước đây đã chân thành theo đuổi trên toàn thế giới, mặc dù vẫn chưa được từ bỏ trên đất nước của ông. Một câu hỏi chưa có trả lời là liệu trong hoàn cảnh khác, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành có quyết định theo đuổi lý tưởng và tập quán của nền văn minh phương Tây đương đại hay không. Giống như nhiều nhà lãnh đạo châu Á trong những ngày đó, những gì ông đã trải qua khi sống ở các nước tư bản chủ nghĩa không phải là những điều dễ chịu và những tội ác gây ra bởi chủ nghĩa thực dân của phương Tây mà ông nhận thấy trong những năm đầu của cuộc đời mình đã làm tổn thương tới sự nhạy cảm của ông. Tuy nhiên, rất nhiều niềm tin triết lý của ông dường như đúng với các lý tưởng của phương Tây hơn là với Các Mác và Lê-nin. Mặc dù ông tìm cách xây dựng hình ảnh của bản thân mình trước các cộng sự của ông như một nhà Mác-xít chính thống, dường như rõ ràng rằng ông không thích những vấn đề mang tính học thuyết giáo điều và thường cố làm mềm những giáo lý khô khan của cộng sản khi áp dụng vào Việt Nam. Tuy nhiên, là người thành lập Đảng và Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về những hậu quả đối với những hành động của mình, dù tốt hay xấu xuất phát từ điều kiện Việt Nam hiện nay, thậm chí nhiều người nhiệt tình bảo vệ ông cũng phải thừa nhận rằng di sản của ông là tốt xấu lẫn lộn.

Hồ Chí Minh là “người tạo ra sự kiện” (trong một đoạn trích đáng nhớ của Sít-ni Húc, triết gia của Mỹ), một “đứa con của khủng hoảng” hiện thân hai sức mạnh trung tâm trong lịch sử của Việt Nam hiện đại: mong muốn độc lập dân tộc và tìm kiếm công lý xã hội và kinh tế. Do hai sức mạnh này vượt qua biên giới nước mình, ông Hồ có khả năng chuyển tải thông điệp cho các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới và lên tiếng đòi chân lý giá trị và tự do thoát khỏi sự áp bức của chủ nghĩa đế quốc. Cho dù người dân của ông có đánh giá cuối cùng về di sản của ông như thế nào chăng nữa, ông cũng đã nằm trong đền thờ các vị anh hùng cách mạng dành cho người đấu tranh mạnh mẽ đem lại cho những người thống khổ tiếng nói thực sự.

(HẾT. Những phần trích trên đây là từ bản dịch được cho là của Phòng phiên dịch – Bộ Ngoài giao Việt Nam, tháng 5-2001)
_ Sưu tầm _
 

Chủ đề mới

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top