ngan trang
New member
- Xu
- 159
Hình ảnh người phụ nữ & tiếng nói nhân đạo trong văn học nửa cuối TK18 - nửa đầu TK19
Hình ảnh người phụ nữ & tiếng nói nhân đạo trong văn học nửa cuối TK18 - nửa đầu TK19?
Nghị luận wa 2 tác phẩm :
* Chinh phụ ngâm ( Đặng Trần Côn )
* Truyên Kiều ( Nguyễn Du) : wa các đoạn trích : trao duyen, nỗi thương mình, thề nguyền, chí khí anh hùng
Gợi ý làm bài "Chinh phụ ngâm":
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Đặng Trần Côn và tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc : Đặng Trần Côn , ngưòi làng Nhân Mục , huyện Thanh Trì ( nay là ngoại thành Hà Nội ) , sinh vào khoảng năm 1710 – 1720, mất chừng năm 1745, thọ chưa đầy 45 tuổi .Thuở nhỏ , ông học giỏi , thi đậu Hương cống , nhưng hỏng thi Hội .Từng giữ chức Huấn, đạo ở trường học phủ , sau làm Tri huyện Thanh Oai , rồi thăng chức Ngự sử đài chiếu khám chưa được bao lâu thì mất .Nhà thơ viết Chinh phụ ngâm khúc bằng chữ Hán , vào khoảng 1740 – 1742 , vào thời kỳ rối ren , loạn lạc nhất của lịch sử dân tộc .Bản dịch hiện nổi tiếng nhất phụ nữ xinh đẹp , học giỏi và có tài văn chương .
- Giới thiệu ý kiến nêu ở luận đề.
II. Thân bài
1.Chinh phụ ngâm khúc phản ánh một vấn đề nóng hổi của thời đại , là tiếng nói chống chiến tranh phi nghĩa và khát vọng hoà bình của nhân dân .
- Đặng Trần Côn sống vào thời đại phong kiến suy tàn ,giai cấp thống trị chuyên chế phong kiến suy tàn ,giai cấp thống trị chuyên chế.
- Phan Huy Chú trong lịch Triều hiến chương loại chí viết Vì đầu Cảnh Hưng có việc binh đao , cảnh biệt li của người đi lính thú khiến ông cảm xúc mà làm . Đầu đời Cảnh Hưng tức là khoảng năm 1740 , việc binh nổi dậy ở đây là chỉ phong troà nông dân nghĩư rầm rộ lúc bấy giờ như cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hưng , Lê Duy Mật.Như vậy ,theo các nhà nghiên cứu ước đoán , Đặng Trần Côn viết Chinh phụ ngâm khúc vào những năm 1741 – 1742.
- Vì thế ,cuộc chiến tranh được nói đén trong Chinh phụ ngâm khúc là cuộc chiến tranh phi nghĩa nhằm đàn áp phong trào khởi nghĩa nông dân của giai cấp thống trị . Đây là quả vấn đề nóng hổi của thời đại.
- Chinh phụ ngâm khúc không phản ánh toàn diện cuộc chiến . Khúc ngâm chỉ đi sâu vào khía cạnh chiến tranh làm tan vỡ hạnh phúc gia đình .Chinh phụ ra đi để lại người vợ héo hon sầu muộn, hoài phí tuổi xuân .Trong khi đó , bản thân chàng ở nơi chiến trường có một cuộc sống đen tối , vân mệnh bị đe doạ:
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi , đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
mặt chinh phụ trăng dõi soi
................................................
Xông pha gió bãi trăng dõi dõi soi
Tên treo đầu ngựa , pháo đan mặt thành.
- Hình ảnh chàng trai trẻ oai phong lẫm liệt chỉ xuất hiện thoáng qua ở đầu tác phẩm còn trong nỗi nhớ thương của Chinh phụ , chang hiện lên thật tiều tuỵ , mệt mỏi , bạc nhược:
Não kia thăm thẳm từng trên,
Lòng quê qua đó ,mặt sầu chẳng khây
Thật khác ca với thời Lý - Trần ,văn học mang hơi thở của thời đại , hừng hực hào khí Đông A , con người Đại Việt có khát vọng lập công giúp nước, hùng khí ngất trời.
- Như vậy , qua hình ảnh chinh phụ , tác phẩm đã kín đáo lên án giai cấp thống trị , bầy tỏ khát vọng được sống hoà bình của nhân dân :
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gay dựng cho nên nỗi này?
.................................................
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?
Mặt chinh phụ ai vẽ cho nên ?
2. Chinh phụ ngâm là lời than thở triền miên , da diết của người phụ nữ có chồng ra trận.
- Toàn bộ khúc ngâm , 476 câu , là diễn biến tâm trạng của người chinh phụ.
+Từ lúc biết chàng với nỗi đau đớn chia lìa:
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
+Đến khi tưởng tượng chàng ở nơi biên ải vói niềm lo lắng ngóng trông và cuối cùng là hy vọng mong manh ngày chàng trở về:
Nền huân tước đai cân rạng vẻ,
Chữ đồng hưu bia để nghìn dòng.
Ơn trời tử ấm thê phong ,
Phận vinh,thiếp cũng đượm chung hương trơi.
- Nhưng sâu sắc nhất là nỗi nhớ nhung , sầu muộn của người phụ nữ tre tuổi khao khát sống hạnh phúc lứa đôi lại phải sống cô đơn , lẻ loi.
+Có lúc nàng ngậm ngùi:
Sương như búa bổ mòn guốc liễu.
Tuyết dường cưa , xẻ héo cành ngô.
Giọt sương phủ bụi chim gù ,
Sâu tường kêu vẳng , chuông chùa nện khơi.
+Có lúc nàg bầy tỏ niềm khao khát hạnh phúc một cách mãnh liệt qua hình ảnh hoa nguyệt quấn quít với nhau:
Hoa giãi nguyệt , nguỵet in một tấm,
Nguyệt lồng hoa , hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa,hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu!
III. Kết luân:
Những câu thơ trong Chinh phụ ngâm khúc là tiếng lòng não nùng , chua xót của người thiếu phụ cô đơn lẻ bóng,ngày qua tháng lại ngóng trông mòn mỏi người chồng ở nơi chiến chiến địa.Hơn ba trăm năm đã trôi qua , nhưng tiếng lòng ấy da diết nhớ mong, như một lời nhắc nhở người đời về sự tàn khốc , thảm hại của các cuộc chiến tranh đối với con người.
nguồn:giangvien.
Hình ảnh người phụ nữ & tiếng nói nhân đạo trong văn học nửa cuối TK18 - nửa đầu TK19?
Nghị luận wa 2 tác phẩm :
* Chinh phụ ngâm ( Đặng Trần Côn )
* Truyên Kiều ( Nguyễn Du) : wa các đoạn trích : trao duyen, nỗi thương mình, thề nguyền, chí khí anh hùng
Gợi ý làm bài "Chinh phụ ngâm":
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Đặng Trần Côn và tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc : Đặng Trần Côn , ngưòi làng Nhân Mục , huyện Thanh Trì ( nay là ngoại thành Hà Nội ) , sinh vào khoảng năm 1710 – 1720, mất chừng năm 1745, thọ chưa đầy 45 tuổi .Thuở nhỏ , ông học giỏi , thi đậu Hương cống , nhưng hỏng thi Hội .Từng giữ chức Huấn, đạo ở trường học phủ , sau làm Tri huyện Thanh Oai , rồi thăng chức Ngự sử đài chiếu khám chưa được bao lâu thì mất .Nhà thơ viết Chinh phụ ngâm khúc bằng chữ Hán , vào khoảng 1740 – 1742 , vào thời kỳ rối ren , loạn lạc nhất của lịch sử dân tộc .Bản dịch hiện nổi tiếng nhất phụ nữ xinh đẹp , học giỏi và có tài văn chương .
- Giới thiệu ý kiến nêu ở luận đề.
II. Thân bài
1.Chinh phụ ngâm khúc phản ánh một vấn đề nóng hổi của thời đại , là tiếng nói chống chiến tranh phi nghĩa và khát vọng hoà bình của nhân dân .
- Đặng Trần Côn sống vào thời đại phong kiến suy tàn ,giai cấp thống trị chuyên chế phong kiến suy tàn ,giai cấp thống trị chuyên chế.
- Phan Huy Chú trong lịch Triều hiến chương loại chí viết Vì đầu Cảnh Hưng có việc binh đao , cảnh biệt li của người đi lính thú khiến ông cảm xúc mà làm . Đầu đời Cảnh Hưng tức là khoảng năm 1740 , việc binh nổi dậy ở đây là chỉ phong troà nông dân nghĩư rầm rộ lúc bấy giờ như cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Hưng , Lê Duy Mật.Như vậy ,theo các nhà nghiên cứu ước đoán , Đặng Trần Côn viết Chinh phụ ngâm khúc vào những năm 1741 – 1742.
- Vì thế ,cuộc chiến tranh được nói đén trong Chinh phụ ngâm khúc là cuộc chiến tranh phi nghĩa nhằm đàn áp phong trào khởi nghĩa nông dân của giai cấp thống trị . Đây là quả vấn đề nóng hổi của thời đại.
- Chinh phụ ngâm khúc không phản ánh toàn diện cuộc chiến . Khúc ngâm chỉ đi sâu vào khía cạnh chiến tranh làm tan vỡ hạnh phúc gia đình .Chinh phụ ra đi để lại người vợ héo hon sầu muộn, hoài phí tuổi xuân .Trong khi đó , bản thân chàng ở nơi chiến trường có một cuộc sống đen tối , vân mệnh bị đe doạ:
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo,
Bến Phì gió thổi , đìu hiu mấy gò.
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
mặt chinh phụ trăng dõi soi
................................................
Xông pha gió bãi trăng dõi dõi soi
Tên treo đầu ngựa , pháo đan mặt thành.
- Hình ảnh chàng trai trẻ oai phong lẫm liệt chỉ xuất hiện thoáng qua ở đầu tác phẩm còn trong nỗi nhớ thương của Chinh phụ , chang hiện lên thật tiều tuỵ , mệt mỏi , bạc nhược:
Não kia thăm thẳm từng trên,
Lòng quê qua đó ,mặt sầu chẳng khây
Thật khác ca với thời Lý - Trần ,văn học mang hơi thở của thời đại , hừng hực hào khí Đông A , con người Đại Việt có khát vọng lập công giúp nước, hùng khí ngất trời.
- Như vậy , qua hình ảnh chinh phụ , tác phẩm đã kín đáo lên án giai cấp thống trị , bầy tỏ khát vọng được sống hoà bình của nhân dân :
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gay dựng cho nên nỗi này?
.................................................
Trên trướng gấm thấu hay chăng nhẽ?
Mặt chinh phụ ai vẽ cho nên ?
2. Chinh phụ ngâm là lời than thở triền miên , da diết của người phụ nữ có chồng ra trận.
- Toàn bộ khúc ngâm , 476 câu , là diễn biến tâm trạng của người chinh phụ.
+Từ lúc biết chàng với nỗi đau đớn chia lìa:
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
+Đến khi tưởng tượng chàng ở nơi biên ải vói niềm lo lắng ngóng trông và cuối cùng là hy vọng mong manh ngày chàng trở về:
Nền huân tước đai cân rạng vẻ,
Chữ đồng hưu bia để nghìn dòng.
Ơn trời tử ấm thê phong ,
Phận vinh,thiếp cũng đượm chung hương trơi.
- Nhưng sâu sắc nhất là nỗi nhớ nhung , sầu muộn của người phụ nữ tre tuổi khao khát sống hạnh phúc lứa đôi lại phải sống cô đơn , lẻ loi.
+Có lúc nàng ngậm ngùi:
Sương như búa bổ mòn guốc liễu.
Tuyết dường cưa , xẻ héo cành ngô.
Giọt sương phủ bụi chim gù ,
Sâu tường kêu vẳng , chuông chùa nện khơi.
+Có lúc nàg bầy tỏ niềm khao khát hạnh phúc một cách mãnh liệt qua hình ảnh hoa nguyệt quấn quít với nhau:
Hoa giãi nguyệt , nguỵet in một tấm,
Nguyệt lồng hoa , hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa,hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu!
III. Kết luân:
Những câu thơ trong Chinh phụ ngâm khúc là tiếng lòng não nùng , chua xót của người thiếu phụ cô đơn lẻ bóng,ngày qua tháng lại ngóng trông mòn mỏi người chồng ở nơi chiến chiến địa.Hơn ba trăm năm đã trôi qua , nhưng tiếng lòng ấy da diết nhớ mong, như một lời nhắc nhở người đời về sự tàn khốc , thảm hại của các cuộc chiến tranh đối với con người.
nguồn:giangvien.