Hình ảnh mẹ qua ca dao

Bút Nghiên

ButNghien.com
Ca dao về mẹ là một trong những mảng độc đáo trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Nó phản ánh tình cảm thiêng liêng cao quý nhưng lại rất gần gũi giữa cuộc sống đời thường. Nó đi vào lòng người một cách nhẹ nhàng, êm ái nhưng đọng lại rất sâu và rất lâu.

Trong cuộc đời của mỗi chúng ta, từ lúc sinh ra và lớn lên ai mà không có mẹ và ai mà không cần có mẹ. Chính vì có mẹ ta mới có một tuổi thơ ngọt ngào và khôn lớn nên người. Tình mẹ là một tình yêu thiêng liêng, cao cả không gì thay thế được, chỉ có mẹ mới chịu đựng được bao nỗi nhọc nhằn, lao tâm lao lực với con. Những tháng cưu mang là những tháng ngày mẹ phải vất vả, ăn không ngon, ngủ không yên, đi đứng khó khăn, nhưng mẹ vẫn cảm thấy vui vì mẹ biết rằng rồi đây mẹ sẽ có con- một niềm vui lớn không gì đánh đổi được. Cho đến lúc con được sinh ra và lớn lên, cũng là nỗi vất vả, khó khăn của mẹ chất chồng. Mẹ vui cùng những bước đi chập chững của con, mẹ đau lòng mỗi khi con vấp ngã, mớm cho con từng ngụm nước, muỗng cơm, mỗi bước đi của con đều có mẹ dắt dìu, nâng đỡ... Thế là con lớn lên từ đôi tay ấm nồng của mẹ, từ dòng sữa ngọt ngào, từ tình yêu thương bao la của mẹ... Ôi! lòng mẹ thật cao đẹp làm sao! Trong dòng đời xuôi ngược, trong những lo toan của cuộc đời, đôi khi con quên mẹ, con bận bịu với cuộc sống, với chén cơm, manh áo, bận tâm với những cái tủn mủn, nhỏ nhặt, nhưng con chưa bao giờ bận bịu với mẹ, để rồi một ngày nào đó con thất bại giữa cuộc đời, con lại về với mẹ, lại nhớ về công ơn của mẹ:

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.

Ngày xưa mẹ là thế, bao đau khổ của cuộc đời, mọi khó khăn của cuộc sống mẹ đều gánh lấy, mẹ chỉ mong sao cho con được vui, được trưởng thành: cơm dù khô dù nhão vẫn nhai nhuyễn, lừa xương lừa sóc bỏ ra để có búng cơm ngọt ngào mớm cho con. Ôi! búng cơm ngày nào sao con không nghĩ được, bây giờ hóa ra rất lớn lao, lớn lao ở cái tình mẹ mà giờ đây dường như nó còn nghèn nghẹn ở cuống họng của con. Cuộc sống của con bây giờ có lẽ đã hơn trước, không phải chịu cảnh cơ hàn như cuộc sống của mẹ ngày nào. Con lại nhớ đến mẹ, muốn phụng dưỡng mẹ, muốn bù đắp lại bao tháng ngày khổ cực của mẹ, nhưng mẹ đã không còn, mẹ không thể chia sẻ cùng con những món ngon ngày xưa mẹ không có, có chăng những lúc con dâng cúng mẹ, cầu mong mẹ về đây cùng con san sẻ, và con lại cầu nguyện để mẹ được bình yên nơi ấy, linh hồn mẹ được siêu thoát, để rồi con xin mẹ phù hộ cho con được bình an hạnh phúc...

Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp mật như đường mía lau.

Thật ra con đã biết được cái ngày khắc nghiệt này, nên con lo sợ mẹ bỏ con, con thầm mong cho mẹ luôn luôn được khỏe mạnh, được yên vui, nhưng cuộc sống có quy luật riêng của nó, do đó con không cưỡng lại được, mẹ phải già và thật sự bây giờ mẹ đã già. Mẹ đi không nổi, phải vịn vào tường, phải bám thanh giường mà đi. Nhưng với con, mẹ vẫn khỏe, vẫn là chỗ dựa. Trên mỗi bước con đi trong cuộc đời đều có mẹ, phải vịn mẹ mới mong khỏi vấp ngã. Dù con bao nhiêu tuổi đi nữa, với mẹ con vẫn là đứa trẻ lên ba, phải tập tễnh vào đời dưới đôi tay dìu dắt của mẹ. Nhưng ông trời thật khắc nghiệt, không để con mãi mãi được gần mẹ, nên con phải đi, tự tìm hạnh phúc của riêng con, bỏ lại mẹ già không ai chăm sóc:

Đi đâu mà bỏ mẹ già
Gối nghiêng ai sửa, kỷ trà ai nâng?

Quả là đau xót quá phải không? Tấm lòng cao sâu của mẹ ngày nào chưa được đền đáp, mẹ cưu mang cho đến ngày lọt lòng, lại chăm chăm từng bước con đi, biết bao gian truân phải không mẹ? Giờ đây mẹ đã già yếu rồi không ai nương tựa, con vì cuộc sống mà phải xa mẹ để mẹ cô đơn trong tuổi già, đến nỗi mẹ nằm “gối nghiêng” không ai sửa và một chung trà cũng chẳng có ai dâng cho mẹ. Con nghe như bên tai con văng vẳng lời trách móc của mẹ, tuy nhẹ mà đau. Mẹ ơi, con không bao giờ quên ơn của mẹ, hình ảnh mẹ đã tạc vào ngày tháng thành con, con nhớ như in hình bóng mẹ, cái mùi rơm rạ lẫn mùi bùn hòa trộn mồ hôi trên vai áo mẹ đêm đêm vẫn theo con vào giấc mơ, những sợi tóc ngả màu của mẹ như quyện chặt vào đời con, làm sao con quên được khi con mang tình mẹ rong chơi suốt cả tuổi thơ vẫn chưa tìm cách để trả ơn mẹ. Con tự biết ơn mẹ như trời biển làm sao mà trả được, nhưng ít nhiều con cũng cố gắng, dù chỉ một phần rất nhỏ, rất nhỏ cho mẹ:

Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.

Con chỉ làm được có thế, nhường cơm cho mẹ hầu mong đáp lại một phần công lao trời biển của mẹ, dù con có đói, có thiếu ăn, phải ăn “hột chà là” con vẫn cảm thấy vui khi mà được nhường cơm cho mẹ. Bởi con biết mẹ đã già, răng mẹ đã yếu nên con nhường cơm cho mẹ. Có lẽ mẹ sẽ không nỡ ăn, vì thương con mà mẹ không nỡ, mẹ vẫn như ngày nào: Thà chịu đói, chịu khổ để con được sung sướng. Nhưng mẹ ơi, hãy vì chút lòng hiếu thảo của con mà ăn cơm. Nếu không, một ngày nào đó con sẽ mất mẹ, sẽ không lo được cho mẹ. Con không thể có cuộc sống sung sướng để mẹ an hưởng tuổi già, con chỉ có tấm lòng, một tấm lòng rất nhỏ được sinh ra từ tấm lòng lớn của mẹ. Con không thấy tóc mẹ đã đen trở lại như thời con gái, nhưng dường như những sợi bạc đã ngừng rụng xuống:

Mẹ già như mít chín cây
Gió đông cũng sợ, gió tây cũng buồn.

Con mong tóc mẹ đừng bạc thêm, đừng rụng xuống nữa mà quặn lòng con. Càng già mẹ càng yếu thì con lại càng lo, lo một ngày không còn mẹ, cuộc đời con rồi sẽ ra sao? Mẹ như một dải khói giữa trời theo cuộc đời tan biến thì con sẽ đơn côi. Tình thương mẹ càng về già càng tỏa hương thơm ngát thì con càng lo sợ vì con đã hiểu được trái tim yêu thương của mẹ:

Mẹ ơi đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau mẹ nhờ.

Cuộc sống dẫu có làm chai sạn bàn tay mẹ cũng không thể làm bớt đi một chút tình thương con trong trái tim người mẹ. Một lằn roi mẹ vụt xuống cho con khôn lớn là bao đêm mẹ khóc lặng thầm. Nhờ lằn roi mẹ mà con biết bắt ốc, hái rau. Nhờ lằn roi mẹ mà con biết sống giữa cuộc đời. Từ lằn roi ấy con đã lớn lên, lớn lên từ tình thương của mẹ. Thế nhưng, cuộc đời luôn là những ngã rẽ phức tạp mà con người khó tránh được, để rồi con phải xa mẹ, theo chồng:

Ghe bầu trở lái về đông
Con gái theo chồng bỏ mẹ ai nuôi?

Câu hỏi như lời trách móc nhưng ẩn chứa trong đó cả tình thương. Con theo chồng mẹ sẽ vất vả hơn trong cuộc sống, nhưng đổi lại con đã được hạnh phúc. Tương lai con đang chờ phía trước, mẹ sẽ thành đôi cánh giúp ước mơ con bay lên. Mai này con làm mẹ, con sẽ hiểu hết tình mẹ như mẹ đã trao hết cho con. Dù xa mẹ nhưng con vẫn luôn nhớ về mẹ:

Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Theo chồng dẫu được hạnh phúc nhưng con vẫn không quên mẹ. Sau những ngày tất bật của cuộc sống con được thanh thản, con lại nhớ về mẹ. Con tựa cửa trông về quê mẹ, nơi mà con sống trọn tuổi thơ êm đềm của mình. Nơi mà con có một người mẹ cao cả, lúc nào cũng bận bịu vì con, lo cho con từng giấc ngủ, bước đi, dạy cho con lẽ phải cuộc đời... Giờ đây, con không ở bên cạnh mẹ, chắc mẹ buồn lắm, cô đơn lắm. Ai sẽ lo cho mẹ ở tuổi xế chiều? Con thì lại ở xa mẹ, nghĩ đến đó mà lòng con thắt lại, ruột con đau “chín chiều”. Chiều chiều và chiều! Cái khoảng cách ấy luôn bám vào con như một hình dáng mà mẹ đã sinh ra. Con cảm thấy buồn, cảm thấy nhớ mẹ, bởi có buồn nào dày hơn nỗi buồn “sinh ly tử biệt” ?

Có rất nhiều bài thơ viết về mẹ, rất nhiều bài hát viết về mẹ nhưng có lẽ đặc sắc hơn hết là ca dao về mẹ. Ca dao về mẹ đã nâng niu những tình mẫu tử cao quý nhất của con người, giúp con người cảm nhận được một thứ tình cảm thiêng liêng không gì thay thế được. Ca dao về mẹ dẫn ta đi như dẫn người con bé bỏng, rất ngoan. Đọc ca dao về mẹ, chúng ta như qua được chiều dài của tình cảm con người. Ở đó, ta đã vui buồn với nhau về tình mẫu tử. Những câu ca dao về mẹ như khép lại giùm chúng ta sự bon chen danh lợi của cuộc sống để hướng vào thế giới tình người.

(Theo Trần Phỏng Diều)​
 
Mẹ trong ca dao

Mama (IlDivo)

[FLASH]https://www.nhaccuatui.com/m/D-bvzWqGCZ[/FLASH]

Trong các hình ảnh về gia đình mà mỗi người chúng ta còn giữ lại, có lẽ hình ảnh về mẹ là sâu đậm và rõ rệt hơn cả. Nó rõ rệt đến nỗi không chỉ được gợi lại qua các kỷ niệm của cuộc sống thường ngày, mà còn được viết ra cả trong thơ văn. Không cần nhìn đâu xa, chỉ cần rở bất cứ một cuốn tục ngữ ca dao nào ra, thì ta cũng đọc được nhan nhản những câu ca phác họa hình ảnh mẹ.

1. Bức tranh thứ nhất mà ca dao Việt Nam vẽ về mẹ là bức tranh bà mẹ nghĩa đức dầy công lao sinh đẻ, nuôi nấng và vun trồng gầy dựng cho con cái. Công lao này có thể được tóm gồm qua chữ ‘nghĩa‘ :

Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.


Có khi công lao ấy lại được tổng hợp trong chữ ‘đức‘ :

Công cha đức mẹ cao dầy,
Cưu mang trứng nước những ngày thơ ngây.


Có một điều đặc biệt là hình ảnh về mẹ thường gắn liền với hình ảnh cha. Hầu như không bao giờ ca dao nói về mẹ mà không nói về cha. Ngay cả khi dùng những hình ảnh đối chọi nhau, như núi với nước, ca dao luôn luôn nghĩ rằng cha mẹ là hai người, dẫu khác nhau, nhưng luôn bổ túc cho nhau và không thể chia lià nhau được. Gia đình ấm cúng yên vui, bởi vậy, luôn luôn là cái viễn ảnh, là cái khung trời trong đó mẹ được vẽ.

Vợ chồng là nghĩa tào khang,
Chồng hoà vợ thuận nhà trường yên vui;
Sinh con mới ra thân người,
Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no.


Là vợ hiền, là mẹ tốt, tất nhiên bà là yếu tố căn bản gây nên cái đức của gia đình, làm cho cuộc sống được vuông tròn, trong đó, chồng vinh hiển, con sang giầu. Và hình ảnh ấy không người chồng nào, không người con nào quên được.

Cây xanh thì lá cũng xanh,
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
Mừng cây rồi lại mừng cành,
Cây đức lắm chồi, người đức lắm con.
Ba vuông sánh với bảy tròn,
Đời cha vinh hiển, đời con sang giầu.


Đó là lý do khiến bất cứ một ai thành thân thành người, cũng đều nghĩ rằng công ơn đầu tiên là của cha mẹ. Nét vẽ thứ ba trong bức tranh về bà mẹ nghĩa đức dầy công lao nuôi nấng và gầy dựng cho con cái là công ơn chăm sóc vun trồng của bà.

Trứng rồng lại nở ra rồng,
Hạt thông lại nở cây thông rườm rà.
Có cha sinh mới ra ta,
Làm nên thời bởi mẹ cha vun trồng.


Nét vẽ vun trồng khó nhọc cho con cái thường được vẽ đậm và biểu tượng bằng hình ảnh sương tuyết.

Cây khô chưa dễ mọc chồi,
Bởi mẹ chưa dễ ở đời với ta,
Non xanh bao tuổi mà già,
Bởi vì sương tuyết hoá ra bạc đàu.


2. Bức tranh mẹ nghĩa đức dầy công lao sinh đẻ, nuôi nấng và vun trồng gầy dựng cho con cái là bức tranh tổng quát thường được xếp hàng đầu và thường dễ thấy nhất trong ca dao. Nhưng không chỉ có bức tranh ấy. Bên cạnh bức tranh nghĩa và đức của mẹ, người ta còn thấy bức tranh thứ hai, có lẽ chi tiết hơn, nhưng không kém vẻ kiều diễm. Đó là bức tranh người mẹ, bà giáo hiền dậy con. Trong cái khung cảnh thái bình và hạnh phúc của nền kinh tế và văn hoá nông nghiệp, lý tưởng giáo dục của các bà mẹ không vượt ngoài khuôn khổ lý tưởng giáo dục chung của xã hội, trong đó, trai thì phải xuất xử, gái thì phải cửi canh :

Trên trời có cái cầu vồng,
Kẻ chợ cầu Muống, cửa đông cầu Rền
Vua trên đền, cầu vàng cầu bạc,
Các lái buôn cầu nước cầu non
Đôi ta cầu của cầu con,
Con đẹp giống mẹ, con dòn giống cha.
Con gái dệt cửi trong nhà,
Con trai đi học đỗ ba khoa liền.
Con lớn thì đỗ trạng nguyên,
Hai con tiến sĩ đỗ liền cả ba.
Vinh qui bái tổ về nhà,
Bõ công đèn sách mẹ cha nuôi thầy.


Có một ước vọng rõ rệt như vậy về cuộc đời cho con cái, bà không ngần ngại đem ra áp dụng bằng cách khuyên dậy, răn bảo con cái :

Con ơi, muốn nên thân người,
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.
Gái thì giữ việc trong nhà,
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa.
Trai thì đọc sách ngâm thơ,
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.
Mai sau nối được nghiệp nhà,
Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân.


Trong việc dậy bảo, giáo dục ấy, dường như việc khoa bảng và nho học là quan trọng hơn cả.

Mừng nay nho sĩ có tài,
Bút nghiên dóng dả giùi mài nghiệp Nho.
Rõ ràng nên đấng học trò,
Công danh hai chữ trời cho dần dần.
Tình cờ chiếm được bảng xuân,
Ấy là phú quí đầy xuân quế hoè.
Một mai chân bước Cống, Nghè,
Vinh qui bái tổ, ngựa xe đưa mình.
Bốn phương nức tiếng vang lừng,
Ngao du Bể Thánh, vẫy vùng Rừng Nho.
Quyền cao chức trọng Trời cho,
Bõ công học tập, bốn mùa chúc minh.
Vui đâu bằng Hội đề danh,
Nghề đâu bằng nghiệp học hành là hơn.
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy xuôi.
Phu nhân thời có công nuôi,
Toàn gia hưởng phúc lộc trời ban cho.
Vì vậy, bà cố sức :
Dậy con từ thủa tiểu sinh,
Gần thầy, gần bạn tập tành lễ nghi.
Học cho cách vật trí tri,
Văn chương chữ nghĩa, nghề gì cũng thông
.

Và không quên nhắc nhở con cái về cái gia nghiệp, về đức cần kiệm, về cách làm ăn :

Trăm năm như cõi trời chung,
Trăm nghề cũng phải có công mới thành.
Cứ trong gia nghiệp nhà mình,
Ngày đêm xem sóc giữ gìn làm ăn.
Chữ rằng ‘Tiểu phú do cấn’,
Còn như ‘Đại phú‘ là phần ‘do thiên’.
Đừng trễ nải, chớ ghét ghen,
Còn như lộc nước, có phen dồi dào.

Bà cũng không quên rắng xã hội không chỉ có ‘sĩ‘, mà còn có ‘nông’, ‘công’ và ‘thương’. Và chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Khổng nho, bà vẫn tâm niệm rằng :

Trời thu vừa gặp tiết lành,
Muôn dân yên khỏe thái bình âu ca.
Muốn cho yên nước, yên nhà,
Một là đắc hiếu, hai là đắc trung.
Trong bốn nghiệp ra công gắng sức,
Đường nghĩa phương ta phải khuyên con.


3. Cạnh kề hai bức tranh trên, còn một bức tranh thứ ba rất linh hoạt về mẹ. Đó là bức tranh người mẹ đảm đang. Dĩ nhiên cũng như hai bức tranh trước, trong bức tranh này, người mẹ tốt và người vợ hiền như chồng lên nhau thành một. Sự đảm đang của bà trước nhất là ở việc quán xuyến công việc cửa nhà.

Canh một dọn cửa dọn nhà,
Canh hai dệt cửi, canh ba đi nằm.
Lo cho chồng học hành
Canh tư bước sang canh năm,
Trình anh dậy học, chớ nằm làm chi.
Nữa mai Chúa mở khoa thi,
Bảng vàng choi chói kìa đề tên anh.
Bõ công cha mẹ sắm sanh,
Sắm nghiên, sắm bút cho anh học hành.
Lo lắng săn sóc nuôi nấng con cái
Miệng ru mắt nhỏ đôi hàng
Thương con càng lớn mẹ càng thêm lo


Nết đảm đang thứ hai của bà là ở sự thông thạo công việc đồng áng.

Khó thay công việc nhà quê,
Cùng năm khó nhọc dám hề khoan thai.
Tháng chạp thời mắc trồng khoai,
Tháng giêng trồng đău, tháng hai trồng cà.
Tháng ba cầy vỡ ruộng ra,
Tháng tư bắt mạ thuận hòa mọi nơi.
Tháng năm gặt hái vừa rồi,
Bước sanh tháng sáu nước trôi đầy đồng.
Nhà nhà, vợ vợ, chồng chồng,
Đi làm ngoài đồng, sá kể sớm trưa.
Tháng sáu, tháng bảy khi vừa,
Vun trồng giống lúa, bỏ chừa cỏ tranh.
Tháng tám lúa rỗ đã đành,
Tháng mười cắt hái cho nhanh kịp người.
Khó khăn làm mấy tháng trời,
Lại còn mưa nắng bất thời khổ trông.
Cắt rồi nộp thuế nhà công,
Từ rầy mới được yên lòng ấm no.


Và nét đảm đang thứ ba của bà được thấy rõ ở việc thành thạo công thương.

Một năm chia mười hai kỳ,
Thiếp ngồi thiếp tính khó gì chẳng ra.
Tháng giêng ăn tết ở nhà,
Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm.
Tháng ba đi bán vải thâm,
Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về,
Tháng sáu em đi buôn bè,
Tháng bảy, tháng tám trở về đong ngô...


4. Trong ba bức tranh trên, hình ảnh đảm đang của bà mẹ đã được họa trong khung cảnh của một gia đình đầy đủ. Nhưng cuộc sống không phải lúc nào cũng hoàn hảo như thế. Có những lúc người cha đi vắng. Sự can đảm của người mẹ thực là cao cả. Bức tranh thành ra chứa chất những nét đớn đau, vừa hào hùng, vừa bi thảm. Bức tranh thứ tư về mẹ phải là bức tranh ‘Mẹ can đảm sầu bi ‘

Anh đi, em ở lại nhà,
Hai vai gánh vác mẹ già con thơ.
Lầm than bao quản muối dưa,
Anh đi, anh liệu chen đua với đới.


Hoặc thì nét nhớ nhung, nét cô đơn phảng phất khắp bức tranh.

Bác mẹ già lơ phơ đầu bạc,
Con chàng còn trứng nước thơ ngây.
Có hay chàng ở đâu đây,
Thiếp xin mượn cánh chắp bay theo chàng.

Bức tranh này thành ra thống thiết, nếu sự vắng bóng của người cha là vĩnh viễn. Hình ảnh mẹ góa nuôi con côi thực là chơi vơi.

Thiệt hại thay cho thằng bé nên ba,
Nó lăn, nó khóc giữa nhà năm gian,
Khóc than giữa chốn linh sàng,
Ba vuông nhiễu tím đôi hàng chữ vôi.
Chớ thiệt hại thay, người khác thì đã yên rồi,
Để cho người sống ở đời trơ vơ.
Ba bốn năm nhang khói thiếp tôi phụng thờ,
Đầu đội chữ hiếu, tay xe chữ tình.
Chữ Hiếu Trung, tôi gánh vác một mình,
Chẳng hay chàng có thấu tình thiếp hăng ?
Đường đi Khuất nẻo khói chùng.



Dĩ nhiên về người mẹ, ca dao Việt Nam không chỉ họa có bốn bức tranh trên, mà còn họa biết bao bức tranh khác nữa, trong đó nhiều hình ảnh khác được ghi nhận, nhiều nét vẽ khác được phác họa, nhiều sắc mầu khác được tô điểm. Nhưng đó là bốn bức độc đáo hơn cả.

Trong những bức khác, nét vẽ có vẻ tượng trưng, trừu tượng hơn, thoạt nhìn chẳng thấy nét nào về mẹ, như những bức tranh sơn thủy, tứ thời, đồng áng. Nhưng nếu biết mẹ là biểu tượng của sự khôn ngoan, được diễn tả bằng hình ảnh nước, mẹ là nguồn gốc và là kết quả của việc đồng áng,...thì những bức tranh về mẹ đếm sao cho hết.

Có những bức khác, hình ảnh mẹ lại ẩn hiện trong những cảnh khác của cuộc sống : cảnh cưới hỏi, cảnh đình đám, cảnh chợ búa,... Đâu đâu, nếu biết nhìn, và muốn nhìn, thì người ta cũng thấy những hình ảnh mẹ.

Vì hình ảnh mẹ được vẽ nhiều và khắp nơi như vậy, thành ra nhiều lúc và nhiều người không thấy mẹ, nhất là những lúc còn mẹ, có mẹ. Nhưng khi nào mẹ mất, lúc đó người ta mới thấy mẹ ; đúng hơn là thấy thiếu mẹ./.

Theo: Trần Văn Cảnh
 
Mọi người thử đọc một bài thơ do cobengoc sáng tác khi xa nhà này nha:

Ngồi một mình nhớ mẹ
Mà tôi nhớ năm xưa
Nhớ những lời dạy bảo
Mà mẹ đã dặn dò.
Tôi cảm thấy nhạt nhòa
Khi cảnh đời thay đổi
Những thời gian bên mẹ
Chẳng còn được bao nhiêu.
Kỉ niệm khi xưa đó
Giờ đây như sống lại
Lúc buổi đầu đi học
Lúc khi bị ngã đau
Và khi ấy bàn tay
Ấm áp của mẹ yêu
Đã dìu dắt tôi đi
Trên quãng đường khó nhọc.
Trong cuộc sống hiện nay
Chẳng mấy ai như ta
Có người thì còn mẹ
Có người thì cô đơn.
Bởi vậy nhắc nhở ai
Hãy biết kính trọng mẹ
Để sau này hối hận
Sẽ không còn lần hai...
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top