Bạn coi thử những ý trình bày mà mình tìm được nhé:
Câu 1: Giải thích tính cộng đồng của thị tộc
Xã hội nguyên thủy trải qua hai chế độ công xã thị tộc mẫu hệ và công xã thị tộc phụ hệ.
Ở công xã thị tộc mẫu hệ, người ta đã biết chăn nuôi gia súc và đã tiến tới nông nghiệp dùng cuốc. Chính nông nghiệp đã xác lập địa vị và vai trò trọng yếu của người đàn bà trong nền sản xuất xã hội lúc bấy giờ. Hội họa, điêu khắc, âm nhạc, ca hát, nhảy múa, trang sức, v.v...đều gắn chặt với sinh hoạt tập thể của mọi thành viên trong thị tộc.
Ở công xã thị tộc phụ hệ, sự phát triển cao hơn của nền sản xuất xã hội ở thời đại đồ kim loại đã đem lại những biến đổi mới trong xã hội và thay đổi địa vị của người phụ nữ.
Việc này xảy ra trước tiên ở các bộ lạc chăn nuôi. Việc chăn nuôi phát triển đã làm tăng thêm của cải cho gia đình và cho thị tộc, đời sống do đó được cải thiện nhiều hơn trước. Từ săn bắn sang chăn nuôi, công việc vẫn do đàn ông đảm nhiệm. So với kinh tế người đàn ông thì lúc này kinh tế của người đàn bà trở nên kém quan trọng. Người đàn ông bắt đầu có nhận thức về sự mâu thuẫn giữa địa vị thấp kém của mình với công lao ngày càng lớn của mình trong gia đình và thị tộc. Muốn giải quyết mâu thuẫn đó, chỉ cần xóa bỏ huyết tộc theo họ mẹ và thừa kế mẹ, xác lập huyết tộc theo họ cha và quyền thừa kế cha. Chế độ mẫu quyền dần dần chuyển thành chế độ phụ quyền.
Chế độ hôn nhân đối mẫu đã chuyển sang chế độ gia đình một vợ một chồng. Quá trình hình thành gia đình một vợ một chồng lại gắn liền với quá trình phát sinh chế độ tư hữu, với quá trình phân hoá xã hội thành giai cấp.
Câu 2: Tư hữu xuất hiện đã dẫn tới sự thay đổi trong xã hội nguyên thủy như thế nào?
Dưới chế độ cộng sản nguyên thủy, không có sự bóc lột, sự thống trị, sự nô dịch giữa người này hay tập đoàn này đối với người khác hay tập đoàn khác trong xã hội. Sở dĩ như thế là vì của cải là thuộc sở hưũ tập thể của thị tộc, bộ lạc, không ai nảy ra tư tưởng bóc lột người khác.
Bước sang thời kỳ xuất hiện đồ kim loại, do điều kiện sản xuất đã tiến bộ hơn, năng suất lao động trong các ngành cao hơn, lao động của mỗi người không những có thể đảm bảo được những nhu cầu tối thiểu cho đời sống của bản thân và con cái, mà còn có thể sản xuất dội hơn một ít nữa, có thể làm ra được một số sản phẩm thặng dư. Do đó ma có thể nảy sinh hiện tượng người bóc lột người tức là sự chiếm đoạt sản phẩm thặng dư do người khác làm ra. Từ đó người ta bắt đầu nghĩ đến cách bóc lột sức lao động của những tù binh bị bắt trong chiến tranh, họ đã biến thành nô lệ của thị tộc. Như vậy là chế độ nô lệ đã xuất hiện. Ðó là hình thức áp bức bốc lột đầu tiên giữa người với người, đồng thời đó cũng là một bước tiến lớn của lịch sử, vì sự boúc lột lao động của nô lệ có tác dụng đẩy mạnh sự tích lũy của cải cần cho sự phát triển cao hơn của nền sản xuất xã hội.
Sự tích lũy của cải tư hữu ngày càng nhiều dưới hình thức ruộng tư, súc vật, hàng hóa hay tiền tệ làm cho sự chênh lệch về tài sản và về địa vị xã hội giữa các gia đình phụ hệ trong cùng một thị tộc hay giữa các thị tộc trong cùng một bộ lạc ngày càng rõ rệt. Dần dần xã hội thị tộc phân hóa thành lớp những người giàu và lớp những kẻ nghèo
Giai cấp xuất hiện thì mâu thuẫn giai cấp phát sinh và không ngừng phát triển ngày càng sâu sắc. Ðến một lúc nào đó, mâu thuận giai cấp không thể diều hòa được nữa thì giai cấp quý tộc giàu có đặt ra bộ máy nhà nước pháp làm công cụ thống trị để đàng áp sự phản kháng của nô lệ và dân nghèo.
Nhà nước xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử vào khoảng cuối thiên niên kỷ IV đầu thiên niên kỷ thứ III trước công nguyên. Ðó là những nhà nước cổ đại ở Ai Cập, ở Lưỡng Hà, ở Trung Quốc, ở Ấn Ðộ, v.v...
Nhìn chung mà nói, hình thái nhà nước xuất hiên đầu tiên là nhà nước chiếm hữu nô lệ, vì chế độ chiếm hữu nô lệ là hình thức bóc lột giai cấp đơn sơ nhất, thô bạo nhất. Trên cơ sở hình thái kinh tế - xã hội đó, loài người đã xây dựng một nền văn minh cổ đại rực rỡ.