Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Hành trình nhận thức duy niệm của nhân loại
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Butchi" data-source="post: 9453" data-attributes="member: 7"><p><strong>Chân Lý</strong></p><p></p><p>Trước khi đi vào nhận thức triết học, con người luôn luôn phải bước qua cổng thành Chân lý. Nói thế không có nghĩa, chân lý là đặc ân hay nguyên tắc riêng có của triết học. Một chiếc tên lửa của ngành vật lý chẳng hạn, nó không thể bay khi không đảm bảo những sự thật về trọng lực – vận động – và nhiên liệu. Ngành hóa học cũng sẽ không thể tác thành nổi dù một phân tử nước (H2O) nếu họ trộn 2 nguyên tử chưa thành Hydro với một nguyên tử Oxy rởm. Ngay trong đời sống hàng ngày từ việc nhỏ nhất đến việc lớn nhất cũng đều phải bám sát chân lý. Một người đến cửa hàng dây điện cầm vào cả cuộn dây cũng không hề sợ, vì anh biết rằng ở đó không có điện; nhưng vào trường hợp chỉ có một mẩu dây điện đính trên tường, thì anh lại cầm bút thử điện thử xem có điện không? Bởi nếu anh không thận trọng sẽ bị điện giật. Nước chưa sôi không thể pha trà, bởi thế, khi sản xuất những bình đun kín người ta phải gắn đồng hồ đo nhiệt độ để xem nước đã ở khoảng 100o. Hai người va chạm nhau, kéo nhau ra tòa, người nói thế này, người nói thế kia, bởi thế tòa mới cần đến người thứ ba làm chứng cho sự thật, để phân giải theo sự thật. </p><p></p><p> Con người sống, làm việc, hay nghiên cứu các ngành khoa học hiển nhiên điều phải tuân thủ những điều kiện và nguyên tắc chân lý. Nhưng đó là chân lý tự thân. Có thể so sánh các loài vật đều có sinh dục thì mới sản sinh – duy trì – phát triển, nhưng đó là sinh dục bản năng, và chúng chưa bao giờ có bộ môn “khoa học tình dục”. Các ngành khoa học nhắm đến những mục đích đặc thù, và chân lý là nguyên tắc hiển nhiên để lần tìm chân lý. Bởi thế, có thể nói, chỉ có triết học mới là ngành khoa học gần như trọn vẹn và duy nhất tìm tòi thẳng vào bản chất của chân lý. Cũng có thể nói,<em> triết học là khoa học về chân lý</em> (trong khi đó, các ngành khoa học khác là những khoa học nhắm đến những đối tượng riêng rẽ của mình dựa trên tinh thần chân lý.)</p><p></p><p>Vào lúc khởi đầu triết học Hy Lạp, trước Công nguyên, triết gia Aristote đã nói: <em>“Tình yêu chân lý là đức hạnh lớn nhất”.</em> Theo ông, chân lý không chỉ là tiêu chuẩn thiết yếu của nhận thức, mà mở màn, đó là đức hạnh. Tại sao là đức hạnh? Trước ông, triết gia Platon đã lý giải, mọi chân lý, mọi vẻ đẹp, mọi cao thượng ở đời sẽ trở nên vô nghĩa nếu không mang đức hạnh. Hai nhà triết học cùng nghiên cứu chân lý chẳng hạn, cái gì sẽ xảy ra, nếu vào ngày cuối cùng phát giác ra vấn đề mới của chân lý, một nhà triết học hất bỏ đồng nghiệp của mình công bố phát minh của người kia thành của mình? Hai họa sỹ cùng treo tranh lên tường triển lãm, giá trị cái đẹp sẽ ra sao nếu ngày trao thưởng người ta đánh thó trao cho bức tranh xấu hơn giải cao hơn và ngược lại? Trước tòa án cũng vậy, công lý ở đâu, nếu quan tòa hay kẻ làm chứng bị mua chuộc đã công bố cái không xảy ra là sự thật? Điều đó, cho thấy phát minh ư, tài năng ư, sẽ chẳng là gì nếu con người sống ngoài đức hạnh về chân lý? Chính bởi đức hạnh về một chân lý tối cao, mà Boileau quả quyết: <em>“Không gì đẹp bằng sự thật, chỉ cái thật mới đáng yêu”.</em></p><p><em></em></p><p><em></em>Cái thật – đó là chân lý – là cái khởi đầu mọi sự - và chính sự khởi đầu đặt căn bản trên sự thật đó, là cái duy nhất có thể đạt đến tột cùng. Nhà tư tưởng Krisnamurti nói: <em>“Người ta không thể nào phủ nhận một sự kiện. Người ta chỉ có thể phủ nhận ý kiến về sự kiện”.</em> Một cách tràn đầy hơn, trong <em>Kinh Thánh</em>, Chúa Trời phán bảo: <em>“Không có gì bưng bít mà không bị lộ tẩy, không có gì dấu diếm mà chẳng bị vạch trần. Điều gì thầy nói cho chúng con trong bóng tối hãy công bố nơi sáng sủa. Sự gì chúng ta nghe thì thầm trong tai hãy nói trên mái nhà”.</em> (Kinh Mathews) </p><p></p><p>Vậy chân lý là gì? Tiếng Latin là <em>Véritas</em>, tiếng Pháp bắt nguồn từ đó là <em>Vérité</em>, một cách giản dị hơn tiếng Anh gọi là <em>Sự thật</em> với từ <em>Truth</em>. </p><p> <em>Chân lý là sự thật!</em> Một cách giản dị trực tiếp và hiện thực, trí óc con người (cả loài vật) chỉ tiếp nhận cái gì là thật. Chẳng hạn, kiến trúc là ngành cổ nhất của con người vì việc đầu tiên con người phải tìm chỗ trú hay xây dựng tổ ấm, người ta buộc phải chọn hang nào không quá ẩm mốc để khỏi viêm phổi, nơi nào an toàn không bị thú dữ, rắn rết bọ cạp tấn công, nếu dựng nhà thì phải biết cách dựng cây cột cho thẳng để nhà không xiêu vẹo, đổ nát. Khi tìm thức ăn cũng vậy, người ta buộc phải nhận biết lá nào độc, cây nào ăn được. Gặp thú hoang thì con nào vô hại, con nào phải tránh. Hoặc nước mát nhưng có thể gây chết đuối, lửa nóng lại làm chín thức ăn. </p><p></p><p> Tóm lại, một cách thiết thân, trí óc chỉ thâu nạp những gì là thật, những bản tin thật, và những gì đã lấy ra khỏi những lớp hình thức đánh lừa, giả ngụy. Triết gia Lagneau nói: <em>“Tư duy chỉ có thể có được đối tượng là thực tại”</em>(1). Morfaux lý giải như sau: <em>“Tư tưởng chỉ có thể đạt tới từ một trực giác đơn giản, cái thể hiện như “thật” trong một “hiển nhiên”, cái là riêng rẽ trong khi nó là “tư tưởng” hay hình ảnh của yếu tính</em>”(2).</p><p> Chân lý là sự thật. Nhưng sự thật đó thế nào? Chẳng hạn như triết gia Descartes minh giải, khi chúng ta nhúng một chiếc que xuống nước, thấy nó bị cong to ra, và ngắn lại. Nhưng sự thực không phải vậy, chiếc que vẫn thẳng, nghĩa là sự thật của nó vẫn thẳng, chỉ có con mắt của ta bị tính khúc xạ của nước đánh lừa. Hay từ xa, chúng ta nhìn thấy một tháp chuông nhà thờ, trông nó tròn, nhưng lại gần thì nó vuông góc, sở dĩ có sự nhầm lẫn đó vì từ xa mắt chúng ta không nhìn ra nổi cạnh góc vuông. Sự thật của một chiếc gậy trong tầm tay, của một tháp chuông trong tầm mắt còn có khả năng gây lạc hướng như vậy, thử hỏi những sự thật tinh vi dấu sau vô vàn hiện tượng phức tạp, hay xa xôi vời vợi như các vì tinh tú, thì còn dễ lạc hướng đến đâu? Bởi thế muốn tìm đến chân lý, trí óc con người phải biết gạt bỏ những ảo ảnh lạc hướng, những giả trang che đậy, để tìm ra cốt lõi của sự thật. Hegel nói: <em>“Bản chất là chân lý của tồn tại”</em> (3). Có thể hiểu, bất cứ sự vật nào, sự thật đích thực về nó phải quy về bản chất mang sự thật của nó – đó chính là cái làm cho nó <em>tồn tại như là chân lý- và trong chân lý. </em></p><p></p><p> <p style="text-align: center"><p style="text-align: left"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #0000ff">Mahatma Gandhi (1869-1943)</span></span></p> <p style="text-align: left"></p> </p><p>Nhưng muốn tiến đến sự thật, đặc biệt là sự thật bởi chủ tri con người và cho con người. Con người không còn cách nào khác hơn là xúc tiến lý trí của mình mong tiếp cận – thâu tóm sự thật của đối tượng. Các nhà thực chứng, nghĩa là những con người chủ trương nắm bắt sự thật bằng Chứng – Nghiệm – Thực, như Leibniz và Hume đã đưa ra hai điều thật: 1. Những cái <em>tiên thiên</em> (priori) được hiểu nhắm đến kinh nghiệm và sự phân tích (analytic).</p><p>2. Những cái <em>hậu thiên</em> (prosterior) và còn là sự tổng hợp (synthetic) (4)</p><p>Nghĩa là đứng trước một sự vật, bằng giác quan, như thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác, con người mở đầu tiếp nhận nó, sau đó có kinh nghiệm về nó và trí óc phân tích để phân loại, phân hạng, phân biệt… Còn “hậu thiên”là con người tổng hợp mọi phân tích của mình để tìm ra sự thật. Từ những nhà thực chứng, có thể rút ra: Thí nghiệm, thể nghiệm, ứng nghiệm, trải nghiệm là cách mà con người muốn đi vào để tìm ra chân lý.</p><p></p><p style="text-align: center"><p style="text-align: left"> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #0000ff">Nghị viện La mã</span></span></p> <p style="text-align: left"></p> </p><p>Con người dùng nhận thức của mình để tìm hiểu sự vật – thật sự như là sự vật, là con đường từ lý trí chủ quan gặt lấy chân lý khách quan. Trong<em> “Từ điển triết học phương Tây hiện đại”,</em> triết gia Moore chỉ ra: <em>“Chân lý phải là sự phù hợp của phán đoán với bằng chứng và nhiệm vụ của triết học là phân tích bản chất của sự phù hợp đó”</em> (5).</p><p></p><p> Đến đây, chúng ta đang đi vào trung tâm của vấn đề chân lý. Ngay buổi rạng sáng của triết học Hy Lạp, Parménide đã xác định: <em>“Trên con đường chân lý, người ta tuyên bố sự đồng nhất của hữu thể và tư duy” </em>(6)</p><p> Theo cách đó, thì khi tư duy có khả năng đồng nhất nhận thức của mình với bản chất của sự vật, nói cách khác, khi tư duy và sự vật tìm được tiếng nói chung về bản chất của sự vật, thì chân lý xuất hiện. Một cách đồng tình, Aristote cũng xác định: <em>“Chân lý tương xứng, xứng thể giữa thức và thể”</em></p><p></p><p> Kế tiếp đó Hegel cũng khẳng định tính tất yếu của tồn tại chân lý trong và với ý thức: <em>“Cái gì thực là cái có lý, cái gì có lý là thực”.</em></p><p> Hegel còn chỉ rõ hơn, ngay cả khi ý thức chưa xuất hiện để thấu hiểu bản chất sự vật, thì bản thân sự vật vẫn thai nghén chân lý tự thân của nó.</p><p></p><p> <em>“Chân lý và thực tại luôn luôn song hành.”</em> (La vérité et la réalité sont toujours marche)(6).</p><p></p><p> Còn Boieau thì diễn giải cụ thể hơn về chân lý: <em>“Chân lý sự hòa hợp giữa tư tưởng với đối tượng của nó”.</em></p><p></p><p> Trong<em> “Bút ký triết học”,</em> Lenin đã lĩnh hội về chân lý như sau: <em>“Chân lý đó là cái khách quan, đó là quan hệ độc lập với người quan sát. Trên thực tế đó là cái được mọi người thừa nhận, đó là cái làm đối tượng cho kinh nghiệm phổ biến, cho sự đồng ý phổ biến”</em> (trang 494)</p><p></p><p> Tại sao chân lý luôn đòi hỏi hai thành phần sự vật và chủ tri? Bởi vì:</p><p></p><p> 1. <strong><em>Sự vật</em></strong>: Là đối tượng tự thân cung cấp cho con người “địa chỉ” hiểu biết về chính nó.</p><p></p><p> 2. <em><strong>Chủ tri</strong></em>: Là nhận thức của con người định hướng tìm hiểu bản chất của sự vật. Thế giới không có con người, thế giới vẫn tồn tại một cách khách quan, nhưng vô cảm – vô tri, bởi vì theo các triết gia thì <em>“thế giới chỉ có ý nghĩa trong và bởi tinh thần”</em> (le monde n’a de sens que dans et par la’esprit) (7). Một cách rõ ràng, Lenin diễn giải: <em>“Con người cần phải công nhận: Chân lý mà con người có thể đạt được là một chân lý của con người. Với chữ này, chúng ta không muốn nói rằng chân lý đó là tương đối, theo ý nghĩa hoài nghi chủ nghĩa của chữ ấy. Mà muốn nói rằng chân lý phụ thuộc vào kết cấu của loài người và chỉ có giá trị đối với loài người mà thôi”</em>(8)</p><p></p><p>Chân lý, đến đây, với chúng ta tưởng đã lộ hiện ra khá rõ ràng đó là: nhận biết đan kết đồng nhất với sự vật hay thực tại. Nhưng con đường của chân lý còn gian nan lắm, mà dường như mọi nỗ lực trên mới chỉ là bước khởi đầu. Pascal nói: <em>“Chân lý bên này dãy Pyrénees là ngộ nhận ở bên kia”.</em> Các nhà triết học thường dẫn dụ, người ở bên này con sống thường gọi người bên kia là “bên ấy”, người bên kia lại gọi nói họ đúng là “bên này”. Bên này hay bên ấy, bên ấy hay bên này không tùy thuộc thực thể địa lý mà phụ thuộc vào chỗ đứng của mỗi bên. Và có một chuyện rất điển hình về chân lý: Ngày kia, có hai hiệp sĩ tới từ hai phía đối diện, lúc gặp nhau, cùng lúc họ đều thấy một chiếc gia huy treo trên cành cây. Hiệp sĩ bên này nói “mặt nó bằng vàng”. Hiệp sĩ bên kia nói “mặt nó bằng bạc”. Hai bên cãi nhau, rồi lăn vào hỗn chiến. Sau nhiều hiệp hai người cùng ngã ngựa và ngã về hai hướng của nhau. Nhìn lên, hiệp sĩ “bạc” thấy gia huy mặt vàng, và hiệp sĩ “vàng” thấy gia huy mặt bạc. Thế là chiếc gia huy có hai mặt cả vàng lẫn bạc. Nhưng do chưa kịp nhìn kỹ cả hai phía, hai bên đã vội vàng cãi cọ và ẩu chiến lẫn nhau. Họ đánh nhau để bảo vệ “cái đúng” từ phía mình. Các triết gia cũng xác định, chưa nói đến những gì to tát và huyền bí, chỉ cần đặt một bao diêm trước mặt, chúng ta cũng không thể nào nhìn thấu cả sáu mặt của bao diêm, bởi lẽ ánh mắt của ta chỉ rọi từ một phía. Vậy thì chân lý dù chỉ là nhận thức của chúng ta đồng nhất với hữu thể, nhưng chính chúng ta còn chưa đồng nhất với nhau – nghĩa là chưa mang “giá trị có ý nghĩa chung” thì làm sao có thể thâu hái chân lý phổ quát như là công lý?</p><p></p><p>Đó mới chỉ là thái độ sai lầm tự nhiên, nông nổi, bồng bột, tuy vậy vẫn là vô tư. Nhưng có một thái độ nguy hiểm hơn, đó là cách con người cố tình che đậy chân lý, đánh lạc hướng sự thật, thậm chí giết người diệt khẩu mong vùi chôn chân lý. Nhà văn Exupéry nói:<em> “Chân lý cho kẻ này là xây dựng, nhưng cho kẻ kia nó lại là sử dụng”.</em> Chẳng hạn, như chúng ta biết ngay khi phát hiện về nguyên tử được tìm kiếm, thì nhiều thế lực chưa vội vàng xây dựng nó cho dân sinh mà lập tức sử dụng nó như một thuốc nổ siêu công phá để tàn hại con người, răn đe đối phương. Trước một tòa án cũng vậy, không phải lúc nào sự việc cũng được xử theo công lý, đúng người, đúng tội, mà sự thật đã bị rất nhiều thế lực của tiền tài, quyền vụ khủng bố bóp méo. Rõ hơn, trong tương quan giữa ông chủ và người làm thuê, ông chủ thì muốn bóc lột nhiều hơn, người làm thuê thì muốn ăn bớt công đoạn, bớt nguyên liệu… giá trị sản phẩm là cái hai bên hội tụ nhưng bị phân thân thành hai vụ lợi, thử hỏi làm sao họ có thể nhất trí được về sự thật “công ăn việc làm”? Trong chiến tranh, người ta thấy không ít lần, hai bên đều gõ trống khua chiêng về sự chiến thắng của mình, để tìm cách khích lệ các chiến binh hãy đánh nhau tiếp. Đặc biệt với quân đội Đức trong chiến tranh thế giới II chỉ còn mấy ngày nữa là đội quân tan rã, vậy mà Hitle, giới Chóp bu và tướng tá vẫn bưng bít và làm ra vẻ một sự thật; quân ta đang chiến thắng, sắp khải hoàn. Trong văn chương, nghệ thuật, hay các ngành kinh doanh tồn tại không ít thói “khen vờ chê giả” mong tạo ra những giá trị giả ngụy, và chôn vùi những giá trị thật. Những dẫn dụ trên rất ít ỏi để minh chứng sự khó khăn của con người khi muốn đồng nhất với chân lý, bởi chính con người là cái tạo ra giá trị công lý, do vụ lợi, ngụy trá, ngụy biện cho mình, đã muốn biến sự thật không phải thành chân lý, mà thành miếng mồi cho mình sử dụng. Không chỉ chân lý xã hội cái bị mưu cầu lợi ích của người nay lẫn người kia, nhóm này hay nhóm khác, quốc gia này và quốc gia nọ bị bóp méo thành sử dụng mà với tự nhiên cũng vậy. Chúng ta thử hình dung, loài người cần bảo vệ môi trường sống, nhưng những kẻ săn ngà voi, đàn gỗ quý và lấy mật cá heo sẽ biện hộ thế nào để tiếp tục tàn phá thiên nhiên vụ lợi cho mình?</p><p></p><p> Chân lý không chỉ hiện ra một cách khó khăn khi chính chủ tri con người nhiều khi vụ lợi đã tự đánh lạc hướng mình. Mà khó khăn hơn, một cách thành thật, con người bị mắc vào những éo le, những mâu thuẫn, những nghịch lý trong việc nhìn ra chân lý. Chẳng hạn, một vấn nạn rất lớn của đức tin, đó là Thượng Đế. Có nhà triết học nói: Cái tôi nhìn thấy thì tôi tin, điều đó chẳng có nghĩa gì. Chỉ khi nào tôi không thấy mà vẫn tin, thế mới là Đức Tin. Thêm nữa, nếu như phải tin về một Thượng Đế vô lượng, vô biên, toàn văn thì cách chi để con mắt giới hạn của ta có thể thấy ngài. Vả lại muốn thấy ngài như thấy một muôn mặt của trần gian là vô hình trung đã kéo phẩm chất thánh thần xuống phẩm chất thế tục. Những người uyên bác như Newton và Einstein, rút cục đều tin vào Chúa khi so sánh cái giới hạn của Khoa học với vũ trụ vô biên. Newton nói: <em>“Khoa học chỉ là một chút đá cuội và vỏ sò trên bãi biển”.</em> Còn Einstein thì bảo: <em>“Mọi nghệ thuật và khoa học chân chính đều bắt đầu từ đức tin.”</em> Như vậy, chân lý không chỉ đến từ lý trí phổ quát, khả nghiệm, khả giác, khả lý mà như nhà bác học Pascal đã vạch ra một con đường khác của chân lý: <em>“Chúng ta đi đến chân lý không phải bằng lý trí mà bằng con tim”.</em></p><p></p><p> Chưa hết, chân lý không phải chỉ là cái bộ phận, nó còn là cái toàn thể. Dòng sông khởi từ nguồn nhưng chảy về biển cả, ở nguồn hay ở cửa biển nó vẫn là sông. Một bé gái xét toàn thể sẽ là một bà già, vậy cô bé là lúc nào đây? Hay là tất cả? Và bé đó tất nhiên phải chết, vậy cuộc sống của bé có bao gồm cả cái chết? Nếu nói, cuộc sống của bé không bao hàm cái chết, thì tại sao khi chết, ảnh của “bé – bà” được treo trên bàn thờ, được nhớ, được cúng, được tham dự vào suy nghĩ, sinh hoạt của người sống? Một con người đang sống, không phải chết đứng, mà đang vận động, một sợi tóc hôm nay còn xanh mai đã bạc là bởi nó vận động trong từng tích tắc. Chính thế, mà mở màn “định lý vạn vật”, Heraclite đã nói: <em>"Tất cả đều vận động, không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông, vì lần hai ta bước xuống, nước đã chảy khác đi."</em> Và chính bản thân ta cũng thay đổi khác trước, để không còn giống mình lần một khi bước xuống dòng sông. Nếu Aristote cho rằng: <em>“Hữu thể là hữu thể đang có”</em>, thì đến Hegel cho rằng: <em>“Hữu thể là quá trình toàn thể”.</em> Bởi thế, theo Hegel chân lý không chỉ đang có mặt, mà còn đang trở thành (có lẽ giống một cô bé sẽ trở thành thiếu nữ). Hegel nói: <em>“Tất cả chân lý đều đang trở thành”</em> (9). Và Lenin đã lĩnh hội ý của Hegel như sau: <em>“Lịch sử khoa học cho chúng ta thấy chân lý trong cái sinh thành của một sự phát triển; chân lý chưa hình thành nhưng nó đang hình thành (có lẽ) chân lý không bao giờ hình thành, nó sẽ hình thành thêm mãi?”</em> (10)</p><p></p><p> Chân lý không phải chỉ là sự thật của sự vật trong khoảnh khắc nó là, mà là toàn bộ quá trình nó hình thành để hoàn thành, giống như dòng sông không thể chỉ chảy chỗ nọ không chảy chỗ kia, mà chảy trọn vẹn cả dòng trôi, sau khi phát kiến mọi chân lý đều đang trở thành, Hegel tổng quan: <em>“Chân lý là toàn thể”</em> (Das wahr is’t das gang) (10)</p><p></p><p> <p style="text-align: center"><p style="text-align: left"><em> <span style="font-size: 15px"><span style="color: #0000ff">Oliver Cromwell (1599–1658)</span></span></em></p> <p style="text-align: left"></p> </p><p>Vì chân lý là quá trình trở thành, là toàn thể từ đầu đến cuối, nghĩa là vô hạn, trong khi đó con người chỉ là giới hạn không thể có nổi toàn năng – toàn trí để nắm bắt chân lý toàn bộ. Husserl nói: <em>“Lịch sử của chân lý là lịch sử của nhận thức chân lý”.</em> Theo đó, có thể coi, chân lý cũng vận động tiến triển như lịch sử của loài người. Emile Bréhier có một cách nói tương tự: <em>“Bản chất của triết học là tìm kiếm chân lý chứ không phải nắm giữ chân lý”.</em> Và có một quan điểm chia sẻ tính vận động của chân lý: <em>“Chân lý không còn là chân lý khi ta cho rằng đã nắm được nó. Thực sự chân lý chính là cái thoát khỏi sự chiếm đoạt của ta”</em> (11)</p><p></p><p> Đến đây, sau một hành trình, chân lý có vẻ đang nở rộ để thoát khỉ chính bản thân nó. Chân lý là hữu thể? Là thực tại? là đang hình thành? Hay toàn thể? Là những vấn nạn không dễ chút nào. Nhưng con người không thể lẩn trốn cuộc hành hương chân lý, bởi như Saint Augustine nói:<em> “Chúng ta sẽ chẳng thu lượm được gì nếu không quên mình tìm đến mùa gặt chân lý”</em>. Hay như Nietzsche công báo: <em>“Một lôi cuốn vì đại sát cánh với chúng ta có thể là lôi cuốn to lớn nhất: lôi cuốn về chân lý”.</em></p><p></p><p> Con người không thể không muốn sống thật, yêu thật, hạnh phúc thật, nhận thức thật, có phẩm chất thật, mang giá trị thật; bởi thế con người chắc hẳn luôn luôn tìm tòi sự thật, bản chất thật, ý nghĩa thật, nội dung thật. Nhưng cái gì là thật? Khi mà từ nội dung cho đến hình thức, từ chủ tri con người đến đối tượng luôn chòng chành – biến dịch – vận động – thay đổi – đang hình thành mà chưa hoàn thành? Về câu hỏi này Descartes đã giúp chúng ta. Ít nhất, để khởi sự, ông nói: <em>“Ý chí là chân lý”.</em> Đúng vậy, con người không thể tìm ra sự thật nếu mở mà không có ý chí đi tìm sự thật. Sau đó phải là thái độ dấn thân kiên trì để tìm ra sự thật. Không một phát minh nào không cố gắng tìm tòi mà có được, không một định lý nào có thể hạ sinh trước nhận thức không cố gắng của con người, không một chân lý nào tự bóc trần lộ hiện trước thái độ thờ ơ không bóc vỏ của nhận thức con người. Bởi thế, Saint Augustine đã công bố một thái độ không sợ sai dấn thân vì chân lý:<em> “Nếu tôi nhầm vậy tôi có. Nghĩa là sở dĩ tôi nhầm là vì tôi sẽ thiết yếu liên tục đến chân lý”.</em> Và giáo hoàng Pius XII cũng chia sẻ quan điểm tương tự: <em>“Ngay cả trong chủ nghĩa sai nhầm, vẫn có thể ẩn giấu một yếu tố chân lý”.</em></p><p></p><p>Để kết thúc chương chân lý, để làm minh bạch phần nào giúp tâm trí không bị trôi dạt qua hệ thống ốc đảo phức tạp của chân lý, tôi xin tóm lược toát yếu sau:</p><p></p><p> <strong>I - Về tinh thần chủ tri, tính chất công lý, hay phạm vi xã hội,</strong> không gì hơn lời phán sau của người Latin: <em>Sự đồng ý của những kẻ khôn ngoan là bằng chứng của chân lý.</em></p><p></p><p> <strong>II – Về tính kỹ thuật chân lý được mở màn từ:</strong></p><p></p><p> 1. Hữu thể và chân lý là một (triết kinh viện)</p><p>2. Thực tại là chân lý.</p><p></p><p>Platon nói:<em> “Thực tại là thế giới của phân nửa chân lý”</em> (La réalité était un monde de demi vérités) (12)</p><p>Và sau cả quá trình hình thành triết học hơn hai thiên kỷ, Hegel vẫn cùng quan niệm: <em>“Chân lý và thực tại luôn luôn song hành”</em> (La vérité et la réalité sont toujours en marche) (13)</p><p></p><p>3. Chân lý biến thiên</p><p></p><p>Về một chân lý đang vận động, chúng ta hãy tham chiếu một ý tưởng trong Bách khoa thần học: <em>“Chân lý là tương quan bộ phận và khả biến, nó phụ thuộc vào cách thức trong đó chủ thể lĩnh hội nó; và nó đổi thay tùy theo hoàn cảnh của nơi chốn và thời gian” </em><em>(14)</em></p><p><em></em>4. Chân lý đang trở thành và hoàn thành trong toàn thể: đây là ý tưởng của Hegel mà chúng ta đã đề cập bên trên.</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Butchi, post: 9453, member: 7"] [B]Chân Lý[/B] Trước khi đi vào nhận thức triết học, con người luôn luôn phải bước qua cổng thành Chân lý. Nói thế không có nghĩa, chân lý là đặc ân hay nguyên tắc riêng có của triết học. Một chiếc tên lửa của ngành vật lý chẳng hạn, nó không thể bay khi không đảm bảo những sự thật về trọng lực – vận động – và nhiên liệu. Ngành hóa học cũng sẽ không thể tác thành nổi dù một phân tử nước (H2O) nếu họ trộn 2 nguyên tử chưa thành Hydro với một nguyên tử Oxy rởm. Ngay trong đời sống hàng ngày từ việc nhỏ nhất đến việc lớn nhất cũng đều phải bám sát chân lý. Một người đến cửa hàng dây điện cầm vào cả cuộn dây cũng không hề sợ, vì anh biết rằng ở đó không có điện; nhưng vào trường hợp chỉ có một mẩu dây điện đính trên tường, thì anh lại cầm bút thử điện thử xem có điện không? Bởi nếu anh không thận trọng sẽ bị điện giật. Nước chưa sôi không thể pha trà, bởi thế, khi sản xuất những bình đun kín người ta phải gắn đồng hồ đo nhiệt độ để xem nước đã ở khoảng 100o. Hai người va chạm nhau, kéo nhau ra tòa, người nói thế này, người nói thế kia, bởi thế tòa mới cần đến người thứ ba làm chứng cho sự thật, để phân giải theo sự thật. Con người sống, làm việc, hay nghiên cứu các ngành khoa học hiển nhiên điều phải tuân thủ những điều kiện và nguyên tắc chân lý. Nhưng đó là chân lý tự thân. Có thể so sánh các loài vật đều có sinh dục thì mới sản sinh – duy trì – phát triển, nhưng đó là sinh dục bản năng, và chúng chưa bao giờ có bộ môn “khoa học tình dục”. Các ngành khoa học nhắm đến những mục đích đặc thù, và chân lý là nguyên tắc hiển nhiên để lần tìm chân lý. Bởi thế, có thể nói, chỉ có triết học mới là ngành khoa học gần như trọn vẹn và duy nhất tìm tòi thẳng vào bản chất của chân lý. Cũng có thể nói,[I] triết học là khoa học về chân lý[/I] (trong khi đó, các ngành khoa học khác là những khoa học nhắm đến những đối tượng riêng rẽ của mình dựa trên tinh thần chân lý.) Vào lúc khởi đầu triết học Hy Lạp, trước Công nguyên, triết gia Aristote đã nói: [I]“Tình yêu chân lý là đức hạnh lớn nhất”.[/I] Theo ông, chân lý không chỉ là tiêu chuẩn thiết yếu của nhận thức, mà mở màn, đó là đức hạnh. Tại sao là đức hạnh? Trước ông, triết gia Platon đã lý giải, mọi chân lý, mọi vẻ đẹp, mọi cao thượng ở đời sẽ trở nên vô nghĩa nếu không mang đức hạnh. Hai nhà triết học cùng nghiên cứu chân lý chẳng hạn, cái gì sẽ xảy ra, nếu vào ngày cuối cùng phát giác ra vấn đề mới của chân lý, một nhà triết học hất bỏ đồng nghiệp của mình công bố phát minh của người kia thành của mình? Hai họa sỹ cùng treo tranh lên tường triển lãm, giá trị cái đẹp sẽ ra sao nếu ngày trao thưởng người ta đánh thó trao cho bức tranh xấu hơn giải cao hơn và ngược lại? Trước tòa án cũng vậy, công lý ở đâu, nếu quan tòa hay kẻ làm chứng bị mua chuộc đã công bố cái không xảy ra là sự thật? Điều đó, cho thấy phát minh ư, tài năng ư, sẽ chẳng là gì nếu con người sống ngoài đức hạnh về chân lý? Chính bởi đức hạnh về một chân lý tối cao, mà Boileau quả quyết: [I]“Không gì đẹp bằng sự thật, chỉ cái thật mới đáng yêu”. [/I]Cái thật – đó là chân lý – là cái khởi đầu mọi sự - và chính sự khởi đầu đặt căn bản trên sự thật đó, là cái duy nhất có thể đạt đến tột cùng. Nhà tư tưởng Krisnamurti nói: [I]“Người ta không thể nào phủ nhận một sự kiện. Người ta chỉ có thể phủ nhận ý kiến về sự kiện”.[/I] Một cách tràn đầy hơn, trong [I]Kinh Thánh[/I], Chúa Trời phán bảo: [I]“Không có gì bưng bít mà không bị lộ tẩy, không có gì dấu diếm mà chẳng bị vạch trần. Điều gì thầy nói cho chúng con trong bóng tối hãy công bố nơi sáng sủa. Sự gì chúng ta nghe thì thầm trong tai hãy nói trên mái nhà”.[/I] (Kinh Mathews) Vậy chân lý là gì? Tiếng Latin là [I]Véritas[/I], tiếng Pháp bắt nguồn từ đó là [I]Vérité[/I], một cách giản dị hơn tiếng Anh gọi là [I]Sự thật[/I] với từ [I]Truth[/I]. [I]Chân lý là sự thật![/I] Một cách giản dị trực tiếp và hiện thực, trí óc con người (cả loài vật) chỉ tiếp nhận cái gì là thật. Chẳng hạn, kiến trúc là ngành cổ nhất của con người vì việc đầu tiên con người phải tìm chỗ trú hay xây dựng tổ ấm, người ta buộc phải chọn hang nào không quá ẩm mốc để khỏi viêm phổi, nơi nào an toàn không bị thú dữ, rắn rết bọ cạp tấn công, nếu dựng nhà thì phải biết cách dựng cây cột cho thẳng để nhà không xiêu vẹo, đổ nát. Khi tìm thức ăn cũng vậy, người ta buộc phải nhận biết lá nào độc, cây nào ăn được. Gặp thú hoang thì con nào vô hại, con nào phải tránh. Hoặc nước mát nhưng có thể gây chết đuối, lửa nóng lại làm chín thức ăn. Tóm lại, một cách thiết thân, trí óc chỉ thâu nạp những gì là thật, những bản tin thật, và những gì đã lấy ra khỏi những lớp hình thức đánh lừa, giả ngụy. Triết gia Lagneau nói: [I]“Tư duy chỉ có thể có được đối tượng là thực tại”[/I](1). Morfaux lý giải như sau: [I]“Tư tưởng chỉ có thể đạt tới từ một trực giác đơn giản, cái thể hiện như “thật” trong một “hiển nhiên”, cái là riêng rẽ trong khi nó là “tư tưởng” hay hình ảnh của yếu tính[/I]”(2). Chân lý là sự thật. Nhưng sự thật đó thế nào? Chẳng hạn như triết gia Descartes minh giải, khi chúng ta nhúng một chiếc que xuống nước, thấy nó bị cong to ra, và ngắn lại. Nhưng sự thực không phải vậy, chiếc que vẫn thẳng, nghĩa là sự thật của nó vẫn thẳng, chỉ có con mắt của ta bị tính khúc xạ của nước đánh lừa. Hay từ xa, chúng ta nhìn thấy một tháp chuông nhà thờ, trông nó tròn, nhưng lại gần thì nó vuông góc, sở dĩ có sự nhầm lẫn đó vì từ xa mắt chúng ta không nhìn ra nổi cạnh góc vuông. Sự thật của một chiếc gậy trong tầm tay, của một tháp chuông trong tầm mắt còn có khả năng gây lạc hướng như vậy, thử hỏi những sự thật tinh vi dấu sau vô vàn hiện tượng phức tạp, hay xa xôi vời vợi như các vì tinh tú, thì còn dễ lạc hướng đến đâu? Bởi thế muốn tìm đến chân lý, trí óc con người phải biết gạt bỏ những ảo ảnh lạc hướng, những giả trang che đậy, để tìm ra cốt lõi của sự thật. Hegel nói: [I]“Bản chất là chân lý của tồn tại”[/I] (3). Có thể hiểu, bất cứ sự vật nào, sự thật đích thực về nó phải quy về bản chất mang sự thật của nó – đó chính là cái làm cho nó [I]tồn tại như là chân lý- và trong chân lý. [/I] [CENTER][LEFT] [SIZE=4][COLOR=#0000ff]Mahatma Gandhi (1869-1943)[/COLOR][/SIZE] [/LEFT] [SIZE=4][/SIZE] [/CENTER] Nhưng muốn tiến đến sự thật, đặc biệt là sự thật bởi chủ tri con người và cho con người. Con người không còn cách nào khác hơn là xúc tiến lý trí của mình mong tiếp cận – thâu tóm sự thật của đối tượng. Các nhà thực chứng, nghĩa là những con người chủ trương nắm bắt sự thật bằng Chứng – Nghiệm – Thực, như Leibniz và Hume đã đưa ra hai điều thật: 1. Những cái [I]tiên thiên[/I] (priori) được hiểu nhắm đến kinh nghiệm và sự phân tích (analytic). 2. Những cái [I]hậu thiên[/I] (prosterior) và còn là sự tổng hợp (synthetic) (4) Nghĩa là đứng trước một sự vật, bằng giác quan, như thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác, con người mở đầu tiếp nhận nó, sau đó có kinh nghiệm về nó và trí óc phân tích để phân loại, phân hạng, phân biệt… Còn “hậu thiên”là con người tổng hợp mọi phân tích của mình để tìm ra sự thật. Từ những nhà thực chứng, có thể rút ra: Thí nghiệm, thể nghiệm, ứng nghiệm, trải nghiệm là cách mà con người muốn đi vào để tìm ra chân lý. [CENTER][LEFT] [SIZE=4][COLOR=#0000ff]Nghị viện La mã[/COLOR][/SIZE] [/LEFT] [SIZE=4][/SIZE] [/CENTER] Con người dùng nhận thức của mình để tìm hiểu sự vật – thật sự như là sự vật, là con đường từ lý trí chủ quan gặt lấy chân lý khách quan. Trong[I] “Từ điển triết học phương Tây hiện đại”,[/I] triết gia Moore chỉ ra: [I]“Chân lý phải là sự phù hợp của phán đoán với bằng chứng và nhiệm vụ của triết học là phân tích bản chất của sự phù hợp đó”[/I] (5). Đến đây, chúng ta đang đi vào trung tâm của vấn đề chân lý. Ngay buổi rạng sáng của triết học Hy Lạp, Parménide đã xác định: [I]“Trên con đường chân lý, người ta tuyên bố sự đồng nhất của hữu thể và tư duy” [/I](6) Theo cách đó, thì khi tư duy có khả năng đồng nhất nhận thức của mình với bản chất của sự vật, nói cách khác, khi tư duy và sự vật tìm được tiếng nói chung về bản chất của sự vật, thì chân lý xuất hiện. Một cách đồng tình, Aristote cũng xác định: [I]“Chân lý tương xứng, xứng thể giữa thức và thể”[/I] Kế tiếp đó Hegel cũng khẳng định tính tất yếu của tồn tại chân lý trong và với ý thức: [I]“Cái gì thực là cái có lý, cái gì có lý là thực”.[/I] Hegel còn chỉ rõ hơn, ngay cả khi ý thức chưa xuất hiện để thấu hiểu bản chất sự vật, thì bản thân sự vật vẫn thai nghén chân lý tự thân của nó. [I]“Chân lý và thực tại luôn luôn song hành.”[/I] (La vérité et la réalité sont toujours marche)(6). Còn Boieau thì diễn giải cụ thể hơn về chân lý: [I]“Chân lý sự hòa hợp giữa tư tưởng với đối tượng của nó”.[/I] Trong[I] “Bút ký triết học”,[/I] Lenin đã lĩnh hội về chân lý như sau: [I]“Chân lý đó là cái khách quan, đó là quan hệ độc lập với người quan sát. Trên thực tế đó là cái được mọi người thừa nhận, đó là cái làm đối tượng cho kinh nghiệm phổ biến, cho sự đồng ý phổ biến”[/I] (trang 494) Tại sao chân lý luôn đòi hỏi hai thành phần sự vật và chủ tri? Bởi vì: 1. [B][I]Sự vật[/I][/B]: Là đối tượng tự thân cung cấp cho con người “địa chỉ” hiểu biết về chính nó. 2. [I][B]Chủ tri[/B][/I]: Là nhận thức của con người định hướng tìm hiểu bản chất của sự vật. Thế giới không có con người, thế giới vẫn tồn tại một cách khách quan, nhưng vô cảm – vô tri, bởi vì theo các triết gia thì [I]“thế giới chỉ có ý nghĩa trong và bởi tinh thần”[/I] (le monde n’a de sens que dans et par la’esprit) (7). Một cách rõ ràng, Lenin diễn giải: [I]“Con người cần phải công nhận: Chân lý mà con người có thể đạt được là một chân lý của con người. Với chữ này, chúng ta không muốn nói rằng chân lý đó là tương đối, theo ý nghĩa hoài nghi chủ nghĩa của chữ ấy. Mà muốn nói rằng chân lý phụ thuộc vào kết cấu của loài người và chỉ có giá trị đối với loài người mà thôi”[/I](8) Chân lý, đến đây, với chúng ta tưởng đã lộ hiện ra khá rõ ràng đó là: nhận biết đan kết đồng nhất với sự vật hay thực tại. Nhưng con đường của chân lý còn gian nan lắm, mà dường như mọi nỗ lực trên mới chỉ là bước khởi đầu. Pascal nói: [I]“Chân lý bên này dãy Pyrénees là ngộ nhận ở bên kia”.[/I] Các nhà triết học thường dẫn dụ, người ở bên này con sống thường gọi người bên kia là “bên ấy”, người bên kia lại gọi nói họ đúng là “bên này”. Bên này hay bên ấy, bên ấy hay bên này không tùy thuộc thực thể địa lý mà phụ thuộc vào chỗ đứng của mỗi bên. Và có một chuyện rất điển hình về chân lý: Ngày kia, có hai hiệp sĩ tới từ hai phía đối diện, lúc gặp nhau, cùng lúc họ đều thấy một chiếc gia huy treo trên cành cây. Hiệp sĩ bên này nói “mặt nó bằng vàng”. Hiệp sĩ bên kia nói “mặt nó bằng bạc”. Hai bên cãi nhau, rồi lăn vào hỗn chiến. Sau nhiều hiệp hai người cùng ngã ngựa và ngã về hai hướng của nhau. Nhìn lên, hiệp sĩ “bạc” thấy gia huy mặt vàng, và hiệp sĩ “vàng” thấy gia huy mặt bạc. Thế là chiếc gia huy có hai mặt cả vàng lẫn bạc. Nhưng do chưa kịp nhìn kỹ cả hai phía, hai bên đã vội vàng cãi cọ và ẩu chiến lẫn nhau. Họ đánh nhau để bảo vệ “cái đúng” từ phía mình. Các triết gia cũng xác định, chưa nói đến những gì to tát và huyền bí, chỉ cần đặt một bao diêm trước mặt, chúng ta cũng không thể nào nhìn thấu cả sáu mặt của bao diêm, bởi lẽ ánh mắt của ta chỉ rọi từ một phía. Vậy thì chân lý dù chỉ là nhận thức của chúng ta đồng nhất với hữu thể, nhưng chính chúng ta còn chưa đồng nhất với nhau – nghĩa là chưa mang “giá trị có ý nghĩa chung” thì làm sao có thể thâu hái chân lý phổ quát như là công lý? Đó mới chỉ là thái độ sai lầm tự nhiên, nông nổi, bồng bột, tuy vậy vẫn là vô tư. Nhưng có một thái độ nguy hiểm hơn, đó là cách con người cố tình che đậy chân lý, đánh lạc hướng sự thật, thậm chí giết người diệt khẩu mong vùi chôn chân lý. Nhà văn Exupéry nói:[I] “Chân lý cho kẻ này là xây dựng, nhưng cho kẻ kia nó lại là sử dụng”.[/I] Chẳng hạn, như chúng ta biết ngay khi phát hiện về nguyên tử được tìm kiếm, thì nhiều thế lực chưa vội vàng xây dựng nó cho dân sinh mà lập tức sử dụng nó như một thuốc nổ siêu công phá để tàn hại con người, răn đe đối phương. Trước một tòa án cũng vậy, không phải lúc nào sự việc cũng được xử theo công lý, đúng người, đúng tội, mà sự thật đã bị rất nhiều thế lực của tiền tài, quyền vụ khủng bố bóp méo. Rõ hơn, trong tương quan giữa ông chủ và người làm thuê, ông chủ thì muốn bóc lột nhiều hơn, người làm thuê thì muốn ăn bớt công đoạn, bớt nguyên liệu… giá trị sản phẩm là cái hai bên hội tụ nhưng bị phân thân thành hai vụ lợi, thử hỏi làm sao họ có thể nhất trí được về sự thật “công ăn việc làm”? Trong chiến tranh, người ta thấy không ít lần, hai bên đều gõ trống khua chiêng về sự chiến thắng của mình, để tìm cách khích lệ các chiến binh hãy đánh nhau tiếp. Đặc biệt với quân đội Đức trong chiến tranh thế giới II chỉ còn mấy ngày nữa là đội quân tan rã, vậy mà Hitle, giới Chóp bu và tướng tá vẫn bưng bít và làm ra vẻ một sự thật; quân ta đang chiến thắng, sắp khải hoàn. Trong văn chương, nghệ thuật, hay các ngành kinh doanh tồn tại không ít thói “khen vờ chê giả” mong tạo ra những giá trị giả ngụy, và chôn vùi những giá trị thật. Những dẫn dụ trên rất ít ỏi để minh chứng sự khó khăn của con người khi muốn đồng nhất với chân lý, bởi chính con người là cái tạo ra giá trị công lý, do vụ lợi, ngụy trá, ngụy biện cho mình, đã muốn biến sự thật không phải thành chân lý, mà thành miếng mồi cho mình sử dụng. Không chỉ chân lý xã hội cái bị mưu cầu lợi ích của người nay lẫn người kia, nhóm này hay nhóm khác, quốc gia này và quốc gia nọ bị bóp méo thành sử dụng mà với tự nhiên cũng vậy. Chúng ta thử hình dung, loài người cần bảo vệ môi trường sống, nhưng những kẻ săn ngà voi, đàn gỗ quý và lấy mật cá heo sẽ biện hộ thế nào để tiếp tục tàn phá thiên nhiên vụ lợi cho mình? Chân lý không chỉ hiện ra một cách khó khăn khi chính chủ tri con người nhiều khi vụ lợi đã tự đánh lạc hướng mình. Mà khó khăn hơn, một cách thành thật, con người bị mắc vào những éo le, những mâu thuẫn, những nghịch lý trong việc nhìn ra chân lý. Chẳng hạn, một vấn nạn rất lớn của đức tin, đó là Thượng Đế. Có nhà triết học nói: Cái tôi nhìn thấy thì tôi tin, điều đó chẳng có nghĩa gì. Chỉ khi nào tôi không thấy mà vẫn tin, thế mới là Đức Tin. Thêm nữa, nếu như phải tin về một Thượng Đế vô lượng, vô biên, toàn văn thì cách chi để con mắt giới hạn của ta có thể thấy ngài. Vả lại muốn thấy ngài như thấy một muôn mặt của trần gian là vô hình trung đã kéo phẩm chất thánh thần xuống phẩm chất thế tục. Những người uyên bác như Newton và Einstein, rút cục đều tin vào Chúa khi so sánh cái giới hạn của Khoa học với vũ trụ vô biên. Newton nói: [I]“Khoa học chỉ là một chút đá cuội và vỏ sò trên bãi biển”.[/I] Còn Einstein thì bảo: [I]“Mọi nghệ thuật và khoa học chân chính đều bắt đầu từ đức tin.”[/I] Như vậy, chân lý không chỉ đến từ lý trí phổ quát, khả nghiệm, khả giác, khả lý mà như nhà bác học Pascal đã vạch ra một con đường khác của chân lý: [I]“Chúng ta đi đến chân lý không phải bằng lý trí mà bằng con tim”.[/I] Chưa hết, chân lý không phải chỉ là cái bộ phận, nó còn là cái toàn thể. Dòng sông khởi từ nguồn nhưng chảy về biển cả, ở nguồn hay ở cửa biển nó vẫn là sông. Một bé gái xét toàn thể sẽ là một bà già, vậy cô bé là lúc nào đây? Hay là tất cả? Và bé đó tất nhiên phải chết, vậy cuộc sống của bé có bao gồm cả cái chết? Nếu nói, cuộc sống của bé không bao hàm cái chết, thì tại sao khi chết, ảnh của “bé – bà” được treo trên bàn thờ, được nhớ, được cúng, được tham dự vào suy nghĩ, sinh hoạt của người sống? Một con người đang sống, không phải chết đứng, mà đang vận động, một sợi tóc hôm nay còn xanh mai đã bạc là bởi nó vận động trong từng tích tắc. Chính thế, mà mở màn “định lý vạn vật”, Heraclite đã nói: [I]"Tất cả đều vận động, không ai có thể tắm hai lần trong một dòng sông, vì lần hai ta bước xuống, nước đã chảy khác đi."[/I] Và chính bản thân ta cũng thay đổi khác trước, để không còn giống mình lần một khi bước xuống dòng sông. Nếu Aristote cho rằng: [I]“Hữu thể là hữu thể đang có”[/I], thì đến Hegel cho rằng: [I]“Hữu thể là quá trình toàn thể”.[/I] Bởi thế, theo Hegel chân lý không chỉ đang có mặt, mà còn đang trở thành (có lẽ giống một cô bé sẽ trở thành thiếu nữ). Hegel nói: [I]“Tất cả chân lý đều đang trở thành”[/I] (9). Và Lenin đã lĩnh hội ý của Hegel như sau: [I]“Lịch sử khoa học cho chúng ta thấy chân lý trong cái sinh thành của một sự phát triển; chân lý chưa hình thành nhưng nó đang hình thành (có lẽ) chân lý không bao giờ hình thành, nó sẽ hình thành thêm mãi?”[/I] (10) Chân lý không phải chỉ là sự thật của sự vật trong khoảnh khắc nó là, mà là toàn bộ quá trình nó hình thành để hoàn thành, giống như dòng sông không thể chỉ chảy chỗ nọ không chảy chỗ kia, mà chảy trọn vẹn cả dòng trôi, sau khi phát kiến mọi chân lý đều đang trở thành, Hegel tổng quan: [I]“Chân lý là toàn thể”[/I] (Das wahr is’t das gang) (10) [CENTER][LEFT][I] [SIZE=4][COLOR=#0000ff]Oliver Cromwell (1599–1658)[/COLOR][/SIZE][/I] [/LEFT] [I] [SIZE=4][/SIZE][/I][/CENTER] Vì chân lý là quá trình trở thành, là toàn thể từ đầu đến cuối, nghĩa là vô hạn, trong khi đó con người chỉ là giới hạn không thể có nổi toàn năng – toàn trí để nắm bắt chân lý toàn bộ. Husserl nói: [I]“Lịch sử của chân lý là lịch sử của nhận thức chân lý”.[/I] Theo đó, có thể coi, chân lý cũng vận động tiến triển như lịch sử của loài người. Emile Bréhier có một cách nói tương tự: [I]“Bản chất của triết học là tìm kiếm chân lý chứ không phải nắm giữ chân lý”.[/I] Và có một quan điểm chia sẻ tính vận động của chân lý: [I]“Chân lý không còn là chân lý khi ta cho rằng đã nắm được nó. Thực sự chân lý chính là cái thoát khỏi sự chiếm đoạt của ta”[/I] (11) Đến đây, sau một hành trình, chân lý có vẻ đang nở rộ để thoát khỉ chính bản thân nó. Chân lý là hữu thể? Là thực tại? là đang hình thành? Hay toàn thể? Là những vấn nạn không dễ chút nào. Nhưng con người không thể lẩn trốn cuộc hành hương chân lý, bởi như Saint Augustine nói:[I] “Chúng ta sẽ chẳng thu lượm được gì nếu không quên mình tìm đến mùa gặt chân lý”[/I]. Hay như Nietzsche công báo: [I]“Một lôi cuốn vì đại sát cánh với chúng ta có thể là lôi cuốn to lớn nhất: lôi cuốn về chân lý”.[/I] Con người không thể không muốn sống thật, yêu thật, hạnh phúc thật, nhận thức thật, có phẩm chất thật, mang giá trị thật; bởi thế con người chắc hẳn luôn luôn tìm tòi sự thật, bản chất thật, ý nghĩa thật, nội dung thật. Nhưng cái gì là thật? Khi mà từ nội dung cho đến hình thức, từ chủ tri con người đến đối tượng luôn chòng chành – biến dịch – vận động – thay đổi – đang hình thành mà chưa hoàn thành? Về câu hỏi này Descartes đã giúp chúng ta. Ít nhất, để khởi sự, ông nói: [I]“Ý chí là chân lý”.[/I] Đúng vậy, con người không thể tìm ra sự thật nếu mở mà không có ý chí đi tìm sự thật. Sau đó phải là thái độ dấn thân kiên trì để tìm ra sự thật. Không một phát minh nào không cố gắng tìm tòi mà có được, không một định lý nào có thể hạ sinh trước nhận thức không cố gắng của con người, không một chân lý nào tự bóc trần lộ hiện trước thái độ thờ ơ không bóc vỏ của nhận thức con người. Bởi thế, Saint Augustine đã công bố một thái độ không sợ sai dấn thân vì chân lý:[I] “Nếu tôi nhầm vậy tôi có. Nghĩa là sở dĩ tôi nhầm là vì tôi sẽ thiết yếu liên tục đến chân lý”.[/I] Và giáo hoàng Pius XII cũng chia sẻ quan điểm tương tự: [I]“Ngay cả trong chủ nghĩa sai nhầm, vẫn có thể ẩn giấu một yếu tố chân lý”.[/I] Để kết thúc chương chân lý, để làm minh bạch phần nào giúp tâm trí không bị trôi dạt qua hệ thống ốc đảo phức tạp của chân lý, tôi xin tóm lược toát yếu sau: [B]I - Về tinh thần chủ tri, tính chất công lý, hay phạm vi xã hội,[/B] không gì hơn lời phán sau của người Latin: [I]Sự đồng ý của những kẻ khôn ngoan là bằng chứng của chân lý.[/I] [B]II – Về tính kỹ thuật chân lý được mở màn từ:[/B] 1. Hữu thể và chân lý là một (triết kinh viện) 2. Thực tại là chân lý. Platon nói:[I] “Thực tại là thế giới của phân nửa chân lý”[/I] (La réalité était un monde de demi vérités) (12) Và sau cả quá trình hình thành triết học hơn hai thiên kỷ, Hegel vẫn cùng quan niệm: [I]“Chân lý và thực tại luôn luôn song hành”[/I] (La vérité et la réalité sont toujours en marche) (13) 3. Chân lý biến thiên Về một chân lý đang vận động, chúng ta hãy tham chiếu một ý tưởng trong Bách khoa thần học: [I]“Chân lý là tương quan bộ phận và khả biến, nó phụ thuộc vào cách thức trong đó chủ thể lĩnh hội nó; và nó đổi thay tùy theo hoàn cảnh của nơi chốn và thời gian” [/I][I](14) [/I]4. Chân lý đang trở thành và hoàn thành trong toàn thể: đây là ý tưởng của Hegel mà chúng ta đã đề cập bên trên. [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Hành trình nhận thức duy niệm của nhân loại
Top