Dẫn nhập đề
1. Tại sao tôi muốn viết cuốn chuyên luận về triết học này?
Người Việt nói riêng, người châu Á nói riêng rất ngại dính mắc vào những vấn đề của triết học. Phần lớn cho rằng, triết học bao gồm những cặp phạm trù khô khan, phức tạp, khó hiểu, chẳng liên quan gì mấy đến cuộc đời nhãn tiền tươi rói, tinh khôi, thực chứng sức sống đang ào ạt tuôn chảy hồn nhiên trào ra khỏi mọi khuôn thức cứng nhắc – mô phạm của triết lý. Và nhiều người hầu như an nhiên tận hưởng bất chấp triết học, cuộc đời vẫn sống, mọi khoa học vẫn phát triển, và mọi nghệ thuật vẫn sum suê đâm cành, nảy lộc.
Nhưng không hẳn vậy. Tôi viết cuốn sách này dựa trên một tiền đề rất chắc chắn, đó là bằng chứng thật của cuộc sống. Thực tế cho thấy có và có rất nhiều những cuộc hội thảo đã diễn ra trong thế kỷ XX. Khi hai nền văn hóa Đông – Tây đã hội nhập, khám phá lẫn nhau, trước mỗi hội nghị bàn về đề tài cụ thể như môi trường, văn hóa, xã hội, y học, vật lý… mỗi đại biểu đều được phát trước một chiếc thẻ phát biểu ý kiến nhưng từ hội nghị này đến hội nghị kia, dường như thói quen đã biến thành thông lệ, thông lệ đã biến thành định kiến khó cải thiện cũng như gột sạch, đó là các đại biểu của bùng châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản hầu như chẳng đưa ra ý kiến nào cụ thể có tính đề tài (thétique) hay chức năng, hay chuyên luận; mà nói chung hội nghị nào cũng như hội nghị nào, họ đều chung chung đưa ra những ý kiến không mũi nhọn, trung dung, vô thưởng vô phạt, trong âm có dương, trong dương chứa âm, thế này cũng không tốt, thế kia cũng chẳng hay, mà chúng ta nên tiến hành một khoa học bao gồm toàn thể. Cụ thể, sau khi giật giải Nobel trên tờ NewYorker (02/1995), nhà văn Nhật Bản Kenzaburo Oe cho rằng: “Ngay cả ngày nay, sau 125 năm công cuộc hiện đại hóa của chúng ta, thì trong con mắt của người châu Âu và châu Mỹ, giá trị của chúng ta vẫn bị thờ ơ. Những người đoạt giải Nobel khác như Milosz, Walcott, Brosky được nhiều người biết đến; còn chúng ta, người phương Tây chẳng khao khát tìm đọc những con người sản xuất xe Honda nhiều lắm. Tôi không hiểu tại sao. Có lẽ chúng ta chỉ là người bắt chước họ hoặc là với con mắt của người châu Âu, chúng ta CHỈ LÀ NHỮNG NGƯỜI THỦ VAI IM LẶNG.
Tình trạng của người Nhật Bản khá là trầm trọng. Ở Mỹ chẳng hạn, tôi thấy nhiều bạn bè tôi lo ngại về đời sống trí tuệ của người dân Mỹ, mặc dù vậy, tôi thấy rất nhiều người thể hiện tính cách độc lập trong suy nghĩ của họ và cũng đầy vi tế trong cư xử cũng như tìm cách thể hiện ý tưởng của mình. Ở Nhật thì đời sống văn hóa quá ư đơn giản, hầu như toàn bộ cách sống của xã hội là xoay quanh phương tiện truyền thông và chỉ có vậy. Và chúng ta rất hiếm khi được nghe thấy ý tưởng của một nhà tư tưởng hay một học giả.” Và Oe mong rằng: Đến một ngày nghệ thuật Nhật Bản sẽ đánh rơi cái đặc tính hàm hồ, tối tăm cố hữu của nó, để vén lộ khả năng đối mặt thật sự với cuộc sống của con người.
Tình trạng đó thật phổ biến ở châu Á. Nó diễn ra bởi chúng ta chìm trong chế độ phong kiến quá lâu. Ở đó, một quân vương có thể chưa biết mặc quần đã lãnh trị cả trăm triệu người. Mỗi lời đánh rơi khỏi miệng dù thanh hay tục đều trở thành thánh chỉ. Mọi người chỉ có mỗi một lựa chọn là rập đầu tuân thủ. Xem một loạt phim về các triều đình phong kiến Trung Quốc, mọi người thường chứng kiến (một cách sử cố) mỗi khi gặp khó khăn, vua triệu quan đại thần đến xin ý kiến, thì chỉ được nghe: “Bệ hạ sáng suốt, xin quyết định! Thần u mê không dám – không hiểu”. Rất hiếm khi, có một quan đại thần trình tấu quan điểm thì các quan lại ào ào phản đối. Vua mới bảo: “Tại sao khi trẫm hỏi, các khanh chẳng ai có ý kiến, đến khi người khác trình bày ý kiến thì lại xúm vào bôi bác?” Đó là một đời sống đã tê liệt mọi ý kiến xây dựng mà chỉ còn duy trì cách thức bôi bác, bẻ hành bẻ tỏi, phá hủy mọi cố gắng tiến về phía trước. Chính vì căn bệnh trầm kha đó mà khi đối mặt với phương Tây, triều đình Mãn Thanh ấu trĩ đến mức thán phục vài khẩu súng như bảo bối thần linh và sớm tan rã. Và lãnh tụ Tôn Trung Sơn, cha đẻ của chủ nghĩa tam dân – lý thuyết cách mạng cho dân tộc Trung Hoa, đã nhìn thấu cố tật “vừa bé vừa nhỏ” của một dân tộc lớn như sau: “Cái mà người Trung Quốc sùng bái nhất là chủ nghĩa gia tộc và chủ nghĩa tông tộc. Trung Quốc không có chủ nghĩa quốc tộc” (1)
Chúng ta thử đặt câu hỏi: một dân tộc lớn lại chỉ sống như gia tộc và tông tộc thì có co hẹp biên giới quốc gia thành rào giậu của gia đình? Và tại sao thế, liệu có phải do thiếu một tư tưởng được xây nên từ sinh hoạt triết học thường xuyên? “Con người là động vật có lý trí” (Aristotle). Bởi thế tinh thần càng cao, con người càng xa rời biên giới của muông thú. Trái lại, nếu con người chỉ tìm cách sống hơn nhau trong phẩm trật, quần áo, tiền bạc thì cũng chẳng vượt gì hơn trong nấc thang giá trị con người. Trong phim “Mười ba đời vua nhà Thanh” có đoạn thời vua Đồng Trị, Từ Hy thái hậu chỉ nhìn thấy hai nô tì gái chải đầu đẹp giống mình, đã nổi máu ghen tị lôi ra chém. Than ôi, làm đến Hoàng thái hậu, quần áo trang sức hơn nô tì một trời một vực, vậy mà tâm hồn cũng chỉ là thứ ngang nô tì. Tại sao vậy? Vì phẩm chất tư tưởng còn thấp kém nên dù có xúng xính lụa là châu báu cũng chẳng cải thiện nổi cho mình thoát ra ranh giới kẻ hầu! Và Tôn Trung Sơn cũng đã chỉ ra cái yếu kém của dân tộc Trung Hoa, chưa từng có chiến tranh về tư tưởng hay tôn giáo, chỉ có mối bận tâm về gia tộc: “Người Trung Quốc chỉ có các nhóm gia tộc và tông tộc, không có tinh thần dân tộc. Do đó, tuy có một Trung Quốc do bốn trăm triệu người kết thành, trên thực tế chúng ta là một mảng cát rời rạc. Chúng ta là một nước nghèo nhất, yếu nhất trên thế giới hiện nay, có địa vị thấp nhất trên trường quốc tế.”(2) Ông còn rất lo ngại rằng: “Vì người Trung Quốc phần đông là bất tri bất giác, e rằng vài nghìn năm nữa toàn thể nhân dân vẫn chưa biết giành dân quyền”(3).
Bàn về Trung Quốc và Nhật Bản, những nước lớn nhất, giàu nhất châu Á để chúng ta có cơ sở tham chiếu đời sống tư tưởng của dân tộc. Trong những nghiên cứu mới nhất về văn hóa dân tộc, nhà văn hóa Hữu Ngọc đã đưa ra một nhận định cảnh tỉnh hết sức thao thức rằng: Chúng ta đã có nhiều kiểu mẫu anh hùng lớn, chiến sĩ giỏi nhưng rất đang thiếu đức hạnh công dân.
Đức hạnh công dân là gì? Có phải chúng ta vẫn đang sống “đèn nhà ai, rạng nhà nấy”. Lo vun vén thói ích kỷ, lối tiểu nông, làm sao có thể xây dựng một xã hội hiện đại – công bằng – bác ái? Theo các triết gia, thì bản chất của bản năng, tình cảm, giác quan đều có xu hướng co cụm, ích kỷ, tiến đến kéo bè kéo cánh, địa phương chủ nghĩa. Chỉ có lý trí mới tìm đến tiếng nói chung, và muốn vậy buộc nó phải vượt qua sự co cụm vị kỷ để tìm đến mọi người – tức công lý và chân lý. Từ cơ quan đến ngoài xã hội, từ ngành này qua ngành kia, chúng ta vẫn được chứng kiến một đời sống tư tưởng: “Thứ nhất đồng ý, thứ nhì im lặng”.
Ở đời chỉ có hai loại sản xuất chính: 1- cơ bắp sản xuất vật phẩm; 2- trí não sản xuất ý tưởng. Vậy mà hầu khắp đời sống tinh thần của chúng ta chẳng sản xuất được gì nhiều hơn sự “im lặng” và “đồng ý”, thử hỏi xã hội sẽ tiến bộ bằng cách nào? Và thế giới cũng hình thành rõ rệt hai đẳng cấp, dân tộc nào sống trong sản sinh tinh thần nhiều hơn sẽ làm ông chủ, dân tộc nào sống theo thói quen bản năng nhiều hơn – ít động não, sẽ làm nô bộc. Người Việt cũng phân rõ hai hạng:
Ông cả ngồi trên sập vàng
Cả ăn cả mặc lại càng cả lo
Thằng bếp ngồi trong xó tro
Ít ăn ít mặc ít lo ít làm.
Thật quá rõ ràng, một dân tộc ít lo ít làm thì làm sao giàu mạnh? Muốn giàu mạnh thì chỉ có một con đường làm nhiều và lo nhiều – tức vận động tinh thần nhiều hơn để sản sinh nhiều sáng kiến hơn. Muốn thế thì không thể ngại học, ngại tư duy.
Tư duy phải trở thành thú vui của tinh thần chứ không phải cái ách khổ ải như nhiều người nghĩ. Giản dị như trò chơi đánh cờ, xếp chữ, hay rubic cũng vậy, người chơi thấy vui vì được nghĩ, được tính, chứ không phải thấy khổ. Niềm vui tư duy không phải chỉ là sự cảnh tỉnh những người ít học, mà với tất cả chúng ta. Theo các nhà chuyên môn chẳng hạn, dân tộc ta có rất nhiều con em đạt giải cao trong các kì thi toán quốc tế. Thật tự hào! Nhưng cũng đáng tiếc thay, trong rất nhiều hạt giống ưu tú đó, không bói ra nổi một nhà toán học lý thuyết. Tóm lại, ngay cả những hạt giống tư duy đó vẫn ngại tư duy để trở thành đại thụ tư duy. Ở các ngành khác cũng vậy. Mở đầu chúng ta không thiếu gì những chuyên gia giỏi được đào tạo chính quy, nhưng chẳng được mấy hồi các chuyên gia chểnh mảng cuộc truy tìm chuyên môn, lao sang các cuộc truy lùng “ghế quản trị”. Thế là ngọn lửa tư duy chuyên môn đành tắt lịm, nhường bước cho ngọn lửa phẩm trật xã hội – ai cũng giống ai – nhà chuyên môn nào cũng na ná nhau theo cách thức “tìm số ghế”.
Tình trạng còn nặng hơn trong các ngành xã hội, bởi lẽ các ngành tự nhiên ít hay nhiều đều phải hình thành thói quen nói – làm – nghiên cứu dựa trên các chuẩn mực của lý trí. Dẫu vậy, khoa học đối với dân tộc ta là một lĩnh vực còn khá ngỡ ngàng khá khiêm tốn. Trái lại, ngành xã hội nhân văn, đặc biệt với văn thơ, nở rộ như một vườn hoa dại. Hàng nghìn, hàng vạn tập thơ ra đời mỗi năm mà dường như chẳng ép nổi một vài hạt tinh dầu của lý trí phán định. Thế là, nạn kéo bè kéo cánh, tung hô có đi có lại diễn ra đại trà. Sinh ra khen vờ chê giả. Nói có sách mách có chứng, đã qua vài đại hội nhà văn toàn quốc, có cả nghìn người về dự, chỉ đếm được lưa thưa trên đầu ngón ta vài nhà phê bình miễn cưỡng “ép khung tuổi”. Và còn nghèo nàn hơn, tại các diễn đàn dành cho các cây bút trẻ, người ta vừa bói vừa nhặt chẳng gom nổi một vài hạt vàng tấm của ý tưởng hay phát kiến. Có rất nhiều, rất nhiều nhà văn, nhà thơ che chắn thủ thế từng lời nói, chiến thuật mỗi ứng xử, để làm gì? Để tìm cách thành đạt “ghế đánh số xã hội” hơn là vì chuyên môn văn học. Đây là kiểu mẫu khá điển hình cho trình độ sống của chúng ta. Đó là bằng mọi cách chúng ta vẫn tìm kế mưu sinh, cách tồn tại, cách hơn người nhiều hơn là tìm cách sống chuyên môn để nâng cao giá trị thực của mình.
Một xã hội hùng mạnh theo triết gia Socrates là mọi người cố gắng sống theo phẩm chất chuyên môn riêng biệt một cách cao nhất. Người chăn cừu, hãy nuôi đàn cừu cho thật nhiều, thật béo; người thầy thuốc hãy lo chữa chạy thật tốt cho bệnh nhân; và người viết văn hãy lo để viết thật hay… Trái lại một xã hội sẽ vô cùng yếu ớt nếu người ta chưa làm nghề gì đã lo kiếm được bao nhiêu và vị trí xã hội của mình sẽ đặt ở chỗ nào? Khi chúng ta đã giành độc lập, đã có tự do mà nhà văn vẫn tự chuốc vào mình, loay hoay ứng xử để kiếm ghế ưu tiên thay cho việc thể hiện ý tưởng cũng như chuyên môn thì có bé nhỏ không? Và chúng ta có thể ngẫm lại, ngay cả Từ Hi thái hậu có phẩm trật cao nhất Trung Quốc mà không trau dồi phẩm chất tinh thần thì mặc cảm tự tôn chưa vượt qua nổi mái tóc của đứa nô tì, thì số ghế chúng ta có lách lên thay vì nâng cao chuyên môn mĩ học cho ngòi bút có thấm tháp gì? Làm vậy chúng ta đã đổi cái đại trí, đại khôn, đại tài lấy cái tiểu trí, khôn vặt và tài mọn. Trong đối thoại, người Việt ít để ý và đi đến cùng vấn đề của nhận thức mà thường chỉ lưu tâm đến ảnh hưởng xã hội. Bởi thế khi đối thoại căng thẳng thì thường đem tâm lý xuê xoa chân lý, đem thái độ thay thế trình độ.
Đó là những cơ sở quốc tế và quốc nội để tôi viết cuốn sách này. Cả thế giới vẫn nói “Triết học là khoa học của khoa học”. Vì thiếu tri thức nền móng của triết học nên người châu Á nói chung, người Việt Nam rất ngại – thiếu vững tâm – thiếu sở cứ để đưa ra ý tưởng. Người Việt đa số rất ngại, rất sợ triết học bởi họ lầm tưởng rằng triết học là thứ cao siêu, chỉ để dành cho những ai buộc phải mang sứ mệnh cao siêu. Thực ra không phải vậy. Triết học là tình yêu sự thông thái. Nó là niềm say mê tư duy thông thái. Nó là con đường của tư duy. Ai muốn yêu thích tư duy tự nhiên yêu thích triết học. Và triết học là những gì cốt tử hết sức gần gũi với mọi vấn đề cơ bản của con người. Nhiệm vụ cuốn sách của tôi muốn đạt tới là trình bày hệ thống tư duy triết học, những thành tựu, những ưu tư của triết học theo chiều dọc, để mọi người có thể nhận biết triết học mạch lạc hơn, dễ hiểu hơn và không sợ hãi.
2. Không thể không học biết triết học
Chúng ra không thể không bám sát phương ngôn của Aristote: “Con người là động vật lý tính” (Man is animal rational). Nếu định nghĩa con người là động vật đứng trên hai chân thì chưa đủ, bởi con khỉ cũng đi hai chân, con Kăng-gu-ru cũng vậy, thậm chí cả con ếch cũng đỡ trọng lực toàn thân và di chuyển bằng hai chân sau. Nếu định nghĩa con người như đẳng cấp vượt trội của các giác quan thì than ôi, các nhà bác học đã xác nhận, mắt loài cú nhìn tinh gấp con người cả ngàn lần, tai loài dơi nhạy bén hơn con người cả vạn lần, và mũi loài chó thính hơn con người cả triệu lần.
Vậy chỉ còn cách định nghĩa con người vượt hẳn hơn con vật chỉ nhờ vào lý trí của mình. Nếu không hơn hẳn các động vật khác bằng khả năng lý trí thì con người cũng chỉ rơi xuống như một động vật chìm trong muôn vàn động vật. Vậy lý trí là gì? Có thể tạm phân biệt 3 tầng:
1. Giác quan – bản năng – xúc cảm
2. Trí tưởng tượng – trên giác quan bản năng trực tiếp nhưng chưa phải nhận thức
3. Lý trí: Là đời sống phán đoán đặt căn bản trên nhận thức
Nhà triết học Lép-nit-xơ đã lý giải như sau: “Cảm tính là một khối hỗn độn không có tính chất phê phán” (4). Còn triết gia Schopenhauer thì quả quyết: “Cuộc sống của chúng ta đều được dẫn dắt bằng cảm giác hay trí tưởng tượng sẽ là một cuộc sống thụ động, nó bày tỏ sự bất lực của con người” (5).
Lý trí – nhận thức – tư tưởng – công lý – chân lý, có thể coi như những vòng tròn đồng tâm, hay những hạt nhân cùng hệ - đẳng. Trái ngược lại với nó, những con người sống theo cảm tính thì chỉ cảm nhận cuộc sống bởi giới hạn nhỏ hẹp của giác quan, đành tự thu mình lại – vì không dám tự tin vào cái ta hiến cho người, cái ta chiếu vào đời, cũng như cái ta gia nhập cùng mọi người. Bởi thế tự thân họ xa lánh mọi giá trị phổ biến, cái chung, cái là công lý và chân lý.
Con người có nhận thức, như triết gia Platon từ trước công nguyên đã chỉ: “Nhận thức là tiến đến tư tưởng” (connaitre c’est atteindre l’Idée) (6). Không phải ai khác mà chính Platon đã đưa ra dẫn dụ nổi tiếng về “cái hang” của nhận thức. Mở đầu, trí tuệ con người sống tối tăm như người sống trong hang, không thấy rõ cái gì, bởi thế anh ta thắp lửa lên để thấy đường đi, và chỉ có khi nào ánh dương hiện ra minh bạch anh ta mới nhận rõ: cái gì đen – cái gì trắng, cái đỏ - cái xanh, cái xấu – cái tốt. Về điểm này triết gia Descartes cũng khẳng định con đường của triết học: “Triết gia, là bắt đầu đi từ nghi ngờ, nhưng vượt qua chủ nghĩa hoài nghi”.
Chỉ khi con người nhận rõ mọi thứ, thì anh ta mới có khả năng chọn cái hay, bỏ cái dở, dấn thân vào hành động. Trái lại, khi chưa nhận rõ hoàn cảnh xung quanh, cứ nhắm mắt lao vào hành động, thì đó là việc làm liều mạng, không mang nhận thức. Bởi thế, nhận thức tất yếu liên quan đến hành động. Không hành động thì không tạo nên thế giới này, không nhận thức thì cũng không hành động. Triết gia Lagneau cho rằng: “Quan niệm, phán đoán, lý trí: phán đoán là hiệp nhất của một hành động trí năng” (le jugement est l’unité de l’activité intellectuelle) (7). Khi con người hành động, nghĩa là anh tác động việc làm của mình vào thế giới, với mọi người, mà hành động đó khởi đầu bằng một phán đoán – lựa chọn của lý trí, được đặt trên cơ sở của nhận thức. mà như trên chúng ta đã bàn, lý tính bản thân nó gia nhập vào giá trị chung, chứ không phải riêng rẽ như tình cảm, bởi thế một hành động có phán đoán của lý trí mang nhận thức tự thân đã khoác lấy một tầm vóc cộng đồng – giữa mọi người – bởi mọi người – vì mọi người. Lagneau nói: “Tất cả phán đoán đều hình thành giữa một công thức nền tảng” (8).
Công thức, hàm nghĩa định lý chung được muôn người thừa nhận. Cảm tính có thể của riêng mỗi người, nhưng còn lý trí là đã khỏi khuôn viên cá thể bước vào ranh giới nhân loại. Bởi thế, theo triết gia Alain, ngay cả khi con người tư duy, anh ta đã không còn cơ hội thể hiện cái tôi mà đang buộc phải hòa mình vào nhận thức phổ quát. Ông viết: “Không có tư duy cô độc. Tư duy là công việc xã hội. Chân lý không phải là cái mà cả thế giới nghĩ đến nhưng là cái cả thế giới phải nghĩ đến. Thế giới quan chính là cái mang giá trị cho mọi tinh thần” (9).
Phán đoán là hành động hiệp nhất của trí năng. Không có trí năng con người không thể hành động. Bởi thế, từ triết học đến các khoa học, đến nghệ thuật, hay các ngành nghề xã hội, các chuyên gia rất coi thường những đầu óc không có khả năng tích lũy những kiến thức minh bạch, để từ đó đưa ra những phán đoán xác đáng cho hành động (nói đâu xa, ngay môn thể thao bóng đá chúng ta vẫn thường xem trên tivi, những cầu thủ có khả năng ghi bàn phải là những chân sút “quyết đoán”, “lý trí lạnh lùng”). Một người nếu không từng hiểu 1+1 = 2, thì làm sao có thể tin vào 2+2 = 4, và làm sao có thể đi xa hơn vào các phép lũy thừa hay phân tích… Nhận thức chắc chắn của mỗi người, có thể ví như những bánh răng của một chiếc đồng hồ, chỉ khi các bánh răng ăn khớp vào nhau thì đồng hồ mới vận hành, mới chắc chắn mấy giờ, mấy phút, mấy giây, rồi ngày, rồi tuần. Trái lại, nếu chiếc đồng hồ đó lỏng lẻo, mỗi mắt răng không ăn nhập vào nhau, thì người ta không thể nào tự tin vào những thông số mà chiếc đồng hồ đó đưa ra. Con người không có nhận thức, sẽ không dám phán đoán! Không dám phán đoán sẽ không dám hành động! Nếu không nhận ra điều đó, thì bất cứ xã hội nào cũng chỉ giống một chiếc xe cứ vận hành lại tuột xích – thành ra cứ ì tại chỗ. Đó cũng là đặc điểm lý giải nền văn học của nước nhà, ngót một nghìn năm trăm năm rồi, một bộ phận lớn cứ ì ra chầu rìa quanh mấy câu tứ tuyệt, còn lại những tác phẩm văn thơ khác thì chỉ ở tầm be bé – vừa vừa vì thiếu hẳn ánh sáng ở địa hạt nhận thức. Để chắc chắn về một đời sống mang giá trị có hành động của tinh thần, chẳng còn cách nào khác, chúng ta không thể chối từ phán đoán, như Lagneau xác nhận: “Phán đoán là hành động trọn vẹn của đời sống trí năng, và hành động hiệp nhất; không có trong đó phán đoán chỉ là quan niệm, hay là lý trí. Phán đoán vậy phải được nhìn nhận như sự bắt đầu và đặc trưng của tinh thần – giống chính tinh thần vậy” (10).
3. Duy niệm là gì?
Tại sao tôi có thể dám cầm bút viết “Hành trình nhận thức của nhân loại”? Tất nhiên là khó ai có thể tự tin đến mức dám tóm lược để khái quát hóa thấu suốt toàn bộ chiều cao lồng lộng, chiều rộng mênh mông của nhận thức nhân loại. Đó là nhận thức bao gồm vô vàn các cuộc khám phá, phát minh, sáng tạo thuộc các ngành vật lý học, thiên văn học, nhân văn học, xã hội học, thông tin học… Nhưng hành trình nhận thức nhân loại của tôi chỉ quy về DUY NIỆM. Nói sát hơn là hành trình của Hữu Thể Luận (Hữu Thể Luận là gì? Là đối tượng nghiên cứu của triết học, nó chưa phải hoàn toàn là vật chất, cũng chưa hẳn là tâm linh… điều này chúng ta sẽ khảo sát kỹ ở phần sau).
Một cách phổ thông, chúng ta biết, ý thức thâu nạp đối tượng bên ngoài, qua kinh nghiệm để biến thành hiểu biết. Nhưng sau đó ý thức tự vận động, tự cô thấu hình ảnh của đối tượng, tự sản sinh – làm trù phú thêm cho hình ảnh đó mà không cần đối tượng.
Có thể đưa ra lược đồ:
Chặng I- Thường nghiệm:
Từ Ý thức – bởi ý thức – cho ý thức: Quá trình đó còn được đặt tên Duy ý thức, Ý thức thuần khiết, hay là Duy niệm. Để kiến giải vào nội dung của ý thức thuần khiết, chúng ta hãy tham chiếu quan điểm của các triết gia. Mở màn, một cách căn bản, Santre cho rằng: “Ý thức phải là ý thức có đề tài về cái gì đó” (la conscience doit être conscience thétique de quelque chose) (11). Hẳn là, ý thức không thể suy tư về cái gì trống rỗng, mà phải suy tư về đề tài của vật thể. Một khi, ý thức không suy tư thẳng vào vật thể mà suy tư qua “đề tài” nói về vật thể, như vậy có thể coi, ý thức đang manh nha bước trên nhịp cầu duy niệm.
Đó là lý giải sơ khai còn thấp thoáng sự rụt rè. Về lý trí thuần khiết, triết gia Lép-nit-xơ tuyên bố thẳng thừng: “Không có gì trong lý trí… nếu không phải bản thân lý trí” (12). Theo ông, trong não chẳng có gì ngoài não. Trong ý thức, nếu có hình ảnh của những dãy núi, con sông, hay những vì sao, thì cũng chỉ là ý thức mà thôi. Không thể có dù một viên sỏi hiện thực nằm trong não. Spinoza thì khẳng nhận: “tư duy chỉ có thể giới hạn bởi tư duy” (La pensée ne peut être limiteé que par la pensée) (13).
Đối tượng của các ngành khoa học rất cụ thể, như vật lý học nghiên cứu vật chất, hóa học tìm tòi hóa chất, thiên văn học dò tìm các thiên thể… Khi người ta nói một chiếc ấm ở bên cạnh một chiếc chén trông rất ngăn nắp, thì sự ngăn nắp đó chẳng của cái ấm, chẳng của cái chén, nó thuộc về một sắp đặt có trật tự nằm ngoài vật thể. Trật tự đó do ý thức tạo ra. Có thể nói, triết học là thứ nghiên cứu trật tự kiểu đó, nó là ý thức coi ý thức là đối tượng, nó là bộ môn nghiên cứu những mạch vữa siêu hình của ý thức gắn kết mọi vật, và thế giới vật thể lại với nhau. Đó cũng là một quan niệm về Duy niệm. Rudolf Carnap nói: “Triết học chẳng là gì cả nhưng là logic của khoa học” (philosophy is nothing but the logic of science) (14). Và Helgen đã xem xét một logic thuần túy như sự thuần túy của thuần túy nhất làm nền móng cho một ý thức tiến triển chỉ dựa vào ý thức: “Logic là khoa học thuần túy trong tất cả toàn bộ sự phát triển của nó”.
Đến đây, tôi muốn chỉ rõ hơn hàm nghĩa từ Duy niệm, đó là: Một ý thức – thiên về ý thức thuần khiết – lấy nền tảng của logic thuần khiết (bỏ qua vật thể) làm lộ trình để tiến bước về ý thức.
Để khép lại phần tìm tòi Duy niệm này, tôi xin dẫn lời của Russell tuyên bố về việc, dù thất bại, nhưng chỉ có ý thức triết học mới là phương tiện còn lại duy nhất đê cứu vãn chính ý thức về triết học. Ông viết: “Các triết gia thú nhận thành thực rằng trí năng con người không có khả năng tìm câu trả lời chung cuộc cho mọi câu hỏi có tầm quan trọng của nhân loại, nhưng họ cũng từ chối tin tưởng rằng có cách nào “cao cả” hơn (triết học) của nhận thức, nhờ đó chúng ta có thể tìm ra chân lý vẫn ẩn nấp trong khoa học về nhận thức của con người” (15).
4. Cách viết
Tại sao lại gọi là cấu trúc chiều dọc?
Hầu hết, nền giáo dục của người Việt không dạy triết học theo nền tảng cơ bản và cấp độ từ thấp lên cao, bởi thế, đa số tìm hiểu hay say mê triết học theo lối nghiệp dư, vớ phải cuốn sách nào đọc sách ấy, và thấy mình lạc vào nhiều rừng rậm, nào bản thể luận, nào siêu hình học, nào duy lý, duy chí, duy tâm, duy vật, hiện tượng luận, hiện sinh… bởi thế thấy ngại, và dễ chán khi tự cảm thấy mình bị bật ra ngoài.
Do vậy, bằng cách nhìn hệ thống, tôi cố gắng tạm tước bỏ những nhánh ngang, để vẽ chiều dọc con đường triết học, mong giúp ích độc giả. Sau khi đã lĩnh hội chiều dọc, có thể tham chiếu những chiều ngang khi đọc cuốn sách này, cuốn sách khai trong tư duy liên kết, móc nối chúng vào nhau. Đa số các cuốn sách triết học trên thế giới đều viết theo những học thuyết, các triết gia, các đề tài theo hết kích cỡ của chiều ngang khai triển, và chiều dọc của cuốn sách, chính là hệ thống khi người ta đem xếp liên tục các vỉa chiều ngang nối tiếp nhau. Nhưng tôi nghĩ, đó là những cuốn sách dành cho các độc giả có chuyên môn triết học – tự thân họ ít hay nhiều đã lĩnh hội quá trình “chiều dọc” của triết học. Ở ta, vì số độc giả như vậy còn quá ít ỏi, nên ý định của tôi là tạm hy sinh chiều ngang – phong phú – đầy tràn – nhưng cũng rườm ra – dễ lạc lỗi, để tiến theo chiều dọc mong ít ra giúp mọi người lĩnh hội hình hài của con đường.
Bạn đọc có thể đặt câu hỏi:
1. Biết đâu con đường chiều dọc của tôi không dẫn mọi người qua những nhà ga triết học, mà chỉ dẫn vu vơ xuống một đầm lầy?
Vậy bạn sẽ được khảo sát những vấn đề chính yếu từ: Triết học là gì? chân lý, hữu thể luận, siêu hình học, duy tâm của Descartes, duy lý trí của Kant, biện chứng pháp của Hegel, duy vật của Karl Marx, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng, phân tâm học, không gian và thời gian…
2. Đường học đó liệu có phải con đường lạc lối, lạc đề, vô tích sự?
Phương ngôn La tinh có câu: “Từ cái không thì không sinh ra cái gì cả” (ex nihilo nihil fit) (16). Có một phương ngôn rất thấm thía vê lịch sử rằng: “Những anh hùng không làm nên lịch sử, nhưng họ là những nút thắt, khớp nối và giàn giáo cho lịch sử, không nhắc đến tên họ thì sử sách chỉ còn là những sự kiện vô danh”.
Vậy khi đọc cuốn sách của tôi, chí ít bạn cũng chắc tâm, tất cả mọi thứ không thể xuất hiện từ cái không có gì, hơn thế chúng xuất hiện như những chiếc đinh vàng trong giàn giáo nhận thức triết học của nhân loại. Bạn hãy chắc tâm, và chớ mảy may nghi ngờ về điều đó, bởi lẽ những “chiếc đinh vàng” tôi rút ra là những chiếc đinh được cô thấu từ cuốn sách này qua cuốn sách khác. Và tôi chỉ là người trưng bày lại trong hệ thống chiều dọc mà thôi.
Chiều dọc, đó là chiều của dự phỏng, của lý tưởng, của cái nhìn xa, của hệ thống, và cấu trúc, nó giúp người ta có một cái nhìn thấu thị toàn thể. Tất nhiên, một cây không thể vươn lên cao khi không trổ những cành ngang. Dẫu vậy, cầm một cành ngang đã chặt, người ta không thể suy đoán chắc chắn về thân cây. Trái lại, có được một thân cây người ta có thể dễ dàng hình dung ra những cành ngang đã bị cưa đi. Mục đích cuốn sách của tôi gần giống vậy: trình ra một thân cây đã lược bỏ những cành ngang. Cụ thể hơn, tôi sẽ viết:
1. Dẫn dụ
2. Lý giải hệ thống các vấn đề chính của triết học theo chiều dọc
3. Minh giải
4. Dẫn giải.
Cả 4 cách viết này sẽ được đan lồng vào nhau, làm sao để vấn đề tự thân của các nhà triết học nổi lên rõ rệt, và dễ hiểu. Theo cách đó, tôi chỉ là người cố giúp độc giả đọc sách.
Tại sao tôi có thể tự tin viết cuốn sách này? Như Saint Augustime đã từng lý giải: “ Nếu tôi nhầm vậy tôi có. Nghĩa là sở dĩ tôi nhầm vì tôi sẽ thiết yếu liên quan đến chân lý”. Tôi hy vọng, con đường tôi phác họa, nếu không rõ nét, thì bạn cũng sẽ thấy lờ mờ ở đó là một lộ trình triết học. Và ngay cả điều đó cũng không đạt được nốt, thì bạn sẽ từ chân móng con đường của tôi xác lập con đường đúng đắn hơn trong nhận thức của bạn. Khi đó, tôi chỉ là tấm giấy quỳ, một phép thử của chân lý mà thôi. Nhận thức tiến về nhận thức còn hơn không nhận thức gì cả. Và một hành động được tiến hành có thể phải gặt lấy kinh nghiệm chua xót bi thương còn hơn là chẳng làm gì để tạo dựng diện mạo cuộc đời. Triết gia Bergson có nói: “ Đặt câu hỏi tốt hơn là không có gì” (17). Bởi hy vọng, những vấn đề tôi minh giải, nếu không là những mũi tên chỉ đường trên lộ trình triết học, thì cũng cùng bạn đưa ra những câu hỏi, để tìm ra những mũi tên chỉ hướng con đường. Chính thế mà tôi viết cuốn chuyên luận này.
Mời bạn hãy cùng tôi bước tới lộ trình.
1. Tại sao tôi muốn viết cuốn chuyên luận về triết học này?
Người Việt nói riêng, người châu Á nói riêng rất ngại dính mắc vào những vấn đề của triết học. Phần lớn cho rằng, triết học bao gồm những cặp phạm trù khô khan, phức tạp, khó hiểu, chẳng liên quan gì mấy đến cuộc đời nhãn tiền tươi rói, tinh khôi, thực chứng sức sống đang ào ạt tuôn chảy hồn nhiên trào ra khỏi mọi khuôn thức cứng nhắc – mô phạm của triết lý. Và nhiều người hầu như an nhiên tận hưởng bất chấp triết học, cuộc đời vẫn sống, mọi khoa học vẫn phát triển, và mọi nghệ thuật vẫn sum suê đâm cành, nảy lộc.
Nhưng không hẳn vậy. Tôi viết cuốn sách này dựa trên một tiền đề rất chắc chắn, đó là bằng chứng thật của cuộc sống. Thực tế cho thấy có và có rất nhiều những cuộc hội thảo đã diễn ra trong thế kỷ XX. Khi hai nền văn hóa Đông – Tây đã hội nhập, khám phá lẫn nhau, trước mỗi hội nghị bàn về đề tài cụ thể như môi trường, văn hóa, xã hội, y học, vật lý… mỗi đại biểu đều được phát trước một chiếc thẻ phát biểu ý kiến nhưng từ hội nghị này đến hội nghị kia, dường như thói quen đã biến thành thông lệ, thông lệ đã biến thành định kiến khó cải thiện cũng như gột sạch, đó là các đại biểu của bùng châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản hầu như chẳng đưa ra ý kiến nào cụ thể có tính đề tài (thétique) hay chức năng, hay chuyên luận; mà nói chung hội nghị nào cũng như hội nghị nào, họ đều chung chung đưa ra những ý kiến không mũi nhọn, trung dung, vô thưởng vô phạt, trong âm có dương, trong dương chứa âm, thế này cũng không tốt, thế kia cũng chẳng hay, mà chúng ta nên tiến hành một khoa học bao gồm toàn thể. Cụ thể, sau khi giật giải Nobel trên tờ NewYorker (02/1995), nhà văn Nhật Bản Kenzaburo Oe cho rằng: “Ngay cả ngày nay, sau 125 năm công cuộc hiện đại hóa của chúng ta, thì trong con mắt của người châu Âu và châu Mỹ, giá trị của chúng ta vẫn bị thờ ơ. Những người đoạt giải Nobel khác như Milosz, Walcott, Brosky được nhiều người biết đến; còn chúng ta, người phương Tây chẳng khao khát tìm đọc những con người sản xuất xe Honda nhiều lắm. Tôi không hiểu tại sao. Có lẽ chúng ta chỉ là người bắt chước họ hoặc là với con mắt của người châu Âu, chúng ta CHỈ LÀ NHỮNG NGƯỜI THỦ VAI IM LẶNG.
Tình trạng của người Nhật Bản khá là trầm trọng. Ở Mỹ chẳng hạn, tôi thấy nhiều bạn bè tôi lo ngại về đời sống trí tuệ của người dân Mỹ, mặc dù vậy, tôi thấy rất nhiều người thể hiện tính cách độc lập trong suy nghĩ của họ và cũng đầy vi tế trong cư xử cũng như tìm cách thể hiện ý tưởng của mình. Ở Nhật thì đời sống văn hóa quá ư đơn giản, hầu như toàn bộ cách sống của xã hội là xoay quanh phương tiện truyền thông và chỉ có vậy. Và chúng ta rất hiếm khi được nghe thấy ý tưởng của một nhà tư tưởng hay một học giả.” Và Oe mong rằng: Đến một ngày nghệ thuật Nhật Bản sẽ đánh rơi cái đặc tính hàm hồ, tối tăm cố hữu của nó, để vén lộ khả năng đối mặt thật sự với cuộc sống của con người.
Tình trạng đó thật phổ biến ở châu Á. Nó diễn ra bởi chúng ta chìm trong chế độ phong kiến quá lâu. Ở đó, một quân vương có thể chưa biết mặc quần đã lãnh trị cả trăm triệu người. Mỗi lời đánh rơi khỏi miệng dù thanh hay tục đều trở thành thánh chỉ. Mọi người chỉ có mỗi một lựa chọn là rập đầu tuân thủ. Xem một loạt phim về các triều đình phong kiến Trung Quốc, mọi người thường chứng kiến (một cách sử cố) mỗi khi gặp khó khăn, vua triệu quan đại thần đến xin ý kiến, thì chỉ được nghe: “Bệ hạ sáng suốt, xin quyết định! Thần u mê không dám – không hiểu”. Rất hiếm khi, có một quan đại thần trình tấu quan điểm thì các quan lại ào ào phản đối. Vua mới bảo: “Tại sao khi trẫm hỏi, các khanh chẳng ai có ý kiến, đến khi người khác trình bày ý kiến thì lại xúm vào bôi bác?” Đó là một đời sống đã tê liệt mọi ý kiến xây dựng mà chỉ còn duy trì cách thức bôi bác, bẻ hành bẻ tỏi, phá hủy mọi cố gắng tiến về phía trước. Chính vì căn bệnh trầm kha đó mà khi đối mặt với phương Tây, triều đình Mãn Thanh ấu trĩ đến mức thán phục vài khẩu súng như bảo bối thần linh và sớm tan rã. Và lãnh tụ Tôn Trung Sơn, cha đẻ của chủ nghĩa tam dân – lý thuyết cách mạng cho dân tộc Trung Hoa, đã nhìn thấu cố tật “vừa bé vừa nhỏ” của một dân tộc lớn như sau: “Cái mà người Trung Quốc sùng bái nhất là chủ nghĩa gia tộc và chủ nghĩa tông tộc. Trung Quốc không có chủ nghĩa quốc tộc” (1)
Chúng ta thử đặt câu hỏi: một dân tộc lớn lại chỉ sống như gia tộc và tông tộc thì có co hẹp biên giới quốc gia thành rào giậu của gia đình? Và tại sao thế, liệu có phải do thiếu một tư tưởng được xây nên từ sinh hoạt triết học thường xuyên? “Con người là động vật có lý trí” (Aristotle). Bởi thế tinh thần càng cao, con người càng xa rời biên giới của muông thú. Trái lại, nếu con người chỉ tìm cách sống hơn nhau trong phẩm trật, quần áo, tiền bạc thì cũng chẳng vượt gì hơn trong nấc thang giá trị con người. Trong phim “Mười ba đời vua nhà Thanh” có đoạn thời vua Đồng Trị, Từ Hy thái hậu chỉ nhìn thấy hai nô tì gái chải đầu đẹp giống mình, đã nổi máu ghen tị lôi ra chém. Than ôi, làm đến Hoàng thái hậu, quần áo trang sức hơn nô tì một trời một vực, vậy mà tâm hồn cũng chỉ là thứ ngang nô tì. Tại sao vậy? Vì phẩm chất tư tưởng còn thấp kém nên dù có xúng xính lụa là châu báu cũng chẳng cải thiện nổi cho mình thoát ra ranh giới kẻ hầu! Và Tôn Trung Sơn cũng đã chỉ ra cái yếu kém của dân tộc Trung Hoa, chưa từng có chiến tranh về tư tưởng hay tôn giáo, chỉ có mối bận tâm về gia tộc: “Người Trung Quốc chỉ có các nhóm gia tộc và tông tộc, không có tinh thần dân tộc. Do đó, tuy có một Trung Quốc do bốn trăm triệu người kết thành, trên thực tế chúng ta là một mảng cát rời rạc. Chúng ta là một nước nghèo nhất, yếu nhất trên thế giới hiện nay, có địa vị thấp nhất trên trường quốc tế.”(2) Ông còn rất lo ngại rằng: “Vì người Trung Quốc phần đông là bất tri bất giác, e rằng vài nghìn năm nữa toàn thể nhân dân vẫn chưa biết giành dân quyền”(3).
Bàn về Trung Quốc và Nhật Bản, những nước lớn nhất, giàu nhất châu Á để chúng ta có cơ sở tham chiếu đời sống tư tưởng của dân tộc. Trong những nghiên cứu mới nhất về văn hóa dân tộc, nhà văn hóa Hữu Ngọc đã đưa ra một nhận định cảnh tỉnh hết sức thao thức rằng: Chúng ta đã có nhiều kiểu mẫu anh hùng lớn, chiến sĩ giỏi nhưng rất đang thiếu đức hạnh công dân.
Đức hạnh công dân là gì? Có phải chúng ta vẫn đang sống “đèn nhà ai, rạng nhà nấy”. Lo vun vén thói ích kỷ, lối tiểu nông, làm sao có thể xây dựng một xã hội hiện đại – công bằng – bác ái? Theo các triết gia, thì bản chất của bản năng, tình cảm, giác quan đều có xu hướng co cụm, ích kỷ, tiến đến kéo bè kéo cánh, địa phương chủ nghĩa. Chỉ có lý trí mới tìm đến tiếng nói chung, và muốn vậy buộc nó phải vượt qua sự co cụm vị kỷ để tìm đến mọi người – tức công lý và chân lý. Từ cơ quan đến ngoài xã hội, từ ngành này qua ngành kia, chúng ta vẫn được chứng kiến một đời sống tư tưởng: “Thứ nhất đồng ý, thứ nhì im lặng”.
Ở đời chỉ có hai loại sản xuất chính: 1- cơ bắp sản xuất vật phẩm; 2- trí não sản xuất ý tưởng. Vậy mà hầu khắp đời sống tinh thần của chúng ta chẳng sản xuất được gì nhiều hơn sự “im lặng” và “đồng ý”, thử hỏi xã hội sẽ tiến bộ bằng cách nào? Và thế giới cũng hình thành rõ rệt hai đẳng cấp, dân tộc nào sống trong sản sinh tinh thần nhiều hơn sẽ làm ông chủ, dân tộc nào sống theo thói quen bản năng nhiều hơn – ít động não, sẽ làm nô bộc. Người Việt cũng phân rõ hai hạng:
Ông cả ngồi trên sập vàng
Cả ăn cả mặc lại càng cả lo
Thằng bếp ngồi trong xó tro
Ít ăn ít mặc ít lo ít làm.
Thật quá rõ ràng, một dân tộc ít lo ít làm thì làm sao giàu mạnh? Muốn giàu mạnh thì chỉ có một con đường làm nhiều và lo nhiều – tức vận động tinh thần nhiều hơn để sản sinh nhiều sáng kiến hơn. Muốn thế thì không thể ngại học, ngại tư duy.
Tư duy phải trở thành thú vui của tinh thần chứ không phải cái ách khổ ải như nhiều người nghĩ. Giản dị như trò chơi đánh cờ, xếp chữ, hay rubic cũng vậy, người chơi thấy vui vì được nghĩ, được tính, chứ không phải thấy khổ. Niềm vui tư duy không phải chỉ là sự cảnh tỉnh những người ít học, mà với tất cả chúng ta. Theo các nhà chuyên môn chẳng hạn, dân tộc ta có rất nhiều con em đạt giải cao trong các kì thi toán quốc tế. Thật tự hào! Nhưng cũng đáng tiếc thay, trong rất nhiều hạt giống ưu tú đó, không bói ra nổi một nhà toán học lý thuyết. Tóm lại, ngay cả những hạt giống tư duy đó vẫn ngại tư duy để trở thành đại thụ tư duy. Ở các ngành khác cũng vậy. Mở đầu chúng ta không thiếu gì những chuyên gia giỏi được đào tạo chính quy, nhưng chẳng được mấy hồi các chuyên gia chểnh mảng cuộc truy tìm chuyên môn, lao sang các cuộc truy lùng “ghế quản trị”. Thế là ngọn lửa tư duy chuyên môn đành tắt lịm, nhường bước cho ngọn lửa phẩm trật xã hội – ai cũng giống ai – nhà chuyên môn nào cũng na ná nhau theo cách thức “tìm số ghế”.
Tình trạng còn nặng hơn trong các ngành xã hội, bởi lẽ các ngành tự nhiên ít hay nhiều đều phải hình thành thói quen nói – làm – nghiên cứu dựa trên các chuẩn mực của lý trí. Dẫu vậy, khoa học đối với dân tộc ta là một lĩnh vực còn khá ngỡ ngàng khá khiêm tốn. Trái lại, ngành xã hội nhân văn, đặc biệt với văn thơ, nở rộ như một vườn hoa dại. Hàng nghìn, hàng vạn tập thơ ra đời mỗi năm mà dường như chẳng ép nổi một vài hạt tinh dầu của lý trí phán định. Thế là, nạn kéo bè kéo cánh, tung hô có đi có lại diễn ra đại trà. Sinh ra khen vờ chê giả. Nói có sách mách có chứng, đã qua vài đại hội nhà văn toàn quốc, có cả nghìn người về dự, chỉ đếm được lưa thưa trên đầu ngón ta vài nhà phê bình miễn cưỡng “ép khung tuổi”. Và còn nghèo nàn hơn, tại các diễn đàn dành cho các cây bút trẻ, người ta vừa bói vừa nhặt chẳng gom nổi một vài hạt vàng tấm của ý tưởng hay phát kiến. Có rất nhiều, rất nhiều nhà văn, nhà thơ che chắn thủ thế từng lời nói, chiến thuật mỗi ứng xử, để làm gì? Để tìm cách thành đạt “ghế đánh số xã hội” hơn là vì chuyên môn văn học. Đây là kiểu mẫu khá điển hình cho trình độ sống của chúng ta. Đó là bằng mọi cách chúng ta vẫn tìm kế mưu sinh, cách tồn tại, cách hơn người nhiều hơn là tìm cách sống chuyên môn để nâng cao giá trị thực của mình.
Một xã hội hùng mạnh theo triết gia Socrates là mọi người cố gắng sống theo phẩm chất chuyên môn riêng biệt một cách cao nhất. Người chăn cừu, hãy nuôi đàn cừu cho thật nhiều, thật béo; người thầy thuốc hãy lo chữa chạy thật tốt cho bệnh nhân; và người viết văn hãy lo để viết thật hay… Trái lại một xã hội sẽ vô cùng yếu ớt nếu người ta chưa làm nghề gì đã lo kiếm được bao nhiêu và vị trí xã hội của mình sẽ đặt ở chỗ nào? Khi chúng ta đã giành độc lập, đã có tự do mà nhà văn vẫn tự chuốc vào mình, loay hoay ứng xử để kiếm ghế ưu tiên thay cho việc thể hiện ý tưởng cũng như chuyên môn thì có bé nhỏ không? Và chúng ta có thể ngẫm lại, ngay cả Từ Hi thái hậu có phẩm trật cao nhất Trung Quốc mà không trau dồi phẩm chất tinh thần thì mặc cảm tự tôn chưa vượt qua nổi mái tóc của đứa nô tì, thì số ghế chúng ta có lách lên thay vì nâng cao chuyên môn mĩ học cho ngòi bút có thấm tháp gì? Làm vậy chúng ta đã đổi cái đại trí, đại khôn, đại tài lấy cái tiểu trí, khôn vặt và tài mọn. Trong đối thoại, người Việt ít để ý và đi đến cùng vấn đề của nhận thức mà thường chỉ lưu tâm đến ảnh hưởng xã hội. Bởi thế khi đối thoại căng thẳng thì thường đem tâm lý xuê xoa chân lý, đem thái độ thay thế trình độ.
Đó là những cơ sở quốc tế và quốc nội để tôi viết cuốn sách này. Cả thế giới vẫn nói “Triết học là khoa học của khoa học”. Vì thiếu tri thức nền móng của triết học nên người châu Á nói chung, người Việt Nam rất ngại – thiếu vững tâm – thiếu sở cứ để đưa ra ý tưởng. Người Việt đa số rất ngại, rất sợ triết học bởi họ lầm tưởng rằng triết học là thứ cao siêu, chỉ để dành cho những ai buộc phải mang sứ mệnh cao siêu. Thực ra không phải vậy. Triết học là tình yêu sự thông thái. Nó là niềm say mê tư duy thông thái. Nó là con đường của tư duy. Ai muốn yêu thích tư duy tự nhiên yêu thích triết học. Và triết học là những gì cốt tử hết sức gần gũi với mọi vấn đề cơ bản của con người. Nhiệm vụ cuốn sách của tôi muốn đạt tới là trình bày hệ thống tư duy triết học, những thành tựu, những ưu tư của triết học theo chiều dọc, để mọi người có thể nhận biết triết học mạch lạc hơn, dễ hiểu hơn và không sợ hãi.
2. Không thể không học biết triết học
Chúng ra không thể không bám sát phương ngôn của Aristote: “Con người là động vật lý tính” (Man is animal rational). Nếu định nghĩa con người là động vật đứng trên hai chân thì chưa đủ, bởi con khỉ cũng đi hai chân, con Kăng-gu-ru cũng vậy, thậm chí cả con ếch cũng đỡ trọng lực toàn thân và di chuyển bằng hai chân sau. Nếu định nghĩa con người như đẳng cấp vượt trội của các giác quan thì than ôi, các nhà bác học đã xác nhận, mắt loài cú nhìn tinh gấp con người cả ngàn lần, tai loài dơi nhạy bén hơn con người cả vạn lần, và mũi loài chó thính hơn con người cả triệu lần.
Vậy chỉ còn cách định nghĩa con người vượt hẳn hơn con vật chỉ nhờ vào lý trí của mình. Nếu không hơn hẳn các động vật khác bằng khả năng lý trí thì con người cũng chỉ rơi xuống như một động vật chìm trong muôn vàn động vật. Vậy lý trí là gì? Có thể tạm phân biệt 3 tầng:
1. Giác quan – bản năng – xúc cảm
2. Trí tưởng tượng – trên giác quan bản năng trực tiếp nhưng chưa phải nhận thức
3. Lý trí: Là đời sống phán đoán đặt căn bản trên nhận thức
Nhà triết học Lép-nit-xơ đã lý giải như sau: “Cảm tính là một khối hỗn độn không có tính chất phê phán” (4). Còn triết gia Schopenhauer thì quả quyết: “Cuộc sống của chúng ta đều được dẫn dắt bằng cảm giác hay trí tưởng tượng sẽ là một cuộc sống thụ động, nó bày tỏ sự bất lực của con người” (5).
Lý trí – nhận thức – tư tưởng – công lý – chân lý, có thể coi như những vòng tròn đồng tâm, hay những hạt nhân cùng hệ - đẳng. Trái ngược lại với nó, những con người sống theo cảm tính thì chỉ cảm nhận cuộc sống bởi giới hạn nhỏ hẹp của giác quan, đành tự thu mình lại – vì không dám tự tin vào cái ta hiến cho người, cái ta chiếu vào đời, cũng như cái ta gia nhập cùng mọi người. Bởi thế tự thân họ xa lánh mọi giá trị phổ biến, cái chung, cái là công lý và chân lý.
Con người có nhận thức, như triết gia Platon từ trước công nguyên đã chỉ: “Nhận thức là tiến đến tư tưởng” (connaitre c’est atteindre l’Idée) (6). Không phải ai khác mà chính Platon đã đưa ra dẫn dụ nổi tiếng về “cái hang” của nhận thức. Mở đầu, trí tuệ con người sống tối tăm như người sống trong hang, không thấy rõ cái gì, bởi thế anh ta thắp lửa lên để thấy đường đi, và chỉ có khi nào ánh dương hiện ra minh bạch anh ta mới nhận rõ: cái gì đen – cái gì trắng, cái đỏ - cái xanh, cái xấu – cái tốt. Về điểm này triết gia Descartes cũng khẳng định con đường của triết học: “Triết gia, là bắt đầu đi từ nghi ngờ, nhưng vượt qua chủ nghĩa hoài nghi”.
Chỉ khi con người nhận rõ mọi thứ, thì anh ta mới có khả năng chọn cái hay, bỏ cái dở, dấn thân vào hành động. Trái lại, khi chưa nhận rõ hoàn cảnh xung quanh, cứ nhắm mắt lao vào hành động, thì đó là việc làm liều mạng, không mang nhận thức. Bởi thế, nhận thức tất yếu liên quan đến hành động. Không hành động thì không tạo nên thế giới này, không nhận thức thì cũng không hành động. Triết gia Lagneau cho rằng: “Quan niệm, phán đoán, lý trí: phán đoán là hiệp nhất của một hành động trí năng” (le jugement est l’unité de l’activité intellectuelle) (7). Khi con người hành động, nghĩa là anh tác động việc làm của mình vào thế giới, với mọi người, mà hành động đó khởi đầu bằng một phán đoán – lựa chọn của lý trí, được đặt trên cơ sở của nhận thức. mà như trên chúng ta đã bàn, lý tính bản thân nó gia nhập vào giá trị chung, chứ không phải riêng rẽ như tình cảm, bởi thế một hành động có phán đoán của lý trí mang nhận thức tự thân đã khoác lấy một tầm vóc cộng đồng – giữa mọi người – bởi mọi người – vì mọi người. Lagneau nói: “Tất cả phán đoán đều hình thành giữa một công thức nền tảng” (8).
Công thức, hàm nghĩa định lý chung được muôn người thừa nhận. Cảm tính có thể của riêng mỗi người, nhưng còn lý trí là đã khỏi khuôn viên cá thể bước vào ranh giới nhân loại. Bởi thế, theo triết gia Alain, ngay cả khi con người tư duy, anh ta đã không còn cơ hội thể hiện cái tôi mà đang buộc phải hòa mình vào nhận thức phổ quát. Ông viết: “Không có tư duy cô độc. Tư duy là công việc xã hội. Chân lý không phải là cái mà cả thế giới nghĩ đến nhưng là cái cả thế giới phải nghĩ đến. Thế giới quan chính là cái mang giá trị cho mọi tinh thần” (9).
Phán đoán là hành động hiệp nhất của trí năng. Không có trí năng con người không thể hành động. Bởi thế, từ triết học đến các khoa học, đến nghệ thuật, hay các ngành nghề xã hội, các chuyên gia rất coi thường những đầu óc không có khả năng tích lũy những kiến thức minh bạch, để từ đó đưa ra những phán đoán xác đáng cho hành động (nói đâu xa, ngay môn thể thao bóng đá chúng ta vẫn thường xem trên tivi, những cầu thủ có khả năng ghi bàn phải là những chân sút “quyết đoán”, “lý trí lạnh lùng”). Một người nếu không từng hiểu 1+1 = 2, thì làm sao có thể tin vào 2+2 = 4, và làm sao có thể đi xa hơn vào các phép lũy thừa hay phân tích… Nhận thức chắc chắn của mỗi người, có thể ví như những bánh răng của một chiếc đồng hồ, chỉ khi các bánh răng ăn khớp vào nhau thì đồng hồ mới vận hành, mới chắc chắn mấy giờ, mấy phút, mấy giây, rồi ngày, rồi tuần. Trái lại, nếu chiếc đồng hồ đó lỏng lẻo, mỗi mắt răng không ăn nhập vào nhau, thì người ta không thể nào tự tin vào những thông số mà chiếc đồng hồ đó đưa ra. Con người không có nhận thức, sẽ không dám phán đoán! Không dám phán đoán sẽ không dám hành động! Nếu không nhận ra điều đó, thì bất cứ xã hội nào cũng chỉ giống một chiếc xe cứ vận hành lại tuột xích – thành ra cứ ì tại chỗ. Đó cũng là đặc điểm lý giải nền văn học của nước nhà, ngót một nghìn năm trăm năm rồi, một bộ phận lớn cứ ì ra chầu rìa quanh mấy câu tứ tuyệt, còn lại những tác phẩm văn thơ khác thì chỉ ở tầm be bé – vừa vừa vì thiếu hẳn ánh sáng ở địa hạt nhận thức. Để chắc chắn về một đời sống mang giá trị có hành động của tinh thần, chẳng còn cách nào khác, chúng ta không thể chối từ phán đoán, như Lagneau xác nhận: “Phán đoán là hành động trọn vẹn của đời sống trí năng, và hành động hiệp nhất; không có trong đó phán đoán chỉ là quan niệm, hay là lý trí. Phán đoán vậy phải được nhìn nhận như sự bắt đầu và đặc trưng của tinh thần – giống chính tinh thần vậy” (10).
3. Duy niệm là gì?
Tại sao tôi có thể dám cầm bút viết “Hành trình nhận thức của nhân loại”? Tất nhiên là khó ai có thể tự tin đến mức dám tóm lược để khái quát hóa thấu suốt toàn bộ chiều cao lồng lộng, chiều rộng mênh mông của nhận thức nhân loại. Đó là nhận thức bao gồm vô vàn các cuộc khám phá, phát minh, sáng tạo thuộc các ngành vật lý học, thiên văn học, nhân văn học, xã hội học, thông tin học… Nhưng hành trình nhận thức nhân loại của tôi chỉ quy về DUY NIỆM. Nói sát hơn là hành trình của Hữu Thể Luận (Hữu Thể Luận là gì? Là đối tượng nghiên cứu của triết học, nó chưa phải hoàn toàn là vật chất, cũng chưa hẳn là tâm linh… điều này chúng ta sẽ khảo sát kỹ ở phần sau).
Một cách phổ thông, chúng ta biết, ý thức thâu nạp đối tượng bên ngoài, qua kinh nghiệm để biến thành hiểu biết. Nhưng sau đó ý thức tự vận động, tự cô thấu hình ảnh của đối tượng, tự sản sinh – làm trù phú thêm cho hình ảnh đó mà không cần đối tượng.
Có thể đưa ra lược đồ:
Chặng I- Thường nghiệm:
Từ Ý thức – bởi ý thức – cho ý thức: Quá trình đó còn được đặt tên Duy ý thức, Ý thức thuần khiết, hay là Duy niệm. Để kiến giải vào nội dung của ý thức thuần khiết, chúng ta hãy tham chiếu quan điểm của các triết gia. Mở màn, một cách căn bản, Santre cho rằng: “Ý thức phải là ý thức có đề tài về cái gì đó” (la conscience doit être conscience thétique de quelque chose) (11). Hẳn là, ý thức không thể suy tư về cái gì trống rỗng, mà phải suy tư về đề tài của vật thể. Một khi, ý thức không suy tư thẳng vào vật thể mà suy tư qua “đề tài” nói về vật thể, như vậy có thể coi, ý thức đang manh nha bước trên nhịp cầu duy niệm.
Đó là lý giải sơ khai còn thấp thoáng sự rụt rè. Về lý trí thuần khiết, triết gia Lép-nit-xơ tuyên bố thẳng thừng: “Không có gì trong lý trí… nếu không phải bản thân lý trí” (12). Theo ông, trong não chẳng có gì ngoài não. Trong ý thức, nếu có hình ảnh của những dãy núi, con sông, hay những vì sao, thì cũng chỉ là ý thức mà thôi. Không thể có dù một viên sỏi hiện thực nằm trong não. Spinoza thì khẳng nhận: “tư duy chỉ có thể giới hạn bởi tư duy” (La pensée ne peut être limiteé que par la pensée) (13).
Đối tượng của các ngành khoa học rất cụ thể, như vật lý học nghiên cứu vật chất, hóa học tìm tòi hóa chất, thiên văn học dò tìm các thiên thể… Khi người ta nói một chiếc ấm ở bên cạnh một chiếc chén trông rất ngăn nắp, thì sự ngăn nắp đó chẳng của cái ấm, chẳng của cái chén, nó thuộc về một sắp đặt có trật tự nằm ngoài vật thể. Trật tự đó do ý thức tạo ra. Có thể nói, triết học là thứ nghiên cứu trật tự kiểu đó, nó là ý thức coi ý thức là đối tượng, nó là bộ môn nghiên cứu những mạch vữa siêu hình của ý thức gắn kết mọi vật, và thế giới vật thể lại với nhau. Đó cũng là một quan niệm về Duy niệm. Rudolf Carnap nói: “Triết học chẳng là gì cả nhưng là logic của khoa học” (philosophy is nothing but the logic of science) (14). Và Helgen đã xem xét một logic thuần túy như sự thuần túy của thuần túy nhất làm nền móng cho một ý thức tiến triển chỉ dựa vào ý thức: “Logic là khoa học thuần túy trong tất cả toàn bộ sự phát triển của nó”.
Đến đây, tôi muốn chỉ rõ hơn hàm nghĩa từ Duy niệm, đó là: Một ý thức – thiên về ý thức thuần khiết – lấy nền tảng của logic thuần khiết (bỏ qua vật thể) làm lộ trình để tiến bước về ý thức.
Để khép lại phần tìm tòi Duy niệm này, tôi xin dẫn lời của Russell tuyên bố về việc, dù thất bại, nhưng chỉ có ý thức triết học mới là phương tiện còn lại duy nhất đê cứu vãn chính ý thức về triết học. Ông viết: “Các triết gia thú nhận thành thực rằng trí năng con người không có khả năng tìm câu trả lời chung cuộc cho mọi câu hỏi có tầm quan trọng của nhân loại, nhưng họ cũng từ chối tin tưởng rằng có cách nào “cao cả” hơn (triết học) của nhận thức, nhờ đó chúng ta có thể tìm ra chân lý vẫn ẩn nấp trong khoa học về nhận thức của con người” (15).
4. Cách viết
Tại sao lại gọi là cấu trúc chiều dọc?
Hầu hết, nền giáo dục của người Việt không dạy triết học theo nền tảng cơ bản và cấp độ từ thấp lên cao, bởi thế, đa số tìm hiểu hay say mê triết học theo lối nghiệp dư, vớ phải cuốn sách nào đọc sách ấy, và thấy mình lạc vào nhiều rừng rậm, nào bản thể luận, nào siêu hình học, nào duy lý, duy chí, duy tâm, duy vật, hiện tượng luận, hiện sinh… bởi thế thấy ngại, và dễ chán khi tự cảm thấy mình bị bật ra ngoài.
Do vậy, bằng cách nhìn hệ thống, tôi cố gắng tạm tước bỏ những nhánh ngang, để vẽ chiều dọc con đường triết học, mong giúp ích độc giả. Sau khi đã lĩnh hội chiều dọc, có thể tham chiếu những chiều ngang khi đọc cuốn sách này, cuốn sách khai trong tư duy liên kết, móc nối chúng vào nhau. Đa số các cuốn sách triết học trên thế giới đều viết theo những học thuyết, các triết gia, các đề tài theo hết kích cỡ của chiều ngang khai triển, và chiều dọc của cuốn sách, chính là hệ thống khi người ta đem xếp liên tục các vỉa chiều ngang nối tiếp nhau. Nhưng tôi nghĩ, đó là những cuốn sách dành cho các độc giả có chuyên môn triết học – tự thân họ ít hay nhiều đã lĩnh hội quá trình “chiều dọc” của triết học. Ở ta, vì số độc giả như vậy còn quá ít ỏi, nên ý định của tôi là tạm hy sinh chiều ngang – phong phú – đầy tràn – nhưng cũng rườm ra – dễ lạc lỗi, để tiến theo chiều dọc mong ít ra giúp mọi người lĩnh hội hình hài của con đường.
Bạn đọc có thể đặt câu hỏi:
1. Biết đâu con đường chiều dọc của tôi không dẫn mọi người qua những nhà ga triết học, mà chỉ dẫn vu vơ xuống một đầm lầy?
Vậy bạn sẽ được khảo sát những vấn đề chính yếu từ: Triết học là gì? chân lý, hữu thể luận, siêu hình học, duy tâm của Descartes, duy lý trí của Kant, biện chứng pháp của Hegel, duy vật của Karl Marx, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa thực dụng, phân tâm học, không gian và thời gian…
2. Đường học đó liệu có phải con đường lạc lối, lạc đề, vô tích sự?
Phương ngôn La tinh có câu: “Từ cái không thì không sinh ra cái gì cả” (ex nihilo nihil fit) (16). Có một phương ngôn rất thấm thía vê lịch sử rằng: “Những anh hùng không làm nên lịch sử, nhưng họ là những nút thắt, khớp nối và giàn giáo cho lịch sử, không nhắc đến tên họ thì sử sách chỉ còn là những sự kiện vô danh”.
Vậy khi đọc cuốn sách của tôi, chí ít bạn cũng chắc tâm, tất cả mọi thứ không thể xuất hiện từ cái không có gì, hơn thế chúng xuất hiện như những chiếc đinh vàng trong giàn giáo nhận thức triết học của nhân loại. Bạn hãy chắc tâm, và chớ mảy may nghi ngờ về điều đó, bởi lẽ những “chiếc đinh vàng” tôi rút ra là những chiếc đinh được cô thấu từ cuốn sách này qua cuốn sách khác. Và tôi chỉ là người trưng bày lại trong hệ thống chiều dọc mà thôi.
Chiều dọc, đó là chiều của dự phỏng, của lý tưởng, của cái nhìn xa, của hệ thống, và cấu trúc, nó giúp người ta có một cái nhìn thấu thị toàn thể. Tất nhiên, một cây không thể vươn lên cao khi không trổ những cành ngang. Dẫu vậy, cầm một cành ngang đã chặt, người ta không thể suy đoán chắc chắn về thân cây. Trái lại, có được một thân cây người ta có thể dễ dàng hình dung ra những cành ngang đã bị cưa đi. Mục đích cuốn sách của tôi gần giống vậy: trình ra một thân cây đã lược bỏ những cành ngang. Cụ thể hơn, tôi sẽ viết:
1. Dẫn dụ
2. Lý giải hệ thống các vấn đề chính của triết học theo chiều dọc
3. Minh giải
4. Dẫn giải.
Cả 4 cách viết này sẽ được đan lồng vào nhau, làm sao để vấn đề tự thân của các nhà triết học nổi lên rõ rệt, và dễ hiểu. Theo cách đó, tôi chỉ là người cố giúp độc giả đọc sách.
Tại sao tôi có thể tự tin viết cuốn sách này? Như Saint Augustime đã từng lý giải: “ Nếu tôi nhầm vậy tôi có. Nghĩa là sở dĩ tôi nhầm vì tôi sẽ thiết yếu liên quan đến chân lý”. Tôi hy vọng, con đường tôi phác họa, nếu không rõ nét, thì bạn cũng sẽ thấy lờ mờ ở đó là một lộ trình triết học. Và ngay cả điều đó cũng không đạt được nốt, thì bạn sẽ từ chân móng con đường của tôi xác lập con đường đúng đắn hơn trong nhận thức của bạn. Khi đó, tôi chỉ là tấm giấy quỳ, một phép thử của chân lý mà thôi. Nhận thức tiến về nhận thức còn hơn không nhận thức gì cả. Và một hành động được tiến hành có thể phải gặt lấy kinh nghiệm chua xót bi thương còn hơn là chẳng làm gì để tạo dựng diện mạo cuộc đời. Triết gia Bergson có nói: “ Đặt câu hỏi tốt hơn là không có gì” (17). Bởi hy vọng, những vấn đề tôi minh giải, nếu không là những mũi tên chỉ đường trên lộ trình triết học, thì cũng cùng bạn đưa ra những câu hỏi, để tìm ra những mũi tên chỉ hướng con đường. Chính thế mà tôi viết cuốn chuyên luận này.
Mời bạn hãy cùng tôi bước tới lộ trình.