Hạnh phúc của một tang gia
(trích Số đỏ của Vũ Trọng Phụng)
I. TIỂU DẪN
1. Tác giả (1912- 1939)
- Quê ở Hưng Yên nhưng ông sinh ra, lớn lên và mất tại Hà Nội.
- Sinh ra trong một gia đình “nghèo gia truyền”.
- Là người bình dị, mực thước, cần mẫn, lam lũ với nghề văn.
- Các tác phẩm chính (sgk)
- Sáng tác của ông toát lên niềm căm phẫn mãnh liệt cái xã hội đên tối, thối nát đương thời.
- Quan điểm sáng tác: “tiểu thuyết là sự thực ở đời”.
2. Tiểu thuyết “Số đỏ”
a. Tóm tắt (sgk)
b. Gía trị:
- Nội dung:
+ Đánh thẳng vào nội các của xã hội thực dân nửa phong kiến VN trước Cách mạng tháng Tám -> tính thời sự và tính chiến đấu.
+ Xây dựng được một loạt chân dung biếm hoạ xuất sắc.
- Nghệ thuật: thể hiện một trình độ tiểu thuyết già dặn, bút pháp châm biếm đặc biệt sắc sảo.
-> một bộ tiểu thuyết “ghê gớm, có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học” (Nguyễn Khải)
II. VĂN BẢN
1. Vị trí đoạn trích: chương V- tiểu thuyết “Số đỏ”
2. Đọc
3. Tìm hiểu chi tiết
* Nhan đề: tang gia >< hạnh phúc
-> nghịch lí với quy luật đời thường
-> giật gân, hài hước, phản ánh một sự thật mỉa mai, tàn nhẫn.
a. Tâm trạng- chân dung của mọi người trước cái chết của cụ cố tổ.
Niềm vui lớn nhất cho đại gia đình bất hiếu này là tờ di chúc của cụ cố tổ thế là đã đến lúc thực hiện:
- Ông Phán mọc sừng: sung sướng và tự hào về giá trị đôi sừng hươu vô hình.
- Cụ cố Hồng: mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai...đê cho thiên hạ phải ngợi khen.
->điển hình cho loại người ngu dốt và háo danh.
- Ông Văn Minh: thích thú vì cái “chúc thư...không còn là lý thuyết viễn vông nữa”
và đăm đăm chiêu chiêu suy nghĩ về ơn và tội của Xuân tóc đỏ.
- Cậu Tú Tân: điên người lên vì đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi không được dùng đến.
- Bà Văn Minh: sốt cả ruột vì mãi khôgn được mặc đò xô gai tân thời...
- Ông Typn: bực mình vì mãi không thấy những chế tạo cuả mình ra mắt công chúng.
- Cảnh sát sung sướng vì có việc làm...
-> Ý nghĩa trào phúng: tàn nhẫn, ích kỉ vì đồng tiền. Sự tha hoá, đồi bại của lương tâm.
3. Tìm hiểu chi tiết
b. Cảnh đưa đám
* Nghi thức- nghi lễ:
- Đầy đủ, phô trương Ta- Tàu- Tây.
- Thuê cảnh sát giữ trật tự.
- Đưa tang: huyên náo.
-> NT châm biếm -> phô trương, rởm đời, lố lăng, kệch cởm, đua đòi lối sống văn minh. “Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu”
* Những người đi đưa tang:
- Tuyết: mặc y phục Ngây thơ..., nhanh nhẹn mời khách, trên mặt có vẻ buồn lãng mạn đúng mốt nhà có đám.
-> lố lăng, đồi truỵ, tha văn hoá.
- Bạn thân cụ cố Hồng:
ngực đầy huy chương >< “trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết, ai nấy đều cảm động...”
-> DÂM
- Mấy trăm “giai thanh gái lịch” vẻ buồn rầu của những người đi đưa ma >< chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau...
Chỉ qua tập hợp những câu đối thoại có vẻ lộn xộn, vụn vặt -> làm rõ tính cách vô văn hoá của những người mang danh là tân thời, thanh lịch.
- Cụ cố Hồng...mếu máo...ngất đi
- Ông Phán mọc sừng oặt người đi: Hứt...hứt...hứt...
- Cậu Tú Tân: luộm thuộm trong chiếc áo thụng...tạo cảnh để chụp ảnh kỉ niệm lúc hạ huyệt; Bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp ảnh...
* Xuân tóc đỏ xuất hiện:
- đám tang thêm nhốp nhăng.
- biết tự quảng cáo đúng chỗ, xuất hiện đúng lúc, đáp ứng đúng ý thích của người mà hắn cần lấy lòng.
-> Ngoài bản chất dâm và đểu, Xuân tóc đỏ còn bộc lộ năng ợưc tinh quái, láu lỉnh.
* Màn kịch nhỏ:
Ông Phán oặt người, khóc hứt...hứt...>< dúi vào tay XTĐ giấy bạc 5 đồng gấp tư; Xuân năm tay cho khỏi có người trông thấy.
-> bịp bợm, vô liêm sĩ.
4. Tổng kết.
Từ tình huống trào phúng cơ bản (hạnh phúc cua rmột gia đình có tang), nha văn triển khai mâu thuẫn theo nhiều tình huống khác nhau tạo nên một màn đại hài kịch phong phú và rất biến hoá. Một trong những thủ pháp quen thuộc là phát hiện những chi tiết đối lập nhau gay gắt nhưng cùng tồn tại trong 1 sự vật, một con người. Ngoài ra, các thủ pháp cường điệu, nói ngược, mỉa mai...đều được sử dụng đan xen linh hoạt...-> phê phán mạnh mẽ bản chất giả dối và sự lố lăng, đồi bại của xã hội “thượng lưu” ở thành thị những năm trước Cách mạng.
( St)