Hàng hóa

Bút Nghiên

ButNghien.com
HÀNG HOÁ

1. Hàng hoá và hai thuộc tính của nó.

1.1 Khái niệm:


Hàng hoá là sản phẩm của lao động, thỏa mãn được nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.

Từ khái niệm trên cho thấy: Hàng hóa là một phạm trù lịch sử, nó chỉ xuất hiện khi có nền sản xuất hàng hóa, đồng thời sản phẩm lao động mang hình thái hàng hóa khi nó là đối tượng mua bán trên thị trường

+ Hàng hoá có thể ở hai dạng: hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình

1.2. Hai thuộc tính của hàng hoá:

Hàng hóa có hai thuộc tính: Giá trị sử dụng và giá trị.

a. Giá trị sử dụng của hàng hoá:

- Khái niệm:

Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của hàng hoá để thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người.

- Bất cứ hàng hoá nào cũng có một hay một số công dụng nhất định.

VD: gạo, vải...Chính công dụng đó làm cho hàng hóa trở thành một giá trị sử dụng hay có một số giá trị sử dụng.

- Giá trị sử dụng của hàng hoá là do thuộc tính tự nhiên của nó quy định.

Việc phát hiện ra từng thuộc tính tự nhiên có ích lại đó lại phụ thuộc vào sự phát triển của xã hội, của con người, khoa học kỹ thuật. Nếu phát hiện được thì nó có giá trị hiện thực, còn không phát hiện được, hoặc chưa phát hiện được thì nó chỉ ở trạng thái khả năng.

Vì vậy xã hội càng tiến bộ lực lượng sản xuất càng phát triển thì số lượng giá trị sử dụng ngày càng nhiều, chủng loại giá trị sử dụng càng phong phú, chất lượng giá trị sử dụng ngày càng cao.

Chính vì vậy, giá trị sử dụng là một phạm trù mang tính vĩnh viễn.

Nhưng giá trị sử dụng của hàng hoá là giá trị sử dụng xã hội vì giá trị sử dụng của hàng hoá không phải là giá trị sử dụng cho người sản xuất trực tiếp mà là cho người khác, cho xã hội, thông qua trao đổi mua bán. Điều đó đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải luôn quan tâm đến nhu cầu của xã hội, thì hàng hóa mới bán được.

Giá trị sử dụng của hàng hóa chỉ được thực hiện khi thông qua trao đổi mua bán. Vì vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá là vật mang giá trị trao đổi.

b. Giá trị của hàng hoá.

- Muốn hiểu được giá trị của hàng hoá phải đi từ giá trị trao đổi. Vì chỉ thông qua trao đổi giá trị mới được thực hiện.

- Giá trị trao đổi: trước hết là một quan hệ về số lượng là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.

- VD: 10kg thóc = 1m vải

Hai hàng hóa trên sở dĩ trao đổi được cho nhau vì giữa chúng có một cơ sở chung, cái chung đó không phải là giá trị sử dụng của các hàng hóa. Mà cái chung đó là: cả hai hàng hóa trên đều là sản phẩm của lao động, đều có lao động kết tinh trong đó. Nhờ đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được cho nhau.Như vậy, người ta trao đôi hàng hóa cho nhau thực chất là trao đổi lao động của mình ẩn chứa trong những hàng hóa ấy cho nhau.

Chính lao động hao phí để tạo ra cơ sở của hàng hóa là cơ sở để trao đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hoá.

- Khái niệm: Giá trị của hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá đó.

+ Giá trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị, giá trị là nội dung là cơ sở của giá trị trao đổi.

Giá trị biểu hiện mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. Vì vậy, giá trị là một phạm trù lịch sử chỉ tồn tại trong nền kinh tề hàng hoá.

c. Mối quan hệ giữa hai thuộc tính:

Hai thuộc tính của hàng hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, vùa thống nhất vừa mâu thuẫn với nhau.

- Sự thống nhất giữa hai thuộc tính:

+ Hai thuộc tính này cùng đồng thời tồn tại trong một hàng hoá, tức một vật phải có đầy đủ hai thuộc tính này mới trở thành hàng hoá thiếu một trong hai thuộc tính đó vật phẩm không phải là hàng hóa.

- Mâu thuẫn giữa hai thuộc tính:

+ Với tư cách là giá trị sử dụng thì các hàng hoá không đồng nhất về chất. Nhưng ngược lại với tư cách là giá trị thì các hàng hoá lại đồng nhất về chất, vì đều là sự kết tinh của lao động- tức lao động vật hoá.

+ Tuy giá trị sử dụng và giá trị cùng tồn tại trong một hàng hoá, nhưng quá trình thực hiện chúng lại tách rời nhau cả về mặt không gian và thời gian:

Giá trị được thực hiện trước trong lĩnh vực lưu thông.

Giá trị sử dụng được thực hiện sau trong lĩnh vực tiêu dùng.

Do đó nếu giá trị của hàng hoá không được thực hiện thì dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa. Như vậy, mâu thuẫn giữa giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa chính là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng sản xuất thừa.

2. Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá.

Hàng hoá có hai thuộc tính không phải là do hai thứ lao động khác nhau kết tinh trong đó, mà là do lao động của người sản xuất hàng hoá có tính chất hai mặt:

a. Lao động cụ thể:

- Khái niệm: Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể của những nghề nghiệp chuyên môn nhất định.

- Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương pháp, công cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính những cái riêng đó phân biệt các lao động cụ thể khác nhau. Chính vì vậy, lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa.

- Trong xã hội có nhiều loại hàng hoá với giá trị sử dụng khác nhau là do có nhiều loại lao động cụ thể khác nhau.

b. Lao động trừu tượng:

- Khái niệm: Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hoá khi đã gạt bỏ những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao động của người sản xuất hàng hoá nói chung.
Chính lao động trừu tượng cùa người sản xuất hàng hóa mới tạo ra giá trị của hàng hóa. Như vậy: giá trị của hàng hoá là do lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị hàng hoá.

* Tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá phản ánh tính chất tư nhân và tính chất xã hội của người sản xuất hàng hoá.

- Mỗi người sản xuất hàng hoá sản xuất ra cái gì, như thế nào là việc riêng của họ. Vì vậy lao động đó mang tính chất tư nhân, và lao động cụ thể của họ biểu hiện của lao động tư nhân.

- Lao động của người sản xuất hàng hoá là lao động xã hội. Bởi vì nó là một bộ phận của toàn bộ lao động xã hội trong hệ thống phân công xã hội.

- Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn với nhau:

+ Sản phẩm do những người sản xuất hàng hoá riêng biệt tạo ra có thể không ăn khớp với nhu cầu của xã hội. Khi sản xuất vượt quá nhu cầu của xã hội, sẽ có một số hàng hoá không bán được, tức không thực hiện được giá trị.

+ Mức tiêu hao lao động cá biệt của người sản xuất hàng hoá cao hơn so với mức tiêu hao mà xã hội có thể chấp nhận, khi đó hàng hoá cũng không bán được hoặcbán được nhưng cũng không thu hồi đủ chi phí bỏ ra.

Mâu thuẫn giữa lao động tư nhân với lao động xã hội là mầm móng của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hoá.

3. Lượng giá trị của hàng hoá và các yếu tố ảnh hưởng tới nó.

a. Thời gian lao động xã hội cần thiết


- Giá trị của hàng hoá là do lao động xã hội, lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá.

Vậy, lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hoá đó. Lượng lao động tiêu hao ấy được tính bằng thời gian lao động.

- Nhưng lượng giá trị của hàng hóa không phải do mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định mà nó được đo bởi thời gian lao động xã hội cần thiết.

- Thời gian lao động xã hội cần thiết: là thời gian lao động cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá nào đó trong điều kiện sản xuất bình thường của xã hội với một trình độ trang thiết bị trung bình, với một trình độ thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.

- Thời gian lao động xã hội cần thiết chính là mức hao phí lao động xã hội trung bình để sản xuất ra hàng hoá.

- Thời gian lao động xã hội cần thiết là một đại lượng không cố định, vì trình độ thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình, điều kiện trang thiết bị kỹ thuật trung bình của xã hội ở mỗi nước khác nhau là khác nhau và thay đổi theo sự phát triển của LLSX. Khi thời gian lao động xã hội cần thiết thay đổi thì lượng giá trị của hàng hoá cũng sẽ thay đổi.
Như vậy, chỉ có lượng lao động xã hội cần thiết, hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá, mới quyết định đại lượng giá trị của hàng hoá ấy.

b. Những yếu tố ảnh hưởng đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá.

- Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động. Được đo bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian lao động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.

Do đó, khi năng xuất lao động tăng lên thì giá trị một đơn vị hàng hoá sẽ giảm xuống và ngược lại. Như vậy giá trị của hàng hoá tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.

+ Năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố: trình độ thành thạo trung bình của người công nhân, mức độ phát triển của khoa học và công nghệ, mức độ ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất, trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của TLSX, và các điều kiện tự nhiên.

- Cường độ lao động là khái niệm nói lên mức độ hao phí sức lao động trong một đơn vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của người lao động.

+ Cường độ lao động tăng lên tức là mức hao phí sức lao động trong một đơn vị thời gian tăng lên, mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của người lao động tăng lên.

Nếu cường độ lao động tăng lên thì ssố lượng hàng hoá sản xuất ra tăng lên và sức lao động hao phí cũng tăng lên tương ứng, vì vậy giá trị của một đơn vị hàng hoá vẫn không thay đổi, vì tăng cường độ lao động, thực chất là việc kéo dài thời gian lao động.

+ Cường độ lao động cũng phụ thuộc vào trình độ tổ chức quản lý, quy mô và hiệu suất của tư liệu sản xuất, đặc biệt là nó phụ thuộc vào thể chất, tinh thần của người lao động.

Như vậy, tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động giống nhau ở chỗ:

+ Chúng đều thuộc sức sản xuất của lao động.

+ Đều dẫn đến số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên.

Nhưng khác nhau ở chỗ:

+ Tăng năng suất lao động không chỉ làm cho số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian tăng lên mà còn làm cho giá trị của một đơn vị hàng hoá giảm xuống.

+ Tăng năng xuất lao động còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố máy móc, kỹ thuật, do đó nó gần như là một sức sản xuất vô hạn.

+ Tăng cường độ lao động làm cho số lượng sản phẩm sản xuất ra tăng lên trong một đơn vị thời gian nhưng giá trị của một đơn vị hàng hoá không thay đổi.

+ Tăng cường độ lao động phụ thuộc nhiều vào thể chất và tinh thần của người lao động, do đó nó là yếu tố của sức sản xuất có giới hạn nhất định.
Chính vì vậy tăng năng suất lao động có ý nghĩa tích cực hơn đối với sự phát triển kinh tế.

- Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến số lượng giá trị hàng hoá. Theo mức độ phức tạp của lao động, coa thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.

+ Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người lao động bình thường nào không cần phải trải qua đào tạo cũng có thể thực hiện được.

+ Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động chuyên môn lành nghề nhất định mới có thể tiến hành được

(Nguồn: Bài giảng Kinh tế chính trị)
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top