[h=2]Chương 4: Những mối tình[/h]Trong cuộc đời nổi tiếng của Hàn Mặc Tử, thơ văn gắn liền với tình yêu, như bóng với hình, mà thơ thì lại là sự sống của anh. Hễ có thơ là có tình và có tình chắc chắn là có thơ.
Thế nhưng tình của anh không biểu lộ giao tiếp song phương để cụ thể hóa mối tình đó,mà chỉ toàn là cảm ứng giữa những tâm hồn nghệ sĩ, kể cả với trăng.
Tình của anh là một thứ tình tưởng tượng, ước mơ trong bao nhiêu ngày tháng, trên bao nhiêu giấy mực và bao nhiêu thương nhớ chơi vơi.
Có vậy thôi,không đi đến đâu cả!
Vậy mà cũng tạo được cho người đời, những suy cảm say sưa, để rồi cũng xót xa với anh, nhức nhối với anh, từ nửa thế kỉ nay.
Tưởng tượng của anh phong phú kỳ lạ, ước mơ của anh thiết tha chân thành, đến nỗi ngừơi ta xem anh là một thi sĩ đào hoa, phong lưu lãng mạn, mà vẫn không hề lưu lại tiếng hờn tủi cho bất cứ ai.
Cứ nghe anh thành thật:
… Bao giờ, ai hóng hơi hương báu
Ngoài cõi tâm tư sẽ lỗi nghi
Chắc đâu đi lụy cho nhân quả
Thôi cứ say mềm với nữ nhi.
Nếu viết lại cho hết những người bạn gái tạt ngang qua đời anh, như mộng lớn, mộng con của thi sĩ Tản Đà, thì không tài nào nhớ hết được.
Chẳng hạn như:
Ta đồ chữ NGỌC lên tàu lá
SƯƠNG ở cung thiển nhỏ chẳng thôi.
Hoặc:
Ta đuổi theo trăng, ta đuổi theo trăng
Trăng bay là là, ngã lên cành vàng
Tới đây là tôi được gặp nàng
(Cành vàng lá ngọc)
Trong chương này, tôi chỉ xin chép lại bốn mối tình của anh mà bóng dáng còn lưu lại đậm đà trong văn thi anh, và cũng là bốn mối tình anh mang nhiều ray rứt trong tâm tư.
Anh Trí vốn ít nói, sống thầm lặng, nhất là sau tai nạn ở bờ biển, lại càng khép kín hơn.
Gần bên anh lâu ngày, tôi biết anh có nhiều tâm sự chưa hề tiết lộ với ai. Bên ngoài có vẻ như lặng lẽ vô tình nhưng bên trong lại rất nồng nàn mãnh liệt mà anh đang sống bằng cảm thụ.
Giá như anh không làm thơ để “bài tiết” cái tâm sự của anh, thì thật nguy hiểm vô cùng, nhất là với tình trạng mà tôi cho là bất bình thường sinh lý sau đây:
Từ thời còn đi học giáo lý, anh chịu ảnh hưởng sâu đậm của cha Thiềng, một linh mục nhân đức có nếp sống đơn sơ mà anh rất cảm phục yêu mến.
Có hai điều giáo lý của cha mà anh ghi nhớ rất cẩn thận và tuân thủ vô cùng chặt chẽ. Đó là:
– Nhân đức sạch sẽ (có nghĩa tinh khiết) mà cha hay nói: “Điều răn thứ sáu (tình dục) rất đáng sợ, thậm chí các Thánh ngày xưa không dám nói đến tên.
– Đừng bắt chước bọn Pharisiêu mà kinh thánh cho là giả hình. Cần phải sống bằng nhân đức khiêm nhượng kín đáo (humilité).
Trong đời anh, người con gái duy nhất mà anh dám trò chuyện vui đùa là chị Như Lễ, ngoài ra anh không hề mở miệng với bất cứ thiếu nữ nào đồng trang lứa dù là để chào hỏi, kể cả láng giềng hay bà con.
Chị Lễ có học, ít nhiều có khiếu văn chương, rất hợp với anh. Nhưng hễ ngồi lại là hay tranh cãi, nhất là cãi giáo lý, và chị Lễ thường bị anh chỉ trích là Pharisiêu, vì chị có thói quen đứng hàng giờ bên bàn thờ sau buổi kinh tối (tôi nghĩ hai chị em không có đề tài để nói chuyện ngoại trừ tranh cãi giáo lý).
Và chị Lễ cũng là người con gái đầu tiên được anh ca ngợi tán dương trong bài “Chơi giữa mùa trăng” như một pho tượng trinh nữ.
Ở Huế về, đã mười chín tuổi, cái tuổi của những thanh niên khí lực sung mãn mới lớn, đáng lẽ anh phải có những giây phút mơ mộng, hoặc bị những đòi hỏi khát khao của tuổi trẻ chi phối. Nhưng anh đã dồn hết vào khoảng thời gian đó những đam mê thể thao thể dục, và có lẽ vì thế anh rất ít bận tâm đến sinh lý thông thường chăng?
Thế nhưng, thời gian đó qua đi rồi, mà vẫn không thấy anh thay đổi tính tình, không thấy anh trò chuyện với thiếu nữ nào, đừng nói là có bạn gái.
Nói đến chuyện lứa đôi là đỏ mặt.
Không biết có phải vì anh có những nét nhân đức thật sự, hay vì e ngại tôi lỗi, mà cha Thiềng nhắm muốn đỡ đầu cho anh đi tu, xem anh như có ơn kêu gọi, cho nên anh rất sợ bị dòm ngó đạo đức của anh mà vốn dĩ anh là đứa trẻ nghịch ngợm nhất nhà. Ngay cả những khi đọc kinh anh cũng rất kín đáo, tràng hạt trong túi áo, hai tay thọc sâu vào đi đi lại lại im lặng. Không ai biết anh lần tràng hạt hay làm thơ. Thế rồi, anh biết yêu. Khi anh tiến sâu vào địa hạt văn thơ.
Bạn bè đều biết anh bắt đầu yêu sau khi tiếng tăm thơ văn anh được báo chí nói đến, cũng đống thời có nhiều cảm ứng trong giao thiệp văn chương với một số nữ sĩ. Tôi hay đùa: Thơ và tình đến với anh cùng một lúc.
Vì vậy, anh ước mơ người đẹp một cách cổ điển: “Thư trung hữu mỹ nữ”.
“Để rồi một buổi trăng sáng nào đó yên lặng, anh chờ người đẹp từ từ trong sách hiện ra với anh”.
Cho nên gần suốt cuộc đời anh, vẫn chưa gặp được người yêu mơ ước và cuối cùng phải thở than:
Đời không có ngọc trong pho sách
E hết khôi nguyên ở Thượng Trì.
1. TÌNH ĐẦU : HOÀNG HOA
Năm 1933, anh Trí vào làm việc ở Sở Địa Chánh (Cadastre), nơi đây anh bắt đầu quen với một số bạn bè yêu thích văn thơ.
Trước hết là Hoàng Diệp và Hoàng Tùng Ngâm. Ngâm là cháu ruột cụ Thương tá Hoàng Phùng, giám đốc Sở Địa Chánh.
Hoàng Tùng Ngâm có người chị thúc bá (ái nữ cụ Hoàng Phùng) cũng rất yêu thơ Hàn Mặc Tử, thường viết báo làm thơ với bút hiệu Hoàng Hoa nữ sĩ, tên thật là Hoàng Thị Kim Cúc, một thiếu nữ khuê các mà phong thái nhàn hạ, thoáng đôi chút kiêu sa khiến anh Trí say mê và… sợ sệt. Trong nhà cũng phong phanh biết anh Trí yêu cô Kim Cúc.
Theo anh, thì tình yêu phải sáng sủa quân tử như đôi chim thư cưu ở trong Kinh thi “Quan quan thư cưu, tại hà chi châu”, mà anh thường tâm niệm “tương thân nhi tương kính” cho nên anh yêu mà “kính nhi viễn chi”.
Anh thường tỏ ra, bối rối mất cả bình tĩnh mỗi khi người thiếu nữ đó đi ngang qua nhà.
Chi Kim Cúc là một thiếu nữ rất “Huế”. Nghiêm đường thuộc giòng dõi thế gia ở Vỹ Dạ, một vùng mà nếp sống như xa xôi với thôn quê, vùng dành riêng cho các vị hưu quan, các ông tham, ông thị. Nếp sống quan dạng kiểu cách đó được biểu lộ rõ ràng.
Ông Quách Tấn khi được tin ấy cho là điều không may cho anh Trí, vì không được xếp vào môn đăng hộ đối.
Thật thì, không hẳn như vậy, nếu xét về tông tích dòng họ.
Chính chị Cúc cho biết: “Cụ Thị Phùng cũng đã từng quen biết với cha tôi năm 1901 ở Điện Bàn, khi cha tôi bàn giao công việc ở Tòa sứ để chuyển ngành qua Thương chánh Hội An”.
Cụ Phùng có ghi vào phả là ông Nguyễn Văn Toản về sau đậu Tham Tá đổi vào miền Nam.
Như vậy thì gia đình cụ Thương ta không phải không biết là bà Tham Toản mà địa phương hay gọi là “bà Thương” khiến có nhiều lần khách vào lầm nhà chị Cúc và ngược lại.
Cũng như anh Mộng Châu, anh Trí có dính dáng đến một hôn ước từ nhỏ với một gia đình vọng tộc mà trong lúc thân thiết vui vẻ, hai nhà giao ước với nhau.
Anh Mộng Châu không tính chuyện lấy vợ, toan xuất dương nối chí ông cha. Một phần, anh cũng tin vào lời dịch số của cậu tôi (học trò ông ngoại tôi) rằng: “Khi mẹ tôi có đích tôn thì chết”.
Anh Trí đi học Huế rồi về Qui Nhơn, ít khi có cơ hội gặp gỡ người em học, nên cũng xao lãng. Dù vậy, anh cũng không hề tâm sự với ai, dù chỉ để nói đùa.
Duy có lần, anh bất thần hỏi tôi về chuyện hôn ước đó: “Còn mi thì sao đây? Hay là cũng bỏ hết cả ba anh em”.
Tôi không biết gì vì còn học. Chỉ đến kỳ nghỉ hè mới lại được dịp gặp go84 ở Qui Nhơn. Anh Trí gọi đó là nhịp cầu “Ô thước” để nhớ những ngày còn bé ở chung nhà.
Có lẽ vào tuổi 19 – 20 cũng có đôi chút bâng khuâng hay kỷ niệm gì đó, anh làm thơ vẽ lại mấy nét:
NHỚ CHĂNG
Nhớ chăng, anh cùng em nô đùa
Ngây thơ như đứa trẻ lên ba
Anh đứng bên cạnh nhìn em thêu thùa
………
Nào có phải anh với em
Tự kết mối lương duyên
Đó chẳng qua
Vì cha mẹ đôi bên
Chung kết mối tình riêng
Rồi ba em lại mất
Rồi ba anh chẳng còn
Mẹ em giàu có
Mẹ anh nghèo khó
Rồi lời hứa năm xưa
Cùng dòng nước chảy qua
Đi biệt
không về.
Tôi hỏi anh: “Viết cho ai đây?” Anh cười: “Cho ai cũng được”.
Quả thật về sau đều dang dở.
Vì vậy mà tôi nghĩ mối tình đầu của anh phải là Hoàng Hoa. Và mối tình đó cũng chưa hề được đáng ứng song phương.
Hoàng Tùng Ngâm là bạn rất thân của anh Trí, đã chuyển đạt đến Hoàng Hoa nỗi lòng rạo rực của anh qua mấy vần thơ tán tỉnh.
VỊNH HOA CÚC
Thu về nhuộm thắm nét hoàng hoa
Sương đẫm trăng lồng bóng thướt tha
Vẻ mặt khác chi người quốc sắc
Trong đời tri kỷ chỉ riêng ta.
Trong bài khác:
TRỒNG HOA CÚC
Thích trồng hoa cúc để xem chơi
Cúc ngó đơn sơ lắm mặn mòi
Đêm vắng, gần kề, say chén nguyệt
Vườn thu vắng vẻ đủ mua vui.
Và anh thổ lộ tâm sự như chưa bao giờ bày tỏ trong
ÂM THẦM
… Em có ngờ đâu trong những đêm
Trăng ngà giải bóng mặt hồ êm
Anh đi thơ thẩn như ngây dại
Hứng lấy hương nồng trong áo em
Bên khóm thùy dương em thướt tha
Bên ni bờ liễu anh trông qua
Say sưa vướng phải mùi hương ướp
Yêu cái môi hường chẳng nói ra.
Chỉ trong bài thơ anh mới viết đôi mắt, đôi môi nhưng không bao giờ nói ra được hay diễn ta cái đẹp với nột người khác.
Những bài thơ dễ thương như anh học trò bỡ ngỡ, làm cho chị Cúc cảm động không ít.
Hoàng Hoa có vẻ như không từ chối tính anh, nhưng rất nặng về lễ giáo, chị nói với Hoàng Tùng Ngâm một cách lo lắng:
“Cái ngăn cách lớn nhất của chị không thể nào vượt qua được là vấn đề lương giáo.”
Riêng chị rất chua xót mà không thể nói ra được.
Gia đường theo Phật giáo rất nghiêm chỉnh, chắc không thể nào để cho một người con có lễ nghĩa, đi ra ngoài khuôn khổ mực thước của giòng họ.
Anh Trí nghe được rất buồn, thơ anh bắt đầu bải hoải, nhưng vẫn còn hy vọng.
Trong bài thơ “ĐÔI TA”, anh bấu víu vào mối tình thực tiễn của Hoàng Hoa:
… Mà anh hay em trong tim đều rạn
Dầu chôn sâu hình ảnh một người mơ
Bây giờ đây quấn quít hiện bây giờ
Chỉ có biết đôi ta là đang sống
Đang cho nhau ngọt ngào và đang mộng
Cứ làm ngơ không biết đến thời gian
Đến bông hoa tàn tạ với trăng nhàn
Đến những tình duyên chung quanh thất vọng.
………
Cứ nhắm mắt, cứ yêu nhau như chết
Cứ sửng sốt đê mê mà rũ liệt
Đừng nghe chi âm hưởng địa cầu đang
Vỡ tan ra từng mảnh cả không gian
Cả thời gian từ tạo thiên lập địa.
Mối tình vô vọng, nhưng vẫn kéo dài khi đầy khi vơi, liên lạc bằng văn thơ cho đến ngày anh mất.
(Năm mươi năm rồi, Hoàng Hoa vẫn còn giữ nguyên bút tích văn chương của anh. Nhờ đó mà các nhà viết văn có tài liệu về mối tình đầu của anh).
Sau một thời gian bị ngắt quãng vào Saigon làm báo. Anh lại trở về Qui Nhơn, mà tình hình có vẻ thuận lợi hơn cho anh tiếp tục mối tình Hoàng Hoa, khi gia đình dọn về số 20 đường Khải Định, chỉ cách nhà chị Cúc có vài căn phố.
Anh sống lại mối tình đầu nồng nàn với ít nhiều bạo dạn hơn. Anh viết bài:
HỒN CÚC
Bấy lâu sát ngõ chẳng ngăn tường
Không dám sờ tay sợ lấm hương
Xiêm áo hôm nay tề chỉnh quá
Muốn ôm hồn cúc ở trong sương
Trong bài Tình thu anh nhắc lại tình xưa khi trông thấy chị Cúc buồn gầy:
Đêm qua ả Chức với chàng Ngâu
Nhắc chuyện yêu đương ở dưới cầu
Kể lễ một năm tình vắng vẻ
Sao em buốn bã suốt canh thâu
Rồi cũng thẹn thò như ngày nào:
… Sao ta không dám nhìn nhau rõ
Gặp gỡ bên đường vẫn thản nhiên.
Có nhiều hôm anh ngồi thừ trong chiếc ghế mây, nhìn qua bức mành tre sáo trước cửa, đợi chị Cúc đi ngang qua, trông anh đến thiểu não.
Chị Cúc biết điều đó, về sau kể lại với con gái chi Như Lễ mà rằng: “Nghĩ tội nghiệp anh quá”.
Bạn bè đến chơi trông thấy anh ngồi buồn bã như kẻ thất tình, nên thường trêu cợt anh là con người sau bức rèm lạnh và gọi đùa anh là Hàn Mạc Tử.
Chữ Hàn ở đây có nghĩa là lạnh và chữ mạc không dấu là bức màn, Hai chữ Hàn Mạc là bức rèm lạnh. Anh chỉ cười, không nói gì, cũng không để ý đến nữa.
(Mãi về sau khi anh qua đời còn nhiều người vẫn tưởng lầm bút hiệu của anh là Hàn Mạc Tử.
Những người bạn thân đều biết rõ, nhưng nghĩ không quan trọng gì, nên không ai lên tiếng.
Ngay cả ông Trần Thanh Mại, khi viết cuốn HÀN MẶC TỬ vẫn lầm anh là Hàn Mạc Tử, chỉ vì thấy có những bức thơ anh Trí viết cho Trần Thanh Địch, thường hay ký tên nguyên cả chữ mà không chấm dấu gì hết.
Bởi thế cũng có một dạo tranh luận ít nhiều về tên Hàn Mạc Tử, nhưng ông Quách Tấn, người có trách nhiệm bảo thủ văn thơ anh, lên tiếng cải chính cặn kẽ rồi.
Theo chỗ tôi biết, thì bút hiệu đúng của anh là Hàn Mặc Tử, trước hết anh tự nhận là nhà thơ nghèo nàn (Hàn Mặc, chữ Hàn của anh là nghèo, không phải lạnh).
Chữ Mặc là thỏi mực, ngụ ý “tao nhân mặc khách” (con người của bút mực, văn chương, thi sĩ).
Anh Trí vốn rất ngưỡng mộ triết gia Mặc Dịch thời Chiến Quốc, nổi tiếng chủ trương thuyết Kiêm ái, nên anh cũng tự nhận thuộc môn phái Mặc Dịch, thương yêu hết mọi người.
Chữ Mặc Tử khi ghép đôi mới có ý nghĩa là môn đồ Mặc Dịch.
Chữ Mạc Tử thì không có ý nghĩa gì.
Chữ Hàn Mặc Tử nói lên ý nghĩa một thi sĩ nghèo nàn, nhưng tình thương rộng rãi bao la.
*
Có lần anh nhờ Ngâm chuyển đến chị Cúc một bức thơ, Ngâm nói: “Không nên tiếp tục mối tình vô vọng đó làm gì, chỉ để khổ cho nhau thôi.”
Lúc ấy chưa ai biết anh đau yếu gì.
Có những đêm không ngủ được, nghĩ đến mối tình yêu chưa nói với nhau được câu nào cho thỏa lòng mơ ước, anh toan bước qua nhà cụ Thương, nhưng lại không dám phiêu lưu. Anh viết:
Đêm nay ta lại phát điên cuồng
Quên cả hổ ngươi cả thẹn thuồng
Đứng rủ trước thêm nghe ngóng mãi
Tiếng đàn the thé ở bên song.
Chỉ ít lâu sau, anh Ngâm báo tin cụ Thương về hưu: Cả nhà dọn về Vỹ Dạ, chị Cúc cũng sắp đi theo, anh Trí buồn bã viết:
Và được tin sắp bỏ đi
Chẳng thèm trở lại với tình si
Ta lau nước mắt, mắt không ráo
Ta lẩy tình nương, rủa biệt ly
Hai câu sau bài thơ này, thường được nghe anh ngâm lên mỗi khi ngồi trầm ngâm trên chiếc ghế mấy nhìn ra bức mành tre, tôi hiểu anh xót xa với tình đầu biết chừng nào.
Năm 1936, anh về Hội chợ Huế, gặp chị mà cả hai đều rụt rè e thẹn. Anh Trí mang sách Gái quê tặng các em chị, nhưng lại không dám trao cho chị.
Chị Cúc kể lại và ân hận về thái độ rụt rè đó: “Càng tội nghiệp hơn là hôm sau anh xuống Vỹ Dạ đứng trước cổng hồi lâu rồi lặng lẽ bỏ đi”.
Cho đến khi anh đau nặng rồi 1939 chị Cúc còn gởi cho anh một phiếu ảnh cỡ 6x9: Chị Cúc mặc áo dài lụa trắng như những cô gái Huế thời bấy giờ đứng trong vòm cây xanh mát. Anh làm ngay bài:
ĐÂY THÔN VỸ DẠ
Sao anh không về chơi thôn Vỹ
Nhình nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá, nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.
– Nếu anh biết, chị đã quy y, dành riêng một căn phòng ngày đêm hương hoa tụng niệm, tưởng nhớ mối tình bất diệt của anh mà cũng là tình đầu của chị, đang quyện theo trầm hương dâng lên anh nơi miền cực lạc. Nơi đây không còn ngăn cách giáo lương, không còn tham sân si trần tục.
Ôi! Tình Hoàng Hoa đậm đà biết chừng nào!
– Nếu anh biết, từ ngày nghe anh đau, chị đã dành dụm một số tiền nhỏ, toan nhờ Ngâm gởi tặng anh thuốc thang, nhưng gia phong nghiêm cẩn, không thực hiện được (các con chị Lễ ở Huế đều biết).
“Đây thôn Vỹ Dạ” là bài thơ cuối cùng chị nhận được của anh, chỉ ít lâu sau anh qua đời, đến nay vẫn còn được truyền tụng.
Chị rất cảm động khi biết anh vẫn không quên vườn cau tươi mát, vẫn nhớ đám bắp bến đò Cồn nhìn sang Vỹ Dạ, mà dòng nước buồn thiu lặng lẽ trôi…
Gió và mây không cùng về một hướng, thì tình anh làm sao không ngang trái. “Gió theo lối gió, mây đường mây…”
Mùa thu năm Bính Dần, chị Cúc vào Saigon, ghé lại thăm thình lình làm cho tôi xúc động:
Chao ơi! Người xưa đây Hoàng Hoa!
Bao nhiêu thu rồi, chưa phôi pha
Áo trắng vườn cau thôn Vỹ Dạ
Thương Hàn Mặc Tử nhận không ra
Cùng ôn lại chuyện cũ làm cho gia đình tôi vô cùng thương cảm, càng kính trọng chị như người thân bao năm xa cách.
Thay lời Hàn Mặc Tử, tôi viết tặng chị một bài thơ mượn ngôn từ nhà Phật, chị rất vui vẻ.
HOÀNG HOA CẢM TÁC
(Thay lời Hàn Mặc Tử)
Áo trắng ngày xưa nay áo nâu
Khen ai khéo chọn cảnh đời sau
Vàng son đoạn tuyệt bôi nhân quả
Dưa muối trường trai diệt khổ đau
Trần tục may rời vòng nghiệp chướng
Căn cơ ráng giữ mối duyên tu
Buồn vui thế sự, thôi đừng nhắc
Để chút tình thơ đáp nghĩa nhau.
Tôi xem chị Cúc như chị Nghĩa, chị Lễ tôi.
Một lần tôi về thăm mộ Cụ tôi ở Huế, ghé lại thăm chị ở Vỹ Dạ. Đời sống tu hành khổ hạnh của chị làm cho tôi xúc động càng quý trọng chị hơn.
Khi nhắc lại các mối tình của Hàn Mặc Tử, chị Cúc cười độ lượng:
“Tiếc quá, phải chi trời để anh sống thêm mươi năm nữa, tình anh càng nhiều, thì thơ của anh để mô cho hết.
Bốn người đàn bà trong đời, thật là quá ít đối với Hàn Mặc Tử”.
2. MỘNG CẦM
Tôi biết được chị Mộng Cầm chỉ qua lời giới thiệu nửa đùa nửa thật của Thúc Tề. Anh Trí thì dấu kín, ở nhà không ai hay biết gì.
Thúc Tề cho tôi biết, Mộng Cầm tên thật là Nghệ, cháu kêu thi sĩ Bích Khê bằng cậu ruột, quen biết Hàn Mặc Tử qua văn thơ trên báo chí Saigon.
Mộng Cầm ở với cậu, lúc bấy giờ dạy học tại Phan Thiết.
Trong chương II tôi có dịp nói đến trong bối cảnh Saigon hoa lệ mà anh Trí và các bạn đã sống một thời gian làm báo tại đó.
Mối tình giữa hai người đã có một sôi nổi trong giới văn nghệ sĩ. Họ bàn tán thêu dệt theo cảm ý hay suy đoán của mỗi người.
Có người thương Hàn Mặc Tử thì trách Mộng Cầm bạc bẽo vội ôm cầm thuyền khác, khi vừa nghe tin anh mắc ác bệnh, nhất là khi nghe những lời thơ cay đắng trong những bài:
MUÔN NĂM SẦU THẢM
Nghệ hỡi Nghệ, muôn năm sầu thảm
Nhớ thương còn một nắm xương hôi
Thân tàn ma dại đi rồi
Rầu rầu nước mắt bời bời ruột gan
Nghe hơi gió ôm ngang lấy gió
Tưởng chừng như trong đó có hương
Của người mình nhớ mình thương
Nào hay gió tạt chẳng vương vấn gì
Nhớ lắm lúc như si như dại
Nhớ làm sao bải hoải tay chân
Nhớ hàm răng, nhớ hàm răng
Mà ngày nào đó vẫn khăng khít nhiều
Dẫu đau đớn vì điều phụ rẫy
Nhưng mà ta không lấy làm đều
Trăn năm vẫn một lòng yêu
Và còn yêu mãi rất nhiều em ơi.
Hoặc khóc than não ruột như trong:
PHAN THIẾT, PHAN THIẾT
Ôi trời ôi! Là Phan Thiết, Phan Thiết
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi
Ta đến nơi nường ấy vắng lâu rồi
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ
… Mà âm hưởng thương đau tạo nhiều ai oán trong giới nghệ sĩ Saigon để trở thành huyền thoại.
Cũng có người bênh vực Mộng Cầm còn quá trẻ mà nghiệp chướng hồng nhan đẩy đưa vào một cuộc tình hữu thủy vô chung tạo nhiều tai tiếng cho nàng.
Chưa ai biết rõ mối tình đó ra sao cả. Gia đình của chị cũng không hề hé răng tiết lộ, dù là để thanh minh.
Chỉ nghe mang máng một chuyện tình khá du dương, khi thì lầu Ông Hoàng, khi thì Cù lao Mũi Né.
Mộng Cầm cũng có lần nhắc nhở anh Trí đừng quên:
Rồi có khi nào trong phút giây
Trăng lên khỏi núi gió đùa mây
Thì anh nên nhớ người năm nọ
Đã được cùng anh sống những ngày
Mộng Cầm cũng là nữ sĩ, nhưng tôi chưa có cơ hội đọc thơ chị, nên không biết thế nào là: “Sống những ngày…”
Đối với anh Trí chỉ cần đọc thơ Anh, cũng có thể hiểu được ít nhiều những gì anh muốn nói hoặc tâm sự. Nghe giọng văn anh rụt rè tình tứ trong mối tình đầu với Hoàng Hoa, cũng biết mối tình đó, thi sĩ chưa đạt được. Lòng anh muôn mơ ước mối tình nguyên hương trinh bạch, như nhiều lần anh thổ lộ trong thơ anh để cho hợp tình nghĩa trong trắng tâm hồn anh, như trong các bài: Ưng trăng, Tình hoa…
Chỗ đây khí hậu còn nguyên
Không ai chạm đến mà đến sao đang…
Tôi ưng nàng, tôi ưng nàng
Nàng xa xa quá ơi nàng nàng ơi
Hoặc giọng thơ dễ dãi, bạo dạn thì hiểu được cuộc tình bắt đầu không khó khăn, không ngăn cách vì lễ giáo gia phong
Em tôi thở hổn hển
Áo xiêm lấm tấm vàng
Em tôi đã hiểu chưa
…….
Tăng lại dầm mình xuống nước
Trăng nước đều lặng nhìn nhau
Đôi ta bắt chước thì sao
Hoặc lời thơ chán chường gượng ép, như trong mối tình khi bắt đầu quen với Mai Đình mà ông Tấn đạo diễn cho vui.
Tuy nhiên, ai cũng biết tánh anh không hề muốn mất lòng ai. Tim anh luôn mở rộng đón lấy tình yêu của bốn phương trời. Thơ anh vẫn không thiếu phần tình tứ say sưa, khi mà máu nghệ sĩ tìm được mạch thơ, và mạch thơ đó dẫn dắt đến đâu, anh không cần biết.
Đối với chị Mộng Cầm, tôi chắc tình anh suông sẻ.
Với ít nhiều tư tưởng tiến bộ, có học trong bối cảnh văn minh, phóng khoáng, thì Mộng Cầm làm quen với anh Trí không khó khăn gì (xin đừng nghĩ là buông thả). Cho nên thơ anh không giữ gìn ý tứ.
Vả lại phong cách hào hoa của chị, có thể đã làm cho anh không theo kịp cảm nghĩ của người con gái mới đó.
Những cuộc du ngoạn lầu Ông Hoàng, Cù lao Mũi Né đối với anh còn lạ lùng bỡ ngỡ trong nếp sống văn minh.
Anh viết:
SAY NẮNG
Mặt trời mai ấy đỏ ong
Nàng tiên tiên hóng mát trên hòn Cù lao
… Gió ơi lại đấy mà ngừa
Tôi đứng xa lắm xin chừa tôi đi
Hồn tôi mắc cỡ là vì
Không quen thưởng thức cái gì ngất ngây
Như là ánh nắng vàng lây
Mà thơ sắp sửa phô bày yêu thương…
Dù vậy cái hôn đầu tiên còn lưu lại một thứ hương vị lạ lùng mà anh khó quên, trên đôi môi trinh bạch:
Nhớ hàm răng, nhớ hàm răng
Mà ngày nào đó vẫn khăng khít nhiều
Và tự an ủi:
Hương không ngọt xuân sớm lẽ nào tham
Mật không đắng ân tình không thú vị
Nhưng rồi cũng tiếc nuối hờn dỗi như những chàng trai bị tình phụ:
Xưa những gì đích đáng ở đầu môi
Nay trả lại để tôi làm dấu tích
Mối tình Mộng Cầm chỉ có thế thôi mà cũng đã làm cho anh quên mất đi cái cốt cách phượng hoàng vĩ đại.
Rồi ngây dại nhờ thất tình chỉ hướng
Ta lang thang tìm đến chốn lầu trang
Lầu Ông Hoàng người thiên hạ đồn vang
Và cũng tầm thường nguyền rủa, khi cảm thấy cuộc đời tươi đẹp dừng lại trước đe dọa tàn phá của ác bệnh
Hỡi Phan Thiết, Phan Thiết
Mi là nơi ta chôn hận nghìn thu
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư
Ở trên, tôi viết không hề biết đến Mộng cầm, chỉ qua lời giới thiệu của Thúc Tề.
Cho đến năm 1936, sau khi anh Mộng Châu qua đời, thì khoảng tháng năm chúng tôi dọn về số 20 đường Khải Định. Không lâu sau đó chị Mộng Cầm ghé lại Qui Nhơn có đến thăm.
Nghe nói chị có gởi thơ chia buồn về cái tang anh Mộng Châu, mà về sau cuốn sách Hàn Mặc Tử tiết lộ chị có xin phép để tang, xin anh Mộng Châu phù hộ cho hôn nhân hai người.
Tôi xin đem câu chuyện dưới đây kể lại trong tập Hồi ký này ngõ hầu giúp các nhà văn rộng đường khảo cứu cuộc đời Hàn Mặc Tử.
“Đêm trước, anh Trí đang trầm ngâm suy tư, bỗng chợt nói với tôi: “Nè nè Tín, ngày mai em tiếp khách giùm anh”. Tôi hỏi: “Vậy thì anh đi đâu?” “Không đi đâu cả nhưng anh muốn em giúp anh.”
Tôi hơi lấy làm lạ, bởi vì ở nhà chỉ khi nào có chuyện gì quan trọng phải nhờ cậy, anh mới lịch sự anh em, còn thường thì tao mi thân mật thôi.
Hôm sau, anh dậy sớm sửa soạn thay bộ đồ “tussor soie”, áo chemise trắng cổ “danton”, mang giày verni đen trông ra vẻ lắm.
Tôi hỏi: Ai mà quan trọng vậy – Anh chỉ cười, làm cho tôi có nhiều suy đoán ngờ vực, vì ngày thường anh ăn mặc rất lôi thôi.
Mới bảy giờ sáng, anh đã ra ngồi khoanh tay lại, thói quen cố hữu, thu mình trong chiếc ghế bành bằng mây. Không nói năng gì với ai nữa. Tôi bảo người nhà pha trà sẵn.
Mẹ tôi nhìn tôi dò hỏi. Tôi lắc đầu. Vậy là cả nhà chờ đợi một “biến cố” không ai đoán được cái gì cả.
Tám giờ hơn, một thiếu nữ nhỏ nhắn, tóc hớt ngắm ngang ót kiểu “bom – bê” khá xinh đẹp, duyên dáng trong chiếc áo cẩm châu đen trang nghiêm. Nhìn thấy đôi guốc cao gót tôi giật mình, suýt nữa thì tôi đánh giá cao tay lắm là em nữ sinh lớp nhì, lớp nhứt nào đó thôi.
Vậy là tôi phải đóng vai trò tiếp khách chu đáo cho anh Trí. Anh không giới thiệu gì cả. Cũng không biết anh chào hỏi ra sao, vì lúc ấy tôi đang quay lưng lại.
Chị chào hỏi rất tự nhiên, không có chút gì ngượng ngập, tự giới thiệu là bạn văn thơ của anh Trí, xưng là Mộng Cầm (À! Ra chị Nghệ đây mà. Ôi chao, chị còn nhỏ quá). Giọng nói pha trộn nhiều tỉnh, không cứng như tiếng Quảng Ngãi, rành rẽ. Có vẻ rất mới, nhất là mái tóc chị, mà thời bấy giờ ít ai dám mạnh dạn cắt ngắn như thế.
Chị nói chuyện tự nhiên, ngỏ lời chia buồn với gia đình và anh Trí như những người thành thạo nếp sống giao tế thông thường.
Chị cũng vui vẻ hỏi tôi biết làm thơ không. Chị khen thơ anh Trí rất hay và chị cũng đang chờ anh chỉ điểm thêm cho.
Trong lúc nói chuyện, thỉnh thoảng chị nhìn về phía anh Trí. Hình như chị hỏi anh có trở lại Saigon không. Anh lí nhí gì đó tôi không nghe rõ, vẫn luôn cười nhẹ, không tham gia câu chuyện.
Mượn cớ để cho hai người tâm sự, tôi cuống nhà dưới lấy thêm nước chế trà. Mẹ tôi hỏi: Ai đó? Tôi thưa nhỏ: “Chị Mộng Cầm”. Bà cụ muốn ghé mắt xem. Tôi nói: “Để yên đã”.
Chưa cạn chén trà, nghe trên nhà vắng hoe.
Tôi trở lên thì vừa kịp thấy chị quay lưng lại chào rồi đi ra. Mẹ tôi lên theo, chỉ được trông thấy sau lưng. Anh Trí vẫn không thay đổi vị thế ngồi.
Bà cụ nói: “Còn trẻ mà dạn dĩ hé!” Tôi ngẫu hứng đọc mấy câu làm anh Trí bật cười:
Cô bé nhà ai dạn dĩ ghê
Áo đen quần trắng tóc bom – bê
Đến thăm anh Trí mà tôi tiếp
Hỏi chuyện thì ra chị Nghệ nè.
Mẹ tôi rầy: đừng nói bậy, mất lòng. Anh Trí cũng cười.
Về sau một người bạn ở Nha Trang nghe chị kể chuyện: Anh Trí hình như mắc bệnh vì thấy hai tai anh đã dày lên.
Sau khi chị Mộng Cầm ra về, tôi suy nghĩ về thái độ của hai người trong suốt cuộc nói chuyện tại nhà.
Xét bề ngoài, cuộc viếng thăm có tính cách xã giao giữa hai người bạn quen biết. Không có gì để gọi là hẹn hò thân mật.
Anh Trí không hề thay đổi thái độ thường ngày: ngồi khoanh tay thỉnh thoảng lại cười nhẹ, sợ mất lòng khách, đôi khi như xa vắng không biết trước mặt mình đang có người bạn tình mà mình thương nhớ.
Tuy nhiên, có sửa soạn trong ăn mặc mà ngày thường rất lôi thôi.
Về phần chị Mộng Cầm cũng không có vẻ gì khác lạ. Khi gặp lại người mà chị từng viết: “Đã được cùng anh sống những ngày”. Nét mặt cũng không biểu lộ vẻ mặt thân mật của người tình, vẫn lịch sự vừa phải.
Từ lúc vào đến lúc đi, không hề nhắc đến một câu nào, tôi có thể nghe được về kỷ niệm Phan Thiết. Có lần tôi toan nhắc hỏi chuyện Lầu Ông Hoàng, nhưng kịp nghĩ lại sợ bất lịch sự chăng, nên lại thôi.
Tuy nhiên, tôi cũng cố tình dò xét mối tình hai người đã thể hiện ra sao, mà rốt cuộc vẫn chịu thua không hiểu nổi.
Có thể là nếp sống của chị Mộng Cầm phóng khoáng tự do đã quen, nên không thể nhìn thấy đổi thay trong cảm xúc khi chị tiếp xúc với bạn trai, dù là bạn tình.
Đó là những người đàn bà khó hiểu, mà đàn ông thường hay lầm lẫn khi nghe họ nói những lời ngụ ý. Hoặc thái độ có vẻ như buông thả nhưng lại đóng rất chặt. Đó là những thiếu nữ lạnh cảm bất thường.
Hoặc đã quá từng trải trong tình trường.
Mà Mộng Cầm thì quá trẻ, không thể xếp vào hai hạng nói trên. Chỉ còn phải xem chị ngây thơ, bắt chước nếp sống mới, thạo đời của Saigon văn minh thời bấy giờ. Vậy thì thật đáng thương hơn đáng trách.
Nếu ông Trần Thanh Mại được gặp chị sớm hơn, chắc phải dè dặt khi phê phán có phần trách móc chị.
Vì vậy, tôi không thể hình dung được những gì đã xảy ra trong các cuộc du ngoạn mà người đời đã thêu dệt. Dù sao thì cậu ruột Bích Khê vẫn còn là đệ tam nhân có trách nhiệm.
Tôi cho là đúng, vì sự thể anh Trí khẩn khoản nhờ tôi tiếp chuyện với chị Mộng Cầm như một nhân chứng để anh bớt hồi hộp. Tình trong trắng của anh còn được thấy rõ qua vẻ bối rối khi đối diện với chị Mộng Cầm.
Tuy nhiên đọc bài “Say chết đêm nay”, tôi không khỏi cảm thương cho mối tình lỡ dở của anh, mà nhớ thương còn đọng lại, ray rứt trong tâm tư con người bạc số đó.
… Trăng cổ độ hết vương cành trúc
Hẹn đoàn viên tình thực chiêm bao
Đêm nay lại giống đêm nào
Nhấp xong chung rượu buồn vào tận gan.
Say thôi lại muốn nàng nâng đỡ
Nhưng nàng xa từ thuở vu quy
Nhớ thôi lòng những sầu bi
Lệ rơi vào rượu hàng mi lờ đờ.
Ta là khách bơ vơ phàm tục
Nhớ cầm trăng cung bậc tiêu tan
Không ai trang điểm má đào
Cho ta say chết đêm nào đêm nay.
Không lâu sau đó, nghe nói chị lập gia đình. Từ đó tôi không nghe ai nói gì về chị, ngoài trừ những chuyện huyền thoại về sau này.
Tôi cũng không biết hai người đã giải ước ra sao và lúc nào, vì bấy giờ tôi đã ở Đà Lạt. Nhưng tôi vẫn linh cảm cuộc viếng thăm lần ấy có tính cách quyết định cho chị.”
Đến nay, nhiều bạn hữu ngày xưa của anh, nghe nói còn gặp chị Mộng Cầm, nhưng chị sống kín đáo không muốn tiếp xúc với ai.
Viết lại câu chuyện chị Mộng Cầm, tôi ghi chép trung thực cảm nghĩ tôi lúc bấy giờ mà thôi, tuy ký ức cũng có thể có nhiều chỗ sai lạc về thời gian.
Mong chị thông cảm. Năm mươi năm rồi còn gì.
3. MAI ĐÌNH NỮ SĨ
Khác với những mối tình âm thầm kín đáo, hoặc dè dặt của Hoàng Hoa, của Mộng Cầm, chị Mai Đình là người yêu thơ cũng như yêu con người phong cùi đó, một cách ồn ào, sôi nổi và tha thiết nhất.
Thơ của chị cảm ứng với hàn Mặc Tử rất nhiều.
Chị Mai Đình làm thơ rất có khiếu và dễ dàng, ý thơ tình nghĩa, súc tích gắn bó với thơ Hàn Mặc Tử gần năm mươi năm nay. Tôi nói gắn bó với thơ anh Trí, vì hiện nay chị đã có gia đình.
Từ thời tiền chiến, và suốt thời kỳ kháng chiến, thơ chị được truyền khẩu hoặc trao tay người này qua người khác, mà toàn là các bạn làng văn.
Có lẽ chị chất phác dễ thân mật. Bất cứ chỗ nào có vài người họp lại để nói về thơ anh Trí là có chị tham gia. Cho nên có rất nhiều bài thơ nghe nói là của chị sáng tác, vẫn còn chờ đợi được minh xác chưa ai dám tự tiện phổ biến.
Tôi cũng có dịp đọc được, thơ hay, tình nghĩa và tự nhiên.
Nhà văn Trần Thanh Mại từng viết về chị trong cuốn Hàn Mạc Tử rằng: “Về người đàn bà này (Mai Đình) ta có thể nói nhiều hơn, kể rõ ràng hơn, mà không ngần ngại phải chạm đến danh giá của một kẻ nào, đến cái mà họ trương lên làm danh giá.
Một người đàn bà không cần dư luận, một người trong hạng người thành thật nhất xã hội. Họ đáng nhịp vào chế độ lễ nghi, mọi thứ do người bày đặt ra để che lấp cái giả dối của người.”
Lời phê bình trên đây thật rộng rãi đủ để không cần phải dè dặt, lịch sự nữa.
Những năm 1938-1939, tôi nghe nói chị đến thăm anh Trí tại nhà, lúc bấy giờ đã dọn về đường Odend’hall vì anh bắt đầu đau nặng, mà mẹ tôi không muốn cho ai biết. Việc chị Mai Đình đến thăm anh Trí như một tin sốt dẻo được loan đi rất nhanh trong những người bạn thân. Vì thế đã làm ồn ào lên một dạo mà mẹ tôi lo sợ tai tiếng cho chị.
Thế nhưng sự dè dặt đó không cần thiết gì đối với chị. Chị Như Lễ nói với tôi: “Chị Mai Đình do ông Tấn giới thiệu cho anh Trí kết bạn thơ.”
Theo chỗ tôi biết qua bạn bè anh Trí, thì chị Mai Đình đã ham mê thơ anh từ lâu, nhưng không ai giới thiệu. Đến khi gặp anh thì lại yêu luôn anh, mặc dầu thấy tận mắt anh đang bệnh.
Thật sự thì bệnh anh cũng không có vẻ gì đáng sợ, nếu nhìn về bên ngoài.
Năm 1939, anh đau nặng nhất, thì cũng chỉ là dấu hiệu khô chết lớp da bên ngoài. Tay anh cầm muỗng ăn hay viết lách, chỉ khó khăn khi kéo mấy ngón tay co lại. Bàn tay như mang một chiếc găng da khô cứng. Da dẻ đen sạm đi không lở lói gì.
Với chị Mai Đình, thì hình như chị cũng không thấy “cái bên ngoài “ đó nữa, mà chỉ cần nghe anh ngâm thơ, chỉ cần ở gần bên anh.
Nhiều người bạn, nói theo thời bấy giờ là chị Mai Đình bị tiếng sét ái tình đánh gục (Coup de foudre). Người đàn bà đã từng phen lưu lạc phong trần mà thơ viết lên nghe như cô gái mới được yêu.
Nghe nói chị vẫn dạy nữ công cho nhiều trường ở Saigon, nhưng thỉnh thoảng lại động lòng bốn phương, tìm bạn bè ngâm thơ vịnh nguyệt. Mai Đình viết cho Hàn Mặc Tử lá thơ nũng nịu đủ thứ khiến anh Trí buồn cười đem xếp lại thành bài thơ dưới đây…
… Thôi em chán quá, em buồn quá
Anh của em giờ cười với ai
Với những gì đâu tức tối lạ
Em hồ nghi mãi giận không thôi…
Nhưng xa xôi quá biết làm sao
Lấy Trí tương tư đo được nào
Em mới vùng vằng em thở dốc
Tình thương trong dạ cứ xôn xao.
Năm 1939, tôi về thăm nhà, nghe chị có ghé lại ở chơi mấy ngày.
Trong nhà, hình như ai cũng yêu mến chị, vì chị đơn sơ thành thật, không nề hà khách sáo, có lẽ cuộc đời “phiếm thủy đào hoa” của chị nhiều trôi nổi quá, nên sống cách nào cũng được, không thấy khó khăn gì, nên ai cũng thương.
Anh Trí cho tôi xem bài thơ tặng chị mà lời lẽ trong thơ có vẻ chán chường. Tôi trách anh đã xem nhẹ tình chị. Những câu như: “Đây Mai Đình, tiên nữ của vu sơn” đã làm cho người đọc chữ vu sơn khó chịu rồi lại còn”
“Nàng là mật của muôn tuần trăng mật”
(Thì thật là chán chường quá).
Toàn bài thơ không xứng đáng tặng chị, một người đang sống với mối tình cao đẹp nhất chưa bao giờ được sống như thế.
Anh Trí hối hận, chắc là anh nghe dư luận về chị không còn gì đáng ca tụng nữa.
Bài thơ ý không tao nhã lắm:
Đây Mai Đình, tiên nữ của vu sơn
Đem mộng xuống gieo vào muôn sóng mắt
Nàng, ôm Nàng hai tay ta ghì chặt
Cả bài thơ êm mát lạ lùng thay
Ta là người uống muôn hận sầu cay
Nàng là mật của muôn tuần trăng mật
…….
May thay, tình yêu làm chị mù quáng, nên không nhận thấy. Hoặc như Trần Thanh Mại viết:
“Người đàn bà đó không có gì tự ái cả.”
Về sau anh Trí viết lại bài Đánh lừa
Tôi thương em không cần phải so đo
Vì trinh tiết há hằng hương vạn đại
…….
Son phấn cũ thơm bằng son phấn mới.
Tuy nhiên tôi áy náy tội nghiệp cho chị, nên có làm lại bài thơ đánh loãng bớt nghiệp chướng của chị (không biết ở nhà có trao lại chị không).
Mai Đình tiên nữ chốn vu sơn
Vướng nghiệp văn chương trở xuống trần
Oan trái tào khang vừa tháo gỡ
Nợ nần xướng họa lại đa mang
Giang hồ ánh bướm không lo mỏi
Mưa gió đời hoa chẳng ngại tàn
Còn chút duyên thừa dâng trọn thuở
Cho tình sống mãi với thi văn.
Khoảng cuối năm 1941, tôi ở Lào về nhiệm sở cũ ở Đà Lạt ghé lại Qui Nhơn thăm nhà.
Vừa bước xuống xe, một người đàn bà còn trẻ, nước da ngâm đen, mau mắn bước ra chào: “Kìa! Chú Tín về đấy à! Được điện tín hôm qua cả nhà trông chú lắm.” Tôi ngỡ ngàng một giây, nhưng đoán được là chị Mai Đình rồi.
Chị Như Nghĩa cũng ra theo, cả nhà tíu tít. Tôi để ý một người đàn bà trẻ, sang trọng cũng đứng lên chào tôi, chị Mai Đình vội vã giới thiệu: “Đây là cô Lan (hay Liên gì đó) bạn tôi ở Saigon ra chơi!’. Chị lại chỉ về tôi: “Chú Tín đây em anh Trí làm việc ở phòng kiến trúc Đà Lạt bị động viên qua Lào vừa mới trở về”.
Trông chị, tôi bật cười, tuồng như chị đóng vai chính trong gia đình tôi.
Trong câu chuyện trao đổi, chị không e dè hay sợ mất lòng ai hết. Thái độ đối với người bạn gái, chị cũng không úp mở, chị oang oang nói:
“Tuy chưa biết chú, nhưng nghe nói chú lo lắng cho anh Trí mấy năm nay, làm cho tôi cảm phục quá”, rồi tiếp tục phân bua, không rào đón: “Không chịu lấy vợ ở như vậy để lo cho gia đình. Chú thật quân tử quý hóa quá”.
Tôi lịch sự: “Chị mới thật là người đàn bà đáng quý trọng. Tôi chưa hề biết có ai dám đem cuộc đời tốt đẹp của mình đánh đổi một mối tình đầy bất trắc tai tiếng như chị với anh Trí. Chị thật là siêu nữ nhân”. Chị cười thích chí lắm.
Tôi ngẫm nghĩ, thương chị, thì ra chị biết hết việc nhà tôi. Chị lại thông cảm cả cuộc sống của tôi ở Đà Lạt. Khi chị hạ giọng bảo tôi: “Chú ở Đà Lạt lạnh lẽo quá, mà tiền lương gởi về cả làm sao đủ sống? Chú đừng ngại, nếu cần hàng nỉ may đồ lạnh, chú cứ bảo tôi. Để tôi lo cho” – Trời! bà chị ở đây rơi xuống đây, thật là vượt xa các chị ruột tôi hết. Dù sao, tôi cũng được người chia sẻ nỗi khó khăn, và cũng cảm thấy được an ủi.
Về sau chị Nghĩa cho biết Mai Đình muốn làm mối cho tôi, bạn gái của chị, một quả phụ hai mươi ba tuổi đó là một nữ chủ nhân tiệm hàng vải cỡ lớn ở Saigon.
Tôi rất buồn cười nhưng cũng quý chị lắm. Chị Mai Đình như thế đó, ở trong gia đình tôi. Lạ chưa!
Mùa thu năm 1942, chị Mai Đình lên Đà Lạt, nhắn tôi xuống nhà ga xe lửa gặp chị.
Tối hôm đó, ngồi ở bàn cà phê, chị nói với tôi rất nhiều về chuyện in thơ Hàn Mặc Tử. Chị hỏi tôi: “Chú có biết thơ anh Trí được bao nhiêu bài?”
Tôi nói: “Từ năm 1935 anh Trí ở Saigon về ở chung với tôi một phòng, không có sáng nào không thấy thơ anh vứt bừa bãi, trên bàn, trên giường, dưới nền nhà. Tôi phải dùng hai “kết” dựng bia để xếp vào.
Những khi đi vắng, tôi vẫn dặn người nhà nhặt hết tất cả giấy tờ gì trong phòng anh đều bỏ vào đó”.
“Cuối năm 1937, tôi đổi lên Đà Lạt, rồi ở luôn 7 năm. Tôi nghĩ thơ anh nhiều lắm. Thỉnh thoảng anh giở ra xem rồi chép lại, mang đi đánh máy, tặng bạn bè, mà tôi biết anh đã gởi cho Trần Thanh Địch và Trần Tài Phúng nhiều hơn hết. Coi như gần đủ bộ thơ anh. Bút tích vẫn để lại trong hai thùng gỗ đó.”
“Tôi chỉ thuộc một số, chú Hiếu thuộc nhiều vì ngâm thơ hay, nên bạn bè thường đến nghe chú ngâm.”
Khi tôi ở Lào về, thì chú Hiếu đã chuyển giao bút tích văn thơ tất cả cho anh Tấn. Chú sợ lây nên không sao chép, không kiểm nhận. Vì thế không biết đích thực là nhiều hay ít.
Tôi rất bực mình về việc đó, nhưng mẹ tôi ngăn tôi không cho hỏi lại vì sợ mất lòng anh Tấn.
“Bây giờ, chị Mai Đình muốn biết phải hỏi lại anh Tấn.”
Chị trầm ngâm hồi lâu rồi nói: “Chú biết không? Thơ anh Trí khó mà xuất bản được. Tôi đến nhắc anh Tấn mấy lần, cả chị Như Lễ cũng viết thơ nhắc lại lời hứa xuất bản thơ Hàn Mặc Tử Mặc Tử, anh đều không trả lời.” (Tôi nghĩ, anh Tấn hẳn phải có lý do chính đáng nào đó nên anh chưa in được).
“Tôi (chị Mai Đình nói) có đưa một người bạn quen chủ nhà in và xuất bản ở Hà Nội vào để thương lượng với anh tấn (hình như ông Doãn hay gì đó). Nhưng anh Tấn đưa ra nhiều điều kiện khó nghe, chưa bao giờ có.
Anh Tấn còn nói là thơ anh Trí không phải bài nào cũng hay cả đâu, mà cần phải sửa lại mới in được. Vả lại những bài hay in được, thì ông Mại đã trích lấy hết rồi. Còn lại không bao nhiêu…”
Những lời chị Mai Đình nói với tôi tại ga xe lửa Đà Lạt nay đã 45 năm rồi, mà tôi còn nhớ rõ, vì liên quan đến một câu chuyện đã xảy ra lúc tôi còn ở Lào:
“Bấy giờ vào khoảng lễ Giáng sinh 1940, tôi đang ở lại Paksé đợi chuyến xe “công voa” đi Mường Cầu (Attopeu) Lào. Tôi ở trọ lại nhà ông Tú Vọng, một cụ tú tài thất chí quê ở Quảng Bình. Sáng hôm ấy, chờ xe, rảnh rỗi giở bản tử vi của anh Trí (mà cậu Bá tôi đã chấm) ra nghiên cứu đỡ buồn. Cụ Tú đi ngang trông thấy, ghé mắt nhìn hỏi tôi: “Lá số của ai đó Thầy?” – Tôi thưa của Anh tôi. Cụ nhìn tôi rồi nhìn cái băng đen mang bên cánh tay. Cụ nói: “A! ra Thầy để tang cho ông này a”. Biết gặp tay “thượng thừa”, tôi mời Cụ ngồi xuống lấy mục kỉnh xem lại, Cụ bảo: “Chà! Đại hạn xấu quá, năm Thìn gặp Trúc la, mà mạng Mộc thì tuyệt địa rồi.”
Tôi cũng nói theo: “Có phải hạn Liêm sát mà gặp hung tinh là “lộ thượng mai thi” không” (chết chôn bên đường). Cụ cười: “Vậy ra Thầy biết rồi. Tôi sợ mất lòng không dám nói. Thầy nầy chết không gặp thân nhân đúng là lộ thượng mai thi – Tai nạn xe cộ à? – Thưa, đau bệnh.
Cụ xem một hồi nữa rồi nói: “Thầy này không có vợ con gì. Mà cũng lạ Lưu niên lại ở Tứ Tức.” Ông Cụ tiếp: “Có con rơi con rớt chi không? Vậy thì ông ta lưu cái chi lại cho dòng họ.” Tôi đáp: “Anh tôi là thi sĩ”. Ông cụ vỗ đùi: “À, phải rồi. Vậy thì thơ hay đó. Nhưng bị mất mát ngăn chận gì đó mà phải trên 50 năm mới tìm lại được. Vì Văn tinh bị Tuần triệt chận hết.” Cụ lại bảo: “Con cái là tác phẩm mà thơ văn cũng là tác phẩm”.
Câu chuyện trên đây thật kỳ lạ, vì thơ anh Trí bị thưa kiện (Triệt) rồi mất mát, thất lạc (Tuần).
Và bây giờ đúng 50 năm.
Tôi không bao giờ quên được con người kỳ lạ đó.
Hai chị em ngồi đến khuy, chị buồn buồn ngâm lại bài Lưu Luyến:
Chưa gặp nhau mà đã biệt ly
Hồn Anh theo dõi bóng em đi…
Rồi chị sụt sùi mãi. Tôi im lặng tôn trọng mối thương lòng chị. Hồi lâu, chị đọc bốn câu:
Lòng ta, sầu thảm hơn mùa lạnh
Hơn cả u buồn của nước mây
Của những tình duyên thương lỡ dở
Của lời rên xiết gió heo may.
Chị lại hỏi: “Bài sầu vạn cổ anh Trí tặng ai chú biết không?” Tôi nói: “Lòng anh Trí mênh mông, tình anh cũng rất mênh mông. Trong đó chắc có chị rồi. Nhưng… ở đây lại có gió heo may… “ Chị nhìn tôi: “Chú nói đúng. Anh Trí yêu nhiều, nhưng mùa Thu nhắc nhớ Anh hơn.”
(Chị muốn nói, chị chưa được yêu sâu đậm bằng Hoàng Hoa).
Lúc ấy hình như có ai gọi.
Đứng dậy, chị nói: “Không biết còn gặp lại không”. Rồi chị từ biệt ra đi. Bóng chị đi hơi lụp chụp, thất thểu qua màn sương đêm khi mờ khi tỏ.
Tôi nhìn theo thương hại, người đàn bà nặng kiếp, “Khước tác phiêu bồng” này đang trôi dạt về đâu?
Sau ngày giải phóng miền Nam, nghe nói chị có mặt ở Saigon, nhưng mã đến 83-84 gì đó mới gặp chị.
Chị vẫn thế, dáng đi vẫn chồm chồm như luôn luôn vội vã, hay lo lắng suy tư gì.
Tôi nghe nói chị sống hạnh phúc với chồng con và có nhiều công lao cách mạng.
Đọc lại tập hồi ký này, chắc chị vui lắm.
Mong như thế.
4. THƯƠNG THƯƠNG
Anh Trí vốn mơ ước một mối tình nguyên hương trinh bạch, mà cho đến bây giờ anh cũng không gặp được. Anh đã đi tìm và đã thất bại trong mối tình đầu bị ngăn cách chỉ vì mây và gió không cùng bay theo một chiều.
Những khi vô vọng, với ác bệnh hoành hành, anh vẫn còn bám vào sức tưởng tượng để tìm cho kỳ được.
Bằng tâm tư, bằng thần phách, anh đùa với Trăng, ngủ với Trăng, chu du trong quỹ đạo thần tiên.
Nhưng Trăng cũng tan vỡ :
Gió rít tầng cao, trăng ngã ngửa
Vỡ tan thành mảnh đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra
Có khi Trăng chỉ còn một nửa :
Hôm nay có một nửa Trăng thôi
Một nửa Trăng ai cắn vỡ rồi
Thất vọng, anh quay về với Hồn, đi chơi với Hồn, tìm ở nơi Hồn một hình ảnh ước mơ. Nhưng Hồn chỉ thể hiện được người Anh, cũng đau đớn sượng sần, cũng thổn thức như Anh :
Tôi đau vì rùng rợn đến vô biên
Tôi dìm Hồn xuống một vũng Trăng êm
Cho Trăng ngập Trăng dồn lên đến ngực
Hai chúng tôi lặng yên trong thổn thức
…….
Hồn là ai, là ai tôi không hay
Dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay
Hồn mệt lả còn tôi thì chết giấc
Thế là cả Trăng và Hồn không mang lại ước mơ đích thực. Anh bơ vơ, càng bơ vơ hơn trôi giạt vào bến bờ mộng và thực.
Và Anh cố giảng giải mối tình say mê đó :
« Tôi đang say tình, say Trăng, say người thục nữ
“Tình còn tiết ra ở đầu mày cuối mắt, trên môi
“Tình thoát ra ở điệu nhạc, mênh mang, trong bờ bến chiêm bao, yếu đuối run rẩy trước làn gió ngọt ngào.”
“Tình tiết ra theo tiếng hát của chim non, phối hiệp với sóng điện không gian…
“Khi ngòi bút tôi đã thấm nhuần ý nghĩ cao cường, truyền sang ởi điện tinh truyền của trí tuệ, tôi phơi lên mảnh giấy thanh sạch này, tình cảm nóng ran, tràn trề và thầm lặng.
“Hỡi quý nhân, người có nghe thấy đến gì mới lạ, tinh khôi, reo lên, hiện lên và sử linh tư tưởng của người…
“Người thấy gì trong ánh sáng ? Một chất cao quý thanh khiết, trăng hơn hàm răng của người đẹp.”
Thôi !
ĐỪNG CHO LÒNG BAY XA
Thượng thanh khí, tiết ra nguồn tinh khí
Xa xôi dời trăng mọc nước huyền vi
Đây miên trường, đây vĩnh cửu đề phi
Cao cao vượt vời hai hàng bóng vía
Trời nhật nguyệt cầu vồng bất tứ phía
Ôi ! Hoàng Hoa, hồn phách đến nơi đây.
…….
Sang chơi thôi, sang chơi thôi, mà ai ?
Thu đây rồi bước lên cầu ô thước
Sao ? Vàng sao, rơi đầy trên sông nước
Đừng ngửa tay mà hứng máu trời sa
Thôi ! Kẻo về đừng cho lòng bay xa.
…….
Tiếng huyền địch gò theo tia yến nguyệt
Đẩy đưa dài, hơi ngào ngát trâm anh
Thân không tan như bào ảnh hư vô.
“Như cô ma lực vô song đưa tôi đến bờ huyền diệu
“Đêm nay là đêm hào hoa, nên mùa trăng bát ngát
“Giờ bốn phương thôi cầu nguyện mà lòng tôi rạo rực lên cảm hứng.
“Hễ là hơi khói càng nhẹ, hơi trăng càng trong, thì hơi thở của tôi càng thơm tho không khác gì một mùi hương.
“Chiêm bao rã rời trong khi ánh sáng sự thực dọi tới như :
TÌNH HOA
Tứ rung rung cho quá trí dật dờ
Rồi bay từ diệu vợi đến xanh mơ
Từ bên ngọc dời sang châu Dủ Lý
Từ Minh Triết lần lần theo ý chí
“Bây giờ ngoại cảnh và nội tâm đều hòa rung lên như nhịp Tiêu thiều, thanh bai”
Và thơ Anh dâng lên trong :
VẦNG TRĂNG
Hãy nâng lên, nâng lên chút nữa
Sáng thơm tho như ánh ngọc hừng đông
Nhưng cao quá và càng lên dữ quá
…….
Bao nhiêu tơ chuyển được tiếng thơ bay
Êm êm hơn, đừng cho xanh lờn lợt
E so le ý nguyện giữa đêm nay.
Rồi anh viết về chiêm bao :
“Từ sự thực đó đi tới bào ảnh, từ bào ảnh đi tới huyền diệu, và từ huyền diệu tới chiêm bao. Mông lung trùm lên sự vật, và cõi thực bị ánh sáng chiêm bao vây riết.
“Tôi gặp nhiều người lạ, cũng như tôi chưa từng thưởng thức những mùi hương quý trọng. Ở chỗ này không biết là chỗ nào…
“Có khi thần phách của tôi đến rã rời đê mê, vì đột nhiên có đôi môi người đàn bà nào cọ vào môi tôi.
“Tôi cảm thấy khoái lạc vô biên…” và Anh kể lại trong :
DUYÊN KỲ NGỘ
Mải vui tìm cánh hoa trên cánh bướm
Ai đưa ta lạc đến nước non này
Mùi cỏ lạ thơm như mùi nhụy chớm
Cùng tiếng tiêu đồng hợp sức nồng say
Đến đây rồi ta mơ niềm hận cũ
Đã bao năm, nào thấy bóng giai nhân
Hoa lá bỗng xôn xao tìm lấy thú
Trong khi này lừng lẫy nhạc tường vân…
Trong bối cảnh lạ lùng này thì Thương Thương xuất hiện mơ hồ trong mộng và thực của anh Trí, như một nàng tiên.
(Thương Thương nàng chỉ là một cái tên mà Trần Thanh Địch, bạn anh bắt gặp đâu đó giữa mây trời để giới thiệu với Anh).
Mối tình kỳ diệu với Thương Thương đã làm cho thơ Anh trong tập Duyên kỳ ngộ trở thành bất hủ.
...
Một mối tình huyền hoặc mà anh đã sống hoàn toàn như thực trong cõi mộng bao la, với sức tưởng tượng phong phú lạ lùng chỉ dựa vào các bức thơ ngụy tạo, nhưng tình tứ say sưa để rồi anh nghe được cả suối reo, chim hót, cả gió núi thông ngàn, dìu dặt như tiêu thiền phảng phất hoàn nhập vào thơ anh, thành bản nhạc tuyệt vời rung cảm …
Ôi chao! Mê toàn thân như khoái cẩm
Như đêm xuân uống phải rượu Quỳnh tương
Không đâu mà có điều chi vừa chạm
Đến tâm linh để báo hiệu phi thường…
Và hình như có mội đàn bà nào vừa lướt qua môi anh… rồi tiếng ai từ xa đưa lại…
Mây bay theo với mây bay
Mình sao ra nước non này mà chơi
Sáo ơi, dìu dât chơi vơi
Buông mau âm điệu để rời nhân gian
Nắng cao, ý muốn tràn lan
Ở đây vắng vẻ cây ngàn suối reo…
Và tiếng gió rì rào :
Chim ơi, hót khúc tương giao
Có người thục nữ lần vào thiên thai
Không gặp ai, chửa gặp ai
Duyên còn ngậm kín tình hoài miên man
Tiêu dao đến nỗi bẽ bàng
Đi trong hiu quạnh gặp toàn bơ vơ
Suối reo lên :
Ồ sự lạ, đã muôn đời thế kỷ
Đất Linh Sơn in dấu vết phàm nhân
Ta reo lên với đàn thông rủ rỉ
Cho lay bay tình tứ ở xa xăm
Suối lại reo khi bóng dáng nàng tiên xuất hiện :
Hay a! Người lụa sông Tầm
Ai dan, ai dủi đến gần gần tiên
Ở đây có suối Đoàn viên
Có cây phối hợp, có duyên ngọc vàng
Nước ta trong trắng ơi Nàng
Đọ xem trinh tiết có phần thanh cao
Nàng tiên :
Ôi chao ! Thơ ngầm bay trong giải nắng
Lồng vào trong xiêm áo mỏng manh sao
Tiếng ai cười vang lên trong im lắng
Khiến lòng ta hồi hộp biết dường bao
Chim phụ họa :
Tiếng tiêu nào từ phương xa bay vẳng
Tiếng thanh thanh mà rất mực tương tư
Tiếng tiêu :
Ta là khúc phượng cầu hoàng năm trước
Đem ân tình trải khắp cả trời duyên
Cho Quân Thụy lấy nàng Thôi thuyền quyên
Nàng :
Em là Trần Thương Thương
Ngụ ở bến Tầm Dương
Đi tìm chàng thi sĩ
Trong pho sách kim cương
Thi sĩ :
Em là Trần Thương Thương
Anh là Hàn Mặc Tử
Không phải cách âm dương
Có khi còn hội ngộ…
Chim hót :
Hỡi ôi! Người tục khách tình
Đến đây nhìn sững cho mình thêm ghen
Má ơi má núng đồng tiền
Môi sao, ướt đỏ ta thèm biết bao
Nắng ơi, nắng có lên cao
Làm sao da thịt hồng hào thế kia
Mùi thơm ai nỡ bay lìa
Xem duyên tác hợp rồi về mà đang
Thi sĩ :
Thương Thương em, trời cho ta kỳ ngộ
Nói cho ra thần diệu của vàng bay
Đôi nhụy thắm in trên màu rực rỡ
Đây đôi chim gù gật với niềm say.
Nàng :
Tất cả là trân châu vô giá
Dành cho anh riêng hưởng hạnh phúc này…
Và đã có một khoảng thời gian nào đó, dù là ngắn ngủi, Hàn Mặc Tử cũng đã sống đầy đủ những ước mơ của mộng đẹp. Anh viết :
Non nước tâm tình rộng bốn phương
Để em làm nhạc, tôi làm hương
Đêm nay đại yến Lâm xuân cát
Điêu Thuyền đàn khúc Tề tuyên vương
Xong rồi, đôi ta qua Đào nguyên
Em làm rượu ngọt, anh làm men
Tiên cố không đợi không duyên mời mọc
Say thôi gò má đỏ rần lên
…….
Nàng :
Tình quân hỡi, muôn năm em chỉ muốn
Sống bên anh cho thắm đượm tình yêu
Mùa xuân em sẽ rất nhiều hoa bướm
Bởi thơ anh tô điểm đẹp trăm chiều
Thi sĩ :
Gặp em đây, khác gì trong giấc mộng
Biết làm sao cho thỏa hết tình thương
Tiếng lòng anh vẫn luôn luôn đồng vọng
Luôn luôn reo kêu gọi đến tình nương
Chỉ có em làm thơ anh mãnh liệt
Tình anh vang như luồng gió van lơn
Chỉ có em lòng anh yêu tha thiết
Yêu điên cuồng không một phút nào hơn
Nàng :
Nói làm chi, những câu mê sướng quá
Nói những câu khờ dại cả người em…
Phải chăng anh tài hoa cao trọng lắm
Đã bao lần thét tiếng ở đền vua
Bao lời ngọc đắm say, lời ngọc thắm
Bao giai nhân hâm mộ tấm tình thơ
Chim hót :
Ôi chàng kia! Thực ra chiều phong vận
Hãy nghe ta cao hót khúc bình an
Tiếng tiêu :
Song le nàng vẫn luôn luôn cách biệt
Bến Ô Giang lành lạnh khóc Sâm Thương
Ta vẫn còn ngân bao lời tha thiết
Trong nắng mai dìu dặt mối sầu vương.
Trong hạnh phúc no đầy, Hàn Mặc Tử linh cảm có ngày cách biệt : «Thinh không tan như bào ảnh hư vô », anh viết :
Lá muôn năm còn no trong khoái lạc
Anh còn run cho đến phút chia lý…
Bây giờ đây khóc than niềm ly hận
Hỡi Thương Thương người ngọc của lòng anh
Ta nhìn em với bao lời ta thán
Khiến hoa, chim nghe được cũng không đành
Nàng :
Người mộng hỡi, từ nay ta mới biết
Sao thơ anh nhuộm toàn màu ly biệt
Rên không thôi, nức nở cả ban đêm
Nói chi anh những câu buồn xa cách
Đoàn viên đây còn nắm chắc trong tay
Yêu nhau thôi, nguồn thơm chan chứa mạch
Cho em lau mắt lệ thế niềm say…
Thi sĩ :
Than ôi! Hỡi lời biệt ly chan chứa
Anh sắp đi rồi hai hàng lệ ứa
Cả đau thương dồn dập xót tâm bào
Khi xa em đã bao lần vọng tưởng
Mơ trong mơ làm hoảng hốt đêm trăng
Nàng :
Em quyết níu với bao tơ nắng dịu
Níu thơ anh và níu cả hồn anh
Hoa cỏ sẽ làm ơn theo chứng kiến
Biệt ly nào rứt được mối thâm tình
Thi sĩ :
Anh chỉ ngó say em trong chốc lát
Để hồn thơ rào rạt với mây bay
Gần bên em để hưởng bao khoái lạc?
Thưa em không, anh đâu dám mê say
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với áo sương anh nằm chết như trăng
Không nhìn thấy nàng tiên mò đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm
Tiếng tiêu đuổi theo văng vẳng :
Bến Ô Giang còn lâm ly khúc hát
Trong sương bay gởi nỗi buồn tiêu tao.
Bỏ nàng đi để hồn ta man mác
Ta theo nàng von vót lắng trên cao…
Duyên Kỳ Ngộ là một thiên tình sử tráng lệ nhưng bi đát mà người đời sau vẫn còn nhắc nhở.
Thương Thương, hai tiếng thoảng bên tai
Như lời thầm thỉ hẹn yêu ai
Lâng lâng hồn phách theo vào mộng
Để viết nên trang đẹp tuyệt vời
Ai đưa tiên nữ đến vùng đau
Nghe tiêu dìu dặt suối hòa reo
Ôm trăng say chết bên bờ mộng
Chờ gió ngàn phương gọi đón nhau
Nơi đây hò hẹn tuổi trăng thơ
Sóng nước trùng dương gởi ước mơ
Cô nàng tiên nhỏ đi mô mất
Bỏ mặc thi nhân đợi dưới mồ.
Cuộc tình của Hàn Mặc Tử với nàng Thương Thương “tiên” bị gián đoạn tức tưởi vì gia đình Thương Thương “đòi” xin anh ngưng lại nguồn hứng cái tình thơ xao xuyến đó và đã cảm thấy bị ngợp rồi.
Anh nhã nhặn vui lòng chấm dứt, giữa lúc anh đang sáng tác một vở kịch thơ “Quần tiên hội”, một cuộc gặp gỡ khác trong cảnh Bồng Lai, mà anh nhờ cải trang thành tiên nữ để đi lọt vào “chiều thứ thư của thế giới có bốn mùa xuân cả bốn”.
Cũng như Đương Minh Hoàng du Nguyệt điện với Dương Quý Phí hay Orphe xuống địa ngục tìm lại Eurydyce trong thần thoại, mà trong bài Chiêm bao và sự thực, anh đã mơ hồ chứng minh là có thực.
Anh viết: Có hay không, hư hay thực là những huyền ảo chập chờn trước mắt.
Và, anh đã sống trong mối tình huyền ảo chập chờn với Thương Thương mà Duyên Kỳ Ngộ đã ghi lại những hình ảnh tuyệt vời rất thần tiên đó.
Giấc mộng qua đi, anh lại trở về với thực để chê trích đời thường tầm thường quá, không hiểu được anh.
Anh phân trần :
NÓI TIÊN TRI
Ta muốn làm quen phong vị mới
Sao người trưởng thượng nói tiên tri
Chơi cho rất mực tài hoa ấy
Để thấu tai người áo cổ-y (quan lớn)
Bao giờ lời hát tan ra nhụy
Mới biết duyên ngầm ở Quý Phi
Bao giờ ai hòng hỏi hương báu
Ngoài cõi tâm tư sẽ lỗi nghì
Chắc đâu di lụy cho nhân quả
Thôi cứ say mèm với nữ nhi
Đời không có ngọc trong pho sách
E hết khôi nguyên ở Phượng Trì
Không, không, thánh chúa mê nhan sắc
Quên màu trang điểm ở Kinh Thi
Có tôi vô sự trong thiên hạ
Cưới hết thuyền quyên tuổi dậy thì
Tương tư ai thiếu bao nhiêu lệ
Cứ khóc cho hoàn mộng biệt ly.
Thương Thương, cho đến nay cái tên đáng yêu đó chỉ là một thứ trò đùa tao nhã, không ác ý của một gia đình thượng lưu, mà người bạn tâm giao của Hàn Mặc Tử đã mở cho anh một chân trời mới để xem thiên tài anh dẫn đưa đến đâu.
Người bạn đó đã thành công lớn với sức tưởng tượng vô cùng phong phú và đa dạng của Hàn Mặc Tử.
Vì vậy, những tác phẩm xuất phát từ mối tình Thương Thương đã đưa tên tuổi Thương Thương gắn liền với tên tuổi Hàn Mặc Tử, sáng chói trong lịch sử Thi văn của đất nước.