Trả lời chủ đề

Bài 17: Văn hóa hành động “Uống nước nhớ nguồn” Hồ Chí Minh

 

 

 

 

https://www.lichsuvietnam.vn/index2.php?option=com_content&task=view&id=1441&pop=1&page=0&Itemid=5     Văn hóa đạo đức Hồ Chí Minh là sự kế thừa, phát triển những tinh hoa văn hóa đạo đức của truyền thống dân tộc và nhân loại. Sự kết hợp đó trong văn hóa Hồ Chí Minh nhuần nhuyễn và hài hòa, cho nên có nhà văn hóa phương Tây khi tiếp xúc với Người đã phát biểu: ở Hồ Chí Minh tỏa ra một thứ ánh sáng văn hóa của tương lai. Hiện tại và tương lai bắt nguồn từ quá khứ. Người ta không thể sống bằng quá khứ, song không thể có hiện tại và tương lai nếu không có quá khứ. Quá khứ, cội nguồn, là gốc của nền tảng tạo thành truyền thống văn hóa như dòng máu mang “gen” chảy trong mỗi con người.

    Trong tổng thể truyền thống văn hóa Việt Nam, có một nét truyền thống văn hóa độc đáo: “uống nước nhớ nguồn”, trân trọng và tiếp thu tinh hoa văn hóa dân tộc với những biểu hiện gần gũi nhất, ăn sâu vào tâm khảm và hành vi của mỗi con người Việt Nam, đó là văn hóa tín ngưỡng: tín ngưỡng đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên; tín ngưỡng đối với các bậc anh hùng hào kiệt, những bậc danh nhân, những người có công khai phá cơ nghiệp, khởi dựng từng vùng đất, từng nghề nghiệp, từng phát kiến, cho đến những người đã đổ máu hy sinh cho non sông, đất nước… Văn hóa giữ nước, truyền thống bất khuất, đấu tranh cho độc lập tự do, gắn liền với văn hóa truyền thống tín ngưỡng, văn hóa làng, nước, văn hóa nhân văn, thương người, đùm bọc, cưu mang, giúp đỡ nhau lúc khó khăn, hoạn nạn, văn hóa đoàn kết tạo sức mạnh vĩ đại của toàn thể dân tộc Việt Nam…

    Hồ Chí Minh thấu hiểu và bản thân Người là sự kết hợp nhuần nhuyễn những tinh hoa truyền thống dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại… Ba mươi ba năm xa Tổ quốc đi tìm đường cứu nước, Người không quên từ giọng hát dân ca, cho đến vị ngọt của nước tương Nam Đàn, xứ Nghệ, không quên hàng rào râm bụt trước sân nhà ở làng Sen, làng Hoàng Trù quê nội, quê ngoại ở xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, Nghệ An… Người thấy và chỉ rõ để giác ngộ cho toàn thể đồng bào: ta là ai, cho nên: dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam; để đoàn kết, để giành độc lập, để xây dựng non nước này hơn mười ngày nay. Điều đó được thể hiện trong bài “Lịch sử nước ta” gồm 208 câu lục bát, trình bày lịch sử nước ta từ thời Hùng Vương dựng nước (năm Nhâm Ngọ 2879 TCN) đến 1945, tập trung chủ yếu vào lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân ta, nêu bật truyền thống yêu nước, bất khuất và đoàn kết của dân tộc…

    Biên niên tiểu sử Hồ Chí Minh ghi lại: ngày 13-9-1945 (11 ngày sau ngày Tuyên ngôn độc lập) 8 giờ, Hồ Chủ tịch dự lễ khai giảng Trường Quân chính Việt Nam (trước đây là Trường Quân chính kháng Nhật). Người nhận làm Hiệu trưởng của trường và căn dặn học viên cố gắng rèn luyện, nắm chắc mục tiêu bảo vệ nền độc lập dân tộc, có tinh thần anh dũng hy sinh, chịu gian khổ, nhẫn nại và chống quan liêu. Người nhấn mạnh: “chớ quên làm cách mạng là vì Tổ quốc, vì dân tộc”.

    Sau 10 giờ, Chủ tịch tiếp các đại biểu tôn giáo (Giatô giáo, đạo Phật, đạo Cao Đài). Người nói: “Dân tộc giải phóng thì tôn giáo mới được giải phóng. Lúc này chỉ có Quốc gia mà không phân biệt tôn giáo nữa, mỗi người đều là công dân của nước Việt Nam và có nhiệm vụ chiến đấu cho nền độc lập hoàn toàn của Tổ quốc”.

    13 giờ 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm và dự lễ dâng hương Lý Bát Đế tại làng Đình Bảng, Bắc Ninh (ngày giỗ 8 vua triều Lý 8 tháng 8 âm lịch hằng năm. Năm 1945 vào 13-9 dương lịch).

    Sau khi thắp hương làm lễ trước bàn thờ Lý Bát Đế, Người nói chuyện với bà con dự lễ: “Chắc đồng bào cũng biết ở Nam Bộ, chúng ta đang đánh giặc ngoại xâm; ở Bắc Bộ, đồng bào nhiều tỉnh bị nạn lụt, hạn hán, thật là đói khổ. Vậy bổn phận chúng ta là phải ủng hộ đồng bào Nam Bộ, giúp đỡ đồng bào Bắc Bộ. Như thế là đồng bào đã giúp đỡ chính phủ giữ cho nền độc lập được vững vàng. Bây giờ, chính phủ là chính phủ của dân thì các cụ cũng nên theo ý dân và nên hết sức cần kiệm, cho xứng đáng là dân con trong lúc Tổ quốc đang lâm nạn” (1).

    Thành kính và ngưỡng mộ trước anh linh của Tổ tiên, hành vi của Chủ tịch nước đầu tiên của nền cộng hòa Việt Nam dân chủ trong lúc chính phủ mới thành lập, trong lúc đất nước đang đứng trước những khó khăn thử thách chưa từng có, nhưng ngày giỗ Lý Bát Đế - ngày giỗ của một triều đại hiển vinh trong lịch sử dân tộc, của độc lập và chủ quyền sau hàng ngàn năm Bắc thuộc, Bác dành cả buổi đến dâng hương.

    Lịch sử ghi lại, thời tiền Lê, Lê Hoàn đánh thắng quân Tống. Trên ngôi vua 24 năm, năm 65 tuổi (1005), ông mất; các con tranh giành chém giết nhau để giành ngôi báu, cuối cùng vương quyền thuộc về Lê Long Đĩnh. Ông vua này dâm ô, bạo ngược, chơi bời vô độ, tàn ác, dã man, sau 4 năm làm vua thì chết, quân thần tôn Lý Công Uẩn lên làm vua. Lý Công Uẩn có công dời Đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Thăng Long khi ông nằm mơ thấy đất Đại La có rồng vàng bay lên. Triều Lý đã làm rạng danh nước Đại Việt; viết nên những trang sử oanh liệt trong dựng nước và giữ nước…

    Trong bộn bề công việc của chính quyền dân chủ nhân dân mới ra đời, cả nước trông ở Bác, cả nước tin ở Người, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu trường kỳ không cân sức giữa một bên là thực dân Pháp, dù mới đại bại và bị phát xít Đức thống trị nhưng có đầy đủ vũ khí hiện đại: máy bay, xe tăng, xe bọc thép, pháo hạng nặng… với một dân tộc vừa mới giành được độc lập, vừa qua cơn đói khát, vừa qua cơn dốt nát… trong tay chỉ có vũ khí thô sơ là chủ yếu: gậy tầm vông, giáo, mác… Lúc đó, Bác đã ví cuộc chiến đấu của dân tộc ta chống bọn thực dân xâm lược như “châu chấu đá xe”. Cuộc chiến đấu giữa dân tộc Việt Nam lúc đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng và của Bác Hồ vĩ đại đã từng bước thắng thực dân xâm lược Pháp, có sự tiếp sức của đế quốc Mỹ. Sự thật đó như một điều kỳ lạ, như một huyền thoại sau thế chiến thứ hai.

    Ngày 7-5-1954 chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã đập tan hoàn toàn ý chí xâm lược của thực dân Pháp. Ngày 20-7-1954, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Theo đó, miền Bắc được giải phóng khỏi ách quân xâm lược, thực dân Pháp và ngụy quyền, ngụy quân phải rút khỏi miền Bắc và từng bước rút khỏi miền Nam. Trong vòng 2 năm kể từ ngày ký hiệp định, hai miền Nam - Bắc sẽ tổ chức Tổng tuyển cử thống nhất đất nước…

    Thực hiện hiệp định Giơ-ne-vơ, bộ đội ta vào tiếp quản Thủ đô. Trên đường về Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm và dâng hương tại đền Hùng. Ngày 19-9-1954, Bác đã đến đền Hạ, đền Trung, đền Thượng, rồi xuống đền Giếng. Tại đền Giếng, Người đã nói chuyện với các chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên phong (sau này đại đoàn gọi là sư đoàn) trên đường về tiếp quản Thủ đô. Người nói: “Bác cháu ta gặp nhau ở đây trong tình cờ nhưng lại rất có ý nghĩa. Ngày xưa các vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước (2).

    Thành kính với đấng sinh thành, nơi phát tích của cội nguồn dân nước Việt, đó chính là hành động văn hóa của Bác Hồ kính yêu. Từ cõi sâu thẳm của tâm linh, nơi các bậc tổ tiên đã cầm gươm mở nước, tiếp nối ngàn đời cho con cháu hôm nay. Nét đẹp truyền thống, luôn nhớ về cội nguồn, uống nước nhớ nguồn là hành trang của cả dân tộc, như một trong những nét đẹp văn hóa, tinh thần mang cái đặc thù của dân tộc con Lạc cháu Hồng mà ít có một dân tộc nào trên thế giới có được. Nét đẹp đó, được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, kế thừa và phát triển cộng hưởng với văn hóa xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa Mac- Lênin, tinh hoa văn hóa nhân loại trở thành một bộ phận quan trọng trong công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế giữ vững định hướng  xã hội chủ nghĩa của dân tộc ta - Mãi mãi đi theo con đường Bác Hồ đã chọn


Top