Giúp em một số câu hỏi ôn thi mac-le

quoclucvn

New member
Xu
0
câu 1:phân tích đk kt-xh, tiến đề kh-tn dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa mác? liên hệ vai trò chủ nghĩa mac-le ở nc ta hiện nay? (ý 1 em có thể trà lời dc, anh chị giúp em ý thứ 2)
câu 2: phân tích nội dung, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong phép biện chứng duy vật? liên hệ trong quá trình đổi mới ở nước ta đảng ta đã vận dụng vấn đề trên như thế nào? ( em chỉ cần giúp em ý 2 thôi)
câu 3: phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng duy vật? liên hệ trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta, đảng ta đã vận dụng quy luật trên như thế nào? (em chỉ cần giúp em ý 2 thôi)
câu 4: phân tích nội dung con đường biện chứng của quá trình nhận thức theo quan điểm triết học mac-lê? liên hệ trong quá trình nhận thức bản thân anh chị vận dụng quá trình trên như thế nào? ( em cần giúp ý 2)
 
câu 1:phân tích đk kt-xh, tiến đề kh-tn dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa mác? liên hệ vai trò chủ nghĩa mac-le ở nc ta hiện nay? (ý 1 em có thể trà lời dc, anh chị giúp em ý thứ 2)

Sau khi học xong chương này anh/chị sẽ hiểu được sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu khách quan; thực chất của cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện; thấy được sự hơn hẳn về chất của triết học Mác so với các trào lưu triết học khác; đồng thời, thấy rằng triết học Mác không phải là biệt phái, mà là kết quả phát triển liên tục của dòng chảy lịch sử triết học của nhân loại.

Nội dung:

I. NHỮNG ĐIỀU KIỆN LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC

1. Điều kiện kinh tế-xã hội

Chủ nghĩa Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu. Đó cũng là thời kỳ Chủ nghĩa Tư bản đã bước sang giai đoạn mới nhờ tác động của cách mạng công nghiệp. Sự phát triển của CNTB làm cho những mâu thuẫn xã hội vốn có của nó bộc lộ ngày càng gay gắt. CNTB phát triển có nghĩa là kinh tế TBCN phát triển - đây là điều kiện vật chất quan trọng để thực hiện những lý tưởng cao đẹp của con người, trong đó có lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu khách quan phải có lý luận mới, khoa học dẫn đường. Trong khi ấy, có một loạt những lý luận không khoa học đang tìm cách len lỏi vào phong trào công nhân. Chẳng hạn như “chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản” - chống CNTB, nhưng đòi thực hiện sở hữu nhỏ, tức là đi ngược lại lịch sử ; “chủ nghĩa xã hội phong kiến” - chống CNTB nhưng đòi quay trở về chủ nghĩa phong kiến ; “chủ nghĩa xã hội tư sản” - cho rằng không cần phải đập tan nhà nước tư sản, chỉ cần sửa chữa nó. Trước tình hình đó đòi hỏi phải có lý luận mới khoa học ra đời để dẫn đường cho phong trào công nhân. Sự ra đời của Chủ nghĩa Mác là sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường của giai cấp vô sản cách mạng.

2. Nguồn gốc lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên

a. Nguồn gốc lý luận

Mác và Ăngghen kế thừa toàn bộ những tinh hoa lý luận của nhân loại từ cổ đại đến thời đại các ông nhưng trực tiếp là kinh tế - chính trị cổ điển Anh; CNXH không tưởng Pháp và triết học cổ điển Đức. Với kinh tế - chính trị cổ điển Anh, Mác và Ăngghen đã kế thừa học thuyết giá trị của A.Xmít và Đ.Ricácđô và vận dụng vào phân tích kinh tế TBCN, chỉ ra nguồn gốc của giá trị thặng dư. Mác và Ăngghen cũng kế thừa Xanh Ximông, Phuriê ở những luận điểm: cần và có thể đập tan nhà nước tư sản. Với triết học cổ điển Đức, Mác, Ăngghen khắc phục vỏ duy tâm, thần bí của triết học Hêghen kế thừa phương pháp biện chứng của ông ta, đặt phương pháp biện chứng này trên nền thế giới quan duy vật. Đồng thời khắc phục tính siêu hình trong triết học Phoiơbắc, kế thừa CNDV nhân bản của ông và làm giàu chủ nghĩa duy vật này bằng phương pháp biện chứng. Đồng thời cả chủ nghĩa duy vật, cả phương pháp biện chứng đều được các ông nâng lên về chất. Trên cớ sở đó, Mác và Ăngghen đã sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật biện chứng.

b. Tiền đề khoa học tự nhiên

Đó là những phát minh khoa học như định luật bảo toàn vật chất và vận động; định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng. Hai phát minh khoa học này đã chứng minh tính thống nhất vật chất của thế giới, đồng thời chỉ ra rằng, mọi sự vật và hiện tượng trong thế giới luôn nằm trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Thuyết tế bào; thuyết tiến hoá đã chứng minh sự thống nhất về mặt kết cấu sinh học của thế giới hữu sinh; chỉ ra rằng, sự sống và sự đa dạng phong phú của các loài sinh, động vật là kết quả tiến hoá tự nhiên, lâu dài của chính giới tự nhiên. Những phát minh này tạo ra điều kiện, tiền đề cho thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng ra đời.

Như vậy triết học Mác ra đời là tất yếu lịch sử, tất nhiên phải có những điều kiện chủ quan như sự thông minh, lòng yêu thương những người lao động của chính Mác và Ăngghen.

II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC

1. C.Mác và Ph.Ăngghen và quá trình chuyển biến tư tưởng của các ông từ CNDT và dân chủ cách mạng sang CNDV và cộng sản chủ nghĩa

C.Mác (5/5/1818 - 14/3/1883), năm 1841 C.Mác nhận bằng tiến sỹ và từ đầu 5/1842 – 3/1843 ông làm ở báo Sông Ranh. Chính thời kỳ làm ở báo Sông Ranh đấu tranh cho dân chủ đã giúp ông chuyển biến bước đầu từ chủ nghĩa duy tâm và tinh thần dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và cộng sản chủ nghĩa. Khi báo Sông Ranh bị cấm (từ 1/4/1843) Mác đặt ra cho mình nhiệm vụ xem xét có phê phán triết học Hêghen về xã hội và nhà nước. Trong thời gian Mác ở Croixnăc (từ tháng 5 - 10/1843) Mác đã tiến hành phê phán triết học pháp quyền của Hêghen, qua đó phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen nói chung. Cuối tháng 10/1843 Mác sang Pari. Tại đây được tiếp xúc với không khí cách mạng Pháp và các đại biểu tiêu biểu của phong trào công nhân đã giúp Mác chuyển biến dứt khoát sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản. Các bài báo: Bàn về vấn đề Do Thái; Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu đăng trên tạp chí Niên giám Pháp - Đức tháng 2/1844 đánh dấu quá trình chuyển biến này.

Ph.Ăngghen (28/11/1820 - 5/8/1895) trong khoảng thời gian 1842 - 1843 có điều kiện tiếp xúc đời sống và phong trào công nhân ở Anh nên đã có sự chuyển biến về lập trường và thế giới quan. Điều này thể hiện rõ ở những bài báo cũng đăng trên tạp chí Niên giám Pháp - Đức: Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị - đứng trên lập trường duy vật phê phán A.Xmít và đ.Ricácđô; Tình cảnh nước Anh; Tômát Cáclây - vạch trần quan điểm phản động của Cáclây vì đã phê phán chủ nghĩa tư bản trên lập trường của chủ nghĩa phong kiến..

2. Giai đoạn đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

Từ 1844 - 1848 là giai đoạn C.Mác và Ph.Ănghen chuyển biến dứt khoát và từng bước hình hành tư tưởng của mình. Điều này thể hiện ở một loạt tác phẩm như Bản thảo kinh tế - triết học 1844 - phê phán triết học duy tâm Hêghen, phê phán khoa kinh tế chính trị cổ điển Anh, tìm nguyên nhân tha hoá con người ở sở hữu tư nhân; Gia đình thần thánh - phê phán phái Hêghen trẻ, đề xuất một số nguyên lý triết học duy vật của mình; Hệ tư tưởng Đức - phê phán các hệ tư tưởng Đức bấy giờ, trình bày quan niệm duy vật về lịch sử; Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản - đánh dấu sự hình thành chủ nghĩa Mác trên tất cả các bộ phận cấu thành (triết học, chủ nghĩa cộng sản khoa học và kinh tế chính trị học).

3. Giai đoạn Mác và Ăngghen bổ sung, phát triển lý luận triết học

Mác và Ăngghen luôn tổng kết thực tiễn phong trào cách mạng và bổ sung lý luận triết học của mình. Các tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp ; Ngày mười tám tháng sương mù của Lui Bônapáctơ; Nội chiến ở Pháp, v.v đã được Mác phát triển nhiều nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử, như đấu tranh giai cấp trong xã hội có giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng; tính tất yếu của chuyên chính vô sản, về thái độ phải đập tan nhà nước tư sản, v.v. Phê phán Cương lĩnh Gôta phát triển lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, trình bày tư tưởng về hai giai đoạn phát triển của chủ nghĩa cộng sản. Chống Đuy-rinh, Biện chứng của tự nhiên, Tư bản, v.v phát triển cụ thể nhiều vấn đề về phép biện chứng, quan hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên, phê phán các quan điểm sai trái; phân tích xã hội tư bản chỉ ra tính tất yếu của sự ra đời nhà nước vô sản, v.v sau khi Mác mất Ăngghen đã biên tập xuất bản tập 2, 3 của bộ Tư bản, hoàn thành những tác phẩm triết học quan trọng như: Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước; Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức.

4. Thực chất và ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.ăngghen thực hiện

Thực chất cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện thể hiện ở những điểm chủ yếu sau:

Thứ nhất, khắc phục sự tách rời giữa thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng trong triết học trước đó, Mác và Ăngghen đã tạo ra sự thống nhất hữu cơ giữa chủ nghĩa duy vật và phương pháp biện chứng là chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đây là bước phát triển cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện.

Thứ hai, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử làm cho triết học của C.Mác và Ph.Ăngghen trở nên triệt để. Trước khi triết học Mác ra đời chưa có một nhà triết học nào giải thích được một cách duy vật lĩnh vực lịch sử - xã hội - tinh thần. Triết học Mác ra đời đã khắc phục được những hạn chế này.

Thứ ba, với sự sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mác và Ăngghen đã khắc phục sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn. Triết học của hai ông trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của nhân loại tiến bộ. Triết học của hai ông đã gắn bó với phong trào cách mạng của giai cấp vô sản, còn phong trào vô sản cần đến sự chỉ đường, dẫn dắt của triết học này.

Thứ tư, với sự ra đời của triết học Mác, Mác và Ăngghen đã khắc phục sự đối lập giữa triết học với các khoa học cụ thể. Trước khi triết học Mác ra đời thì triết học hoặc là đối lập với các khoa học cụ thể, hoặc là hoà tan vào nó. Từ khi triết học Mác ra đời thì quan hệ giữa triết học Mác với các khoa học cụ thể là quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Các khoa học cụ thể cung cấp cho triết học Mác các thông số, dữ liệu khoa học, tài liệu khoa học để triết học Mác khái quát, còn triết học Mác đóng vai trò thế giới quan, phương pháp luận chung nhất cho các khoa học cụ thể.

Ý nghĩa của cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.ăngghen thực hiện

Cuộc cách mạng trong triết học do Mác và Ăngghen thực hiện có ý nghĩa hết sức to lớn:

- Làm cho triết học thay đổi cả về vai trò, vị trí, chức năng trong hệ thống tri thức khoa học.

- Làm cho chủ nghĩa xã hội không tưởng có cơ sở trở thành khoa học.

- Làm cho triết học Mác trở thành công cụ nhận thức và cải tạo thế giới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

5. Giai đoạn Lênin trong sự phát triển triết học Mác

V.I.Lênin (1870 - 1924) - người đã vận dụng sáng tạo và phát triển triết học Mác vào thời đại đế quốc chủ nghĩa và bắt đầu xây dựng CNXH hiện thực. Ông đã có những đóng góp to lớn vào việc phát triển chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.

Khi chống lại những người dân tuý Nga, Lênin đã phát triển lý luận hình thái kinh tế - xã hội của Mác, bảo vệ sự trong sáng của triết học Mác trước sự xuyên tác của phái dân tuý Nga; phát triển quan niệm duy vật về lịch sử. Điều này thể hiện rõ trong các tác phẩm: “Những "người bạn dân" là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ - xã hội ra sao?”; “Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó”.

Khi chống lại chủ nghĩa duy tâm chủ quan của phái Makhơ, Lênin đã khái quát được những thành tựu khoa học đương thời, đưa ra định nghĩa nổi tiếng về vật chất, khắc phục được cuộc khủng hoảng về thế giới quan trong vật lý học; bổ sung nhiều vấn đề quan trọng cho lý luận nhận thức duy vật biện chứng. Điều này được Lênin trình bày trong “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghia xkinh nghiệm phê phán” v.v.

Lênin có nhiều đóng góp vào việc phát triển phép biện chứng, lý luận nhận thức, vấn đề nhà nước và cách mạng, vấn đề chuyên chính vô sản, vấn đề xây dựng Đảng kiểu mới v.v

Có thể nói, Lênin đã tạo ra một giai đoạn mới trong sự phát triển triết học Mác. Nhưng cần lưu ý rằng, về bản chất triết học của Lênin là triết học Mác.
 
câu 2: phân tích nội dung, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến trong phép biện chứng duy vật? liên hệ trong quá trình đổi mới ở nước ta đảng ta đã vận dụng vấn đề trên như thế nào? ( em chỉ cần giúp em ý 2 thôi)

Bạn dựa vào đây nhá
 
câu 3: phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng duy vật? liên hệ trong quá trình đổi mới kinh tế ở nước ta, đảng ta đã vận dụng quy luật trên như thế nào? (em chỉ cần giúp em ý 2 thôi)

1. Khái Niệm Phủ Định Và Phủ Định Biện Chứng

Trong thế giới hiện tượng, vật chất các sự vật luôn luôn biến chuyển thay đổi, sinh ra, tồn tại và mất đi. Sự vật cũ mất đi được thay bằng những sự vật, hiện tượng mới, sự thay thế đó được gọi là sự phủ định. Sự phủ định sự vật này là một quy trình tất yếu trong quá trình vận động và phát triển sự vật mà không phải phủ định là xoá bỏ hoàn toàn cái cũ như các nhà siêu hình học nhìn nhận.
Theo triết Marx, phủ định phải là phủ định biện chứng, tức là sự phủ định tạo tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, từ cái cũ thành cái mới, hoàn thiện, phức tạp và cao cấp hơn cái cũ. Tuy nhiên, phủ định biện chứng là sự phủ định tự thân, từ sự phát triển tự thân nên phủ định biện chứng mang những đặc trưng cơ bản sau:

a. Tính Khách Quan: các sự vật luôn luôn nằm trong quá trình vận động, biến đổi và phát triển do sự đấu tranh giải quyết những mâu thuẫn bên trong của các sự vật. Từ đấu tranh các mâu thuẫn mà sự vật luôn phát triển không ngừng, do vậy, phủ định biện chứng luôn mang tính khách quan trong quá trình vận động và phát triển.

b. Tính Kế Thừa. Phủ định là phát triển tự thân của sự vật nên nó không phải thủ tiêu cái cũ mà là gạt bỏ những cái xấu, không tốt, lạc hậu để tiếp thu, chọn lọc những cái hay, cái đẹp khi hình thành cái mới. Do vậy, cái mới đó được hình thành từ cơ sở chọn lọc của cái cũ. Cái mới là mới từ cái cũ và cái cũ là cũ của cái mới. Giữa cái cũ và cái mới có mối liên hệ và khắng khít với nhau. Đó chính là tính kế thừa của phép phủ định biện chứng.

Trong quá trình phủ định biện chứng, phủ định đồng thời cũng là khẳng định, phủ định mặt xấu, tiêu cực còn khẳng định những mặt tích cực, tốt đẹp. Do vậy, cái mới có mặt là một phần tất yếu, xuất phát từ cái cũ nhưng khác chất cái cũ. Và tất nhiên, quy trình phủ định biện chứng cần phải đảm bảo được ba điều kiện sau:1) Tính thời đại. 2) Tính dân tộc. 3) Tính mỹ thuật.
2. Nội Dung Quy Luật Phủ Định Cái Phủ Định

Trong quá trình vận động và phát triển, sự vật mới được ra đời trên cơ sở khẳng định và phủ định sự vật cũ. Khi hai mặt mâu thuẫn đấu tranh với nhau mà vượt qua giới hạn độ thì sự vật mới ra đời, phủ định biện chứng có mặt. Thế nhưng sự vật không dừng lại ở đó mà nó lại tiếp tục đấu tranh giữa các mặt mâu thuẫn mới và một lần nữa cái mới đó bị cái mới hơn phủ định. Quá trình phủ định hai lần đó được gọi là Phủ định của phủ định và từ đây “sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển”.[1]

Quá trình phủ định cái phủ định của sự vật đó làm xuất hiện những sự vật mới là kết quả tổng hợp tất cả các yếu tố tích cực mới được bổ sung và từ những lần khẳng định và phủ định trước đó. Quy luật phát triển liên tục, điểm kết thúc của chu kỳ này lại là điểm bắt đầu của một chu kỳ mới. Do vậy, kết quả phủ định cái phủ định luôn luôn bao giờ cũng có hình thức mới hơn, có nội dung toàn diện và phong phú hơn những cái ban đầu.

Tuy nhiên, sự tiến lên của sự vật không theo con đường thẳng tắp mà được diễn ra theo hình “xoắn ốc”. Bởi “sự phát triển theo đường “xoắn ốc” là biểu thị sự rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên”.[2]

Khi nghiên cứu về Quy luật phủ định của phủ định chúng ta không nên máy móc trong nhận thức. Nghĩa là chúng ta không nên khăng khăng cho rằng sự vật, hiện tượng phải đủ hai lần phủ định mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Thực ra, có nhiều sự phát triển còn cần nhiều hơn cả con số hai lần phủ định như thế, hai lần là con số tối thiểu, chẳng hạn quá trình biến đổi trứng thành con tằm. Do vậy, trong vấn đề nhận thức quy luật này, chúng ta cần phải linh hoạt, không được máy móc. Không nên lấy cái cố định để ràng buộc cái bất định, nếu làm như thế là đi sai với quy luật và đó là một sai lầm.

3. Ý Nghĩa Phương Pháp Luận

Từ việc nghiên cứu quy luật phủ định của phủ định trên, chúng ta rút ra được một số ý nghĩa phương pháp luận sau:
- Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức được tính đúng đắn và tất yếu của sự vật bởi phát triển là khuynh hướng chung, do đó cái mới bao giờ cũng chiến thắng. Song, quá trình phát triển không diễn ra theo đường đường thẳng mà con đường xoắn ốc: quanh co, phức tạp với nhiều chu kỳ và giai đoạn trung gian.

- Sự vật ra đời sau luôn là cái mới, cái tiến bộ hơn cái trước thế nhưng không phải lúc nào cũng như vậy, có nhiều lúc, cái mới lại là cái thụt lùi so với cái cũ, thế nhưng sự thụt lùi đó là những bước thụt lùi trong quá trình phát triển chung của nó.

- Nhận thức được quy luật này chúng ta sẽ biết cách tác động phù hợp sao cho sự vật phát triển nhanh hay chậm, tránh được những nhận thức sai lầm, chủ quan duy ý chí và bảo thủ trong công việc và trong các hiện tượng xã hội. Đồng thời cần phải chống thái độ phủ định sạch trơn hoàn toàn không có gì, coi thường giá trị truyền thống mà cần phải biết phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.

Liên hệ bạn dựa vào ý nghĩa phương pháp luận nha
 
câu 4: phân tích nội dung con đường biện chứng của quá trình nhận thức theo quan điểm triết học mac-lê? liên hệ trong quá trình nhận thức bản thân anh chị vận dụng quá trình trên như thế nào? ( em cần giúp ý 2)

Vận dụng quan điểm TẠI ĐÂY

Tham khảo
 

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top