alita_sara
New member
- Xu
- 0
Giới tính của não
Các nhà thần kinh học cho thấy sự khác biệt về giải phẫu, hóa học và chức năng của não giữa nam và nữ. Những biến đổi này diễn ra xuyên suốt bộ não, ở các vùng liên quan đến ngôn ngữ, trí nhớ, cảm xúc, thị giác, thính giác…
Các nhà nghiên cứu đang xem xét những biến đổi theo giới tính này có liên quan như thế nào với những khác biệt trong nhận thức và tập tính của nam và nữ. Khám phá của họ có thể chỉ ra con đường chữa trị riêng cho nam và nữ những bệnh như: Tâm thần phân liệt, trầm cảm, nghiện ngập và rối loạn do stress sau chấn thương.
Tháng 1.2005, Lawrence Summers - Hiệu trưởng Trường Đại học Harvard, đã đưa ra những ý kiến về khác biệt bẩm sinh trong cấu tạo của não nam và nữ có thể là một nhân tố liên quan đến vấn đề nữ tương đối hiếm trong khoa học. Nhận xét của ông ám chỉ một cuộc tranh cãi âm ỉ một thế kỷ nay, khi một số nhà khoa học ước lượng não của phụ nữ có xu hướng bé hơn, để bênh vực quan điểm cho rằng nữ kém hơn nam về mặt trí tuệ. Tuy nhiên, chưa có ai đưa ra được những bằng chứng hoặc những khác biệt giải phẫu có thể khiến nữ không có khả năng đạt được sự lỗi lạc về toán, lý hoặc kỹ thuật. Não của nam và nữ từng được thấy là giống nhau về nhiều mặt. Hơn một thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu đã tư liệu hóa sự biểu hiện kỳ lạ những biến đổi về cấu trúc, hóa học và chức năng ở não nam và nữ.
Những khác biệt về cấu tạo của não theo giới tính cho thấy khả năng xử lý bệnh tật riêng cho nam và nữ. Ngoài ra, chúng cũng lưu ý các nhà nghiên cứu khi thăm dò cấu trúc và chức năng của não phải xem xét giới tính của đối tượng trong phân tích dữ liệu, bao gồm cả nam và nữ trong những nghiên cứu tương lai hoặc rủi ro khi thu được kết quả sai lệch.
Cách đây không lâu, các nhà thần kinh học đã tin rằng sự khác biệt giới tính ở não được giới hạn chủ yếu ở những vùng chịu trách nhiệm về tập tính giao phối. Trong một bài báo đăng trên tờ Scientific American 1966 với nhan đề: “Khác biệt giới tính ở não”, Seymour Levine ở Trường Đại học Stanford đã mô tả các hocmôn giới tính điều khiển tập tính sinh sản khác nhau ở chuột. Trong bài, Levine chỉ mô tả một vùng não là vùng dưới đồi (hypothalamus), một cấu tạo nhỏ ở đáy não tham gia điều hòa sản xuất hocmôn và kiểm soát các tập tính cơ bản như ăn uống và tình dục. Một thế hệ các nhà thần kinh học tin rằng, “sự khác biệt ở não” liên quan chủ yếu đến tập tính giao phối, các hocmôn giới tính và cấu tạo dưới đồi.
Quan điểm đó đã làm dấy lên các khám phá nhấn mạnh ảnh hưởng của giới tính đến nhiều vùng nhận thức và tập tính, bao gồm trí nhớ, cảm xúc, thị giác, thính giác, điệu bộ vẻ mặt và phản ứng của não với các hocmôn do stress. Tiến bộ này tăng nhanh trong 5-10 năm qua nhờ các kỹ thuật tinh vi, hiển thị không xâm phạm như: Hiển thị phát positron (PET) và hiển thị cộng hưởng từ chức năng (fMRI), có thể nhìn kỹ vào não của các đối tượng sống. Những thí nghiệm tạo ảnh hay làm hiển thị này cho thấy có các biến đổi giải phẫu ở nhiều vùng não.
Jill M. Goldstein ở Trường Đại học y Harvard và các cộng sự đã sử dụng MRI để đo kích thước của nhiều vùng vỏ và dưới vỏ não. Họ nhận thấy các phần của vỏ trán - nơi có nhiều chức năng nhận thức, ở nữ to hơn so với nam (liên quan với các phản ứng cảm xúc). Trái lại, ở nam, các phần của vỏ đỉnh, liên quan với tri giác không gian, to hơn so với nữ, như hạnh nhân (amygdala) - cấu tạo có dạng quả hạch, phản ứng với thông tin gây cảm xúc qua nhịp tim và dòng adrenalin. Những khác biệt về kích thước này là tương đối và được cho là phản ánh tầm quan trọng tương đối ở động vật. Ví dụ, khỉ dựa vào thị giác hơn là khứu giác, còn ở chuột thì ngược lại. Kết quả là, não khỉ giữ các vùng có tỷ lệ lớn hơn dành cho thị giác, còn chuột dành nhiều chỗ hơn cho khứu giác. Như vậy, sự tồn tại nhiều khác biệt giải phẫu giữa nam và nữ gợi ra rằng giới tính có ảnh hưởng đến cách não hoạt động.
Những nghiên cứu khác đang tìm hiểu sự khác biệt giải phẫu theo giới tính ở mức tế bào. Sandra Witelson và cộng sự ở Trường Đại học McMaster phát hiện thấy ở nữ có mật độ tế bào thần kinh (nơron) lớn hơn ở các phần của vỏ thùy thái dương, gắn liền với xử lý ngôn ngữ và nhận thức. Khi đếm nơron ở các mẫu của người sau khi chết, họ thấy trong 6 lớp có ở vỏ thì hai lớp ở nữ có số nơron nhiều hơn theo khối lượng đơn vị so với nam. Với các thông tin như vậy, hiện nay các nhà thần kinh học có thể tìm hiểu sự khác biệt giới tính về số nơron có tương quan với khả năng nhận thức khác nhau hay không? Mật độ tăng ở vỏ thính giác của nữ có liên quan với tăng thành tích của họ trước các trắc nghiệm ăn nói lưu loát hay không?
Sự đa dạng giải phẫu đó phần lớn có thể do hoạt động của các hocmôn giới tính thấm ướt não thai gây ra. Những steroit này định hướng tổ chức và ràng buộc não trong khi phát triển, ảnh hưởng tới cấu trúc và mật độ nơron của nhiều vùng. Điều lý thú là các vùng não mà Goldstein thấy sự khác nhau giữa nam và nữ cũng là những vùng ở động vật chứa nhiều chất nhận hocmôn giới tính nhất trong khi phát triển. Tương quan giữa kích thước vùng não ở người lớn và tác dụng của steroit giới tính trong dạ con ít nhất gợi ra một số khác biệt giới tính trong chức năng nhận thức không phải do ảnh hưởng văn hóa hoặc những thay đổi hocmôn gắn liền với tuổi dậy thì, mà là bẩm sinh.
Sưu tầm
Các nhà thần kinh học cho thấy sự khác biệt về giải phẫu, hóa học và chức năng của não giữa nam và nữ. Những biến đổi này diễn ra xuyên suốt bộ não, ở các vùng liên quan đến ngôn ngữ, trí nhớ, cảm xúc, thị giác, thính giác…
Các nhà nghiên cứu đang xem xét những biến đổi theo giới tính này có liên quan như thế nào với những khác biệt trong nhận thức và tập tính của nam và nữ. Khám phá của họ có thể chỉ ra con đường chữa trị riêng cho nam và nữ những bệnh như: Tâm thần phân liệt, trầm cảm, nghiện ngập và rối loạn do stress sau chấn thương.
Tháng 1.2005, Lawrence Summers - Hiệu trưởng Trường Đại học Harvard, đã đưa ra những ý kiến về khác biệt bẩm sinh trong cấu tạo của não nam và nữ có thể là một nhân tố liên quan đến vấn đề nữ tương đối hiếm trong khoa học. Nhận xét của ông ám chỉ một cuộc tranh cãi âm ỉ một thế kỷ nay, khi một số nhà khoa học ước lượng não của phụ nữ có xu hướng bé hơn, để bênh vực quan điểm cho rằng nữ kém hơn nam về mặt trí tuệ. Tuy nhiên, chưa có ai đưa ra được những bằng chứng hoặc những khác biệt giải phẫu có thể khiến nữ không có khả năng đạt được sự lỗi lạc về toán, lý hoặc kỹ thuật. Não của nam và nữ từng được thấy là giống nhau về nhiều mặt. Hơn một thập kỷ qua, các nhà nghiên cứu đã tư liệu hóa sự biểu hiện kỳ lạ những biến đổi về cấu trúc, hóa học và chức năng ở não nam và nữ.
Những khác biệt về cấu tạo của não theo giới tính cho thấy khả năng xử lý bệnh tật riêng cho nam và nữ. Ngoài ra, chúng cũng lưu ý các nhà nghiên cứu khi thăm dò cấu trúc và chức năng của não phải xem xét giới tính của đối tượng trong phân tích dữ liệu, bao gồm cả nam và nữ trong những nghiên cứu tương lai hoặc rủi ro khi thu được kết quả sai lệch.
Cách đây không lâu, các nhà thần kinh học đã tin rằng sự khác biệt giới tính ở não được giới hạn chủ yếu ở những vùng chịu trách nhiệm về tập tính giao phối. Trong một bài báo đăng trên tờ Scientific American 1966 với nhan đề: “Khác biệt giới tính ở não”, Seymour Levine ở Trường Đại học Stanford đã mô tả các hocmôn giới tính điều khiển tập tính sinh sản khác nhau ở chuột. Trong bài, Levine chỉ mô tả một vùng não là vùng dưới đồi (hypothalamus), một cấu tạo nhỏ ở đáy não tham gia điều hòa sản xuất hocmôn và kiểm soát các tập tính cơ bản như ăn uống và tình dục. Một thế hệ các nhà thần kinh học tin rằng, “sự khác biệt ở não” liên quan chủ yếu đến tập tính giao phối, các hocmôn giới tính và cấu tạo dưới đồi.
Quan điểm đó đã làm dấy lên các khám phá nhấn mạnh ảnh hưởng của giới tính đến nhiều vùng nhận thức và tập tính, bao gồm trí nhớ, cảm xúc, thị giác, thính giác, điệu bộ vẻ mặt và phản ứng của não với các hocmôn do stress. Tiến bộ này tăng nhanh trong 5-10 năm qua nhờ các kỹ thuật tinh vi, hiển thị không xâm phạm như: Hiển thị phát positron (PET) và hiển thị cộng hưởng từ chức năng (fMRI), có thể nhìn kỹ vào não của các đối tượng sống. Những thí nghiệm tạo ảnh hay làm hiển thị này cho thấy có các biến đổi giải phẫu ở nhiều vùng não.
Jill M. Goldstein ở Trường Đại học y Harvard và các cộng sự đã sử dụng MRI để đo kích thước của nhiều vùng vỏ và dưới vỏ não. Họ nhận thấy các phần của vỏ trán - nơi có nhiều chức năng nhận thức, ở nữ to hơn so với nam (liên quan với các phản ứng cảm xúc). Trái lại, ở nam, các phần của vỏ đỉnh, liên quan với tri giác không gian, to hơn so với nữ, như hạnh nhân (amygdala) - cấu tạo có dạng quả hạch, phản ứng với thông tin gây cảm xúc qua nhịp tim và dòng adrenalin. Những khác biệt về kích thước này là tương đối và được cho là phản ánh tầm quan trọng tương đối ở động vật. Ví dụ, khỉ dựa vào thị giác hơn là khứu giác, còn ở chuột thì ngược lại. Kết quả là, não khỉ giữ các vùng có tỷ lệ lớn hơn dành cho thị giác, còn chuột dành nhiều chỗ hơn cho khứu giác. Như vậy, sự tồn tại nhiều khác biệt giải phẫu giữa nam và nữ gợi ra rằng giới tính có ảnh hưởng đến cách não hoạt động.
Những nghiên cứu khác đang tìm hiểu sự khác biệt giải phẫu theo giới tính ở mức tế bào. Sandra Witelson và cộng sự ở Trường Đại học McMaster phát hiện thấy ở nữ có mật độ tế bào thần kinh (nơron) lớn hơn ở các phần của vỏ thùy thái dương, gắn liền với xử lý ngôn ngữ và nhận thức. Khi đếm nơron ở các mẫu của người sau khi chết, họ thấy trong 6 lớp có ở vỏ thì hai lớp ở nữ có số nơron nhiều hơn theo khối lượng đơn vị so với nam. Với các thông tin như vậy, hiện nay các nhà thần kinh học có thể tìm hiểu sự khác biệt giới tính về số nơron có tương quan với khả năng nhận thức khác nhau hay không? Mật độ tăng ở vỏ thính giác của nữ có liên quan với tăng thành tích của họ trước các trắc nghiệm ăn nói lưu loát hay không?
Sự đa dạng giải phẫu đó phần lớn có thể do hoạt động của các hocmôn giới tính thấm ướt não thai gây ra. Những steroit này định hướng tổ chức và ràng buộc não trong khi phát triển, ảnh hưởng tới cấu trúc và mật độ nơron của nhiều vùng. Điều lý thú là các vùng não mà Goldstein thấy sự khác nhau giữa nam và nữ cũng là những vùng ở động vật chứa nhiều chất nhận hocmôn giới tính nhất trong khi phát triển. Tương quan giữa kích thước vùng não ở người lớn và tác dụng của steroit giới tính trong dạ con ít nhất gợi ra một số khác biệt giới tính trong chức năng nhận thức không phải do ảnh hưởng văn hóa hoặc những thay đổi hocmôn gắn liền với tuổi dậy thì, mà là bẩm sinh.
Sưu tầm