- Xu
- 458
Giới thiệu Nguyễn Du và Truyện Kiều.
Bài làm
1. Tác giả : Nguyễn Du ( 1765 – 1820) xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc, nhiều đời làm quan với triều Lê. Cha và anh đều làm đến chức Tể tướng. Đương thời có câu ca về dòng họ này:
Bao giờ ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nước, họ này hết quan.
Theo gia phả họ Nguyễn Tiên Điền, trong “An Nam ngũ tuyệt” (năm danh sĩ nổi tiếng) thì dòng họ này góp mặt hai : Nguyễn Hành, Nguyễn Du.
Sống trong một giai đoạn lịch sử có nhiều biến động quan trọng cuối triều Lê đầu Nguyễn, trung thành với nhà Lê ông đã từng chống lại Tây Sơn nhưng không thành, sau đó là những năm tháng lưu lạc kéo dài, gian truân lận đận, nếm đủ mùi cay đắng nên ông hiểu và thông cảm sâu sắc với cuộc sống của nhân dân.
Triều Nguyễn được xây dựng , bất đắc dĩ ông phải ra làm quan cho đến khi mất với tâm trạng băn khoăn:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(dịch nghĩa : không biết ba trăm năm sau, thiên hạ ai người khóc Tố Như)
Ông để lại nhiều tác phẩm viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, đặc biệt là Truyện Kiều. Ông là nhà thơ vĩ đại của dân tộc và là danh nhân văn hóa.
2. Tóm tắt Truyện Kiều: Tác phẩm dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ( Trung Quốc) , nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du hết sức lớn, có ý nghĩa quyết định đối với giá trị của tác phẩm. Truyện dài 3254 câu lục bát, có thể chia làm ba phần:
- Gặp gỡ và đính ước;
- Gia biến và lưu lạc;
- Đoàn tụ.
A. Gặp gỡ và đính ước: Kiều sinh trưởng trong một gia đình trung lưu lương thiện, có ba chị em. Nhân tiết thanh minh, cùng hai em đi tảo mộ, nàng gặp một nấm mồ vô chủ Đạm Tiên. Cảm thương cho số phận người kĩ nữ nằm dưới mộ, nàng than thở:
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay thác xuống làm ma không chồng.
Rồi nàng gặp Kim Trọng, một văn nhân tài tử “phong tư tài mạo tuyệt vời”; hai người cảm mến nhau:
Người quốc sắc, kẻ thiên tài
Tình trong như đã ,mặt ngoài còn e.
Về nhà, nàng nghĩ đến số phận Đạm Tiên, nhớ đến Kim Trọng:
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Phần chàng Kim Trọng, sau lần gặp gỡ chị em Kiều, cũng mang lòng tưởng nhớ khôn nguôi:
Bâng khuâng nhớ cảnh , nhớ người
Nhớ nơi kì ngộ vội dời chân đi.
Mong gặp gỡ, chàng dọn nhà đến ở sát nhà Kiều, rồi một lần lượm được chiếc thoa, chàng gặp dịp trao lại và tỏ tình. Hai bên hẹn ước. Nhân dịp gia đình về quê hương mừng thọ, Kiều gặp Kim và đính ước, hứa hẹn hạnh phúc lứa đôi.
B. Gia biến và lưu lạc: Sau lần gặp đính ước, Kim và Liên Dương hộ tang chú. Gia đình Kiều gặp nạn vì bị vu oan. Để cứu gia đình, Kiều quyết định bán mình:
Quyết tình nàng mới hạ tình
Dễ cho để thiếp bán mình chuộc cha.
Mã Giám Sinh mua Kiều đem về lầu xanh ở Lâm Tri. Cùng với Tú Bà, chúng ép nàng tiếp khách làng chơi. Biết mình bị lừa, không chịu nhục, nàng quyên sinh nhưng không chết. Đạm Tiên báo mộng, phải đến sông tiền Đường nàng mới hết kiếp đoạn trường. Sợ Kiều lại liều mình, Tú Bà đưa nàng ra lầu Ngưng Bích rồi bày mưu để Sở Khanh rủ nàng đi trốn. Bị bắt lại, bị chúng hành hạ, Kiều đau đớn thốt ra:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.
Thế là nàng cam chịu số phận dấn thân vào cuộc sống ô nhục.
Ở lầu xanh, Kiều được Thúc Sinh chuộc ra lấy làm vợ lẽ. Bị Thúc Ông đem báo quan, nàng bị xử phạt bằng một trận đòn khủng khiếp. Năm sau Kiều khuyên Thúc Sinh về nói rõ sự tình với vợ cả là Hoạn Thư. Thúc Sinh không dám nói thật với vợ cả, còn Hoạn Thư thì “ở ăn thì nết cũng hay, nói điều ràng buộc thì tay cũng già”. Ả lờ đi như không biết việc gì; khi Thúc Sinh quay lại Lâm Tri, ả cho gia nhân Khuyển Ưng đến bắt cóc Kiều đem về hành hạ. Thế là Kiều lại bị một trận “ ngứa ghẻ đòn ghen”:
Trúc côn ra sức đập vào
Thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh.
Sau đó, nàng thành đứa ở coi đòi, có lúc phải hầu đàn để vợ chồng Hoạn Thư chén bạc chén thù, rồi nàng được đưa ra “giữa chùa chép kinh” ở Quan Âm các.
Một lần, Thúc Sinh lẻn đến than thở với Kiều, Hoạn Thư bắt gặp, Kiều sợ bỏ trốn đến nương nhờ cửa Phật với sư bà Giác Duyên. Họ Hoạn biết, Giác Duyên phải gửi nàng đến ở nhờ Bạc Bà. Bạc Bà ép gả Kiều cho Bạc Hạnh. Hắn đem nàng bán cho một lầu xanh ở Châu Thai. Thế là lần thứ hai, Kiều phải vào lầu xanh.
Ít lâu sau, Kiều được Từ Hải chuộc ra và cưới làm vợ, giúp nàng báo ân báo oán “trước sau trọn vẹn, xa gần ngợi khen”.
Từ Hải lập nên nghiệp lớn, nghe lời Kiều, bị Hồ Tôn Hiến lừa mà phải “chết đứng”. Kiều vì nhẹ dạ, khuyên chồng, rồi chính mình cũng bị làm nhục, sau bị đem ép gả cho một viên thổ quan.
Tủi nhục, nàng nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn cho xong một kiếp đoạn trường. Nhưng một lần nữa nàng lại được Giác Duyên cứu sống đem về cho nương nhờ cửa Phật.
C. Đoàn tụ: Sau nửa năm về hộ tang chú , Kim Trọng trở lại tìm người yêu. Hay tin sét đánh, chàng đau đớn “lúc tỉnh lúc mê” Cha mẹ Kiều, theo lời dặn của Kiều, xe duyên cho chàng với Thúy Vân.
Kim Trọng, Văn Quan thi đỗ cùng nhau lặn lội đi tìm Kiều. Sau bao nhiêu năm tìm kiếm, được tin Kiều trẫm mình ở sông Tiền Đường, Kim TRọng cùng gia đình lập đàn giải oan cho nàng . Được Giác Duyên cho biết nàng còn sống, cả nhà vui mừng và đón nàng về đoàn tụ.
Mười lăm năm xa cách với bao nỗi gian truân, trong tiệc đoàn viên, Thúy Vân và gia đình ép Kiều nối lại duyên cùng Kim Trọng: “Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bè”.
Theo 100 bài văn hay lớp 9*
Bài làm
1. Tác giả : Nguyễn Du ( 1765 – 1820) xuất thân trong một gia đình phong kiến đại quý tộc, nhiều đời làm quan với triều Lê. Cha và anh đều làm đến chức Tể tướng. Đương thời có câu ca về dòng họ này:
Bao giờ ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nước, họ này hết quan.
Theo gia phả họ Nguyễn Tiên Điền, trong “An Nam ngũ tuyệt” (năm danh sĩ nổi tiếng) thì dòng họ này góp mặt hai : Nguyễn Hành, Nguyễn Du.
Sống trong một giai đoạn lịch sử có nhiều biến động quan trọng cuối triều Lê đầu Nguyễn, trung thành với nhà Lê ông đã từng chống lại Tây Sơn nhưng không thành, sau đó là những năm tháng lưu lạc kéo dài, gian truân lận đận, nếm đủ mùi cay đắng nên ông hiểu và thông cảm sâu sắc với cuộc sống của nhân dân.
Triều Nguyễn được xây dựng , bất đắc dĩ ông phải ra làm quan cho đến khi mất với tâm trạng băn khoăn:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(dịch nghĩa : không biết ba trăm năm sau, thiên hạ ai người khóc Tố Như)
Ông để lại nhiều tác phẩm viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, đặc biệt là Truyện Kiều. Ông là nhà thơ vĩ đại của dân tộc và là danh nhân văn hóa.
2. Tóm tắt Truyện Kiều: Tác phẩm dựa theo cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân ( Trung Quốc) , nhưng phần sáng tạo của Nguyễn Du hết sức lớn, có ý nghĩa quyết định đối với giá trị của tác phẩm. Truyện dài 3254 câu lục bát, có thể chia làm ba phần:
- Gặp gỡ và đính ước;
- Gia biến và lưu lạc;
- Đoàn tụ.
A. Gặp gỡ và đính ước: Kiều sinh trưởng trong một gia đình trung lưu lương thiện, có ba chị em. Nhân tiết thanh minh, cùng hai em đi tảo mộ, nàng gặp một nấm mồ vô chủ Đạm Tiên. Cảm thương cho số phận người kĩ nữ nằm dưới mộ, nàng than thở:
Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay thác xuống làm ma không chồng.
Rồi nàng gặp Kim Trọng, một văn nhân tài tử “phong tư tài mạo tuyệt vời”; hai người cảm mến nhau:
Người quốc sắc, kẻ thiên tài
Tình trong như đã ,mặt ngoài còn e.
Về nhà, nàng nghĩ đến số phận Đạm Tiên, nhớ đến Kim Trọng:
Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không?
Phần chàng Kim Trọng, sau lần gặp gỡ chị em Kiều, cũng mang lòng tưởng nhớ khôn nguôi:
Bâng khuâng nhớ cảnh , nhớ người
Nhớ nơi kì ngộ vội dời chân đi.
Mong gặp gỡ, chàng dọn nhà đến ở sát nhà Kiều, rồi một lần lượm được chiếc thoa, chàng gặp dịp trao lại và tỏ tình. Hai bên hẹn ước. Nhân dịp gia đình về quê hương mừng thọ, Kiều gặp Kim và đính ước, hứa hẹn hạnh phúc lứa đôi.
B. Gia biến và lưu lạc: Sau lần gặp đính ước, Kim và Liên Dương hộ tang chú. Gia đình Kiều gặp nạn vì bị vu oan. Để cứu gia đình, Kiều quyết định bán mình:
Quyết tình nàng mới hạ tình
Dễ cho để thiếp bán mình chuộc cha.
Mã Giám Sinh mua Kiều đem về lầu xanh ở Lâm Tri. Cùng với Tú Bà, chúng ép nàng tiếp khách làng chơi. Biết mình bị lừa, không chịu nhục, nàng quyên sinh nhưng không chết. Đạm Tiên báo mộng, phải đến sông tiền Đường nàng mới hết kiếp đoạn trường. Sợ Kiều lại liều mình, Tú Bà đưa nàng ra lầu Ngưng Bích rồi bày mưu để Sở Khanh rủ nàng đi trốn. Bị bắt lại, bị chúng hành hạ, Kiều đau đớn thốt ra:
Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa.
Thế là nàng cam chịu số phận dấn thân vào cuộc sống ô nhục.
Ở lầu xanh, Kiều được Thúc Sinh chuộc ra lấy làm vợ lẽ. Bị Thúc Ông đem báo quan, nàng bị xử phạt bằng một trận đòn khủng khiếp. Năm sau Kiều khuyên Thúc Sinh về nói rõ sự tình với vợ cả là Hoạn Thư. Thúc Sinh không dám nói thật với vợ cả, còn Hoạn Thư thì “ở ăn thì nết cũng hay, nói điều ràng buộc thì tay cũng già”. Ả lờ đi như không biết việc gì; khi Thúc Sinh quay lại Lâm Tri, ả cho gia nhân Khuyển Ưng đến bắt cóc Kiều đem về hành hạ. Thế là Kiều lại bị một trận “ ngứa ghẻ đòn ghen”:
Trúc côn ra sức đập vào
Thịt nào chẳng nát, gan nào chẳng kinh.
Sau đó, nàng thành đứa ở coi đòi, có lúc phải hầu đàn để vợ chồng Hoạn Thư chén bạc chén thù, rồi nàng được đưa ra “giữa chùa chép kinh” ở Quan Âm các.
Một lần, Thúc Sinh lẻn đến than thở với Kiều, Hoạn Thư bắt gặp, Kiều sợ bỏ trốn đến nương nhờ cửa Phật với sư bà Giác Duyên. Họ Hoạn biết, Giác Duyên phải gửi nàng đến ở nhờ Bạc Bà. Bạc Bà ép gả Kiều cho Bạc Hạnh. Hắn đem nàng bán cho một lầu xanh ở Châu Thai. Thế là lần thứ hai, Kiều phải vào lầu xanh.
Ít lâu sau, Kiều được Từ Hải chuộc ra và cưới làm vợ, giúp nàng báo ân báo oán “trước sau trọn vẹn, xa gần ngợi khen”.
Từ Hải lập nên nghiệp lớn, nghe lời Kiều, bị Hồ Tôn Hiến lừa mà phải “chết đứng”. Kiều vì nhẹ dạ, khuyên chồng, rồi chính mình cũng bị làm nhục, sau bị đem ép gả cho một viên thổ quan.
Tủi nhục, nàng nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn cho xong một kiếp đoạn trường. Nhưng một lần nữa nàng lại được Giác Duyên cứu sống đem về cho nương nhờ cửa Phật.
C. Đoàn tụ: Sau nửa năm về hộ tang chú , Kim Trọng trở lại tìm người yêu. Hay tin sét đánh, chàng đau đớn “lúc tỉnh lúc mê” Cha mẹ Kiều, theo lời dặn của Kiều, xe duyên cho chàng với Thúy Vân.
Kim Trọng, Văn Quan thi đỗ cùng nhau lặn lội đi tìm Kiều. Sau bao nhiêu năm tìm kiếm, được tin Kiều trẫm mình ở sông Tiền Đường, Kim TRọng cùng gia đình lập đàn giải oan cho nàng . Được Giác Duyên cho biết nàng còn sống, cả nhà vui mừng và đón nàng về đoàn tụ.
Mười lăm năm xa cách với bao nỗi gian truân, trong tiệc đoàn viên, Thúy Vân và gia đình ép Kiều nối lại duyên cùng Kim Trọng: “Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bè”.
Theo 100 bài văn hay lớp 9*