Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Triết học Mác - Lê Nin
Giáo trình triết học Mác - Lê Nin
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Hide Nguyễn" data-source="post: 195503" data-attributes="member: 6"><p>Khu vực kinh tế tập thể còn nhỏ bé, nhiều hợp tác xã trong nông nghiệp mang tính hình thức, chỉ làm khâu dịch vụ đầu vào và đầu ra của sản xuất, quỹ không chia trong hợp tác xã rất thấp, trình độ khoa học - công nghệ, quy mô và trình độ quản lý kinh tế yếu kém.</p><p></p><p> Khu vực kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế, đóng góp nhiều vào tăng trưởng GDP và giải quyết việc làm cho người lao động. Song, các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên gặp nhiều bất lợi về cạnh tranh, nguồn vốn và cả bị phân biệt đối xử trong thực tế do cơ chế, chính sách. Tiềm năng của kinh tế tư nhân rất lớn nhưng chưa được tạo điều kiện để phát triển mạnh và đóng góp nhiều hơn cho xã hội.</p><p></p><p>Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế quan trọng trong đóng góp vào tăng trưởng GDP, thu hút nguồn lao động. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến 20/12/2019 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 38 tỷ USD, tăng 7,2 % so với năm 2018. Tuy nhiên, khu vực này cũng có những hạn chế như: đầu tư vào các lĩnh vực có công nghệ cao, công nghệ nguồn còn ít, phần lớn còn là công nghệ trung bình, thậm chí lạc hậu, gia công, lắp ráp, ít đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực có lợi nhuận kém hấp dẫn. Các doanh nghiệp FDI khai thác nguồn tài nguyên, thị trường, nhân lực rẻ tại Việt Nam để phục vụ cho mục tiêu lợi nhuận của họ, thậm chí có cả hiện tượng “chuyển giá”, hạch toán lỗ... nhằm trốn thuế, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài( về công ty mẹ) vẫn còn xẩy ra.</p><p></p><p>Những hạn chế, yếu kém trên đây của các thành phần kinh tế trong quan hệ sản xuất đã làm cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình trên đây có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.</p><p></p><p>Về khách quan, việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đa hình thức sở hữu, quản lý, phân phối, đa thành phần kinh tế là mô hình kinh tế chưa có tiền lệ trong lịch sử, chúng ta phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm.</p><p></p><p>Về chủ quan, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về kinh tế thị trường, về quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện một nước lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới, hội nhập... còn nhiều hạn chế, bất cập…. Nhận thức trên một số vấn đề thuộc chủ trương, quan điểm tuy đã được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng, song vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau trong thực tiễn, chẳng hạn(như: xác định thành phần kinh tế hay khu vực kinh tế, vấn đề kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, vấn đề sở hữu và sử dụng đất đai, vấn đề quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa...). Chính vì nhận thức còn khác nhau ở tầm quan điểm nên trong việc thực hiện nghị quyết, chính sách còn ngập ngừng, thiếu nhất quán, không kiên quyết, thiếu đồng bộ, làm hạn chế đến hiệu quả kinh tế. Hơn nữa, tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm đổi mới; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể còn thiếu thống nhất, thiếu tính hệ thống; khâu tổ chức thực hiện còn thiếu kiên quyết, quyết liệt, vẫn còn tình trạng dễ làm khó bỏ; quản lý, quản trị nhà nước còn nhiều yếu kém; chưa thể chế hóa kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng thành các chính sách, biện pháp có tính khả thi, hiệu quả. Đồng thời, có một số chủ trương chưa đủ rõ hoặc chưa phù hợp, chưa có sự thống nhất và thông suốt ở các cấp, các ngành, còn “ trên nóng, dưới lạnh”. Một số cán bộ, đảng viên, thậm chí là cán bộ cao cấp rơi vào suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, năng lực, phẩm chất và uy tín không đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới phát triển bền vững đất nước.</p><p></p><p>3. Đề xuất một số vấn đề đặt ra về nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong thời gian tới</p><p></p><p>Một là, đẩy mạnh, nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.</p><p></p><p>Hai là, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về sở hữu và các khu vực kinh tế, giải quyết những vấn đề còn vướng mắc, chưa rõ, ý kiến còn khác nhau, nhằm phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, như vấn đề chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu ở nước ta; vấn đề vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; vấn đề sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước; vai trò kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác; vai trò động lực phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta; vai trò kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; vấn đề kinh tế hỗn hợp, kinh tế cổ phần và các mối quan hệ kinh tế giữa các khu vực kinh tế của nền kinh tế nước ta trong quá trình phát triển bền vững đất nước.</p><p></p><p>Ba là, tiếp tục đổi mới tư duy và quan điểm phát triển hài hòa cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, chính trị, văn hóa, xã hội. Xây dựng tư duy mới về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về hội nhập, về phương thức phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách toàn diện thể chế nhằm huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực; thực hiện cơ chế thị trường và giải quyết hài hòa quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong phân phối các tư liệu sản xuất; bảo đảm bình đẳng thực sự giữa các khu vực kinh tế. Đẩy mạnh xã hội hóa các tổ chức trong cung ứng các dịch vụ công (giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ…) và phúc lợi xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, cuộc sống của nhân dân.</p><p></p><p>Bốn là, thực hiện đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện luật pháp và chính sách kinh tế- xã hội, để kiến tạo sự phát triển bền vững của đất nước. Xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, trọng dụng nhân tài, nhất là trong bộ máy quản lý, quản trị của nhà nước. Đổi mới thể chế nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách; phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ các loại thị trường, bảo đảm nguyên tắc thị trường trong sự vận hành nền kinh tế; hoàn thiện cơ chế vận hành các loại thị trường phù hợp với thực tiễn của đất nước và thông lệ quốc tế. Khẩn trương nghiên cứu và tổ chức thực hiện có hiệu quả Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU(EVFTA) có hiệu lực từ ngày 1/8/2020, để mở cửa các thị trường dịch vụ, đầu tư, tài chính, thương mại điện tử, logistisc, hàng hoá nông sản, thuỷ sản, dệt may, da giày vv…cũng như thu hút làn sóng đầu tư chất lượng cao, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, góp phần quan trọng làm cho kinh tế của đất nước phát triển nhanh, bền vững với chất lượng, hiệu quả cao hơn.</p><p></p><p>Năm là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực; tạo động lực phát triển; từng bước hoàn thiện chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; gắn kết chặt chẽ 3 trụ cột phát triển bền vững: kinh tế - xã hội - môi trường; vai trò văn hoá, xã hội, con người và đổi mới sáng tạo, công bằng, bình đẳng. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện chế độ phân phối, phúc lợi xã hội, cải cách chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động và nhân dân.</p><p></p><p> ***</p><p></p><p>Nhận thức hiện thực khách quan là một quá trình từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Với thái độ khách quan, khoa học và kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng, chúng ta tin tưởng rằng dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XIII, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục vận dụng sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất, làm cho phương thức sản xuất phát triển bền vững, xây dựng được nền kinh tế giàu mạnh, đất nước phồn vinh, cường thịnh; nhân dân ta có cuộc sống ấm no, văn minh và hạnh phúc./.</p><p></p><p> </p><p></p><p>nguồn: TS. Nguyễn Văn Hùng,</p><p>Hội đồng lý luận Trung ương</p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Hide Nguyễn, post: 195503, member: 6"] Khu vực kinh tế tập thể còn nhỏ bé, nhiều hợp tác xã trong nông nghiệp mang tính hình thức, chỉ làm khâu dịch vụ đầu vào và đầu ra của sản xuất, quỹ không chia trong hợp tác xã rất thấp, trình độ khoa học - công nghệ, quy mô và trình độ quản lý kinh tế yếu kém. Khu vực kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế, đóng góp nhiều vào tăng trưởng GDP và giải quyết việc làm cho người lao động. Song, các doanh nghiệp tư nhân chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa nên gặp nhiều bất lợi về cạnh tranh, nguồn vốn và cả bị phân biệt đối xử trong thực tế do cơ chế, chính sách. Tiềm năng của kinh tế tư nhân rất lớn nhưng chưa được tạo điều kiện để phát triển mạnh và đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là thành phần kinh tế quan trọng trong đóng góp vào tăng trưởng GDP, thu hút nguồn lao động. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tính đến 20/12/2019 bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt 38 tỷ USD, tăng 7,2 % so với năm 2018. Tuy nhiên, khu vực này cũng có những hạn chế như: đầu tư vào các lĩnh vực có công nghệ cao, công nghệ nguồn còn ít, phần lớn còn là công nghệ trung bình, thậm chí lạc hậu, gia công, lắp ráp, ít đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn là lĩnh vực có lợi nhuận kém hấp dẫn. Các doanh nghiệp FDI khai thác nguồn tài nguyên, thị trường, nhân lực rẻ tại Việt Nam để phục vụ cho mục tiêu lợi nhuận của họ, thậm chí có cả hiện tượng “chuyển giá”, hạch toán lỗ... nhằm trốn thuế, chuyển lợi nhuận ra nước ngoài( về công ty mẹ) vẫn còn xẩy ra. Những hạn chế, yếu kém trên đây của các thành phần kinh tế trong quan hệ sản xuất đã làm cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tình hình trên đây có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. Về khách quan, việc chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đa hình thức sở hữu, quản lý, phân phối, đa thành phần kinh tế là mô hình kinh tế chưa có tiền lệ trong lịch sử, chúng ta phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Về chủ quan, công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về kinh tế thị trường, về quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện một nước lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới, hội nhập... còn nhiều hạn chế, bất cập…. Nhận thức trên một số vấn đề thuộc chủ trương, quan điểm tuy đã được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng, song vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau trong thực tiễn, chẳng hạn(như: xác định thành phần kinh tế hay khu vực kinh tế, vấn đề kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, vấn đề sở hữu và sử dụng đất đai, vấn đề quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội, giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa...). Chính vì nhận thức còn khác nhau ở tầm quan điểm nên trong việc thực hiện nghị quyết, chính sách còn ngập ngừng, thiếu nhất quán, không kiên quyết, thiếu đồng bộ, làm hạn chế đến hiệu quả kinh tế. Hơn nữa, tư duy phát triển kinh tế - xã hội và phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm đổi mới; nhận thức trên nhiều vấn đề cụ thể còn thiếu thống nhất, thiếu tính hệ thống; khâu tổ chức thực hiện còn thiếu kiên quyết, quyết liệt, vẫn còn tình trạng dễ làm khó bỏ; quản lý, quản trị nhà nước còn nhiều yếu kém; chưa thể chế hóa kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng thành các chính sách, biện pháp có tính khả thi, hiệu quả. Đồng thời, có một số chủ trương chưa đủ rõ hoặc chưa phù hợp, chưa có sự thống nhất và thông suốt ở các cấp, các ngành, còn “ trên nóng, dưới lạnh”. Một số cán bộ, đảng viên, thậm chí là cán bộ cao cấp rơi vào suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, năng lực, phẩm chất và uy tín không đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới phát triển bền vững đất nước. 3. Đề xuất một số vấn đề đặt ra về nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong thời gian tới Một là, đẩy mạnh, nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Hai là, tiếp tục đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về sở hữu và các khu vực kinh tế, giải quyết những vấn đề còn vướng mắc, chưa rõ, ý kiến còn khác nhau, nhằm phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại, như vấn đề chế độ sở hữu và các hình thức sở hữu ở nước ta; vấn đề vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; vấn đề sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước; vai trò kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác; vai trò động lực phát triển của kinh tế tư nhân ở nước ta; vai trò kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; vấn đề kinh tế hỗn hợp, kinh tế cổ phần và các mối quan hệ kinh tế giữa các khu vực kinh tế của nền kinh tế nước ta trong quá trình phát triển bền vững đất nước. Ba là, tiếp tục đổi mới tư duy và quan điểm phát triển hài hòa cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, chính trị, văn hóa, xã hội. Xây dựng tư duy mới về mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về hội nhập, về phương thức phát triển kinh tế. Đẩy mạnh cải cách toàn diện thể chế nhằm huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực; thực hiện cơ chế thị trường và giải quyết hài hòa quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong phân phối các tư liệu sản xuất; bảo đảm bình đẳng thực sự giữa các khu vực kinh tế. Đẩy mạnh xã hội hóa các tổ chức trong cung ứng các dịch vụ công (giáo dục, y tế, khoa học - công nghệ…) và phúc lợi xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, cuộc sống của nhân dân. Bốn là, thực hiện đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện luật pháp và chính sách kinh tế- xã hội, để kiến tạo sự phát triển bền vững của đất nước. Xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, trọng dụng nhân tài, nhất là trong bộ máy quản lý, quản trị của nhà nước. Đổi mới thể chế nhằm tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật và chính sách; phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Xây dựng và hoàn thiện đồng bộ các loại thị trường, bảo đảm nguyên tắc thị trường trong sự vận hành nền kinh tế; hoàn thiện cơ chế vận hành các loại thị trường phù hợp với thực tiễn của đất nước và thông lệ quốc tế. Khẩn trương nghiên cứu và tổ chức thực hiện có hiệu quả Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam-EU(EVFTA) có hiệu lực từ ngày 1/8/2020, để mở cửa các thị trường dịch vụ, đầu tư, tài chính, thương mại điện tử, logistisc, hàng hoá nông sản, thuỷ sản, dệt may, da giày vv…cũng như thu hút làn sóng đầu tư chất lượng cao, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, góp phần quan trọng làm cho kinh tế của đất nước phát triển nhanh, bền vững với chất lượng, hiệu quả cao hơn. Năm là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực; tạo động lực phát triển; từng bước hoàn thiện chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; gắn kết chặt chẽ 3 trụ cột phát triển bền vững: kinh tế - xã hội - môi trường; vai trò văn hoá, xã hội, con người và đổi mới sáng tạo, công bằng, bình đẳng. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới, hoàn thiện chế độ phân phối, phúc lợi xã hội, cải cách chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động và nhân dân. *** Nhận thức hiện thực khách quan là một quá trình từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Với thái độ khách quan, khoa học và kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng, chúng ta tin tưởng rằng dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội XIII, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục vận dụng sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất, làm cho phương thức sản xuất phát triển bền vững, xây dựng được nền kinh tế giàu mạnh, đất nước phồn vinh, cường thịnh; nhân dân ta có cuộc sống ấm no, văn minh và hạnh phúc./. nguồn: TS. Nguyễn Văn Hùng, Hội đồng lý luận Trung ương [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Triết học Mác - Lê Nin
Giáo trình triết học Mác - Lê Nin
Top