Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
TÂM LÍ HỌC
Tâm lý học là gì ?
Giao tiếp - Khái niệm về Giao tiếp trong Tâm lý học
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Hide Nguyễn" data-source="post: 13780" data-attributes="member: 6"><p><strong>3. Đặc trưng cơ bản của giao tiếp</strong></p><p></p><p> Theo cuốn Tâm lý học đại cương - Trần Thị Minh Đức (chủ biên), giao tiếp có những đặc trưng cơ bản sau </p><p></p><p><em><u>3.1. Mang tính nhận thức</u></em></p><p></p><p>Cá nhân ý thức được mục đích giao tiếp, nhiệm vụ, nội dung của tiến trình giao tiếp, phương tiện giao tiếp; ngoài ra còn có thể hiểu đặc trưng được của giao tiếp là khả năng nhận thức và hiểu biết lẫn nhau của các chủ thể giao tiếp, nhờ đó tâm lý, ý thức con người không ngừng được phát triển. Nếu không giao tiếp với những người xung quanh, đứa trẻ không nhận thức được.</p><p></p><p><u><em>3.2. Trao đổi thông tin</em></u></p><p></p><p>Dù với bất kì mục đích nào, trong quá trình giao tiếp cũng xảy ra sự trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm, thế giới quan, nhân sinh quan. Nhờ đặc trưng này mà mỗi cá nhân tự hoàn thiện mình theo những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, của nghề nghiệp, của vị trí xã hội mà họ chiếm giữ. Cũng nhờ đặc trưng này, những phẩm chất tâm lý, hành vi ứng xử, thái độ biểu hiện của con người được nảy sinh và phát triển theo các mẫu hình “nhân cách” mà mỗi cá nhân mong muốn trở thành.</p><p></p><p>3.3. Giao tiếp là một quan hệ xã hội, mang tính chất xã hội. </p><p></p><p>Quan hệ xã hội chỉ được thực hiện thông qua giao tiếp người - người. Con người vừa là thành viên tích cực của các mối quan hệ xã hội vừa hoạt động tích cực cho sự tồn tại và phát triển của chính các quan hệ xã hội đó.</p><p></p><p><u><em>3.4. Giao tiếp giữa các cá nhân mang tính chất lịch sử phát triển xã hội.</em></u></p><p></p><p> Giao tiếp bao giờ cũng được cá nhân thực hiện với nội dung cụ thể, trong khung cảnh không gian và thời gian nhất định.</p><p></p><p><u><em>3.5. Sự kế thừa chọn lọc</em></u></p><p></p><p>Giao tiếp bản thân nó chứa đựng sự kế thừa, sự chọn lọc, tiếp tục sáng tạo những giá trị tinh thần, vật chất thông qua các phương tiện giao tiếp nhằm lưu giữ, gìn giữ những dấu ấn về tư tưởng, tình cảm, vốn sống kinh nghiệm của con người. Giao tiếp được phát triển liên tục không ngừng đối với cá nhân, nhóm xã hội, dân tộc, cộng đồng tạo thành nền văn hoá, văn minh của các thời đại.</p><p> </p><p>Trong cuốn Tâm lý học xã hội, giao tiếp còn có những đặc trưng cơ bản khác như:</p><p></p><p><u><em>3.6. Tính chủ thể trong quá trình giao tiếp </em></u></p><p></p><p>Quá trình giao tiếp được thực hiện bởi các cá nhân cụ thể: một người hoặc nhiều người. Các cá nhân trong giao tiếp là các cặp chủ thể - đối tượng luôn đổi chỗ cho nhau, cùng chịu sự chi phối và tác động lẫn nhau tạo thành “các chủ thể giao tiếp”. Mức độ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các chủ thể giao tiếp và hiệu quả giao tiếp phụ thuộc rất nhiều vào các đặc điểm cá nhân của chủ thể như vị trí xã hội, vai trò xã hội, tính cách, uy tín, giới tính, tuổi tác…cũng như các mối quan hệ và tương quan giữa họ.</p><p></p><p><u><em>3.7. Sự lan truyền, lây lan các cảm xúc, tâm trạng.</em></u></p><p></p><p> Sự biểu cảm thể hiện đầu tiên bằng nét mặt có ý nghĩa tiến hoá sinh học cũng như ý nghĩa tâm lý - xã hội, nó phản ánh khả năng đồng cảm, ảnh hưởng lẫn nhau của con người. Sự chuyển toả các trạng thái cảm xúc này hay khác không thể nằm ngoài khuôn khổ của giao tiếp xã hội.</p><p></p><p><strong>4. Chức năng của giao tiếp</strong></p><p></p><p> Các Mác khẳng định sự thống nhất của tiếng nói, ý thức và giao tiếp: ý thức cũng như tiếng nói xuất hiện từ sự cần thiết của giao tiếp.</p><p></p><p> Giao tiếp có một ý nghĩa hết sức lớn lao đối với đời sống con người. Nhu cầu liên quan tới một số lượng lớn những nhu cầu cơ bản của con người bởi vì giao tiếp là điều kiện cần thiết cho sự phát triển bình thường của con người với tư cách là một thành viên của xã hội, một nhân cách . R.Noibe - một nhà khoa học người Đức đã viết “Căm thù người khác còn hơn phải sống cô độc”. Sự giao tiếp không đầy đủ về số lượng , nghèo nàn về nội dung của trẻ nhỏ đối với người lớn đã dẫn đến hậu quả nặng nề là bệnh Hospitalism mặc dù được nuôi dưỡng tốt, trẻ lớn lên trong điều kiện “đói giao tiếp đều bị trì trệ trong sự phát triển tâm lý cũng như thể chất. Vì vậy, giao tiếp đối với người khác là một nhu cầu thiết yếu của con người.</p><p></p><p> Có rất nhiều cách phân chia và nhiều quan điểm khác nhau về chức năng của giao tiếp.</p><p></p><p><u><em>4.1. Theo tác giả Trần Hiệp, chức năng cơ bản của giao tiếp bao gồm:</em></u></p><p></p><p>- Chức năng thông tin liên lạc</p><p></p><p>Chức năng này bao quát tất cả các quá trình truyền và nhận thông tin. Với tư cách là một quá trình truyền tín hiệu, chức năng này có cả ở người và động vật. Tuy nhiên, con người khác con vật ở chỗ có hệ thống tín hiệu thứ hai, quá trình truyền tin được phát huy đến tối đa tác dụng của nó và kết quả là con người có khả năng truyền đi bất cứ thông tin, tín hiệu gì mình muốn. Chức năng ngày thể hiện ở cả chủ thể giao tiếp và đối tượng giao tiếp, nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó như nhu cầu truyền tin, nhu cầu tình cảm, nhu cầu tiếp xúc, giải trí… . Nhưng cũng chính vì con người có hệ thống tín hiệu thứ hai, có ý thức, có trí tuệ phát triển hơn so với các động vật khác mà hiệu quả của quá trình này có thể được tăng lên hay giảm đi.</p><p></p><p>- Chức năng điều chỉnh điều khiển hành vi.</p><p></p><p> Thông qua giao tiếp, cá nhân không chỉ có khả năng điều chỉnh hành vi của mình mà còn có thể điều chỉnh hành vi của người khác. Chức năng này chỉ có ở người với sự tham gia của quá trình nhận thức, của ý chí và tình cảm. Khi tiếp xúc, trao đổi thông tin với nhau, các chủ thể giao tiếp đã hoặc đang ý thức được mục đích, nội dung giao tiếp, thậm chí còn có thể dự đoán được kết quả đạt được sau quá trình giao tiếp. Nhằm đạt được mục đích mong muốn, các chủ thể thường linh hoạt tuỳ theo tình huống thời cơ mà lựa chọn, thay đổi cách thức hoặc phương hướng, phương tiện giao tiếp sao cho phù hợp. Chức năng này thể hiện khả năng thích nghi lẫn nhau của các chủ thể giao tiếp, ngoài ra nó còn thể hiện tính mềm dẻo, linh hoạt của các phẩm chất tâm lý cá nhân trong giao tiếp. Hơn thế nữa, chức năng này còn thể hiện vai trò tích cực của các chủ thể giao tiếp trong quá trình giao tiếp, điều này chỉ có được trong giao tiếp xã hội5.</p><p></p><p>- Chức năng kích động liên lạc </p><p></p><p> Chức năng này có liên quan đến lĩnh vực cảm xúc của con người. Trong quá trình giao tiếp, không chỉ xảy ra các quá trình truyền tin hay các tác động điều chỉnh, mà còn xuất hiện các trạng thái cảm xúc của những người tham gia. Qua quan sát thực tế cuộc sống, ta thấy giao tiếp thường nảy sinh trong chính những thời điểm mà người ta muốn thay đổi trạng thái cảm xúc của mình. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có tác dụng rất lớn đối với chức năng này.</p><p></p><p> Ngoài cách phân chia chức năng của giao tiếp như trên, người ta có thể phân chia chức năng của giao tiếp thành: tổ chức hoạt động chung, nhận thức giữa người với người, hình thành và phát triển quan hệ liên nhân cách. </p><p></p><p> Cả hai kiểu phân loại chức năng giao tiếp trên không loại trừ lẫn nhau, mà chúng chứng tỏ rằng giao tiếp cần được nghiên cứu như một quá trình nhiều mặt đặc trưng bởi tính năng động cao và đa chức năng, tức là việc nghiên cứu giao tiếp đặt ra việc sử dụng các phương pháp phân tích hệ thống.</p><p></p><p><u><em>4.2. Theo GS.TS.Phạm Minh Hạc, chức năng giao tiếp được phân chia thành hai nhóm.</em></u></p><p> </p><p>- Nhóm các chức năng thuần tuý xã hội bao gồm các chức năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu chung của xã hội hay của một nhóm, các tập thể, các tổ chức tạo thành xã hội.</p><p></p><p> - Nhóm các chức năng tâm lý - xã hội là các chức năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu của từng thành viên xã hội với người khác. Tránh cho người khác rơi vào tình trạng cô đơn, một trạng thái nặng nề khủng khiếp, nhiều khi dẫn đến bệnh tật hoặc sự tự sát.</p><p></p><p><u><em>4.3. Theo B.Ph.Lômôv và A.A.Bôđaliôv thì giao tiếp có ba chức năng:</em></u></p><p></p><p> - Chức năng thông tin.</p><p></p><p> - Chức năng điều khiển, điều chỉnh.</p><p></p><p> - Chức năng đánh giá thái độ giao tiếp.</p><p></p><p><u><em>4.4. Theo Ngô Công Hoàn nếu coi giao tiếp là một phạm trù của Tâm lý học hiện đại thì bản thân quá trình giao tiếp thực hiện các chức năng:</em></u></p><p></p><p> - Chức năng định hướnghoạt động của con người.</p><p></p><p> - Chức năng điều chỉnh, điều khiển hành vi của con người.</p><p></p><p> Các quan điểm trên xuất phát từ những quan điểm khác nhau, những hướng nghiên cứu khác nhau nên cũng có những điểm khác nhau. Song tựu trung lại các quan điểm trên đều đã nêu ra được các chức năng cơ bản của giao tiếp theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau.</p><p></p><p><strong>5. Phân loại giao tiếp</strong></p><p></p><p> Từ mỗi hướng nghiên cứu giao tiếp khác nhau, người ta có những cách phân loại giao tiếp khác nhau. </p><p></p><p><u><em>5.1. Theo PGS.TS Trần Thị Minh Đức</em></u></p><p></p><p>Giao tiếp được phân chia như sau</p><p></p><p>5.1.1. Căn cứ vào tính chất trực tiếp hay gián tiếp của quá trình giao tiếp</p><p> - Giao tiếp trực tiếp: Là sự tiếp xúc, trao đổi giữa các chủ thể giao tiếp, được thực hiện trong cùng một khoảng không gian và thời gian nhất định - giao tiếp trực tiếp còn gọi là đàm thoại. Có hai hình thức đàm thoại</p><p> </p><p> + Đối thoại: Là loại giao tiếp có tính chất trò chuyện, trao đổi của hai phía chủ thể và đối tượng. Trong đối thoại luôn có sự thay đổi vị trí người nói, nhờ đó hai bên hiểu được đối tượng của mình, kịp thời điều chỉnh hành vi, cử chỉ, cách nói cho phù hợp. Đối thoại thể hiện qua các hình thức như trò chuyện, phỏng vấn, bàn luận…</p><p> </p><p> + Độc thoại: Là loại giao tiếp trong đó chỉ có người nói, mà không có sự đáp lại của các đối tượng trong giao tiếp như diễn thuyết, nghe giảng. Độc thoại đòi hỏi người nói phải có trình độ hiểu biết về vấn đề trình bầy, phải có khả năng biểu cảm tốt và phải nắm vững các yếu tố làm nên hiệu quả của giao tiếp.</p><p></p><p> - Giao tiếp gián tiếp: Là giao tiếp được thực hiện qua các phương tiện trung gian như điện thoại, thư tín, sách báo, tivi…Ưu điểm của giao tiếp gián tiếp là tính nhanh chóng, thuận lợi hơn so với giao tiếp trực tiếp. Tuy vậy nó có một số hạn chế như phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, kém sinh động, kém hiệu quả hơn. Trong loại giao tiếp này, hình thức giao tiếp phi ngôn ngữ không đóng vai trò quan trọng.</p><p></p><p>5.1.2. Căn cứ vào mục đích giao tiếp</p><p></p><p>- Giao tiếp chính thức: Là giao tiếp giữa các cá nhân đại diện cho nhóm, hoặc giữa các nhóm mang tính hình thức, được thực hiện theo các lễ nghi nhất định, được quy định bởi các nhóm chuẩn mực xã hội hoặc pháp luật. Trong giao tiếp chính thức, nội dung thông báo rõ ràng, khúc triết, ngôn ngữ đóng vai trò chủ đạo, thể hiện ở hình thức hội họp, bàn luận, ký kết…Giao tiếp chính thức nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể, mang tính thiết thực. Ví dụ các cuộc thăm viếng chính thức của những nguyên thủ Quốc gia, cuộc họp chính thức của hội đồng quản trị một công ty…</p><p></p><p>- Giao tiếp không chính thức: Là giao tiếp không mang tính hình thức, không có sự quy định về lễ nghi. Các hình thức giao tiếp cũng như cách phục trang, địa điểm, hoàn cảnh giao tiếp…thường không bị lệ thuộc, không gò bó. Đó là giao tiếp giữa các cá nhân hoặc nhóm mang tính chất cá nhân, không đại diện cho ai hay tổ chức, nhóm nào cả. Mục đích giao tiếp thường nhằm làm thoả mãn nhu cầu tiếp xúc, giải trí… nên bầu không khí giao tiếp mang tính chất thân mật, gần gũi, hiểu biết lẫn nhau.</p><p></p><p>5.1.3. Căn cứ vào đối tượng giao tiếp</p><p></p><p>5.1.3.1. Phân loại theo số lượng người tham gia</p><p> </p><p>- Giao tiếp song đôi: chủ thể và đối tượng giao tiếp là hai cá nhân tiếp xúc với nhau. Đây là hình thức giao tiếp cơ bản, có đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người (trẻ với mẹ) và phổ biến nhất. Khi mang tính chất công việc, thường dĩên ra nhanh gọn và dễ đạt hiệu quả cao, nghi thức đơn giản, gần gũi với các đối tượng tham gia, tiện lợi trong mọi hoàn cảnh và địa điểm.</p><p> </p><p> - Giao tiếp nhóm: là giao tiếp giữa cá nhân với nhóm hoặc giữa các thành viên trong và ngoài nhóm với nhau. Đây là kiểu giao tiếp “đại trà”, thường nhằm giải quyết các vấn đề có liên quan đến nhiều người, nội dung giao tiếp không bí mật và mất thời gian. Trong giao tiếp nhóm,vai trò chính vẫn thuộc về một hoặc vài người là đại diện nên thường không đòi hỏi mọi người phải tham gia đầy đủ, trừ khi cần thiết.</p><p></p><p>5.1.3.2. Phân loại theo tính chất nghề nghiệp</p><p> </p><p> Mỗi nghề nghiệp quy định một hình thức giao tiếp khác nhau. Cách thức giao tiếp này thường chỉ xuất hiện ở những người đã có sự ổn định về tính cách, có năng lực nhận thức, hiểu biết nhất định đặc biệt trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Trong giao tiếp theo tính chất nghề nghiệp, các đặc điểm nghề nghiệp gần như bao trùm lên phong cách ứng xử của các chủ thể giao tiếp; nó quy định tích cách, cách biểu hiện ngôn ngữ, cách biểu hiện nét mặt, cử chỉ, giọng điệu, tư thế… cũng như quy định tính chất, nội dung của thông tin. Vì thế qua giao tiếp ta có thể nhận ra được nghề nghiệp của người cùng tham gia giao tiếp, là một nhà giáo, hay một nhà buôn, hay một bác sỹ…<u><em></em></u></p><p><u><em></em></u></p><p><u><em>5.2. Trong tâm lý học xã hội</em></u></p><p></p><p>Giao tiếp được chia ra làm ba loại</p><p></p><p>5.2.1. Giao tiếp định hướng xã hội: </p><p></p><p>Chủ thể giao tiếp với tư cách đại diện cho xã hội, cộng đồng người. Giao tiếp nhằm truyền tin, thuyết phục hoặc kích thích đối tượng giao tiếp hoạt động. Ví dụ như những báo cáo, bài giảng về các chính sách, đường lối đối nội, đối ngoại của một chế độ xã hội.</p><p></p><p>5.2.2. Giao tiếp định hướng - nhóm:</p><p> </p><p>Chủ thể giao tiếp không đại diện quyền lợi của một nhóm xã hội nhằm giải quyết những vấn đề trong nhóm đặt ra trong học tập, sản xuất, kinh doanh, chiến đấu.</p><p></p><p>5.2.3. Giao tiếp định hướng - cá nhân:</p><p></p><p> Chủ thể giao tiếp không đại diện quyền lợi cho nhóm xã hội nào cả, mà hoàn toàn vì mục đích cá nhân xuất phát từ động cơ, nhu cầu, hứng thú, sở thích…của cá nhân.</p><p>Mặc dù giao tiếp theo cách nào thì các loại giao tiếp nói trên luôn tác động qua lại, bổ sung cho nhau, làm cho mối quan hệ giao tiếp của con người vô cùng phong phú đa dạng.</p><p></p><p><strong>6. Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giao tiếp. </strong></p><p> </p><p> Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến giao tiếp.</p><p><u><em></em></u></p><p><u><em>6.1. Theo B.s Nguyễn Khắc Viện</em></u></p><p></p><p> Giữa bên phát tín hiệu và bên nhận tín hiệu có khi không thể trao đổi, và thường là dễ hiểu lầm nhau, do khác nhau về tuổi tác, về nghề nghiệp, lối sống, trình độ kinh tế văn hoá…Có thể hiểu như sau:</p><p> </p><p> + Người phát nói không rõ ý của mình.</p><p> </p><p> + Cùng một nội dung được hai bên hiểu khác nhau.</p><p></p><p> + Do lễ nghi, cấm kỵ, có những điều được phép nói ra,hay không được phép nói ra, làm cho người phát và người nghe có thể không phát ra hay không tiếp nhận.</p><p> </p><p> + Do cương vị của hai bên trong một tổ chức, có trên có dưới; cấp trên thường nghĩ rằng mình rộng rãi với cấp dưới, nhắc đi nhắc lại cấp dưới có thể nói thẳng nói thật, nhưng ít khi cấp dưới nghĩ như vậy.</p><p> </p><p> + Lựa chọn không đúng kênh</p><p> </p><p> + Hình tượng của người tiếp nhận trong tâm trí của người phát, cần có tín hiệu hai chiều. Người phát tiếp nhận phản ứng của người nghe để điều chỉnh ứng xử của mình. Tóm lại, chính người phát phải thoát khỏi chủ quan, cố gắng thích ứng với người nghe.</p><p><u><em></em></u></p><p><u><em>6.2. Theo Laswell - nhà nghiên cứu đầu tiên về truyền thông</em></u></p><p> </p><p> Với cách hiểu truyền thông cũng là một dạng giao tiếp, trong đó có những phương tiện quy mô lớn như báo chí, đài, tivi…) hay giao tiếp là là một dạng truyền thông, trong đó nguồn phát và nguồn thu đều là con người, Laswell đã đưa ra các yếu tố cần quan tâm khi truyền đạt để truyền thông có hiệu quả:</p><p> </p><p> + Chủ thể giao tiếp ảnh hưởng tới hiệu quả giao tiếp không chỉ bởi những hiểu biết của anh ta mà còn chính bởi anh ta là người như thế nào. Nếu anh ta có hình ảnh tốt về bản thân, cởi mở, làm chủ được cảm xúc và các phản ứng của mình, biết rõ động cơ giao tiếp của mình… thì sẽ có nhiều thuận lợi để tiến hành một cuộc giao tiếp thành công và ngược lại.</p><p> </p><p> + Nội dung giao tiếp cần phải được xác định từ trước trên cơ sở những mục tiêu cụ thể mà chủ thể muốn đạt được sau quá trình giao tiếp.</p><p> </p><p> + Đối tượng giao tiếp sẽ tiếp nhận thông tin qua lăng kính chủ quan riêng của họ. Để giao tiếp thành công cần phải tìm hiểu về đối tượng mà chủ thể giao tiếp muốn tiến hành giao tiếp từ trước khi giao tiếp xảy ra và cả trong quá trình giao tiếp thông qua việc quan sát đối tượng, nắm bắt sự đáp ứng của họ và điều chỉnh kịp thời cho phù hợp. Bên cạnh đó kết quả giao tiếp sẽ tốt hơn nếu bạn xác định được đúng đối tượng, đúng nội dung, đúng mức độ, phạm vi thông tin sẽ truyền đạt, đúng thời điểm, đúng nơi đúng chỗ…</p><p> </p><p>+ Phương tiện truyền thông và kênh thông tin được sử dụng cần phải phù hợp thì cuộc giao tiếp mới thành công, nếu không phù hợp sẽ dẫn tới thất bại hoặc giảm hiệu quả.</p><p></p><p>+ Trước khi tiến hành giao tiếp cần xem xét đến hiệu quả sẽ đạt được sau đó để không lãng phí thời gian, tiền của và công sức, đặc biệt đối với truyền thông. </p><p>Muốn đạt hiệu quả cao nhất như mong muốn, cần trả lời cặn kẽ các câu hỏi nêu trên và kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố thì sẽ có điều kiện thành công.</p><p></p><p>- Sự phản hồi. Đối với cá nhân phản hồi một cách trung thực sẽ giúp chúng ta sống thoải mái vì nếu để bụng khi không thể chịu đựng được nữa dễ dẫn đến chia rẽ, bất hợp tác, giao tiếp thất bại. Nhưng cũng cần lưu ý đến cách phản hồi vì đó là cả một nghệ thuật, nếu không khéo cũng sẽ làm cho giao tiếp gặp khó khăn hay thất bại.</p><p></p><p>- Nghệ thuật lắng nghe. Để thành công trong giao tiếp, ngoài việc luyện khả năng trình bày diễn đạt chúng ta còn rất biết lắng nghe. Biết lắng nghe sẽ giúp chúng ta phản hồi được một cách trung thực những gì người kia nói và hiểu chúng ta. Lắng nghe không hề dễ, cần phải luyện tập mới có được khả năng này, nhưng nếu đã thực hiện được thì gần như bạn đã nắm được phần nhiều thành công trong giao tiếp.</p><p></p><p><strong>7. Các phương tiện giao tiếp</strong></p><p></p><p> Giao tiếp là một quá trình xã hội thường xuyên bao gồm các ứng xử rất đa dạng và phong phú, thể hiện qua ngôn ngữ nói và viết: qua nét mặt, cử chỉ, tư thế, giọng nói, trang phục, cách sử dụng không gian trong giao tiếp… Đó là một hệ thống toàn vẹn, không có sự tách rời giữa biểu hiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ trong giao tiếp. </p><p></p><p> Các phương tiện giao tiếp là cách thức để biến những mục đích giao tiếp thành hiện thực trong thực tế.</p><p></p><p><u><em>7.1. Giao tiếp ngôn ngữ</em></u></p><p></p><p> Giao tiếp ngôn ngữ là sự giao tiếp được tiến hành thông qua hệ thống tín hiệu thứ hai: lời nói và chữ viết. </p><p></p><p> Đây là hình thức giao tiếp đặc trưng cơ bản nhất trong hệ thống giao tiếp xã hội bởi nó có những chức năng: chức năng thông báo, chức năng diễn cảm và chức năng tác động.</p><p></p><p> Giao tiếp ngôn ngữ có thể được biểu hiện qua nhiều hình thức. Trong giao tiếp, tuỳ vào đối tượng, mục đích, hoàn cảnh… mà người ta sử dụng các hình thức biểu đạt ngôn ngữ khác nhau. Theo như cách chia của trường phái Palo Alto thì có giao tiếp chỉ định và giao tiếp loại suy, hay bác sỹ Nguyễn Khắc Viện thì lại gọi là giao tiếp nói chỉ (chỉ định) và giao tiếp nói ví (loại suy). Trong tiếng Việt, tương ứng với các cách gọi như trên ta còn có thể gọi là hiển ngôn (nói chỉ) hay hàm ngôn (nói ví).</p><p></p><p> - Kiểu chỉ nói theo những quy ước rõ ràng ngôn ngữ nói hay viết với từ vựng, nghữ nghĩa nhất định. Ngôn ngữ toán học, vi tính, chữ người mù thuộc kiểu này.</p><p></p><p> - Kiểu ví vận dụng giọng nói, tư thế, cử chỉ tức những kênh cận ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ diễn tả tình cảm, và những yếu tố chủ quan, quan hệ cảm xúc giữa hai bên đối thoại. Ở đây không có những chỉ báo nói rõ mạch lạc, khung cảnh, bối cảnh.</p><p></p><p>=> Giữa hai kiểu này có thể ăn khớp hay không và mọi sự giao tiếp đều diễn ra trong một bối cảnh nhất định</p><p></p><p> - Ngôn ngữ tình thái nhằm phản ánh khía cạnh tâm lý, xã hội của chủ thể, giúp cho đối tượng hiểu được tốt hơn ý nghĩa của nội dung thông tin. Ngôn ngữ tình thái phản ánh thái độ của người nói đối với thông tin mình nói ra, cách người đó đánh giá tính hiện thực hay không hiện thực, mức độ của tính xác thực, tính tất yếu, tính khả năng, tính chất mong muốn hay đáng tiếc của điều thông báo. </p><p></p><p> Muốn hiểu được khía cạnh tâm lý xã hội của ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp, ngoài các quy tắc sử dụng ngôn ngữ của mỗi dân tộc, đối tượng giao tiếp còn phải tìm hiểu cách diễn đạt ngôn ngữ của mỗi cộng đồng, mỗi nền văn hoá thông qua những thoả thuận ngầm về các quy tắc ứng xử của các cộng đồng hay nền văn hoá đó.</p><p></p><p> Việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp còn phụ thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp, chủ thể và đối tượng giao tiếp cũng như mối quan hệ giữa họ.</p><p></p><p> Tin đồn là một phương thức giao tiếp ngôn ngữ phổ biến trong đời sống hàng ngày và trong các tổ chức xã hội. Khi thông tin được truyền miệng từ người này sang người khác, các chi tiết bị quên lãng hoặc bị nhớ thiếu chính xác, các ngôn ngữ bị thay thế khi kể truyền tiếp, nội dung và cách hiểu câu chuyện phụ thuộc nhiều vào đặc điểm cá nhân mỗi người… vì thế tin đồn thường bị méo mó sai lệch, thiếu chính xác.</p><p></p><p> Qua việc phân tích như trên, ta nhận thấy trong giao tiếp ngôn ngữ gặp phải một số hạn chế do cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.</p><p></p><p> - Chủ quan</p><p></p><p> + Giữa các chủ thể và đối tượng giao tiếp đã không thể tạo ra được điểm tương đồng do không xác định được những chuẩn mực ứng xử cá nhân hoặc do những ức chế tích dồn ở các cá nhân trong quá trình giao tiếp. Kết thúc dễ dẫn đến va chạm, xung đột.</p><p></p><p> + Qúa trình giao tiếp phân chia làm hai cực, mỗi bên - chủ thể và đối tượng giao tiếp - bảo vệ ý kiến riêng của mình, không có sự chấp nhận, dung hoà…Kết cục là không đem lại kết quả như mỗi bên mong muốn.</p><p> + Khi một bên đối thoại có những biểu hiện nổi loạn tâm lý, tư duy “không bình thường”. </p><p></p><p> - Khách quan</p><p></p><p> + Do sự khác nhau về phong tục tập quán, ngôn ngữ, trình độ phát triển về văn hoá - xã hội ở các địa phương, các dân tộc và các quốc gia khác nhau</p><p> + Môi trường giao tiếp: Tiếng ồn, nhiệt độ …</p><p></p><p>7.2. Giao tiếp phi ngôn ngữ</p><p></p><p> Giao tiếp phi ngôn ngữ được thể hiện thông qua sự vận động của cơ thể như cử chỉ, tư thế, nét mặt; thông qua cách trang phục hoặc tạo ra khoảng không gian nhất định khi tiếp xúc. </p><p></p><p> Giao tiếp phi ngôn ngữ ra đời trước giao tiếp ngôn ngữ, có cội nguồn sinh học dựa trên cơ sở hành vi bản năng gắn liền với quá trình tiến hoá, di truyền từ thế giới động vật. Trong giao tiếp phi ngôn ngữ, không phải lúc nào cũng có sự tham gi của ý thức, vì thế nên qua hình thức giao tiếp này người ta thường bộc lộ chân thật các cảm nghĩ, thái độ, ý kiến… của mình, tuy nhiên lại không dễ hiểu được chúng. Đây là kiểu giao tiếp được thể hiện thông qua sự vận động của cơ thể như cử chỉ, tư thế, nét mặt, giọng nói; thông qua sự vận động của cơ thể như cử chỉ, tư thế, nét mặt, giọng nói. Thông qua cách trang phục hoặc tạo ra khoảng không gian nhất định khi tiếp xúc.</p><p> Giao tiếp phi ngôn ngữ có hai chức năng cơ bản đó là:</p><p></p><p> - Chức năng biểu hiện trạng thái cảm xúc nhất thời: thông qua nét mặt, điệu bộ, giọng nói… chủ thể giao tiếp biểu hiện các tâm tư, sắc thái trạng thái cảm xúc khác nhau, các trạng thái cảm xúc này lan truyền sang đối tượng giao tiếp, làm ảnh hưởng rất lớn đến đối tượng giao tiếp.</p><p></p><p> - Chức năng biểu hiện các đặc trưng cá nhân: Thông qua “ngôn ngữ cơ thể” như cử chỉ, ánh mắt, giọng nói, điệu bộ, trang phục…một cách vô tình hay hữu ý, chủ thể giao tiếp nhận biết được đối tượng giao tiếp của mình là ai, tính cách như thế nào, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội…của họ ra sao.</p><p></p><p> Giao tiếp phi ngôn ngữ được phân thành hai loại: có chủ định và không chủ định. </p><p></p><p> - Giao tiếp không chủ định: Là những biểu hiện mang tính bản năng của các hành vi, tư thế, nét mặt…xuất hiện theo phản xạ, tự động; diễn ra không có sự kiểm soát của ý thức. Đó là những biểu hiện của hành vi vô thức. Giao tiếp phi ngôn ngữ không chủ định thường xuất hiện ở trẻ em, những người văn hoá thấp…</p><p></p><p> - Giao tiếp phi ngôn ngữ có chủ định: Đó là những biểu hiện của các hành vi, cử chỉ, các biểu cảm nét mặt có ý thức, có mục đích với sự cố gắng của ý chí. Giao tiếp phi ngôn ngữ có chủ định thường diễn ra ở những người có trình độ văn hoá cao, những người cao tuổi giàu kinh nghiệm…</p><p></p><p> Các kênh của giao tiếp phi ngôn ngữ gồm có: tư thế, giọng nói, âm thanh…Tất cả các yếu tố này đều có ảnh hưởng lớn trong quá trình giao tiếp.</p><p></p><p> Như vậy, nếu chúng ta biết cách quan sát kỹ lưỡng, học được một số kỹ năng sử dụng hiệu quả cử động cơ thể cũng như không gian… thì hiệu quả giao tiếp sẽ được nâng lên rất nhiều. Qua giao tiếp phi ngôn ngữ, chúng ta hoàn toàn có thể nhận ra được tính cách, tâm trạng hay vị trí xã hội của một người dù ta mới tiếp xúc lần đầu. Giao tiếp phi ngôn ngữ đã và đang được sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học thuộc nhiều trường phái tâm lý hội trên thế giới. </p><p></p><p><strong>KẾT LUẬN</strong></p><p></p><p> Giao tiếp là một hình thức hoạt động của con người. Thông qua giao tiếp, những mối quan hệ giữa con người được kiến tạo. Sự hiểu biết và nắm những quy luật của giao tiếp góp phần làm tăng hiệu quả lao động và điều chỉnh các quan hệ xã hội. </p><p> Giao tiếp xã hội là một chủ đề thu hút được sự quan tâm của mọi người trong xã hội, đặc biệt là của các nhà Tâm lý học. Có biết bao quyển sách dạy về ứng xử, giao thiệp xã hội, đắc nhân tâm, bí quyết thành công trong ứng xử, bí quyết thành công trong giao tiếp kinh doanh, ngôn ngữ cơ thể…Tuy nhiên các nhà nghiên cứu vẫn luôn khẳng định với chúng ta rằng, để đạt được hiệu quả cao trong giao tiếp không hề dễ dàng. Hiểu biết những vấn đề chung về giao tiếp xã hội là cần thiết song chưa đủ. Bạn đừng hy vọng sau khi đọc xong một cuốn sách nào đó dạy về nghệ thuật ứng xử xã hội mà sau đó có thể luôn thành công trong mọi cuộc giao tiếp. Một cuộc giao bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, biệt là các yếu tố chủ quan từ cả hai phía tiến hành giao tiếp. Quan trọng hơn cả là chúng ta đã dành cho vấn đề này một sự quan tâm tìm hiểu đúng mức hay chưa và luôn cố gắng hoàn thiện tri thức cũng như nhân cách của mình. Đó chính là bí quyết tốt nhất giúp bạn thành công trong giao tiếp, ứng xử xã hội, qua đó có cơ hội để phát triển hài hoà hơn nữa về mọi mặt.</p><p></p><p></p><p><strong>TÀI LIỆU THAM KHẢO</strong></p><p></p><p>1. Trần Thị Minh Đức (chủ biên) , <strong>Tâm lý học xã hội,</strong> Nxb Đại học Quốc gia, 1994</p><p>2. Trần Thị Minh Đức (chủ biên), <strong>Tâm lý học Đại cương</strong></p><p>3. Vũ Dũng, <strong>Từ điển Tâm lý học</strong></p><p>4. Fischer, <strong>Những khái niệm cơ bản của Tâm lý học xã hội</strong>, người dịch Huyền Giang, Nxb Thế giới</p><p>5. Trần Hiệp (chủ biên), <strong>Những vấn đề tâm lý học xã hội</strong>, Nxb khoa học xã hội,1996.</p><p>6. Nguyễn Thị Oanh, <strong>Tâm lý học truyền thông và giao tiếp</strong>, Nxb phụ nữ, 1995</p><p>7. Nguyễn Khắc Viện, <strong>Từ điển Tâm lý học</strong></p><p><strong></strong></p><p><strong></strong></p><p><strong>Nguồn :tamlyhoc.net</strong></p><p><strong></strong></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Hide Nguyễn, post: 13780, member: 6"] [B]3. Đặc trưng cơ bản của giao tiếp[/B] Theo cuốn Tâm lý học đại cương - Trần Thị Minh Đức (chủ biên), giao tiếp có những đặc trưng cơ bản sau [I][U]3.1. Mang tính nhận thức[/U][/I] Cá nhân ý thức được mục đích giao tiếp, nhiệm vụ, nội dung của tiến trình giao tiếp, phương tiện giao tiếp; ngoài ra còn có thể hiểu đặc trưng được của giao tiếp là khả năng nhận thức và hiểu biết lẫn nhau của các chủ thể giao tiếp, nhờ đó tâm lý, ý thức con người không ngừng được phát triển. Nếu không giao tiếp với những người xung quanh, đứa trẻ không nhận thức được. [U][I]3.2. Trao đổi thông tin[/I][/U] Dù với bất kì mục đích nào, trong quá trình giao tiếp cũng xảy ra sự trao đổi thông tin, tư tưởng, tình cảm, thế giới quan, nhân sinh quan. Nhờ đặc trưng này mà mỗi cá nhân tự hoàn thiện mình theo những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội, của nghề nghiệp, của vị trí xã hội mà họ chiếm giữ. Cũng nhờ đặc trưng này, những phẩm chất tâm lý, hành vi ứng xử, thái độ biểu hiện của con người được nảy sinh và phát triển theo các mẫu hình “nhân cách” mà mỗi cá nhân mong muốn trở thành. 3.3. Giao tiếp là một quan hệ xã hội, mang tính chất xã hội. Quan hệ xã hội chỉ được thực hiện thông qua giao tiếp người - người. Con người vừa là thành viên tích cực của các mối quan hệ xã hội vừa hoạt động tích cực cho sự tồn tại và phát triển của chính các quan hệ xã hội đó. [U][I]3.4. Giao tiếp giữa các cá nhân mang tính chất lịch sử phát triển xã hội.[/I][/U] Giao tiếp bao giờ cũng được cá nhân thực hiện với nội dung cụ thể, trong khung cảnh không gian và thời gian nhất định. [U][I]3.5. Sự kế thừa chọn lọc[/I][/U] Giao tiếp bản thân nó chứa đựng sự kế thừa, sự chọn lọc, tiếp tục sáng tạo những giá trị tinh thần, vật chất thông qua các phương tiện giao tiếp nhằm lưu giữ, gìn giữ những dấu ấn về tư tưởng, tình cảm, vốn sống kinh nghiệm của con người. Giao tiếp được phát triển liên tục không ngừng đối với cá nhân, nhóm xã hội, dân tộc, cộng đồng tạo thành nền văn hoá, văn minh của các thời đại. Trong cuốn Tâm lý học xã hội, giao tiếp còn có những đặc trưng cơ bản khác như: [U][I]3.6. Tính chủ thể trong quá trình giao tiếp [/I][/U] Quá trình giao tiếp được thực hiện bởi các cá nhân cụ thể: một người hoặc nhiều người. Các cá nhân trong giao tiếp là các cặp chủ thể - đối tượng luôn đổi chỗ cho nhau, cùng chịu sự chi phối và tác động lẫn nhau tạo thành “các chủ thể giao tiếp”. Mức độ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các chủ thể giao tiếp và hiệu quả giao tiếp phụ thuộc rất nhiều vào các đặc điểm cá nhân của chủ thể như vị trí xã hội, vai trò xã hội, tính cách, uy tín, giới tính, tuổi tác…cũng như các mối quan hệ và tương quan giữa họ. [U][I]3.7. Sự lan truyền, lây lan các cảm xúc, tâm trạng.[/I][/U] Sự biểu cảm thể hiện đầu tiên bằng nét mặt có ý nghĩa tiến hoá sinh học cũng như ý nghĩa tâm lý - xã hội, nó phản ánh khả năng đồng cảm, ảnh hưởng lẫn nhau của con người. Sự chuyển toả các trạng thái cảm xúc này hay khác không thể nằm ngoài khuôn khổ của giao tiếp xã hội. [B]4. Chức năng của giao tiếp[/B] Các Mác khẳng định sự thống nhất của tiếng nói, ý thức và giao tiếp: ý thức cũng như tiếng nói xuất hiện từ sự cần thiết của giao tiếp. Giao tiếp có một ý nghĩa hết sức lớn lao đối với đời sống con người. Nhu cầu liên quan tới một số lượng lớn những nhu cầu cơ bản của con người bởi vì giao tiếp là điều kiện cần thiết cho sự phát triển bình thường của con người với tư cách là một thành viên của xã hội, một nhân cách . R.Noibe - một nhà khoa học người Đức đã viết “Căm thù người khác còn hơn phải sống cô độc”. Sự giao tiếp không đầy đủ về số lượng , nghèo nàn về nội dung của trẻ nhỏ đối với người lớn đã dẫn đến hậu quả nặng nề là bệnh Hospitalism mặc dù được nuôi dưỡng tốt, trẻ lớn lên trong điều kiện “đói giao tiếp đều bị trì trệ trong sự phát triển tâm lý cũng như thể chất. Vì vậy, giao tiếp đối với người khác là một nhu cầu thiết yếu của con người. Có rất nhiều cách phân chia và nhiều quan điểm khác nhau về chức năng của giao tiếp. [U][I]4.1. Theo tác giả Trần Hiệp, chức năng cơ bản của giao tiếp bao gồm:[/I][/U] - Chức năng thông tin liên lạc Chức năng này bao quát tất cả các quá trình truyền và nhận thông tin. Với tư cách là một quá trình truyền tín hiệu, chức năng này có cả ở người và động vật. Tuy nhiên, con người khác con vật ở chỗ có hệ thống tín hiệu thứ hai, quá trình truyền tin được phát huy đến tối đa tác dụng của nó và kết quả là con người có khả năng truyền đi bất cứ thông tin, tín hiệu gì mình muốn. Chức năng ngày thể hiện ở cả chủ thể giao tiếp và đối tượng giao tiếp, nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó như nhu cầu truyền tin, nhu cầu tình cảm, nhu cầu tiếp xúc, giải trí… . Nhưng cũng chính vì con người có hệ thống tín hiệu thứ hai, có ý thức, có trí tuệ phát triển hơn so với các động vật khác mà hiệu quả của quá trình này có thể được tăng lên hay giảm đi. - Chức năng điều chỉnh điều khiển hành vi. Thông qua giao tiếp, cá nhân không chỉ có khả năng điều chỉnh hành vi của mình mà còn có thể điều chỉnh hành vi của người khác. Chức năng này chỉ có ở người với sự tham gia của quá trình nhận thức, của ý chí và tình cảm. Khi tiếp xúc, trao đổi thông tin với nhau, các chủ thể giao tiếp đã hoặc đang ý thức được mục đích, nội dung giao tiếp, thậm chí còn có thể dự đoán được kết quả đạt được sau quá trình giao tiếp. Nhằm đạt được mục đích mong muốn, các chủ thể thường linh hoạt tuỳ theo tình huống thời cơ mà lựa chọn, thay đổi cách thức hoặc phương hướng, phương tiện giao tiếp sao cho phù hợp. Chức năng này thể hiện khả năng thích nghi lẫn nhau của các chủ thể giao tiếp, ngoài ra nó còn thể hiện tính mềm dẻo, linh hoạt của các phẩm chất tâm lý cá nhân trong giao tiếp. Hơn thế nữa, chức năng này còn thể hiện vai trò tích cực của các chủ thể giao tiếp trong quá trình giao tiếp, điều này chỉ có được trong giao tiếp xã hội5. - Chức năng kích động liên lạc Chức năng này có liên quan đến lĩnh vực cảm xúc của con người. Trong quá trình giao tiếp, không chỉ xảy ra các quá trình truyền tin hay các tác động điều chỉnh, mà còn xuất hiện các trạng thái cảm xúc của những người tham gia. Qua quan sát thực tế cuộc sống, ta thấy giao tiếp thường nảy sinh trong chính những thời điểm mà người ta muốn thay đổi trạng thái cảm xúc của mình. Các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ có tác dụng rất lớn đối với chức năng này. Ngoài cách phân chia chức năng của giao tiếp như trên, người ta có thể phân chia chức năng của giao tiếp thành: tổ chức hoạt động chung, nhận thức giữa người với người, hình thành và phát triển quan hệ liên nhân cách. Cả hai kiểu phân loại chức năng giao tiếp trên không loại trừ lẫn nhau, mà chúng chứng tỏ rằng giao tiếp cần được nghiên cứu như một quá trình nhiều mặt đặc trưng bởi tính năng động cao và đa chức năng, tức là việc nghiên cứu giao tiếp đặt ra việc sử dụng các phương pháp phân tích hệ thống. [U][I]4.2. Theo GS.TS.Phạm Minh Hạc, chức năng giao tiếp được phân chia thành hai nhóm.[/I][/U] - Nhóm các chức năng thuần tuý xã hội bao gồm các chức năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu chung của xã hội hay của một nhóm, các tập thể, các tổ chức tạo thành xã hội. - Nhóm các chức năng tâm lý - xã hội là các chức năng giao tiếp phục vụ các nhu cầu của từng thành viên xã hội với người khác. Tránh cho người khác rơi vào tình trạng cô đơn, một trạng thái nặng nề khủng khiếp, nhiều khi dẫn đến bệnh tật hoặc sự tự sát. [U][I]4.3. Theo B.Ph.Lômôv và A.A.Bôđaliôv thì giao tiếp có ba chức năng:[/I][/U] - Chức năng thông tin. - Chức năng điều khiển, điều chỉnh. - Chức năng đánh giá thái độ giao tiếp. [U][I]4.4. Theo Ngô Công Hoàn nếu coi giao tiếp là một phạm trù của Tâm lý học hiện đại thì bản thân quá trình giao tiếp thực hiện các chức năng:[/I][/U] - Chức năng định hướnghoạt động của con người. - Chức năng điều chỉnh, điều khiển hành vi của con người. Các quan điểm trên xuất phát từ những quan điểm khác nhau, những hướng nghiên cứu khác nhau nên cũng có những điểm khác nhau. Song tựu trung lại các quan điểm trên đều đã nêu ra được các chức năng cơ bản của giao tiếp theo nhiều hướng tiếp cận khác nhau. [B]5. Phân loại giao tiếp[/B] Từ mỗi hướng nghiên cứu giao tiếp khác nhau, người ta có những cách phân loại giao tiếp khác nhau. [U][I]5.1. Theo PGS.TS Trần Thị Minh Đức[/I][/U] Giao tiếp được phân chia như sau 5.1.1. Căn cứ vào tính chất trực tiếp hay gián tiếp của quá trình giao tiếp - Giao tiếp trực tiếp: Là sự tiếp xúc, trao đổi giữa các chủ thể giao tiếp, được thực hiện trong cùng một khoảng không gian và thời gian nhất định - giao tiếp trực tiếp còn gọi là đàm thoại. Có hai hình thức đàm thoại + Đối thoại: Là loại giao tiếp có tính chất trò chuyện, trao đổi của hai phía chủ thể và đối tượng. Trong đối thoại luôn có sự thay đổi vị trí người nói, nhờ đó hai bên hiểu được đối tượng của mình, kịp thời điều chỉnh hành vi, cử chỉ, cách nói cho phù hợp. Đối thoại thể hiện qua các hình thức như trò chuyện, phỏng vấn, bàn luận… + Độc thoại: Là loại giao tiếp trong đó chỉ có người nói, mà không có sự đáp lại của các đối tượng trong giao tiếp như diễn thuyết, nghe giảng. Độc thoại đòi hỏi người nói phải có trình độ hiểu biết về vấn đề trình bầy, phải có khả năng biểu cảm tốt và phải nắm vững các yếu tố làm nên hiệu quả của giao tiếp. - Giao tiếp gián tiếp: Là giao tiếp được thực hiện qua các phương tiện trung gian như điện thoại, thư tín, sách báo, tivi…Ưu điểm của giao tiếp gián tiếp là tính nhanh chóng, thuận lợi hơn so với giao tiếp trực tiếp. Tuy vậy nó có một số hạn chế như phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, kém sinh động, kém hiệu quả hơn. Trong loại giao tiếp này, hình thức giao tiếp phi ngôn ngữ không đóng vai trò quan trọng. 5.1.2. Căn cứ vào mục đích giao tiếp - Giao tiếp chính thức: Là giao tiếp giữa các cá nhân đại diện cho nhóm, hoặc giữa các nhóm mang tính hình thức, được thực hiện theo các lễ nghi nhất định, được quy định bởi các nhóm chuẩn mực xã hội hoặc pháp luật. Trong giao tiếp chính thức, nội dung thông báo rõ ràng, khúc triết, ngôn ngữ đóng vai trò chủ đạo, thể hiện ở hình thức hội họp, bàn luận, ký kết…Giao tiếp chính thức nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể, mang tính thiết thực. Ví dụ các cuộc thăm viếng chính thức của những nguyên thủ Quốc gia, cuộc họp chính thức của hội đồng quản trị một công ty… - Giao tiếp không chính thức: Là giao tiếp không mang tính hình thức, không có sự quy định về lễ nghi. Các hình thức giao tiếp cũng như cách phục trang, địa điểm, hoàn cảnh giao tiếp…thường không bị lệ thuộc, không gò bó. Đó là giao tiếp giữa các cá nhân hoặc nhóm mang tính chất cá nhân, không đại diện cho ai hay tổ chức, nhóm nào cả. Mục đích giao tiếp thường nhằm làm thoả mãn nhu cầu tiếp xúc, giải trí… nên bầu không khí giao tiếp mang tính chất thân mật, gần gũi, hiểu biết lẫn nhau. 5.1.3. Căn cứ vào đối tượng giao tiếp 5.1.3.1. Phân loại theo số lượng người tham gia - Giao tiếp song đôi: chủ thể và đối tượng giao tiếp là hai cá nhân tiếp xúc với nhau. Đây là hình thức giao tiếp cơ bản, có đầu tiên trong cuộc đời mỗi con người (trẻ với mẹ) và phổ biến nhất. Khi mang tính chất công việc, thường dĩên ra nhanh gọn và dễ đạt hiệu quả cao, nghi thức đơn giản, gần gũi với các đối tượng tham gia, tiện lợi trong mọi hoàn cảnh và địa điểm. - Giao tiếp nhóm: là giao tiếp giữa cá nhân với nhóm hoặc giữa các thành viên trong và ngoài nhóm với nhau. Đây là kiểu giao tiếp “đại trà”, thường nhằm giải quyết các vấn đề có liên quan đến nhiều người, nội dung giao tiếp không bí mật và mất thời gian. Trong giao tiếp nhóm,vai trò chính vẫn thuộc về một hoặc vài người là đại diện nên thường không đòi hỏi mọi người phải tham gia đầy đủ, trừ khi cần thiết. 5.1.3.2. Phân loại theo tính chất nghề nghiệp Mỗi nghề nghiệp quy định một hình thức giao tiếp khác nhau. Cách thức giao tiếp này thường chỉ xuất hiện ở những người đã có sự ổn định về tính cách, có năng lực nhận thức, hiểu biết nhất định đặc biệt trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Trong giao tiếp theo tính chất nghề nghiệp, các đặc điểm nghề nghiệp gần như bao trùm lên phong cách ứng xử của các chủ thể giao tiếp; nó quy định tích cách, cách biểu hiện ngôn ngữ, cách biểu hiện nét mặt, cử chỉ, giọng điệu, tư thế… cũng như quy định tính chất, nội dung của thông tin. Vì thế qua giao tiếp ta có thể nhận ra được nghề nghiệp của người cùng tham gia giao tiếp, là một nhà giáo, hay một nhà buôn, hay một bác sỹ…[U][I] 5.2. Trong tâm lý học xã hội[/I][/U] Giao tiếp được chia ra làm ba loại 5.2.1. Giao tiếp định hướng xã hội: Chủ thể giao tiếp với tư cách đại diện cho xã hội, cộng đồng người. Giao tiếp nhằm truyền tin, thuyết phục hoặc kích thích đối tượng giao tiếp hoạt động. Ví dụ như những báo cáo, bài giảng về các chính sách, đường lối đối nội, đối ngoại của một chế độ xã hội. 5.2.2. Giao tiếp định hướng - nhóm: Chủ thể giao tiếp không đại diện quyền lợi của một nhóm xã hội nhằm giải quyết những vấn đề trong nhóm đặt ra trong học tập, sản xuất, kinh doanh, chiến đấu. 5.2.3. Giao tiếp định hướng - cá nhân: Chủ thể giao tiếp không đại diện quyền lợi cho nhóm xã hội nào cả, mà hoàn toàn vì mục đích cá nhân xuất phát từ động cơ, nhu cầu, hứng thú, sở thích…của cá nhân. Mặc dù giao tiếp theo cách nào thì các loại giao tiếp nói trên luôn tác động qua lại, bổ sung cho nhau, làm cho mối quan hệ giao tiếp của con người vô cùng phong phú đa dạng. [B]6. Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình giao tiếp. [/B] Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến giao tiếp. [U][I] 6.1. Theo B.s Nguyễn Khắc Viện[/I][/U] Giữa bên phát tín hiệu và bên nhận tín hiệu có khi không thể trao đổi, và thường là dễ hiểu lầm nhau, do khác nhau về tuổi tác, về nghề nghiệp, lối sống, trình độ kinh tế văn hoá…Có thể hiểu như sau: + Người phát nói không rõ ý của mình. + Cùng một nội dung được hai bên hiểu khác nhau. + Do lễ nghi, cấm kỵ, có những điều được phép nói ra,hay không được phép nói ra, làm cho người phát và người nghe có thể không phát ra hay không tiếp nhận. + Do cương vị của hai bên trong một tổ chức, có trên có dưới; cấp trên thường nghĩ rằng mình rộng rãi với cấp dưới, nhắc đi nhắc lại cấp dưới có thể nói thẳng nói thật, nhưng ít khi cấp dưới nghĩ như vậy. + Lựa chọn không đúng kênh + Hình tượng của người tiếp nhận trong tâm trí của người phát, cần có tín hiệu hai chiều. Người phát tiếp nhận phản ứng của người nghe để điều chỉnh ứng xử của mình. Tóm lại, chính người phát phải thoát khỏi chủ quan, cố gắng thích ứng với người nghe. [U][I] 6.2. Theo Laswell - nhà nghiên cứu đầu tiên về truyền thông[/I][/U] Với cách hiểu truyền thông cũng là một dạng giao tiếp, trong đó có những phương tiện quy mô lớn như báo chí, đài, tivi…) hay giao tiếp là là một dạng truyền thông, trong đó nguồn phát và nguồn thu đều là con người, Laswell đã đưa ra các yếu tố cần quan tâm khi truyền đạt để truyền thông có hiệu quả: + Chủ thể giao tiếp ảnh hưởng tới hiệu quả giao tiếp không chỉ bởi những hiểu biết của anh ta mà còn chính bởi anh ta là người như thế nào. Nếu anh ta có hình ảnh tốt về bản thân, cởi mở, làm chủ được cảm xúc và các phản ứng của mình, biết rõ động cơ giao tiếp của mình… thì sẽ có nhiều thuận lợi để tiến hành một cuộc giao tiếp thành công và ngược lại. + Nội dung giao tiếp cần phải được xác định từ trước trên cơ sở những mục tiêu cụ thể mà chủ thể muốn đạt được sau quá trình giao tiếp. + Đối tượng giao tiếp sẽ tiếp nhận thông tin qua lăng kính chủ quan riêng của họ. Để giao tiếp thành công cần phải tìm hiểu về đối tượng mà chủ thể giao tiếp muốn tiến hành giao tiếp từ trước khi giao tiếp xảy ra và cả trong quá trình giao tiếp thông qua việc quan sát đối tượng, nắm bắt sự đáp ứng của họ và điều chỉnh kịp thời cho phù hợp. Bên cạnh đó kết quả giao tiếp sẽ tốt hơn nếu bạn xác định được đúng đối tượng, đúng nội dung, đúng mức độ, phạm vi thông tin sẽ truyền đạt, đúng thời điểm, đúng nơi đúng chỗ… + Phương tiện truyền thông và kênh thông tin được sử dụng cần phải phù hợp thì cuộc giao tiếp mới thành công, nếu không phù hợp sẽ dẫn tới thất bại hoặc giảm hiệu quả. + Trước khi tiến hành giao tiếp cần xem xét đến hiệu quả sẽ đạt được sau đó để không lãng phí thời gian, tiền của và công sức, đặc biệt đối với truyền thông. Muốn đạt hiệu quả cao nhất như mong muốn, cần trả lời cặn kẽ các câu hỏi nêu trên và kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố thì sẽ có điều kiện thành công. - Sự phản hồi. Đối với cá nhân phản hồi một cách trung thực sẽ giúp chúng ta sống thoải mái vì nếu để bụng khi không thể chịu đựng được nữa dễ dẫn đến chia rẽ, bất hợp tác, giao tiếp thất bại. Nhưng cũng cần lưu ý đến cách phản hồi vì đó là cả một nghệ thuật, nếu không khéo cũng sẽ làm cho giao tiếp gặp khó khăn hay thất bại. - Nghệ thuật lắng nghe. Để thành công trong giao tiếp, ngoài việc luyện khả năng trình bày diễn đạt chúng ta còn rất biết lắng nghe. Biết lắng nghe sẽ giúp chúng ta phản hồi được một cách trung thực những gì người kia nói và hiểu chúng ta. Lắng nghe không hề dễ, cần phải luyện tập mới có được khả năng này, nhưng nếu đã thực hiện được thì gần như bạn đã nắm được phần nhiều thành công trong giao tiếp. [B]7. Các phương tiện giao tiếp[/B] Giao tiếp là một quá trình xã hội thường xuyên bao gồm các ứng xử rất đa dạng và phong phú, thể hiện qua ngôn ngữ nói và viết: qua nét mặt, cử chỉ, tư thế, giọng nói, trang phục, cách sử dụng không gian trong giao tiếp… Đó là một hệ thống toàn vẹn, không có sự tách rời giữa biểu hiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ trong giao tiếp. Các phương tiện giao tiếp là cách thức để biến những mục đích giao tiếp thành hiện thực trong thực tế. [U][I]7.1. Giao tiếp ngôn ngữ[/I][/U] Giao tiếp ngôn ngữ là sự giao tiếp được tiến hành thông qua hệ thống tín hiệu thứ hai: lời nói và chữ viết. Đây là hình thức giao tiếp đặc trưng cơ bản nhất trong hệ thống giao tiếp xã hội bởi nó có những chức năng: chức năng thông báo, chức năng diễn cảm và chức năng tác động. Giao tiếp ngôn ngữ có thể được biểu hiện qua nhiều hình thức. Trong giao tiếp, tuỳ vào đối tượng, mục đích, hoàn cảnh… mà người ta sử dụng các hình thức biểu đạt ngôn ngữ khác nhau. Theo như cách chia của trường phái Palo Alto thì có giao tiếp chỉ định và giao tiếp loại suy, hay bác sỹ Nguyễn Khắc Viện thì lại gọi là giao tiếp nói chỉ (chỉ định) và giao tiếp nói ví (loại suy). Trong tiếng Việt, tương ứng với các cách gọi như trên ta còn có thể gọi là hiển ngôn (nói chỉ) hay hàm ngôn (nói ví). - Kiểu chỉ nói theo những quy ước rõ ràng ngôn ngữ nói hay viết với từ vựng, nghữ nghĩa nhất định. Ngôn ngữ toán học, vi tính, chữ người mù thuộc kiểu này. - Kiểu ví vận dụng giọng nói, tư thế, cử chỉ tức những kênh cận ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ diễn tả tình cảm, và những yếu tố chủ quan, quan hệ cảm xúc giữa hai bên đối thoại. Ở đây không có những chỉ báo nói rõ mạch lạc, khung cảnh, bối cảnh. => Giữa hai kiểu này có thể ăn khớp hay không và mọi sự giao tiếp đều diễn ra trong một bối cảnh nhất định - Ngôn ngữ tình thái nhằm phản ánh khía cạnh tâm lý, xã hội của chủ thể, giúp cho đối tượng hiểu được tốt hơn ý nghĩa của nội dung thông tin. Ngôn ngữ tình thái phản ánh thái độ của người nói đối với thông tin mình nói ra, cách người đó đánh giá tính hiện thực hay không hiện thực, mức độ của tính xác thực, tính tất yếu, tính khả năng, tính chất mong muốn hay đáng tiếc của điều thông báo. Muốn hiểu được khía cạnh tâm lý xã hội của ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp, ngoài các quy tắc sử dụng ngôn ngữ của mỗi dân tộc, đối tượng giao tiếp còn phải tìm hiểu cách diễn đạt ngôn ngữ của mỗi cộng đồng, mỗi nền văn hoá thông qua những thoả thuận ngầm về các quy tắc ứng xử của các cộng đồng hay nền văn hoá đó. Việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp còn phụ thuộc vào hoàn cảnh giao tiếp, chủ thể và đối tượng giao tiếp cũng như mối quan hệ giữa họ. Tin đồn là một phương thức giao tiếp ngôn ngữ phổ biến trong đời sống hàng ngày và trong các tổ chức xã hội. Khi thông tin được truyền miệng từ người này sang người khác, các chi tiết bị quên lãng hoặc bị nhớ thiếu chính xác, các ngôn ngữ bị thay thế khi kể truyền tiếp, nội dung và cách hiểu câu chuyện phụ thuộc nhiều vào đặc điểm cá nhân mỗi người… vì thế tin đồn thường bị méo mó sai lệch, thiếu chính xác. Qua việc phân tích như trên, ta nhận thấy trong giao tiếp ngôn ngữ gặp phải một số hạn chế do cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan. - Chủ quan + Giữa các chủ thể và đối tượng giao tiếp đã không thể tạo ra được điểm tương đồng do không xác định được những chuẩn mực ứng xử cá nhân hoặc do những ức chế tích dồn ở các cá nhân trong quá trình giao tiếp. Kết thúc dễ dẫn đến va chạm, xung đột. + Qúa trình giao tiếp phân chia làm hai cực, mỗi bên - chủ thể và đối tượng giao tiếp - bảo vệ ý kiến riêng của mình, không có sự chấp nhận, dung hoà…Kết cục là không đem lại kết quả như mỗi bên mong muốn. + Khi một bên đối thoại có những biểu hiện nổi loạn tâm lý, tư duy “không bình thường”. - Khách quan + Do sự khác nhau về phong tục tập quán, ngôn ngữ, trình độ phát triển về văn hoá - xã hội ở các địa phương, các dân tộc và các quốc gia khác nhau + Môi trường giao tiếp: Tiếng ồn, nhiệt độ … 7.2. Giao tiếp phi ngôn ngữ Giao tiếp phi ngôn ngữ được thể hiện thông qua sự vận động của cơ thể như cử chỉ, tư thế, nét mặt; thông qua cách trang phục hoặc tạo ra khoảng không gian nhất định khi tiếp xúc. Giao tiếp phi ngôn ngữ ra đời trước giao tiếp ngôn ngữ, có cội nguồn sinh học dựa trên cơ sở hành vi bản năng gắn liền với quá trình tiến hoá, di truyền từ thế giới động vật. Trong giao tiếp phi ngôn ngữ, không phải lúc nào cũng có sự tham gi của ý thức, vì thế nên qua hình thức giao tiếp này người ta thường bộc lộ chân thật các cảm nghĩ, thái độ, ý kiến… của mình, tuy nhiên lại không dễ hiểu được chúng. Đây là kiểu giao tiếp được thể hiện thông qua sự vận động của cơ thể như cử chỉ, tư thế, nét mặt, giọng nói; thông qua sự vận động của cơ thể như cử chỉ, tư thế, nét mặt, giọng nói. Thông qua cách trang phục hoặc tạo ra khoảng không gian nhất định khi tiếp xúc. Giao tiếp phi ngôn ngữ có hai chức năng cơ bản đó là: - Chức năng biểu hiện trạng thái cảm xúc nhất thời: thông qua nét mặt, điệu bộ, giọng nói… chủ thể giao tiếp biểu hiện các tâm tư, sắc thái trạng thái cảm xúc khác nhau, các trạng thái cảm xúc này lan truyền sang đối tượng giao tiếp, làm ảnh hưởng rất lớn đến đối tượng giao tiếp. - Chức năng biểu hiện các đặc trưng cá nhân: Thông qua “ngôn ngữ cơ thể” như cử chỉ, ánh mắt, giọng nói, điệu bộ, trang phục…một cách vô tình hay hữu ý, chủ thể giao tiếp nhận biết được đối tượng giao tiếp của mình là ai, tính cách như thế nào, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội…của họ ra sao. Giao tiếp phi ngôn ngữ được phân thành hai loại: có chủ định và không chủ định. - Giao tiếp không chủ định: Là những biểu hiện mang tính bản năng của các hành vi, tư thế, nét mặt…xuất hiện theo phản xạ, tự động; diễn ra không có sự kiểm soát của ý thức. Đó là những biểu hiện của hành vi vô thức. Giao tiếp phi ngôn ngữ không chủ định thường xuất hiện ở trẻ em, những người văn hoá thấp… - Giao tiếp phi ngôn ngữ có chủ định: Đó là những biểu hiện của các hành vi, cử chỉ, các biểu cảm nét mặt có ý thức, có mục đích với sự cố gắng của ý chí. Giao tiếp phi ngôn ngữ có chủ định thường diễn ra ở những người có trình độ văn hoá cao, những người cao tuổi giàu kinh nghiệm… Các kênh của giao tiếp phi ngôn ngữ gồm có: tư thế, giọng nói, âm thanh…Tất cả các yếu tố này đều có ảnh hưởng lớn trong quá trình giao tiếp. Như vậy, nếu chúng ta biết cách quan sát kỹ lưỡng, học được một số kỹ năng sử dụng hiệu quả cử động cơ thể cũng như không gian… thì hiệu quả giao tiếp sẽ được nâng lên rất nhiều. Qua giao tiếp phi ngôn ngữ, chúng ta hoàn toàn có thể nhận ra được tính cách, tâm trạng hay vị trí xã hội của một người dù ta mới tiếp xúc lần đầu. Giao tiếp phi ngôn ngữ đã và đang được sự quan tâm nghiên cứu của rất nhiều nhà khoa học thuộc nhiều trường phái tâm lý hội trên thế giới. [B]KẾT LUẬN[/B] Giao tiếp là một hình thức hoạt động của con người. Thông qua giao tiếp, những mối quan hệ giữa con người được kiến tạo. Sự hiểu biết và nắm những quy luật của giao tiếp góp phần làm tăng hiệu quả lao động và điều chỉnh các quan hệ xã hội. Giao tiếp xã hội là một chủ đề thu hút được sự quan tâm của mọi người trong xã hội, đặc biệt là của các nhà Tâm lý học. Có biết bao quyển sách dạy về ứng xử, giao thiệp xã hội, đắc nhân tâm, bí quyết thành công trong ứng xử, bí quyết thành công trong giao tiếp kinh doanh, ngôn ngữ cơ thể…Tuy nhiên các nhà nghiên cứu vẫn luôn khẳng định với chúng ta rằng, để đạt được hiệu quả cao trong giao tiếp không hề dễ dàng. Hiểu biết những vấn đề chung về giao tiếp xã hội là cần thiết song chưa đủ. Bạn đừng hy vọng sau khi đọc xong một cuốn sách nào đó dạy về nghệ thuật ứng xử xã hội mà sau đó có thể luôn thành công trong mọi cuộc giao tiếp. Một cuộc giao bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, biệt là các yếu tố chủ quan từ cả hai phía tiến hành giao tiếp. Quan trọng hơn cả là chúng ta đã dành cho vấn đề này một sự quan tâm tìm hiểu đúng mức hay chưa và luôn cố gắng hoàn thiện tri thức cũng như nhân cách của mình. Đó chính là bí quyết tốt nhất giúp bạn thành công trong giao tiếp, ứng xử xã hội, qua đó có cơ hội để phát triển hài hoà hơn nữa về mọi mặt. [B]TÀI LIỆU THAM KHẢO[/B] 1. Trần Thị Minh Đức (chủ biên) , [B]Tâm lý học xã hội,[/B] Nxb Đại học Quốc gia, 1994 2. Trần Thị Minh Đức (chủ biên), [B]Tâm lý học Đại cương[/B] 3. Vũ Dũng, [B]Từ điển Tâm lý học[/B] 4. Fischer, [B]Những khái niệm cơ bản của Tâm lý học xã hội[/B], người dịch Huyền Giang, Nxb Thế giới 5. Trần Hiệp (chủ biên), [B]Những vấn đề tâm lý học xã hội[/B], Nxb khoa học xã hội,1996. 6. Nguyễn Thị Oanh, [B]Tâm lý học truyền thông và giao tiếp[/B], Nxb phụ nữ, 1995 7. Nguyễn Khắc Viện, [B]Từ điển Tâm lý học Nguồn :tamlyhoc.net [/B] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
TÂM LÍ HỌC
Tâm lý học là gì ?
Giao tiếp - Khái niệm về Giao tiếp trong Tâm lý học
Top