Trong năm nay, nước Mỹ xảy ra liên tiếp những vụ xét xử nhiều chủ tịch, giám đốc điều hành của các tập đoàn lớn trên thế giới với các tội danh tham nhũng, ăn cắp tiền công, cố tình lừa đảo nhà đầu tư và cơ quan chức năng để trục lợi cá nhân…Trong bài viết này, Brendan Hewson, biên tập viên trong lĩnh vực gian lận tài chính của tờ báo điện tử Gtnews đã xem xét các vụ việc trên dưới góc độ tâm lý và phân tích lý do dẫn đến những sự phạm tội này.
Đi liền với sự phát triển và lớn mạnh của một công ty hay tổ chức là những chuẩn mực và quy tắc đạo đức nhất định. Những chuẩn mực tưởng chừng như đơn giản này chính là nền tảng của mọi hoạt động kinh doanh thành công, trung thực và đáng được trân trọng. Điều này còn được thể hiện qua tư cách đạo đức của những người làm việc trong công ty, đặc biệt những người nắm giữ những vị trí quản lý hoặc có quyền lực cao. Điều gì sẽ xảy ra khi họ dính líu đến các hoạt động gian lận tài chính? Và nguyên nhân nào dẫn đến hành động này?
Một trong những người như thế là cựu giám đốc điều hành tập đoàn năng lượng Enron của Mỹ - Jefrey Skilling. Ông Skilling đã bị tuyên phạt 24 năm 4 tháng tù trong vụ lừa đảo dẫn đến sự sụp đổ của tập đoàn Enron. Theo các công tố viên tại phiên tòa xét xử ở Houston, Texas vào ngày 24/11/2006 vừa qua, ông và cựu chủ tịch tập đoàn này là Kenneth Lay bị kết tội lừa gạt ngân hàng và cố tình giấu nhẹm nợ nần của công ty. (Tuy nhiên việc buộc tội cựu chủ tịch Kenneth Lay đã bị hủy bỏ sau cái chết của ông ta vào tháng Bảy).
Hành vi lừa gạt này đã đẩy Enron, từng là tập đoàn lớn thứ bảy của Mỹ đến chỗ sụp đổ hoàn toàn vào năm 2001 với khoản nợ lên đến hàng chục tỷ đô-la và khiến hàng ngàn nhân viên mất việc. Bản án dành cho ông Skilling đã làm cho các nhân viên của Enron bị mất tiền lương hưu hài lòng. Song Skilling vẫn tuyên bố là mình vô tội và sẽ kháng án.
Vậy điều gì đã khiến tập đoàn chỉ mới thành lập năm 1986 đã nhanh chóng trở thành một trong những công ty năng lượng lớn nhất thế giới? Đáng tiếc, đây cũng chính là phép màu đẩy Enron đến chỗ diệt vong. Đó là câu chuyện về công ty mẹ-con.
Một công ty có thể mở ra một hay nhiều công ty con “dưới bóng” của mình. Công ty con dựa vào uy tín của công ty mẹ để được vay vốn, để thắng thầu, để xây dựng thương hiệu. Công ty mẹ sử dụng công ty con để huy động vốn, để hứng chịu những hợp đồng đầy rủi ro, để giấu bớt sự nợ nần của mình để làm cho các báo cáo tài chính ‘đẹp đẽ” hơn… Ngay cả những hợp đồng mua đi bán lại giữa mẹ và con cũng tạo ra doanh thu và lợi nhuận để báo cáo.
Nếu mọi chuyện chỉ dừng lại ở mức độ 2-3 công ty con, thì chắc sẽ chẳng có gì xảy ra. Vấn đề là Enron đã tạo ra hơn 900 công ty con, chủ yếu nằm ở những nước còn dễ dãi nhất về luật kế toán. Xây dựng hệ thống nhằm che giấu lỗ lãi và rủi ro, trong khi đó lại phóng đại lợi nhuận và tài sản. Hệ thống này được thiết kế bởi các chuyên gia tài chính tài giỏi, được bảo đảm bởi một trong năm công ty kiểm toán lớn nhất thế giới - Arthur Andersen.
Cho đến khi câu chuyện vỡ lở, thì hóa ra lợi nhuận chẳng là bao và tài sản chẳng nhiều như báo cáo. Và câu chuyện đằng sau những hành vi lừa gạt và gian lận kiểu như thế này là gì?
Sự gian lận diễn ra hàng ngày trong kinh doanh
Chúng ta đang sống trên một thế giới toàn cầu hóa, và tất nhiên mọi người đều quan tâm đến những tội ác và sự tàn phá ảnh hưởng đến xã hội chung của chúng ta. Ai cũng mong đợi ở những nhà chính trị và các doanh nhân có thể đưa ra phương hướng và thực thi những biện pháp nhằm hạn chế gian lận trong kinh doanh dẫn đến sự mất ổn định xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế, chúng ta phát hiện ra rằng rất nhiều kẻ lừa đảo là những người đứng đầu các tập đoàn hay các nhà chính trị do chính chúng ta bầu ra. Sự lừa đảo và gian lận ngày nay được thừa nhận như là một phần trong hoạt động kinh doanh và đời sống chính trị. Hàng ngày, trên các báo chí đều thấy những tít nổi bật về những vụ việc như thế này.
Theo báo cáo gần đây của Control Risks Group, các công ty làm ăn chân chính đang bị mất dần lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh không trung thực ngày càng phát triển trên một diện rộng và ảnh hưởng đến mọi mặt của nền kinh tế. Đặc biệt những vụ tham nhũng hay xảy ra trong các ngành công nghiệp xây dựng, khai khoáng, khí đốt và dầu mỏ. Vì đó là nơi có các dự án giá trị lớn. Bản nghiên cứu này cũng cho thấy hối lộ đã trở thành một “vấn nạn lớn trên thế giới”.
Có nhiều yếu tố cấu thành nên sự gian lận, song có thể nói phần lớn nó xuất phát từ bản năng cơ bản của con người. Đó là lòng tham. Đối với nhiều người, để có quyền lực, sự thăng tiến, giàu sang hay một cuộc sống tốt đẹp hơn, họ phải trả bằng sự cố gắng và làm việc chăm chỉ. Song có một số người khác lại không đi theo cách này, khi nhu cầu không được đáp ứng và họ muốn phải được thỏa mãn ngay lập tức bằng bất cứ giá nào.
Ông Sam Currin, một cựu luật sư Mỹ, thẩm phán và chủ tịch đảng Cộng hòa Bắc Carolina, hiện nay đang đứng trước bản án bốn mươi ba năm tù sau khi thú nhận phạm tội chuyển tiền trái phép, gian lận thuế và gây cản trở việc thi hành pháp luật. Tờ báo Người quan sát Charlotte đã tường thuật lại vụ việc này như sau: ông Currin đã chiếm đoạt 1,45 triệu đô-la trong số tiền thu được từ hoạt động mà những người công tố viên gọi là “một kế hoạch gian lận cổ phần/chứng khoán lớn”. Ông ta cũng bị buộc tội cản trở quá trình điều tra của đoàn hội thẩm và bị vạch trần âm mưu chuyển tiền từ một công ty nước ngoài tới cục thuế Nội địa (Internal Revenue Service).
Một trong những khách hàng của ông Currin đã “tạo ra” hàng chục triệu đô-la bằng mánh khóe bán cổ phiếu qua hộp thư, fax công cộng và các phương tiện khác. Currin đã giúp chuyển tiền kiếm được bằng cách bất chính qua tài khoản tin cậy của hãng luật do ông ta đứng đầu và đút túi 240.000 đô-la. Sự việc bị phát hiện qua việc hoàn thuế thu nhập năm 2004. Sau đó, ông Currin còn có âm mưu giấu giếm những tài liệu và đưa ra những lời khai man trước tòa.
Bốn mươi ba năm tù là một khoảng thời gian dài trong đời bất cứ người nào, đặc biệt là một người đã từng là một công tố viên, một vị quan tòa và là một nhà chính trị cấp cao. Một cuộc đời bị giam giữ theo những quy định khắc nghiệt, không có tự do. Có phải lòng tham vô độ đã làm mù mắt và đưa con người ta đến phạm tội gian lận và lừa đảo hay không?
Suy nghĩ của kẻ gian lận thương mại
Chúng ta hiểu gì về diễn biến tâm lý bên trong những hành vi của Currin hay Skilling để nhằm mục đích ngăn chặn những hành vi này?
David Wolfe, người sáng lập ra tập đoàn Glasgow Forensic Group và Dana Hermanson, một nhà nghiên cứu thuộc trung tâm Corporate Governance, giảng viên trường đại học Tennessee đã xây dựng thuyết gọi là “Bốn yếu tố liên quan đến sự gian lận”. Ông cho rằng chính yếu tố thứ tư – năng lực của cá nhân đóng vai trò chính, làm xuất hiện hành động gian lận ở con người.
Trong nhiều trường hợp, đặc biệt khi số tiền gian lận lên tới hàng tỷ đô-la, nếu không phải là người có quyền lực hay năng lực thật sự thì khó lòng thực hiện được.
Chúng ta hãy xem xét bốn yếu tố dẫn đến hành động gian lận để có thể hiểu được diễn biến suy nghĩ của những người có hành vi này:
1. Đông cơ: tôi muốn, tôi phải có thứ này – dẫn đến gian lận.
2. Cơ hội: Có một điểm yếu nào đó ở trong hệ thống mà người có quyền lực có thể khai thác, từ đó sự gian lận có thể xảy ra.
3. Sự hợp lý hóa: tôi tin chắc rằng cái giá phải trả cho hành vi gian lận này chỉ là sự rủi ro.
4. Năng lực: tôi có những điều kiện cần thiết, khả năng và quyền lực để thực hiện điều này. Tôi nhận ra cơ hội để thực hiện hành vi gian lận này và biến nó thành hiện thực.
Bốn nhân tố này đan xen nhau, nhưng tác nhân đầu tiên và cơ bản cho hành vi gian lận là năng lực. Theo quan điểm này, việc xem xét hành động gian lận không chỉ dựa vào yếu tố cơ hội do tình thế và môi trường đem đến – cách xem xét theo truyền thống trước đây.
Bốn nhân tố này tập trung kích thích phản xạ của con người. Ví dụ, khởi đầu của quá trình kích thích có thể là ý nghĩ đến lợi nhuận hoặc phớt lờ những yếu tố phương hại đến sự kinh doanh chân chính. Hãy xem xét một kịch bản sau đây. Một luật sư đến gặp một chủ ngân hàng chuyên về kinh doanh cổ phiếu và đầu tư ở một đất nước rất xa nơi mình sống và yêu cầu mở một tài khoản khởi đầu cho một mối quan hệ.
Câu hỏi đặt ra tại sao anh ta lại chọn đúng ngân hàng này? Anh ta tuyên bố rằng cha mẹ anh ta trước đây đã từng sử dụng tài khoản ở đây. Câu trả lời cứ cho là chấp nhận được đi. Ba ngày sau đó khách hàng gọi điện đến ngân hàng và nói rằng anh ta vừa được trả một khoản tiền trong một vụ kiện tại một nước khác cách xa hàng nghìn dặm. Giá trị của lượng tiền này không quá lớn. Chính vì số tiền không quá lớn nên việc ai chuyển tiền vào tài khoản của vị luật sư không được để ý đến.
Trên thực tế, ngân hàng biết rất ít về vị khách hàng luật sư. Anh ta, sau tất cả các cuộc gặp gỡ mang tính chất cá nhân, là một người có nghề nghiệp (ít ra là trong các vi-dít của anh ta nói lên điều đó); gia đình anh ta có mối liên quan đến ngân hàng và được nhìn nhận như là một khách hàng lớn trong tương lai. Tại sao vậy? Vì số lượng tiền trong tài khoản tăng lên sẽ góp phần làm hoạt động kinh doanh của ngân hàng phát triển, vậy mục tiêu chi phối tất cả các ma thuật này chính là lợi nhuận.
Bi kịch của câu chuyện nằm ở chỗ chủ ngân hàng đã không có ý định tìm hiểu bản chất của các khoản tiền mờ ám khi thiết lập một mối quan hệ mới và phớt lờ đi hoặc là không quan tâm đến các dấu hiệu nguy hiểm được báo trước.
Động lực là thu được càng nhiều lợi nhuận từ kinh doanh càng tốt, thậm chí kể cả việc có thể hoạt động kinh doanh không tồn tại. Khi những ý nghĩ về đồng tiền xâm chiếm trong đầu, thì những cảm giác thông thường bị ném ra ngoài cửa sổ.
Diễn biến tâm lý đằng sau hành vi gian lận
Các phản xạ có điều kiện thông thường được phát triển thông qua việc dạy đỗ, đào tạo. Tuy nhiên kinh nghiệm cho thấy sự sai lạc của các phản xạ có điều kiện này có thể xảy ra đối với bất kỳ ai. Vậy điều gì khiến chúng ta bị rơi vào sự sai lạc này?
Các chuyên gia tâm lý cho rằng, trong mỗi chúng ta đều có một bộ phận cấu thành tâm lý. Đó là khả năng phân biệt để lựa chọn. Chúng ta có khả năng quyết định hành vi của bản thân mình thông qua việc phân biệt được trường hợp nào, dấu hiệu nào, triệu chứng nào là nguy hiểm. Lựa chọn để tránh những các dấu hiệu nguy hiểm mà chúng ta cảm nhận được. Lợi nhuận hay lợi ích mà chúng ta thu được một cách không chính đáng qua con đường gian lận là lựa chọn sai lạc, không phù hợp với phản xạ tự nhiên của con người, vì chúng ta đã lựa chọn sự nguy hiểm.
Quay trở lại với câu chuyện đã đưa ra, chúng ta thử xem lựa chọn sai lạc dẫn đến hành vi gian lận ở đây là gì? Ông chủ ngân hàng khi tiếp xúc với khách hàng tiềm năng, người có mục đích mờ ám được che đậy bằng các thuật ngữ hoặc những lời văn cầu kỳ mà ông trước đây chưa từng biết đến hoặc không hiểu được. Song ông ta vẫn tiếp tục thương thuyết vì sợ rằng mình bị chê là một người không có kinh nghiệm, hoặc tồi tệ hơn nữa là không thông thạo trong lĩnh vực ngân hàng.
Sự sai lạc trong hành vi hay sự lựa chọn của ông ta ở đây là gì? Các phản xạ hành vi thông thường đã bị lấn át bởi suy nghĩ sợ bị nhận ra là một người thiếu tự tin hoặc sợ bị phát hiện là ngớ ngẩn hay không có kinh nghiệm. Đây chính là một sự sai lạc của các phản xạ có điều kiện có thể xảy ra ở bất cứ cá nhân nào và khi đó những tiêu chuẩn hành vi thông thường không được xem xét đến.
Hành vi thông thường ở đây là gì? Thông thường các ông chủ ngân hàng để phòng ngừa bất trắc sẽ kiểm tra thông tin qua các đồng nghiệp để đảm bảo chắc chắn rằng quyết định của mình là đúng đắn. Và như vậy, rất có thể ông ta sẽ nhận được ở các đồng nghiệp lời khuyên không nên tiếp tục thương thuyết và theo đuổi mối quan hệ này.
Qua câu chuyện này, có thể rút ra một điều là hầu hết những hiện tượng khác thường xảy ra khi xuất hiện sự đe dọa bị mất mát lợi nhuận, hoặc sợ bị cấp trên phát hiện ra, dẫn đến sự thay đổi diễn ra bên trong ý nghĩ của ông chủ ngân hàng – “một sự chuyển hướng niềm tin” mà có thể so sánh với “hội chứng Stockholm”.
Thuật ngữ này xuất hiện sau khi vụ cướp nhà băng Kredibanker xảy ra tại Normalmstorg, Stockholm. Tại đó các tên cướp ngân hàng đã bắt giữ các nhân viên làm con tin từ ngày 23 -28/08/1973. Trong vụ cướp này, các nạn nhân đã rất gắn bó với những kẻ đã bắt giữ họ, thậm chí đã bào chữa cho những tên cướp ngân hàng khi họ được giải thoát và trả lại tự do sau 6 ngày bị giam giữ. Thuật ngữ này được đưa ra bởi một nhà tội phạm và tâm lý học - Nils Bejerot, người đã giúp đỡ lực lượng cảnh sát trong suốt quá trình diễn ra vụ cướp.
Hội chứng Stockholm là thuật ngữ mô tả một trạng thái tâm lý, trong đó người bị bắt cóc lâu ngày chuyển từ sợ hãi và căm ghét sang thông cảm và quý mến chính kẻ bắt cóc mình. Theo các nhà tâm lý, đó là cơ chế tự vệ tự giác hoặc tự phát của người bị bắt cóc – lựa theo và hòa nhập hẳn vào tâm lý của kẻ bắt cóc - nhằm thích nghi với tình huống và tránh nguy hiểm.
Đem câu chuyện này so sánh với câu chuyện quản lý của ông chủ ngân hàng – người đã “chuyển hướng niềm tin” từ các đồng nghiệp của mình sang kẻ lừa đảo. Lòng tin đối với một kẻ lạ mặt, người sẽ tiến hành kinh doanh với mình trong một thời gian dài, hoàn toàn không dựa trên một cơ sở thực tế nào cả. Ông chủ ngân hàng tin người khách mập mờ kia có thể mang lại lợi ích cho mình được xem như là một phản xạ có điều kiện sai lạc mà tác nhân của nó là lòng tham và sự kiêu ngạo.
Cuộc sống vẫn tiếp diễn và những hành vi lừa dối trong kinh doanh vẫn tiếp tục xảy ra, song việc nhìn ra bản chất và diễn biến tâm lý bên trong những suy nghĩ của kẻ gian lận cũng là một cách để chúng ta ngăn chặn và kìm chế sự phát triển của chúng.
Tuấn Anh
(Dịch từ The gtnews)
Theo Bwportal
Đi liền với sự phát triển và lớn mạnh của một công ty hay tổ chức là những chuẩn mực và quy tắc đạo đức nhất định. Những chuẩn mực tưởng chừng như đơn giản này chính là nền tảng của mọi hoạt động kinh doanh thành công, trung thực và đáng được trân trọng. Điều này còn được thể hiện qua tư cách đạo đức của những người làm việc trong công ty, đặc biệt những người nắm giữ những vị trí quản lý hoặc có quyền lực cao. Điều gì sẽ xảy ra khi họ dính líu đến các hoạt động gian lận tài chính? Và nguyên nhân nào dẫn đến hành động này?
Một trong những người như thế là cựu giám đốc điều hành tập đoàn năng lượng Enron của Mỹ - Jefrey Skilling. Ông Skilling đã bị tuyên phạt 24 năm 4 tháng tù trong vụ lừa đảo dẫn đến sự sụp đổ của tập đoàn Enron. Theo các công tố viên tại phiên tòa xét xử ở Houston, Texas vào ngày 24/11/2006 vừa qua, ông và cựu chủ tịch tập đoàn này là Kenneth Lay bị kết tội lừa gạt ngân hàng và cố tình giấu nhẹm nợ nần của công ty. (Tuy nhiên việc buộc tội cựu chủ tịch Kenneth Lay đã bị hủy bỏ sau cái chết của ông ta vào tháng Bảy).
Hành vi lừa gạt này đã đẩy Enron, từng là tập đoàn lớn thứ bảy của Mỹ đến chỗ sụp đổ hoàn toàn vào năm 2001 với khoản nợ lên đến hàng chục tỷ đô-la và khiến hàng ngàn nhân viên mất việc. Bản án dành cho ông Skilling đã làm cho các nhân viên của Enron bị mất tiền lương hưu hài lòng. Song Skilling vẫn tuyên bố là mình vô tội và sẽ kháng án.
Vậy điều gì đã khiến tập đoàn chỉ mới thành lập năm 1986 đã nhanh chóng trở thành một trong những công ty năng lượng lớn nhất thế giới? Đáng tiếc, đây cũng chính là phép màu đẩy Enron đến chỗ diệt vong. Đó là câu chuyện về công ty mẹ-con.
Một công ty có thể mở ra một hay nhiều công ty con “dưới bóng” của mình. Công ty con dựa vào uy tín của công ty mẹ để được vay vốn, để thắng thầu, để xây dựng thương hiệu. Công ty mẹ sử dụng công ty con để huy động vốn, để hứng chịu những hợp đồng đầy rủi ro, để giấu bớt sự nợ nần của mình để làm cho các báo cáo tài chính ‘đẹp đẽ” hơn… Ngay cả những hợp đồng mua đi bán lại giữa mẹ và con cũng tạo ra doanh thu và lợi nhuận để báo cáo.
Nếu mọi chuyện chỉ dừng lại ở mức độ 2-3 công ty con, thì chắc sẽ chẳng có gì xảy ra. Vấn đề là Enron đã tạo ra hơn 900 công ty con, chủ yếu nằm ở những nước còn dễ dãi nhất về luật kế toán. Xây dựng hệ thống nhằm che giấu lỗ lãi và rủi ro, trong khi đó lại phóng đại lợi nhuận và tài sản. Hệ thống này được thiết kế bởi các chuyên gia tài chính tài giỏi, được bảo đảm bởi một trong năm công ty kiểm toán lớn nhất thế giới - Arthur Andersen.
Cho đến khi câu chuyện vỡ lở, thì hóa ra lợi nhuận chẳng là bao và tài sản chẳng nhiều như báo cáo. Và câu chuyện đằng sau những hành vi lừa gạt và gian lận kiểu như thế này là gì?
Sự gian lận diễn ra hàng ngày trong kinh doanh
Chúng ta đang sống trên một thế giới toàn cầu hóa, và tất nhiên mọi người đều quan tâm đến những tội ác và sự tàn phá ảnh hưởng đến xã hội chung của chúng ta. Ai cũng mong đợi ở những nhà chính trị và các doanh nhân có thể đưa ra phương hướng và thực thi những biện pháp nhằm hạn chế gian lận trong kinh doanh dẫn đến sự mất ổn định xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế, chúng ta phát hiện ra rằng rất nhiều kẻ lừa đảo là những người đứng đầu các tập đoàn hay các nhà chính trị do chính chúng ta bầu ra. Sự lừa đảo và gian lận ngày nay được thừa nhận như là một phần trong hoạt động kinh doanh và đời sống chính trị. Hàng ngày, trên các báo chí đều thấy những tít nổi bật về những vụ việc như thế này.
Theo báo cáo gần đây của Control Risks Group, các công ty làm ăn chân chính đang bị mất dần lợi thế so với các đối thủ cạnh tranh không trung thực ngày càng phát triển trên một diện rộng và ảnh hưởng đến mọi mặt của nền kinh tế. Đặc biệt những vụ tham nhũng hay xảy ra trong các ngành công nghiệp xây dựng, khai khoáng, khí đốt và dầu mỏ. Vì đó là nơi có các dự án giá trị lớn. Bản nghiên cứu này cũng cho thấy hối lộ đã trở thành một “vấn nạn lớn trên thế giới”.
Có nhiều yếu tố cấu thành nên sự gian lận, song có thể nói phần lớn nó xuất phát từ bản năng cơ bản của con người. Đó là lòng tham. Đối với nhiều người, để có quyền lực, sự thăng tiến, giàu sang hay một cuộc sống tốt đẹp hơn, họ phải trả bằng sự cố gắng và làm việc chăm chỉ. Song có một số người khác lại không đi theo cách này, khi nhu cầu không được đáp ứng và họ muốn phải được thỏa mãn ngay lập tức bằng bất cứ giá nào.
Ông Sam Currin, một cựu luật sư Mỹ, thẩm phán và chủ tịch đảng Cộng hòa Bắc Carolina, hiện nay đang đứng trước bản án bốn mươi ba năm tù sau khi thú nhận phạm tội chuyển tiền trái phép, gian lận thuế và gây cản trở việc thi hành pháp luật. Tờ báo Người quan sát Charlotte đã tường thuật lại vụ việc này như sau: ông Currin đã chiếm đoạt 1,45 triệu đô-la trong số tiền thu được từ hoạt động mà những người công tố viên gọi là “một kế hoạch gian lận cổ phần/chứng khoán lớn”. Ông ta cũng bị buộc tội cản trở quá trình điều tra của đoàn hội thẩm và bị vạch trần âm mưu chuyển tiền từ một công ty nước ngoài tới cục thuế Nội địa (Internal Revenue Service).
Một trong những khách hàng của ông Currin đã “tạo ra” hàng chục triệu đô-la bằng mánh khóe bán cổ phiếu qua hộp thư, fax công cộng và các phương tiện khác. Currin đã giúp chuyển tiền kiếm được bằng cách bất chính qua tài khoản tin cậy của hãng luật do ông ta đứng đầu và đút túi 240.000 đô-la. Sự việc bị phát hiện qua việc hoàn thuế thu nhập năm 2004. Sau đó, ông Currin còn có âm mưu giấu giếm những tài liệu và đưa ra những lời khai man trước tòa.
Bốn mươi ba năm tù là một khoảng thời gian dài trong đời bất cứ người nào, đặc biệt là một người đã từng là một công tố viên, một vị quan tòa và là một nhà chính trị cấp cao. Một cuộc đời bị giam giữ theo những quy định khắc nghiệt, không có tự do. Có phải lòng tham vô độ đã làm mù mắt và đưa con người ta đến phạm tội gian lận và lừa đảo hay không?
Suy nghĩ của kẻ gian lận thương mại
Chúng ta hiểu gì về diễn biến tâm lý bên trong những hành vi của Currin hay Skilling để nhằm mục đích ngăn chặn những hành vi này?
David Wolfe, người sáng lập ra tập đoàn Glasgow Forensic Group và Dana Hermanson, một nhà nghiên cứu thuộc trung tâm Corporate Governance, giảng viên trường đại học Tennessee đã xây dựng thuyết gọi là “Bốn yếu tố liên quan đến sự gian lận”. Ông cho rằng chính yếu tố thứ tư – năng lực của cá nhân đóng vai trò chính, làm xuất hiện hành động gian lận ở con người.
Trong nhiều trường hợp, đặc biệt khi số tiền gian lận lên tới hàng tỷ đô-la, nếu không phải là người có quyền lực hay năng lực thật sự thì khó lòng thực hiện được.
Chúng ta hãy xem xét bốn yếu tố dẫn đến hành động gian lận để có thể hiểu được diễn biến suy nghĩ của những người có hành vi này:
1. Đông cơ: tôi muốn, tôi phải có thứ này – dẫn đến gian lận.
2. Cơ hội: Có một điểm yếu nào đó ở trong hệ thống mà người có quyền lực có thể khai thác, từ đó sự gian lận có thể xảy ra.
3. Sự hợp lý hóa: tôi tin chắc rằng cái giá phải trả cho hành vi gian lận này chỉ là sự rủi ro.
4. Năng lực: tôi có những điều kiện cần thiết, khả năng và quyền lực để thực hiện điều này. Tôi nhận ra cơ hội để thực hiện hành vi gian lận này và biến nó thành hiện thực.
Bốn nhân tố này đan xen nhau, nhưng tác nhân đầu tiên và cơ bản cho hành vi gian lận là năng lực. Theo quan điểm này, việc xem xét hành động gian lận không chỉ dựa vào yếu tố cơ hội do tình thế và môi trường đem đến – cách xem xét theo truyền thống trước đây.
Bốn nhân tố này tập trung kích thích phản xạ của con người. Ví dụ, khởi đầu của quá trình kích thích có thể là ý nghĩ đến lợi nhuận hoặc phớt lờ những yếu tố phương hại đến sự kinh doanh chân chính. Hãy xem xét một kịch bản sau đây. Một luật sư đến gặp một chủ ngân hàng chuyên về kinh doanh cổ phiếu và đầu tư ở một đất nước rất xa nơi mình sống và yêu cầu mở một tài khoản khởi đầu cho một mối quan hệ.
Câu hỏi đặt ra tại sao anh ta lại chọn đúng ngân hàng này? Anh ta tuyên bố rằng cha mẹ anh ta trước đây đã từng sử dụng tài khoản ở đây. Câu trả lời cứ cho là chấp nhận được đi. Ba ngày sau đó khách hàng gọi điện đến ngân hàng và nói rằng anh ta vừa được trả một khoản tiền trong một vụ kiện tại một nước khác cách xa hàng nghìn dặm. Giá trị của lượng tiền này không quá lớn. Chính vì số tiền không quá lớn nên việc ai chuyển tiền vào tài khoản của vị luật sư không được để ý đến.
Trên thực tế, ngân hàng biết rất ít về vị khách hàng luật sư. Anh ta, sau tất cả các cuộc gặp gỡ mang tính chất cá nhân, là một người có nghề nghiệp (ít ra là trong các vi-dít của anh ta nói lên điều đó); gia đình anh ta có mối liên quan đến ngân hàng và được nhìn nhận như là một khách hàng lớn trong tương lai. Tại sao vậy? Vì số lượng tiền trong tài khoản tăng lên sẽ góp phần làm hoạt động kinh doanh của ngân hàng phát triển, vậy mục tiêu chi phối tất cả các ma thuật này chính là lợi nhuận.
Bi kịch của câu chuyện nằm ở chỗ chủ ngân hàng đã không có ý định tìm hiểu bản chất của các khoản tiền mờ ám khi thiết lập một mối quan hệ mới và phớt lờ đi hoặc là không quan tâm đến các dấu hiệu nguy hiểm được báo trước.
Động lực là thu được càng nhiều lợi nhuận từ kinh doanh càng tốt, thậm chí kể cả việc có thể hoạt động kinh doanh không tồn tại. Khi những ý nghĩ về đồng tiền xâm chiếm trong đầu, thì những cảm giác thông thường bị ném ra ngoài cửa sổ.
Diễn biến tâm lý đằng sau hành vi gian lận
Các phản xạ có điều kiện thông thường được phát triển thông qua việc dạy đỗ, đào tạo. Tuy nhiên kinh nghiệm cho thấy sự sai lạc của các phản xạ có điều kiện này có thể xảy ra đối với bất kỳ ai. Vậy điều gì khiến chúng ta bị rơi vào sự sai lạc này?
Các chuyên gia tâm lý cho rằng, trong mỗi chúng ta đều có một bộ phận cấu thành tâm lý. Đó là khả năng phân biệt để lựa chọn. Chúng ta có khả năng quyết định hành vi của bản thân mình thông qua việc phân biệt được trường hợp nào, dấu hiệu nào, triệu chứng nào là nguy hiểm. Lựa chọn để tránh những các dấu hiệu nguy hiểm mà chúng ta cảm nhận được. Lợi nhuận hay lợi ích mà chúng ta thu được một cách không chính đáng qua con đường gian lận là lựa chọn sai lạc, không phù hợp với phản xạ tự nhiên của con người, vì chúng ta đã lựa chọn sự nguy hiểm.
Quay trở lại với câu chuyện đã đưa ra, chúng ta thử xem lựa chọn sai lạc dẫn đến hành vi gian lận ở đây là gì? Ông chủ ngân hàng khi tiếp xúc với khách hàng tiềm năng, người có mục đích mờ ám được che đậy bằng các thuật ngữ hoặc những lời văn cầu kỳ mà ông trước đây chưa từng biết đến hoặc không hiểu được. Song ông ta vẫn tiếp tục thương thuyết vì sợ rằng mình bị chê là một người không có kinh nghiệm, hoặc tồi tệ hơn nữa là không thông thạo trong lĩnh vực ngân hàng.
Sự sai lạc trong hành vi hay sự lựa chọn của ông ta ở đây là gì? Các phản xạ hành vi thông thường đã bị lấn át bởi suy nghĩ sợ bị nhận ra là một người thiếu tự tin hoặc sợ bị phát hiện là ngớ ngẩn hay không có kinh nghiệm. Đây chính là một sự sai lạc của các phản xạ có điều kiện có thể xảy ra ở bất cứ cá nhân nào và khi đó những tiêu chuẩn hành vi thông thường không được xem xét đến.
Hành vi thông thường ở đây là gì? Thông thường các ông chủ ngân hàng để phòng ngừa bất trắc sẽ kiểm tra thông tin qua các đồng nghiệp để đảm bảo chắc chắn rằng quyết định của mình là đúng đắn. Và như vậy, rất có thể ông ta sẽ nhận được ở các đồng nghiệp lời khuyên không nên tiếp tục thương thuyết và theo đuổi mối quan hệ này.
Qua câu chuyện này, có thể rút ra một điều là hầu hết những hiện tượng khác thường xảy ra khi xuất hiện sự đe dọa bị mất mát lợi nhuận, hoặc sợ bị cấp trên phát hiện ra, dẫn đến sự thay đổi diễn ra bên trong ý nghĩ của ông chủ ngân hàng – “một sự chuyển hướng niềm tin” mà có thể so sánh với “hội chứng Stockholm”.
Thuật ngữ này xuất hiện sau khi vụ cướp nhà băng Kredibanker xảy ra tại Normalmstorg, Stockholm. Tại đó các tên cướp ngân hàng đã bắt giữ các nhân viên làm con tin từ ngày 23 -28/08/1973. Trong vụ cướp này, các nạn nhân đã rất gắn bó với những kẻ đã bắt giữ họ, thậm chí đã bào chữa cho những tên cướp ngân hàng khi họ được giải thoát và trả lại tự do sau 6 ngày bị giam giữ. Thuật ngữ này được đưa ra bởi một nhà tội phạm và tâm lý học - Nils Bejerot, người đã giúp đỡ lực lượng cảnh sát trong suốt quá trình diễn ra vụ cướp.
Hội chứng Stockholm là thuật ngữ mô tả một trạng thái tâm lý, trong đó người bị bắt cóc lâu ngày chuyển từ sợ hãi và căm ghét sang thông cảm và quý mến chính kẻ bắt cóc mình. Theo các nhà tâm lý, đó là cơ chế tự vệ tự giác hoặc tự phát của người bị bắt cóc – lựa theo và hòa nhập hẳn vào tâm lý của kẻ bắt cóc - nhằm thích nghi với tình huống và tránh nguy hiểm.
Đem câu chuyện này so sánh với câu chuyện quản lý của ông chủ ngân hàng – người đã “chuyển hướng niềm tin” từ các đồng nghiệp của mình sang kẻ lừa đảo. Lòng tin đối với một kẻ lạ mặt, người sẽ tiến hành kinh doanh với mình trong một thời gian dài, hoàn toàn không dựa trên một cơ sở thực tế nào cả. Ông chủ ngân hàng tin người khách mập mờ kia có thể mang lại lợi ích cho mình được xem như là một phản xạ có điều kiện sai lạc mà tác nhân của nó là lòng tham và sự kiêu ngạo.
Cuộc sống vẫn tiếp diễn và những hành vi lừa dối trong kinh doanh vẫn tiếp tục xảy ra, song việc nhìn ra bản chất và diễn biến tâm lý bên trong những suy nghĩ của kẻ gian lận cũng là một cách để chúng ta ngăn chặn và kìm chế sự phát triển của chúng.
Tuấn Anh
(Dịch từ The gtnews)
Theo Bwportal