Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Văn học dân gian
Điển cố, giai thoại văn học
Giai thoại về Tản Đà.
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="Thandieu2" data-source="post: 18536" data-attributes="member: 1323"><p style="text-align: center"><strong><span style="color: black">Giai thoại về Tản Đà</span></strong></p><p></p><p><span style="color: black">Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh năm 1888, mất năm 1939, ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Quê ông ở gần núi Tản sông Đà, nên ông lấy hiệu là Tản Đà.</span></p><p> </p><p><span style="color: black">Ông thông minh, học chữ Hán giỏi, nhưng thi mấy khoa không đỗ, sinh ra chán nản. Sau ông bỏ nghề thi cử, chuyên làm thơ, làm báo. Thơ ca của ông khá gần gũi với thơ ca dân gian, có một nghệ thuật đặc biệt điêu luyện, được nhiều người ưa thích.</span></p><p> </p><p><span style="color: black">Tương truyền Tản Đà rất thích ăn rau sắng, nhất là loại rau sắng chùa Hương. Nhiều lần ông đã ca tụng thứ rau này trong thơ ca của mình.</span></p><p> </p><p><span style="color: black">Khoảng năm Nhâm Tuất (1922) ông ở trong một hoàn cảnh rất túng bấn, đến dịp hội chùa Hương 18 tháng 3 ông không đi được. Ngồi nhà nhớ hội chùa, nhớ rau sắng, ông ngâm bài ca tự tình rằng:</span></p><p> </p><p><strong><em><span style="color: black">Muốn ăn rau sắng chùa Hương,</span></em></strong></p><p><em><strong><span style="color: black">Tiền đò ngại tốn con đường ngại xa</span></strong></em></p><p><em><strong><span style="color: black">Mình đi ta ở lại nhà,</span></strong></em></p><p><em><strong><span style="color: black">Cái dưa thì khú, cái cà thì thâm.</span></strong></em></p><p> </p><p><span style="color: black">Sau đó bài thơ được phổ biến trên báo.</span></p><p><span style="color: black">Cuối tháng 3 năm ấy, ông bỗng nhận được một bưu kiện gửi đến, không đề là của ai. Mở xem thì là một bó rau sắng chùa Hương còn xanh tươi, kèm thêm mảnh giấy con đề 4 câu thơ rằng:</span></p><p> </p><p><strong><em><span style="color: black">Kính dâng rau sắng chùa Hương,</span></em></strong></p><p><em><strong><span style="color: black">Tiền đò đỡ tốn, con đường đỡ xa,</span></strong></em></p><p><em><strong><span style="color: black">Không đi thời gửi lại nhà,</span></strong></em></p><p><em><strong><span style="color: black">Thay cho dưa khú cùng là cà thâm.</span></strong></em></p><p><em><strong><span style="color: black">Ký tên: Đỗ Trang nữ.</span></strong></em></p><p> </p><p><span style="color: black">Nhà thơ vừa cảm động, vừa lấy làm lạ không biết món quà của ai. Với trí óc đầy mơ mộng, ông gọi ngay người cho quà là "người tình nhân không quen biết". Ông không biết gửi lời cảm tạ về đâu, nên đành làm một bài thơ đăng lên báo vào mục Truyện thế gian. Bài thơ như sau:</span></p><p> </p><p><strong><em><span style="color: black">Mấy lời cảm tạ tri âm</span></em></strong></p><p><em><strong><span style="color: black">Đồng bang là nghĩa, đồng tâm là tình.</span></strong></em></p><p><em><strong><span style="color: black">Đường xa rau vẫn còn xanh,</span></strong></em></p><p><em><strong><span style="color: black">Tấm lòng thơm thảo, bát canh ngọt ngào.</span></strong></em></p><p><em><strong><span style="color: black">Yêu nhau xa cách càng yêu,</span></strong></em></p><p><em><strong><span style="color: black">Dẫu rằng suông nhạt còn nhiều chứa chan,</span></strong></em></p><p><em><strong><span style="color: black">Nước non khuất nẻo ngư nhàn,</span></strong></em></p><p><em><strong><span style="color: black">Tạ lòng xin mượn "thế gian" đưa tình. </span></strong></em></p><p> </p><p><span style="color: black">Núi Tản, sông Đà là quê hư&shy;ơng đã trở thành bút danh nổi tiếng của nhà thơ: Tản Đà!</span></p><p> </p><p><strong><em><span style="color: black">Mặt nư&shy;ớc sông Đà con cá nhảy</span></em></strong></p><p><em><strong><span style="color: black">Chập chờn non Tản cái diều bay.</span></strong></em></p><p> </p><p><span style="color: black">Tản Đà xuất thân trong một gia đình khoa bảng: Thân phụ là cử nhân Nguyễn Văn Kế làm Ngự sử d&shy;ưới thời Tự Đức. Từ nhỏ ông đã đ&shy;ược giao phó cho ngư&shy;ời anh khác mẹ là Phó bảng Nguyễn Tái Tích rèn cặp. Năm 14 tuổi, ông đã thành thạo thi phú, sớm có bài đăng báo Hư&shy;ơng Cảng.</span></p><p> </p><p><span style="color: black">Tản Đà là ngư&shy;ời thông minh, uyên bác Hán học. Khi anh chết (1916), ông quyết định lấy nghiệp cầm bút làm kế sinh nhai: "Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng", nghề làm báo đã đư&shy;a ông đi khắp n&shy;ước.</span></p><p> </p><p><span style="color: black">Với cốt cách của một nhà nho tài tử, Tản Đà nổi lên như&shy; một ngôi sao sáng, lạ trên bầu trời văn ch&shy;ương Việt Nam ba thập niên đầu thế kỷ. Đó là một cây bút độc đáo, xông xáo trên nhiều lĩnh vực: làm thơ (Giấc mộng lớn, Thề non nư&shy;ớc...), soạn tuồng (Tây Thi, Thiên Thai...), Viết nghị luận bàn luân lý giáo dục, dịch thuật (Thơ Đư&shy;ờng, Kinh Thi...). Ông còn viết biên khảo, viết lịch sử văn học. Bằng một nghệ thuật điêu luyện, một cá tính sức cạnh, phóng khoáng, một hồn thơ dân dã, ngọt ngào, Tản Đà đã thổi một luồng gió mới, khai sinh cho nhiều thể loại của văn học Việt Nam hiện đại. Tản Đà là chiếc cầu bắc ngang qua văn học cổ điển và các nhà Thơ Mới.</span></p><p> </p><p><strong><span style="color: black">Các câu chuyện kể rằng:</span></strong></p><p> </p><p><strong><span style="color: black">Để có đất trồng húng</span></strong></p><p> </p><p><span style="color: black">Ông bạn tâm giao Lư&shy;ơng Ngọc Tùng, một ngư&shy;ời rất hâm mộ Tản Đà và rất hào phóng, thấy Tản Đà nghèo, nhã ý mời ông đem gia quyến về ở với mình cốt để khỏi lo phần sinh kế, đem hết tâm sức phụng sự cho nghệ thuật.</span></p><p> </p><p><span style="color: black">Ông này là một nhà doanh nghiệp lớn. Dinh cơ nhà ông xây kiểu tối tân, sân s&shy;ướng lát toàn gạch.</span></p><p> </p><p><span style="color: black">Một hôm, ông ta đi đâu về, ngạc nhiên hết sức khi thấy thi sĩ Tản Đà xoay trần cầm cuốc phá một khoảng sân gạch, ông hỏi, thi sĩ gắt:</span></p><p> </p><p><span style="color: black">- Sân sư&shy;ớng gì lại lát gạch kín mít chẳng chừa một khoảng đất nào để cấy ít cây húng láng phòng khi cần đến chứ? Ăn uống thiếu rau cỏ, nhiều khi rất bực, chén rư&shy;ợu nào cũng cứ nhạt phèo.</span></p><p> </p><p><span style="color: black">Ông chủ mỉm c&shy;ười, dễ dãi gật đầu rồi cũng xắn tay áo giúp nhà thơ một tay.</span></p><p> </p><p><span style="color: black">* * *</span></p><p> </p><p><strong><span style="color: black">Ra đời nh&shy;ư thế trên xe điện</span></strong></p><p> </p><p><span style="color: black">Tản Đà là một bậc kỳ tài về dịch thơ. Tản Đà kể chuyện ông dịch bài đề từ Liêu trai chí dị thế này:</span></p><p> </p><p><span style="color: black">Ông dịch bài này trên xe điện. Hôm ấy là ngày in đến những trang cuối cùng của cuốn Liêu trai. Bài thơ này phải đ&shy;ưa ngay. Thế mà lúc bư&shy;ớc chân lên xe điện để tới nhà in vẫn ch&shy;ưa đ&shy;ược một chữ nào cả. Thấy có một ngư&shy;ời nhà quê, ông còn ngồi nghe chuyện phiếm. Thế rồi đột nhiên thi tứ nảy đến. Ông ngồi nhẩm dịch mà chỉ có một quãng từ chợ Hôm đến Bờ Hồ thì xong. Đến nhà in chỉ còn việc chép ra.</span></p><p> </p><p><span style="color: black">Bài đề từ của cuốn Liêu trai đã ra đời nh&shy;ư thế trên xe điện:</span></p><p> </p><p><em><strong><span style="color: black">Nói láo mà chơi! Nghe láo chơi!</span></strong></em></p><p><em><strong><span style="color: black">Dàn d&shy;ưa lún phún hạt m&shy;ưa rơi,</span></strong></em></p><p><em><strong><span style="color: black">Chuyện đời hẳn chán không buồn nhắc,</span></strong></em></p><p><span style="color: black"><em><strong>Thơ thẩn nghe mưa đọc mấy lời!</strong></em> </span></p><p> </p><p style="text-align: right"><em><span style="color: black">Nguồn: Internet.</span></em></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="Thandieu2, post: 18536, member: 1323"] [CENTER][B][COLOR=black]Giai thoại về Tản Đà[/COLOR][/B][/CENTER] [COLOR=black]Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh năm 1888, mất năm 1939, ở làng Khê Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây. Quê ông ở gần núi Tản sông Đà, nên ông lấy hiệu là Tản Đà.[/COLOR] [COLOR=black]Ông thông minh, học chữ Hán giỏi, nhưng thi mấy khoa không đỗ, sinh ra chán nản. Sau ông bỏ nghề thi cử, chuyên làm thơ, làm báo. Thơ ca của ông khá gần gũi với thơ ca dân gian, có một nghệ thuật đặc biệt điêu luyện, được nhiều người ưa thích.[/COLOR] [COLOR=black]Tương truyền Tản Đà rất thích ăn rau sắng, nhất là loại rau sắng chùa Hương. Nhiều lần ông đã ca tụng thứ rau này trong thơ ca của mình.[/COLOR] [COLOR=black]Khoảng năm Nhâm Tuất (1922) ông ở trong một hoàn cảnh rất túng bấn, đến dịp hội chùa Hương 18 tháng 3 ông không đi được. Ngồi nhà nhớ hội chùa, nhớ rau sắng, ông ngâm bài ca tự tình rằng:[/COLOR] [B][I][COLOR=black]Muốn ăn rau sắng chùa Hương,[/COLOR][/I][/B] [I][B][COLOR=black]Tiền đò ngại tốn con đường ngại xa[/COLOR][/B][/I] [I][B][COLOR=black]Mình đi ta ở lại nhà,[/COLOR][/B][/I] [I][B][COLOR=black]Cái dưa thì khú, cái cà thì thâm.[/COLOR][/B][/I] [COLOR=black]Sau đó bài thơ được phổ biến trên báo.[/COLOR] [COLOR=black]Cuối tháng 3 năm ấy, ông bỗng nhận được một bưu kiện gửi đến, không đề là của ai. Mở xem thì là một bó rau sắng chùa Hương còn xanh tươi, kèm thêm mảnh giấy con đề 4 câu thơ rằng:[/COLOR] [B][I][COLOR=black]Kính dâng rau sắng chùa Hương,[/COLOR][/I][/B] [I][B][COLOR=black]Tiền đò đỡ tốn, con đường đỡ xa,[/COLOR][/B][/I] [I][B][COLOR=black]Không đi thời gửi lại nhà,[/COLOR][/B][/I] [I][B][COLOR=black]Thay cho dưa khú cùng là cà thâm.[/COLOR][/B][/I] [I][B][COLOR=black]Ký tên: Đỗ Trang nữ.[/COLOR][/B][/I] [COLOR=black]Nhà thơ vừa cảm động, vừa lấy làm lạ không biết món quà của ai. Với trí óc đầy mơ mộng, ông gọi ngay người cho quà là "người tình nhân không quen biết". Ông không biết gửi lời cảm tạ về đâu, nên đành làm một bài thơ đăng lên báo vào mục Truyện thế gian. Bài thơ như sau:[/COLOR] [B][I][COLOR=black]Mấy lời cảm tạ tri âm[/COLOR][/I][/B] [I][B][COLOR=black]Đồng bang là nghĩa, đồng tâm là tình.[/COLOR][/B][/I] [I][B][COLOR=black]Đường xa rau vẫn còn xanh,[/COLOR][/B][/I] [I][B][COLOR=black]Tấm lòng thơm thảo, bát canh ngọt ngào.[/COLOR][/B][/I] [I][B][COLOR=black]Yêu nhau xa cách càng yêu,[/COLOR][/B][/I] [I][B][COLOR=black]Dẫu rằng suông nhạt còn nhiều chứa chan,[/COLOR][/B][/I] [I][B][COLOR=black]Nước non khuất nẻo ngư nhàn,[/COLOR][/B][/I] [I][B][COLOR=black]Tạ lòng xin mượn "thế gian" đưa tình. [/COLOR][/B][/I] [COLOR=black]Núi Tản, sông Đà là quê hư­ơng đã trở thành bút danh nổi tiếng của nhà thơ: Tản Đà![/COLOR] [B][I][COLOR=black]Mặt nư­ớc sông Đà con cá nhảy[/COLOR][/I][/B] [I][B][COLOR=black]Chập chờn non Tản cái diều bay.[/COLOR][/B][/I] [COLOR=black]Tản Đà xuất thân trong một gia đình khoa bảng: Thân phụ là cử nhân Nguyễn Văn Kế làm Ngự sử d­ưới thời Tự Đức. Từ nhỏ ông đã đ­ược giao phó cho ngư­ời anh khác mẹ là Phó bảng Nguyễn Tái Tích rèn cặp. Năm 14 tuổi, ông đã thành thạo thi phú, sớm có bài đăng báo Hư­ơng Cảng.[/COLOR] [COLOR=black]Tản Đà là ngư­ời thông minh, uyên bác Hán học. Khi anh chết (1916), ông quyết định lấy nghiệp cầm bút làm kế sinh nhai: "Nôm na phá nghiệp kiếm ăn xoàng", nghề làm báo đã đư­a ông đi khắp n­ước.[/COLOR] [COLOR=black]Với cốt cách của một nhà nho tài tử, Tản Đà nổi lên như­ một ngôi sao sáng, lạ trên bầu trời văn ch­ương Việt Nam ba thập niên đầu thế kỷ. Đó là một cây bút độc đáo, xông xáo trên nhiều lĩnh vực: làm thơ (Giấc mộng lớn, Thề non nư­ớc...), soạn tuồng (Tây Thi, Thiên Thai...), Viết nghị luận bàn luân lý giáo dục, dịch thuật (Thơ Đư­ờng, Kinh Thi...). Ông còn viết biên khảo, viết lịch sử văn học. Bằng một nghệ thuật điêu luyện, một cá tính sức cạnh, phóng khoáng, một hồn thơ dân dã, ngọt ngào, Tản Đà đã thổi một luồng gió mới, khai sinh cho nhiều thể loại của văn học Việt Nam hiện đại. Tản Đà là chiếc cầu bắc ngang qua văn học cổ điển và các nhà Thơ Mới.[/COLOR] [B][COLOR=black]Các câu chuyện kể rằng:[/COLOR][/B] [B][COLOR=black]Để có đất trồng húng[/COLOR][/B] [COLOR=black]Ông bạn tâm giao Lư­ơng Ngọc Tùng, một ngư­ời rất hâm mộ Tản Đà và rất hào phóng, thấy Tản Đà nghèo, nhã ý mời ông đem gia quyến về ở với mình cốt để khỏi lo phần sinh kế, đem hết tâm sức phụng sự cho nghệ thuật.[/COLOR] [COLOR=black]Ông này là một nhà doanh nghiệp lớn. Dinh cơ nhà ông xây kiểu tối tân, sân s­ướng lát toàn gạch.[/COLOR] [COLOR=black]Một hôm, ông ta đi đâu về, ngạc nhiên hết sức khi thấy thi sĩ Tản Đà xoay trần cầm cuốc phá một khoảng sân gạch, ông hỏi, thi sĩ gắt:[/COLOR] [COLOR=black]- Sân sư­ớng gì lại lát gạch kín mít chẳng chừa một khoảng đất nào để cấy ít cây húng láng phòng khi cần đến chứ? Ăn uống thiếu rau cỏ, nhiều khi rất bực, chén rư­ợu nào cũng cứ nhạt phèo.[/COLOR] [COLOR=black]Ông chủ mỉm c­ười, dễ dãi gật đầu rồi cũng xắn tay áo giúp nhà thơ một tay.[/COLOR] [COLOR=black]* * *[/COLOR] [B][COLOR=black]Ra đời nh­ư thế trên xe điện[/COLOR][/B] [COLOR=black]Tản Đà là một bậc kỳ tài về dịch thơ. Tản Đà kể chuyện ông dịch bài đề từ Liêu trai chí dị thế này:[/COLOR] [COLOR=black]Ông dịch bài này trên xe điện. Hôm ấy là ngày in đến những trang cuối cùng của cuốn Liêu trai. Bài thơ này phải đ­ưa ngay. Thế mà lúc bư­ớc chân lên xe điện để tới nhà in vẫn ch­ưa đ­ược một chữ nào cả. Thấy có một ngư­ời nhà quê, ông còn ngồi nghe chuyện phiếm. Thế rồi đột nhiên thi tứ nảy đến. Ông ngồi nhẩm dịch mà chỉ có một quãng từ chợ Hôm đến Bờ Hồ thì xong. Đến nhà in chỉ còn việc chép ra.[/COLOR] [COLOR=black]Bài đề từ của cuốn Liêu trai đã ra đời nh­ư thế trên xe điện:[/COLOR] [I][B][COLOR=black]Nói láo mà chơi! Nghe láo chơi![/COLOR][/B][/I] [I][B][COLOR=black]Dàn d­ưa lún phún hạt m­ưa rơi,[/COLOR][/B][/I] [I][B][COLOR=black]Chuyện đời hẳn chán không buồn nhắc,[/COLOR][/B][/I] [COLOR=black][I][B]Thơ thẩn nghe mưa đọc mấy lời![/B][/I] [/COLOR] [RIGHT][I][COLOR=black]Nguồn: Internet.[/COLOR][/I][/RIGHT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
VĂN HỌC
Văn học dân gian
Điển cố, giai thoại văn học
Giai thoại về Tản Đà.
Top