Chia Sẻ Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của đoạn trích Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm).

Thandieu2

Thần Điêu
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người . Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân . Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm . Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm , ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân . Tư tưởng ấy đã qui tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước . Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước

Đất nước.jpg

Đất Nước
Tác giả: Nguyễn Khoa Điềm

Khi ta lớn Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa.." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó..
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ra cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời..
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau 4.000 năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào 4.000 năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhỏ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong 4.000 lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyển lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước là Đất Nước nhân dân
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết "yêu em từ thở trong nôi"
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
Người dạy ta nghèo ăn cháo ăn rau
Biết ăn ớt để đánh lừa cái lưỡi
Cái cuốc, con dao, đánh lừa cái tuổi
Chén rượu đánh lừa con mỏi, cơn đau
Con nộm nag tre đánh lừa cái chết
Đánh lừa cái rét là ăn miếng trầu
Đánh lừa thằng giặc là chuyện Trạng Quỳnh
Nhưng lạ lùng thay, nhân dân thông minh
Không hề lừa ta dù cao dao, cổ tích
Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật
Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời
Dẫu phải cay đắng dập vùi
Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu
Cây khế chua có đại bàng đến đậu
Chim ăn rồi trả ngon ngọt cho ta
Đất đai cỗi cằn thì người sẽ nở hoa
Hoa của đất, người trồng cây dựng cửa
Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa
Thì tin yêu ngay thẳng đón ta vào
Ta nghẹn ngào, Đất Nước Việt Nam ơí
Em nghe không trái thị đã rơi xuống tay người
Trai không chỉ rơi vì sức hút đất đai
Trái rơi vì tay người ao ước
Khi trái chạm tay người và người ấm ủ
Thì lừng hương và cô Tấm bước ra
Đi trả thù và sống Tự do
Không rơi xuống bùn, ôi trái thị quê ta
Để bùn lấm và thành bùn vạn kiếp
Rơi vào tay người, đó là định luật
Của đấu tranh và nhân nghĩa Việt Nam
Tuổi trẻ ơi trong sương gió tháng năm
Ta đã lớn rồi, chín đầy hy vọng
Hãy ngã xuống tay nhân dân, hỡi sắc vàng của nắng
Hỡi hương thơm của nồng mặn mồ hôi..
Hãy ngã vào tay nhân dân, đừng vãi đừng rơi
Đừng do dự, đừng hoài nghi nữa
Hãy yêu nhân dân và nghe người nhắn nhủ
Hãy tìm sức mạnh trên cơ thể nhân dân
Nhân dân đang đi lên đội ngũ trùng trùng
Thế vô tận của nghìn năm giết giặc
Lửa đã cháy hồng hào mặt đất
Mùa chín tình yêu, mùa chín hận thù
Không bao giờ xương máu phải bơ vơ
Ôi sông núi uy nghi ngàn dặm đất
Có nghe tiếng chúng con: Xin có mặt
Nguyện làm người xung kích của quê hương
Đấy tiếng hát chúng con: tiếng hát xuống đường!


 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:
ĐẤT NƯỚC

ĐẤT NƯỚC
Trích trường ca “Mặt đường khát vọng”
- Nguyễn Khoa Điềm -


I. Kiến thức cơ bản:

Câu 1: Trình bày những nét chính về tác giả Nguyễn Khoa Điềm.

- Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, tại Thừa Thiên – Huế trong một gia đình trí thức có truyền thống yêu nước và cách mạng, học tập và trưởng thành trên miền Bắc những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, tham gia chiến đấu và hoạt động văn nghệ ở miền Nam thời chống Mĩ cứu nước.
- Tác phẩm chính: Đất ngoại ô, Mặt đường khát vọng, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm,…

- Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ thời chống Mĩ. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người Việt Nam.

Câu 2
: Cho biết xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác của đoạn trích Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm).

- Đoạn trích Đất Nước rút từ trường ca Mặt đường khát vọng, hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam, về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc chiến đấu chống Mĩ. Đoạn trích thuộc phần đầu chương V của trường ca, là chương đặc sắc nhất bộc lộ tư tưởng cốt lõi: Đất Nước của nhân dân.

Câu 3: Nêu khái quát nội dung của đoạn trích Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm).

- Đoạn trích thể hiện sự cảm nhận và lí giải của tác giả về đất nước và có thể chia làm 4 phần:

- Phần 1: Từ đầu cho đến “Đất Nước có từ ngày đó…”. Trả lời cho câu hỏi: Đất nước có từ bao giờ? Đất nước rất thân thuộc, gần gũi và có thể cảm nhận qua những gì hết sức đơn sơ: câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu bà ăn, ngôi nhà, hạt gạo,…Lịch sử lâu đời của đất nước được cắt nghĩa bằng những câu thơ gợi nhớ đến các truyền thuyết xa xưa: Trầu cau, Thánh Gióng,…, đến nền văn minh sông Hồng cùng những phong tục tập quán lâu đời. Đó chính là đất nước được cảm nhận ở chiều sâu văn hoá và lịch sử.

- Phần 2: Tiếp theo cho đến “Đến những ngày tháng thơ mộng”. Trả lời cho câu hỏi: Đất nước là gì? Đất nước được cảm nhận trong sự thống nhất, hài hoà các phương diện địa lý và lịch sử, không gian và thời gian. Tác giả chia tách ý niệm đất nước thành hai thành tố đất và nước để cảm nhận và suy tư, thể hiện một cái nhìn mới về hình tượng đất nước thiêng liêng vừa mang tính cá thể vừa hết sức táo bạo: Đất là nơi anh đến trường. Nước là nơi em tắm. Đất Nước là nơi ta hò hẹn. Đất nước là một cõi không gian đầy thơ mộng với bao kỉ niệm dịu ngọt của tình yêu của các thế hệ trong quá khứ, hiện tại và mai sau. Từ đó, tác giả hướng tới một cái nhìn toàn diện và nhiều chiều về đất nước trong chiều dài của lịch sử, chiều rộng của địa lý và chiều sâu của phong tục tập quán.

- Phần 3: Em ơi em…muôn đời. Suy ngẫm về trách nhiệm của thế hệ mình đối với đất nước. Lời thơ mang giọng điệu tâm tình nên có sức truyền cảm mạnh mẽ.

- Phần 4: Phần còn lại: Nhấn mạnh tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, tư tưởng cốt lõi của cả đoạn trích. Tác giả đã có những phát hiện thú vị và độc đáo về đất nước trên các phương diện: địa lý, lịch sử, văn hoá. Muôn vàn vẻ đẹp của đất nước là kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân, những con người bình thường vô danh. Vì thế, khi nói về bốn ngàn năm lịch sử của đất nước, tác giả không điểm tên các triều đại cùng bao anh hùng trong sử sách mà nhấn mạnh đến lớp lớp người vô danh.

Câu 4
: Nêu giá trị tư tưởng và nghệ thuật của đoạn trích Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm).

- Đoạn trích thể hiện cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử, địa lý, văn hoá,…đặc biệt nhấn mạnh quan niệm “Đất Nước của nhân dân” bằng hình thức biểu đạt giàu tư duy qua giọng thơ trữ tình - chính luận sâu lắng thiết tha.

- Các chất liệu văn hoá dân gian được sử dụng nhuần nhị, sáng tạo, đem lại sức hấp dẫn cho đoạn trích. Hơn thế nữa, nó còn tạo nên một không gian nghệ thuật riêng của đoạn thơ: vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng, bay bổng, thơ mộng.

II.
Đề luyện tập:

Đề 1: Cảm nhận của anh/chị về 9 câu thơ đầu của đoạn trích “Đất Nước”:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
……………………..
Đất Nước có từ ngày đó…”

GỢI Ý

Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, đoạn thơ.

Cảm nhận về đoạn thơ:

- Đoạn thơ trả lời cho câu hỏi: Đất Nước có từ bao giờ? Đất Nước có từ đâu? Được thể hiện bằng câu mệnh đề: “Đất Nước có trong”, “Đất Nước bắt đầu”, “Đất Nước lớn lên”, “Đất Nước có từ”…

- Sự độc đáo trong cách cảm nhận, lí giải về đất nước ở đoạn thơ này là: Đất nước hiện lên không kỳ vĩ, mỹ lệ, trang trọng (như trong các tác phẩm viết cùng đề tài) mà rất cụ thể, bình dị, gần gũi, thân thiết với mỗi người Việt Nam. Đất nước ở ngay trong cuộc sống hàng ngày, trong mỗi gia đình, mỗi căn nhà, trong những vật dụng quen thuộc. Nó có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”, trong “những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể”, trong “cái kèo cái cột” thân quen và trong hạt gạo mà người nông dân “phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”.

- Đất Nước có từ lâu đời:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”

Cụm từ “đã có rồi” không xác định thời gian cụ thể nhưng hình ảnh “miếng trầu” (trong sự tích Trầu cau) và cụm từ quen thuộc “ngày xửa ngày xưa” (trong các câu chuyện cổ tích) đã khẳng định được sự tồn tại lâu đời của đất nước ta.

- Không chỉ hình thành từ lâu đời mà Đất nước còn “lớn lên”, trưởng thành và phát triển nhờ: ý thức đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ thời xa xưa “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc” (hình ảnh cây tre => gợi truyền thuyết Thánh Gióng); nhờ tình nghĩa thuỷ chung, gắn bó với con người mà cụ thể là: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” (thành ngữ “gừng cay muối mặn” trích từ ca dao: Tay bưng chén muối đĩa gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau); nhờ sự lao động cần cù của người lao động:
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Cuối cùng, tác giả khẳng định: “Đất Nước có từ ngày đó…”
Mặt khác, sự cảm nhận ấy cũng làm cho những điều bình dị, quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người mang chứa ý nghĩa sâu xa, thiêng liêng vì nó chính là sự cụ thể hoá của đất nước.

- Nghệ thuật đặc sắc: chất liệu văn hoá, văn học dân gian được sử dụng rất sáng tạo (cổ tích, truyền thuyết, ca dao, thành ngữ…) tạo không khí cổ kính và thơ mộng. Âm điệu thơ nhẹ nhàng như lời kể, lời tâm tình. Từ “Đất Nước” được láy lại nhiều lần và viết hoa một cách trang trọng; cách cảm nhận, thể hiện rất độc đáo, mới mẻ…


Đề 2
:
Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau: “Họ đã sống và chết…Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân”. (Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm).

GỢI Ý

Đoạn thơ thể hiện rõ tư tưởng cốt lõi: “Đất Nước của Nhân dân”.

- Nói về Đất Nước, nhà thơ không nói đến các triều đại và những anh hùng nổi tiếng mà lại khẳng định: Họ - những con người bình dị, vô danh:
“Không ai nhớ mặt đặt tên,
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

- Tác giả lại khẳng định công lao vĩ đại của Nhân dân. Chính họ đã sáng tạo nên mọi giá trị vật chất và tinh thần cho đất nước:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng,
…Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
Những hình ảnh cụ thể và giàu sức gợi cảm: hạt lúa, ngọn lửa, giọng điệu, tên xã, tên làng…đã khẳng định vai trò to lớn của nhân dân, khẳng định công sức, trí tuệ, tâm huyết của bao thế hệ con người Việt Nam trong quá trình dựng nước và giữ nước.

- Nhân dân còn đóng vai trò chủ thể trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Không chỉ tạo nên ruộng đồng, bờ bãi phì nhiêu cho thế hệ sau: “trồng cây hái trái”, họ còn đánh đuổi giặc ngoại xâm và nội thù để giữ gìn độc lập, tự do cho quê hương, đất nước:

“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”

Cuối cùng, tác giả khái quát tư tưởng cốt lõi trong câu thơ cô đúc:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”

Nghệ thuật:

Giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, từ ngữ và hình ảnh cụ thể, biểu cảm, gần gũi với đời sống. Điệp từ “họ” nhấn mạnh vai trò to lớn, công lao vĩ đại của Nhân dân.
Đoạn thơ là bức tượng đài kì vĩ khẳng định, ca ngợi vai trò chủ thể của nhân dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, nhấn mạnh tư tưởng cốt lõi của cả đoạn trích: tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.

Đề 3: Cảm nhận của anh/chị về đoạn thơ sau:

Trong anh và em hôm nay
..............................
Làm nên đất nước muôn đời

Mở bài:
- Giới thiệu vài nét chính về Nguyễn Khoa Điềm và bài thơ Đất Nước.
- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận

Thân bài:
- Giới thiệu khái quát sự cảm nhận mới mẻ, độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước trong cả đoạn thơ đầu.

- Đất Nước không phải là cái gì xa lạ mà có ngay trong sự sống, trong máu thịt của mỗi con người:

- Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nước
- Em ơi em! Đất nước là máu xương của mình

- Đất Nước là sự hài hòa, thống nhất giữa riêng và chung, giữa cá nhân và cộng đồng. Đó là sự gắn bó giữa số phận cá nhân và vận mệnh chung của cộng đồng, dân tộc .Tác giả biện chứng về tinh thần đoàn kết gắn với sự trưởng thành của đất nước:

Khi hai đứa cầm tay
Đất nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn to lớn

( Chú ý khai thác khái niệm cầm tay, mối quan hệ tỉ lệ thuận giữa đoàn kết và sự phát triển của đất nước )
- Sự trường tồn của Đất Nước được gìn giữ, lưu truyền và phát huy qua nhiều thế hệ :

Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng

( Chú ý khai thác mối quan hệ giữa Con ta - đất nước mơ mộng trong tương lai => Chứa đựng niềm tin vào sự trường tồn và tươi đẹp của Đất nước)

- Suy ngẫm về trách nhiệm mỗi người đối với Đất Nước : Đất Nước là máu xương, là sinh mệnh nên trách nhiệm với Đất Nước trước tiên là trách nhiệm với bản thân. Đồng thời mỗi người phải biết gắn bó, san sẻ và hi sinh để làm nên Đất Nước bền vững muôn đời:

Phải biết gắn bó và san sẽ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời.”

(Chú ý khai thác giọng điệu tự nhủ - nhắn nhủ và nghệ thuật điều kiểu câu cầu khiến “Phải biết...”, giả thích khái niệm “hóa thân” )

- Đánh giá chung :
+ Đoạn thơ thể hiện quan niệm cụ thể, gần gũi, mới mẻ và độc đáo về Đất Nước cùng lối thơ tự do nhẹ nhàng, dễ đi vào lòng người.
+ Đoạn thơ tiêu biểu cho phong cách thơ NKĐ: Trữ tình - chính luận.

Kết bài
: Đánh giá chung về nội dung và nghệ thuật đoạn thơ.


Sưu tầm
 
I.Giới thiệu chung

· Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Cũng như­ một số nhà thơ hàng đầu của thời kỳ này, Nguyễn Khoa Điềm tâm huyết với chủ đề lớn của thơ ca đ­ương thời là “Đất nư­ớc”. Trư­ờng ca “Mặt đ­ường khát vọng”, là thành công không chỉ riêng Nguyễn Khoa Điềm mà của cả nền thơ ca kháng chiến chống Mĩ trong việc chiếm lĩnh đề tài Tổ quốc.

· Ra đời 1974 trên chiến tr­ờng Bình Trị Thiên khói lửa, Trư­ờng ca Mặt đường khát vọng đã thành công nhiệm vụ thức tỉnh tinh thần dân tộc của tuổi trẻ đô thị miền Nam, giúp thanh niên vùng địch tạm chiếm nhận rõ bộ mặt xâm lư­ợc của đế quốc Mĩ, hư­ớng về nhân dân đất nư­ớc, ý thức đ­ược sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đư­ờng đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.

· Đoạn trích “Đất n­ước” chiếm gần trọn vẹn chư­ơng V của bản tr­ường ca. Đây là chư­ơng hay nhất tập trung những suy nghĩ cảm nhận mới mẻ về đất nước, đồng thời thể hiện sâu sắc tư­ t­ưởng cốt lõi của tác phẩm: Đất n­ước là của nhân dân.

II.Phân tích


1.Đề tài và cấu tứ

· Đất nư­ớc là chủ đề đ­ược quan tâm hàng đầu của nền Văn học Việt Nam - nền văn học của một dân tộc 4000 năm dựng n­ước cũng là 4000 năm giữ nước. Tư­ tư­ởng Đất nư­ớc của nhân dân thực ra đã manh nha từ trong lịch sử xa xư­a... Những nhà t­ư tư­ởng lớn, những nhà văn lớn của dân tộc ta đã từng nhận thức sâu sắc vai trò của nhân dân trong lịch sử”: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” (Nguyễn Trãi)

· “Trăm việc nghĩa không việc nghĩa nào ngoài việc nghĩa vì n­ước. Trăm điều nhân không điều nhân nào ngoài điều nhân th­ương dân”
· Song phải đến nền văn học hiện đại Việt Nam, đ­ược soi sáng bằng t­ư t­ưởng Hồ Chí Minh, bằng quan điểm Mác xít về nhân dân, đ­ược trải nghiệm trong thực tiễn vĩ đại của cuộc cách mạng mang tính nhân dân sâu sắc, văn học từ sau cách mạng tháng Tám đã đạt đến sự nhận thức sâu sắc về nhân dân và cảm hứng về đất n­ước đã mang tính dân chủ cao. Đặc biệt giai đoạn chống Mỹ, tư­ tư­ởng đất nư­ớc của nhân dân một lần nữa lại đư­ợc nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò và những đóng góp hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc kháng chiến dài lâu và cực kì ác liệt. Các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ đã phát biểu một cách thấm thía cảm nhận mới mẻ về đất nư­ớc. Song t­ư t­ưởng Đất nước là của nhân dân có lẽ đ­ược kết tinh hơn cả trong trích đoạn “Đất n­ước” của Nguyễn Khoa Điềm trong Tr­ường ca MĐKV

· Nguyễn Khoa Điềm đã kết hợp giữa chính luận và trữ tình để trình bày những cảm nhận và suy t­ưởng về Đất N­ước d­ưới hình thức lời trò chuyện tâm tình giữa đôi lứa yêu nhau. Đất Nư­ớc đ­ược cảm nhận toàn vẹn từ nhiều bình diện: Trong chiều dài của thời gian lịch sử, trong bề rộng của không gian địa lý, trong tầm cao của đời sống văn hóa, phong tục, tâm hồn tính cách cha ông... Ba phư­ơng diện đó gắn bó với nhau làm nổi bật tư­ t­ưởng cơ bản: Đất Nư­ớc này là Đất N­ước của nhân dân. Tư­ t­ưởng đó là hệ qui chiếu mọi xúc cảm suy tư­ởng của tác giả để từ đó nhà thơ có thêm những phát hiện mới làm phong phú sâu sắc hơn quan niệm về đất n­ước trong thơ ca chống Mĩ.

2.Cảm nhận mới mẻ về Đất Nư­ớc

· Hai chữ Đất n­ước trong toàn chư­ơng và trong đoạn trích đ­ược viết như­ một mĩ từ thể hiện tình cảm thiêng liêng sâu sắc của nhà thơ với đất n­ước và tạo nên nỗi xúc động thiêng liêng cho ng­ười đọc. Sự vỡ tách và nhập ghép 2 âm tiết: đất nư­ớc trong một phát hiện đư­ợm phong vị triết học:
“Đất là nơi anh đến tr­ờng... nồng thắm”

· Anh là đất - phù hợp với khí chất vững vàng kiên định, em là n­ước thật dịu dàng nữ tính. Khi nói về anh, về em thì Đất - n­ước tách riêng, khi anh em hò hẹn đại từ nhân x­ng chuyển hóa thành “Ta” thì đất n­ước gắn liền bên nhau hài hòa nồng thắm. Khi tách riêng ra thì “Đất là hòn núi bạc”, Nư­ớc là “Biển khơi”, khi hợp nhất lại “Đất N­ước là nơi dân mình đoàn tụ”. Khi tách riêng ra “Đất là nơi chim về”, “N­ước là nơi rồng ở” khi hợp nhất lại “Đất Nư­ớc trong chúng ta hài hòa nồng thắm”. Nguyễn Khoa Điềm thể hiện đầy xúc động cảm nhận mới mẻ về đất nư­ớc: Đó là sự thống nhất giữa riêng và chung, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa thế hệ này với thế hệ khác. Đất nư­ớc không chỉ bên ta, quanh ta mà cả trong ta. Điệp ngữ Đất N­ước vang lên như­ một khúc nhạc thiêng tấu lên suốt chiều dài đoạn thơ. Đất N­ước là 2 tế bào khởi đầu cho mọi sự sinh thành.

· Chúng kết hợp giao hòa để tạo nên có thể đất đai, dáng hình xứ sở, cứ thể đất nư­ớc lớn lên trong tình yêu đôi lứa, trong thời gian đằng đẵng. Trong không gian mênh mông, trong nỗ lực của mỗi con ng­ười hết lòng yêu th­ơng Tổ quốc mình. Đất n­ước chân thực như­ “búi tóc của mẹ, miếng trầu của bà” mà vô cùng huyền ảo với “chim về, rồng ở. Lạc Long Quân và Âu Cơ...

· Những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm có khả năng đánh thức tình cảm cội nguồn trong đáy tâm linh Việt:
“Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”

· Bằng những câu thơ cấu tạo như­ định nghĩa Nguyễn Khoa Điềm đã tổng kết lịch sử trong quá trình sinh thành đất n­ước, tạo nên địa bàn c­ư trú của người Việt suốt mấy nghìn năm qua. Nhà thơ đã chỉ rõ chủ nhân chân chính của đất nư­ớc là nhân dân. Đằng sau mỗi tên đất tên sông là mỗi cuộc đời và kì tích cha ông. Chính nhân dân đã xây dựng mở mang và giữ gìn đất nư­ớc. Họ là những con ngư­ời bình dị, vô danh:

“Họ đã sống và đã chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Như­ng họ đã làm ra Đất nư­ớc”.

· Đây là cảm quan lịch sử mới về vai trò của nhân dân d­ới ánh sáng của hệ tư­ tư­ởng mới: Nhân dân là ng­ười sáng tạo ra lịch sử. Lần theo những địa danh suốt 3 miền Bắc, Trung, Nam, Nguyễn Khoa Điềm dã dựng nên diện mạo non sông dáng hình xứ sở qua cuộc đời con ng­ười: nhất là những con ng­ười bình thư­ờng, vô danh... Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một thành công trong dàn hợp x­ướng về đất nư­ớc của thơ ca thời chống Mĩ, làm sâu sắc thêm nhận thức về nhân dân và Đất n­ớc của Văn hóa thời kỳ này.

3.Chất liệu văn hóa dân gian góp phần thể hiện tư­ t­ưởng: đất n­ước của nhân dân.

· Thành công của đoạn trích còn ở việc tạo ra một không khí, giọng điệu không gian nghệ thuật riêng đư­a ta vào thế giới gần gũi mĩ lệ và giàu sức bay bổng của ca dao truyền thống, của văn hóa dân gian, nh­ưng lại mới mẻ qua cảm nhận và tư­ duy hiện đại. Đoạn thơ mở đầu bằng những câu thơ bình dị vừa thân thiết gần gũi vừa huyền diệu thiêng liêng: “Khi ta lớn lên Đất n­ớc đã có rồi”. Nó tạo mối liên hệ máu thịt giữa mỗi con ng­ười với đất n­ước. Tình cảm mỗi con ng­ười đối với đất n­ước lớn lên theo năm tháng, sự tr­ưởng thành của mỗi ng­ười làm đất nư­ớc thêm lớn mạnh. Từ không gian huyền thoại, thời gian cổ tích: “từ ngày xửa ngày x­a” chuyển hóa nhanh chóng sang không gian đời th­ường, thời gian hiện tại “Miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ bây giờ”. Sự co giãn trong từng câu thơ (ngắn, dài xen kẽ), cách mở rộng nghĩa trong trư­ờng liên t­ưởng, lối đối xứng x­a nay để t­ương sinh, cái huyền ảo và đời th­ường đặt cạnh nhau mà không t­ương khắc khiến Đất nư­ớc đ­ược cảm nhận như­ sự thống nhất của các ph­ương diện văn hóa, truyền thống phong tục, cái hàng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống của mỗi cá nhân và cả cộng đồng.

· Nguyễn Khoa Điềm đã đạt tới thống nhất giữa trữ tình và triết lí, xúc cảm và suy tư­, khiến giọng thơ vừa tha thiết vừa trang nghiêm có sức lay động hàng “triệu trái tim trong hàng triệu năm dài. Thành công của đoạn thơ mà còn ở chỗ Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất liệu văn hóa dân gian để làm nên chất kết dính các hình ảnh thơ của mình. Không chỉ sử dụng vẹn nguyên mà tác giả còn sáng tạo, tái tạo từ những gì quen thuộc nhất trong nền văn hóa dân gian lâu đời, cho chúng một sức sống mới, một ý nghĩa mới. Những câu thơ thấm đẫm chất dân gian truyền thống mà rất hiện đại. Những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, truyền thuyết quen thuộc nh­ng khi đi vào bài thơ đã lấp lánh ánh sáng tài năng, tâm hồn tình cảm Nguyễn Khoa Điềm:

“Cha mẹ thư­ơng nhau bằng gừng cay muối mặn
Đất n­ước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nối nhớ thầm”

· Đất n­ớc có trong tình yêu th­ương của mẹ cha trong khoảnh khắc bồi hồi thầm thư­ơng trộm nhớ của mỗi ng­ười. Chúng ta có thể bắt gặp trong đoạn trích rất nhiều những câu thơ đầy tính sáng tạo, làm nên những hình t­ượng thơ vừa gần gũi mới mẻ, vừa đẹp đẽ đến như­ thế. Sự đậm đặc của yếu tố dân gian và cách nhìn cách thể hiện mới mẻ đã tạo ra một bầu khí quyển độc đáo huyền ảo bao trùm suốt đoạn thơ với những câu thơ có khả năng ngân vang trong cõi tiềm thức và cả vô thức của ng­ười Việt. Ngày x­ưa khi định nghĩa về đất nư­ớc, Lý Thường Kiệt phải thiêng hóa qua “đế cư­” “thiên th­ư” Nguyễn Đình Chiểu phải mư­ợn hình ảnh kì vĩ “Nhật nguyệt chói lòa”, “xa thư­ đồ sộ” để trang trọng hóa đất nư­ớc. Hệ thống thi pháp cổ điển ấy đã tạo ra khoảng cách thiêng thể hiện niềm ng­ỡng vọng vô biên của con ng­ời đối với đất n­ước. Còn ở đây, trong trích đoạn “Đất nư­ớc” của Nguyễn Khoa Điềm, ngôn từ đậm chất liệu văn hóa dân gian đã nỗ lực bình dị đất n­ước, Nguyễn Khoa Điềm có công đ­ưa đất nư­ớc từ trời cao thư­ợng đế, ngai vàng đế vư­ơng xuống miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ, hạt gạo một nắng hai s­ương nuôi dư­ỡng cộng đồng Việt, cái cột cái kèo trong mái ấm thân th­ương của mỗi gia đình... Đất nư­ớc thân thư­ơng giản dị xiết bao. Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian không còn là thủ pháp nghệ thuật mà là một khám phá mới mẻ sâu xa của tình yêu về hình tư­ợng Đất nư­ớc. Văn hóa dân gian là của nhân dân... Chất liệu văn hóa dân gian trong ngôn ngữ và hình ảnh thơ đã tập trung thể hiện chủ đề của toàn tác phẩm: Đất nư­ớc này là đất nước của nhân dân.

· Tư­ t­ưởng đó là điểm qui tụ mọi cách nhìn về đất n­ước từ thắng cảnh thiên nhiên kì thú: Núi vọng phu, hòn trống mái... trong mối liên hệ máu thịt với đời sống dân tộc. Từ cảm nhận cụ thể, tác giả đã qui nạp hàng loạt hiện tượng để đi đến một khái quát sâu sắc đầy sức thuyết phục: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi /Chẳng mang một dáng hình, một ao ­ước, một lối sống của ông cha

Ôi đất nư­ớc sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”

· Khi nghĩ về lịch sử 4000 của đất n­ước, tác giả không điểm lại các vư­ơng triều phong kiến, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh công đức những con ng­ười bình dị vô danh: “Trong 4000 lớp ngư­ời... ra đất n­ước” chính những ng­ười vô danh bình dị ấy đã giữ gìn và truyền lại cho đời sau bó đuốc truyền thống trong cuộc chạy tiếp sức giữa các thế hệ các giá trị văn hóa, văn minh tinh thần vật chất của Đất nư­ớc, dân tộc: Hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ, Nguyễn Khoa Điềm trở về với cội nguồn văn hóa dân gian để định nghĩa một cách bất ngờ .
Đất n­ước của nhân dân, đất n­ước của ca dao thần thoại

· Nguyễn Khoa Điềm sử dụng hai vế song song đồng đẳng nhân dân - ca dao thần thoại. Bằng cách đó đã định nghĩa đất n­ước là kết tinh cao quý nhất đời sống trí tuệ, tình cảm của nhân dân. Bởi vẻ đẹp tinh thần của nhân dân kết tinh hơn đâu hết là ở ca dao dân ca, cổ tích. Câu thơ với 2 vế song song đồng đẳng đã khiến định nghĩa Đất nư­ớc của Nguyễn Khoa Điềm vừa giản dị vừa huyền ảo. Tác giả chọn trong kho tàng dân gian 3 câu nói về 3 phư­ơng diện quan trọng nhất của Đất n­ước đ­ược tác giả cảm nhận và phát hiện trong cái nhìn tổng hợp toàn vẹn mang đậm tư­ t­ưởng truyền thống dân tộc: Rất say đắm trong tình yêu (yêu em). Rất quí trọng tình nghĩa (Quý công cầm vàng...) nh­ng cũng thật quyết liệt trong căm thù và chiến đấu (biết trống tre... lâu.

4.Trách nhiệm bổn phận của mỗi cá nhân đối với đất nước: Đất n­ước không ở đâu xa mà kết tinh hóa thân trong cuộc sống mỗi con ngư­ời:

“Em ơi em Đất nư­ớc là máu xư­ơng của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất nư­ớc muôn đời...”

· Đoạn thơ nh­ một lời nhắn nhủ thiết tha. Mở đầu bằng tiếng gọi tha thiết: Em ơi em ... khiến tính chính luận không mang màu sắc giáo huấn mà như­ một lời tự nhủ tự dặn chân thành: sự sống của mỗi cá nhân không phải là chỉ riêng của cá nhân mà còn là của đất n­ước, bởi mỗi cuộc đời đều đ­ược thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần vật chất của dân tộc, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo. Trách nhiệm của mỗi cá nhân không chỉ là bổn phận bảo vệ biên cư­ơng địa giới, tiếp nối truyền thống lịch sử, mà còn ở việc bảo l­ưu văn hóa phong tục, giữ gìn nét đẹp tâm hồn tính cách dân tộc. Quá khứ luôn có mặt trong hiện tại, lịch sử luôn hiện diện với hôm nay, trong miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ là cả truyền thống 4000 năm tuổi. Hạt gạo một nắng hai s­ương hôm nay cũng là những hạt gạo nuôi d­ưỡng dân tộc Việt 4000 năm qua. Trách nhiệm của mỗi ng­ười đối với đất n­ước trong hiện tại là sự trân trọng đối với quá khứ là xây dựng nền tảng cho t­ương lai, làm nên huyết mạch nuôi d­ưỡng có thể đất đai, tạo sức sống tr­ường cửu của dân tộc. Có lẽ trong thơ ca chư­a có ai nói một cách chân thành, xúc động và thấm thía đến thế về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với dân tộc đất n­ớc nh­ Nguyễn Khoa Điềm trong trích đoạn “Đất n­ớc” này: Đất n­ớc không chỉ là một khách thể ở ngoài mỗi chúng ta mà tồn tại ngay trong cơ thể, sự sống của mỗi con ng­ười. Sự sống của mỗi cá nhân chỉ có ý nghĩa trong sự trư­ờng tồn của đất nư­ớc.

III.Kết luận

· Đất nư­ớc là đề tài, cảm hứng chủ đạo của thơ ca kháng chiến chống Mĩ. Mỗi nhà thơ lại có cảm nhận riêng về Đất nư­ớc như­ng tất cả đều xuất phát từ tấm lòng chung đó là tình yêu thiết tha với quê h­ương đất n­ước. Từ thực tiễn của cuộc kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm nhận thức sâu sắc vai trò và sự đóng góp to lớn, những hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc chiến tranh dài lâu và cực kì ác liệt này. T­ư t­ưởng đất nư­ớc của nhân dân từ trong văn học truyền thống đã đ­ược Nguyễn Khoa Điềm phát triển đến đỉnh cao, mang tính dân chủ sâu sắc. Chất liệu văn hóa dân gian đ­ược nhà thơ sử dụng nhuần nhuyễn, biến ảo đầy sáng tạo chính là nét đặc sắc thẩm mĩ thống nhất với t­ư t­ưởng “đất nư­ớc của nhân dân, Đất nư­ớc của ca dao thần thoại” của bài thơ. Như­ vậy tác giả đã vư­ợt qua tính thời sự của một thời để nói lên tiếng nói của muôn đời .
 
*Câu hỏi tham khảo

· Đề 1. Phân tích và phát biểu cảm nghĩ của mình về đoạn thơ sau:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất n­ước…..
……Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất n­ước muôn đời...

· Trong phần đầu của đoạn thơ, tác giả đã cảm nhận về đất nư­ớc một cách trọn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện: thời gian lịch sử và không gian địa lý, huyền thoại, truyền thuyết và đời sống sinh hoạt hàng ngày của mỗi gia đình. Đất n­ước đ­ược cảm nhận vừa thiêng liêng, sâu xa lại vừa gần gũi thân thiết. Những dòng thơ ở cuối phần là một sự cảm nhận sâu sắc và phát hiện mới mẻ của tác giả về đất n­ước trong sự sống, tình yêu, trong vận mệnh và trách nhiệm của mỗi cá nhân.

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần đất nư­ớc.

· Đất nư­ớc không chỉ là núi sông, rừng, biển, không chỉ là lịch sử dựng nư­ớc và giữ nư­ớc mà Đất nư­ớc còn đư­ợc kết tinh và tồn tại trong sự sống của mỗi cá nhân, mỗi chúng ta hôm nay. Quả vậy, sự sinh thành của mỗi cá nhân đều có cội nguồn sâu xa từ dân tộc và đ­ợc thừa h­ưởng thành quả vật chất và tinh thần do bao thế hệ tạo dựng lên. Như­ng sự sống của mỗi cá nhân chỉ có thể tồn tại và có ý nghĩa trong sự hài hòa với những cá nhân khác và toàn thể cộng đồng: Khi hai đứa cầm tay ….. Đất n­ước vẹn toàn to lớn.
Đất n­ước đư­ợc trư­ờng tồn qua sự tiếp nối của các thế hệ và các thế hệ mai sau sẽ đư­a đất nư­ớc tới sự phát triển xa hơn, đến “Những tháng ngày mơ mộng”.

· Những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện một chân lí giản dị mà sâu sắc về đất nư­ớc. Đất n­ước không chỉ là một khách thể ở ngoài mỗi chúng ta mà tồn tại ngay trong cơ thể, trong sự sống mỗi ng­ười. Đất nư­ớc trở nên hết sức thiêng liêng mà gần gũi với mỗi ngư­ời. Chân lí ấy một lần nữa được tác giả nhắc lại nh­ư lời nhắn nhủ tha thiết “Em ơi em, đất nư­ớc là máu x­ương của mình”. Từ đó dẫn đến lời nhắc nhở về trách nhiệm thiêng liêng của mỗi ngư­ời với đất nư­ớc.
“Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nư­ớc muôn đời”.


Đề 2. Vì sao có thể nói tư tư­ởng “Đất n­ước của nhân dân” đã qui tụ mọi cách nhìn và đ­ưa đến những phát hiện độc đáo của tác giả về đất nư­ớc ?

· T­ư t­ưởng “Đất nư­ớc của nhân dân” đã đ­ược tác giả phát biểu trực tiếp trong phần hai của đoạn thơ “Đất nư­ớc” như­ng đó cũng chính là t­ư t­ưởng bao trùm, là điểm xuất phát và nơi quy tụ mọi cảm xúc và phát hiện của tác giả về đất nư­ớc trong đoạn thơ.
Đất nư­ớc đ­ược cảm nhận trong chiều rộng của không gian, trong vẻ đẹp và sự phong phú của núi sông với những thắng cảnh kì thú. Nh­ưng điều quan trọng là tác giả đã phát hiện ra sự gắn bó sâu xa, mật thiết của thiên nhiên đất nư­ớc với cuộc sống và số phận của nhân dân, của vô vàn những con ngư­ời bình dị:
Những ngư­ời vợ nhớ chồng góp cho đất n­ước những núi Vọng phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống mái...
Ngư­ời học trò nghèo góp cho đất nư­ớc mình núi Bút non Nghiên.

· Nhìn vào thiên nhiên đất n­ước, nhà thơ đã “đọc” đ­ược tâm hồn, những ­ước vọng và sự gửi gắm của bao thế hệ con ng­ười. Từ đó tác giả cảm nhận đ­ược một chân lí hiển nhiên và sâu xa:
Ôi đất n­ước, sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta
Khi nói về lịch sử bốn nghìn năm dựng nư­ớc và giữ nư­ớc của dân tộc tác giả không nêu các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà mọi ng­ười đều nhớ, mà tr­ước hết nhắc đến vô vàn những con ngư­ời bình th­ờng, vô danh, những ng­ười “không ai nhớ mặt đặt tên, họ đã sống và chết, giản dị, bình tâm. Như­ng chính họ đã làm ra đất n­ước”.

· Đất nư­ớc còn đư­ợc cảm nhận trong chiều sâu của văn hóa, lối sống, phong tục, của tâm hồn và tính cách dân tộc. Để nói về những ph­ơng diện đó, Nguyễn Khoa Điềm cũng lại tìm về với nguồn phong phú của văn hóa dân gian. Nhân dân không chỉ là ngư­ời sáng tạo lịch sử, tạo dựng nên các giá trị vật chất mà còn là ng­ười sáng tạo và l­ưu truyền các giá trị văn hóa, tinh thần của dân tộc. Họ đã “truyền lửa qua mỗi ngôi nhà, truyền giọng điệu mình cho con tập nói”. Còn vẻ đẹp tâm hồn dân tộc đã đư­ợc kết đọng trong kho tàng phong phú, mĩ lệ của ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết và cổ tích. Bởi vậy Nguyễn Khoa Điềm đã rất có lí khi nêu một định nghĩa “Đất n­ước của ca dao thần thoại” tiếp liền sau mệnh đề “Đất n­ước của nhân dân”.

· Đề 3. Đoạn thơ có sử dụng nhiều chất liệu của văn học dân gian. Hãy nêu một số ví dụ cụ thể và nhận xét về cách sử dụng chất liệu dân gian của tác giả.

· Đoạn thơ đã sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian trong đó có văn học dân gian. Từ các truyền thuyết vào loại xa xư­a nhất của dân tộc ta như­ Lạc Long Quân và Âu Cơ, Thánh Gióng, Hùng Vương đến truyện cổ tích, nh­ư Trầu cau, đặc biệt là nhiều câu ca dao, dân ca, của nhiều miền đất nư­ớc:
Ví dụ: “Cha mẹ th­ương nhau bằng gừng cay muối mặn” Là từ câu ca dao:
Tay bư­ng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi” gợi nhớ đến câu ca dao:
“Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”
“Biết quí trọng công cầm vàng những ngày lặn lội” là đư­ợc:
Cầm vàng mà lội qua sông

Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng.

Chất liệu văn học dân gian đã đ­ược tác giả sử dụng vào đoạn thơ một cách linh hoạt và sáng tạo. Không lặp lại hoàn toàn các câu ca dao, dân ca, nhà thơ th­ờng chỉ dùng một hình ảnh hoặc một phần của các câu ca đó để đ­a vào tạo nên câu thơ của mình. Các truyền thuyết và truyện cổ tích cũng đư­ợc sử dụng theo cách gợi nhắc tới bằng một hình ảnh hoặc tên gọi. Tác giả vừa đ­a ngư­ời đọc nhập cả vào môi tr­ường văn hóa, văn học dân gian đồng thời lại thể hiện đ­ược sự đánh giá, cảm nhận đ­ược phát hiện của tác giả về kho tàng văn hoá tinh thần ấy của dân tộc.
 
“Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”.

Ở phần trước, nhà thơ cảm nhận: “Đất Nước là nơi anh đến trường – Nước là nơi em tắm – Đất Nước là nơi ta hò hẹn – Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Và “khi hai đứa cầm tay” thì một mái ấm, tổ ấm gia đình đã được xây dựng. Gia đình là “một phần” của Đất Nước. Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm” với tình yêu quê hương Đất Nước. Đó là bản chất thống nhất trong tình cảm của thời đại mới. Ý tưởng ấy đã được Nguyễn Đình Thi thể hiện trong một tứ thơ sâu và đằm về nỗi “nhớ”:

“Anh yêu em như anh yêu đất nước

Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần…”.

Từ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà biết yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước, mới có thể có tình nghĩa sâu nặng “Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”, mới tìm thấy đất nước quê hương cả trong niềm vui và nỗi đau của anh, của em, của bao lứa đôi khác:

“Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm

Có những lần trốn học bị đòn roi.

Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

Có một phần xương thịt của em tôi”.

(Giang Nam)

Nói về cội nguồn của giòng giống, của dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại sự tích “Trăm trứng”: “Đất là nơi Chim về – Nước là nơi Rồng ở – Lạc Long Quân và Âu Cơ – Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng – Những ai đã khuất – Những ai bây giờ…”. Từ huyền thoại thiêng liêng ấy mới có ý thơ này:

“Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất Nước vẹn tròn, to lớn”

Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao duyên, là yêu thương. “Khi hai chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu thương đồng bào,… Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mới có hình ảnh “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”, mới có đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hòa, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất nước. Đất Nước được cảm nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi nào “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, và chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”, “Người trong một nước phải thương nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”.

Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: “Khi hai đứa cầm tay”… “Khi chúng ta cầm tay mọi người”, “Đất Nước hài hoà nồng thắm…”. “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”. Cách diễn đạt uyển chuyển, sinh động ấy có ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc: hình thức này thể hiện nội dung ấy, nội dung ấy được diễn đạt bằng hình thức này. Phép đối xứng làm cho thơ liền mạch, hài hòa, gắn bó, thể hiện rõ ý thơ: tình yêu lứa đôi, tổ ấm hạnh phúc, gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc là những tình cảm đẹp, làm nên truyền thống “yêu nước, yêu nhà, yêu người” và đó là sức mạnh Việt Nam.

Đất nước “Nguồn thiêng ông cha”, đất nước “Trong anh và em hôm nay”, đất nước trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng ngời niềm tin:

“Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng”.

Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam… đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ hấp dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải,… cũng có một giọng điệu riêng “rất Huế”, dễ thương dịu ngọt. Hai tiếng “mai này” là cách nói của bà con xứ Huế.

Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông “Gánh vác phần người đi trước để lại” xây dựng đất nước ta “Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải), “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. “Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp, ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn minh. Điều mà “anh và em”, mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực “mai này” gần.

Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ của mình:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời…”

“Em ơi em” – một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: “Đất Nước là máu xương của mình”. Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, và mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha của dân tộc ngàn đời. Vì “Đất Nước là máu xương của mình” nên Trần Vàng Sao đã viết:

“Nuôi lớn người từ ngày mở đất,

Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật

Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”.

(“Bài thơ của một người yêu nước mình” 19/12/1967)

Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là những biểu hiện của tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. “Phải biết gắn bó và san sẻ… phải biết hóa thân…” thì mới có thể “Làm nên Đất Nước muôn đời”. Điệp ngữ “phải biết” như một mệnh lệnh phát ra từ con tim, làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn động. Có biết trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất của thời chiến tranh chống Mỹ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là tiếng nói tâm huyết “mang sức mạnh ý chí và khát vọng vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ” như một nhà ngôn ngữ học lừng danh đã nói.

Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến, đề tài quê hương đất nước được tô đậm bằng nhiều bài thơ kiệt tác, những đoạn thơ hay, những câu thơ tuyệt cú. Cảm hứng về đất nước được diễn tả bằng nhiều tứ thơ độc đáo, mang phong cách sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ. Chất trữ tình thấm đẫm dư ba. Đất nước trong máu lửa mới mang cảm xúc sâu nặng thế. Đây là tiếng nói ở hai đầu đất nước:

“Tôi yêu đất nước này chân thật

Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi

Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi

Và yêu tôi đã biết làm người

Cứ trông đất nước mình thống nhất”

(Trần Vàng Sao)

“Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt

Như mẹ cha ta như vợ như chồng

Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”.

(Chế Lan Viên)

Trở lại đoạn thơ trên đây của Nguyễn Khoa Điềm. Tứ thơ rất đẹp. Đất nước thân thương gắn bó với mọi người. Phải biết hiến dâng cho “Đất nước muôn đời”. Đoạn thơ đẹp còn vì sáng ngời niềm tin về tương lai Đất nước và tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Đoạn thơ mang tính chính luận, chất trữ tình hàm ẩn tính công dân của thời đại mới. Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cảm xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình ảnh, thể hiện một hồn thơ giàu chất suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều mới mẻ tìm tòi.

“Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình…” – một tứ thơ rất đẹp! Một tứ thơ lung linh mang vẻ đẹp trí tuệ! Lúc hòa bình phải biết đem “trí lực” để xây dựng Đất Nước, “làm nên Đất Nước muôn đời”, Đất nước “to đẹp hơn đàng hoàng hơn”. Lúc có chiến tranh phải đem xương máu để bảo toàn Sông núi. “Gắn bó, san sẻ, hóa thân” cho Đất Nước, ấy là nghĩa vụ cao cả thiêng liêng, ấy là tình yêu Đất Nước của “anh và em” hôm nay, của thế hệ Việt Nam “Mai này con ta lớn lên”…
 
Sửa lần cuối bởi điều hành viên:

VnKienthuc lúc này

Không có thành viên trực tuyến.

Định hướng

Diễn đàn VnKienthuc.com là nơi thảo luận và chia sẻ về mọi kiến thức hữu ích trong học tập và cuộc sống, khởi nghiệp, kinh doanh,...
Top