Trang chủ
Bài viết mới
Diễn đàn
Bài mới trên hồ sơ
Hoạt động mới nhất
VIDEO
Mùa Tết
Văn Học Trẻ
Văn Học News
Media
New media
New comments
Search media
Đại Học
Đại cương
Chuyên ngành
Triết học
Kinh tế
KHXH & NV
Công nghệ thông tin
Khoa học kĩ thuật
Luận văn, tiểu luận
Phổ Thông
Lớp 12
Ngữ văn 12
Lớp 11
Ngữ văn 11
Lớp 10
Ngữ văn 10
LỚP 9
Ngữ văn 9
Lớp 8
Ngữ văn 8
Lớp 7
Ngữ văn 7
Lớp 6
Ngữ văn 6
Tiểu học
Thành viên
Thành viên trực tuyến
Bài mới trên hồ sơ
Tìm trong hồ sơ cá nhân
Credits
Transactions
Xu: 0
Đăng nhập
Đăng ký
Có gì mới?
Tìm kiếm
Tìm kiếm
Chỉ tìm trong tiêu đề
Bởi:
Hoạt động mới nhất
Đăng ký
Menu
Đăng nhập
Đăng ký
Install the app
Cài đặt
Chào mừng Bạn tham gia Diễn Đàn VNKienThuc.com -
Định hướng Forum
Kiến Thức
- HÃY TẠO CHỦ ĐỀ KIẾN THỨC HỮU ÍCH VÀ CÙNG NHAU THẢO LUẬN Kết nối:
VNK X
-
VNK groups
| Nhà Tài Trợ:
BhnongFood X
-
Bhnong groups
-
Đặt mua Bánh Bhnong
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Triết học phương Đông
FEUERBACH SỰ ĐỐI LẬP GIỮA QUAN ĐIỂM DUY TÂM VÀ QUAN ĐIỂM DUY VẬT [Phần 1]
JavaScript is disabled. For a better experience, please enable JavaScript in your browser before proceeding.
You are using an out of date browser. It may not display this or other websites correctly.
You should upgrade or use an
alternative browser
.
Trả lời chủ đề
Nội dung
<blockquote data-quote="PHÚC KEYNES" data-source="post: 95846" data-attributes="member: 147652"><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><strong>Karl Marx </strong>& <strong>Friedrich Engels</strong></span></span></span></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><strong><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">TOÀN TẬP, Tập 3</span></span></strong></span></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><strong><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">(Hệ tư tưởng Đức)</span></span></strong></span></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><strong><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995</span></span></strong></span></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><strong><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">--- o0o ---</span></span></strong></span></p><p> </p><p style="text-align: center"><strong><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">FEUERBACH VÀ SỰ ĐỐI LẬP </span></span></span></strong></p> <p style="text-align: center"><strong><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">GIỮA QUAN ĐIỂM DUY VẬT VÀ QUAN ĐIỂM DUY TÂM</span></span></span></strong></p><p></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Cứ tin lời các nhà tư tưởng Đức thì nước Đức, trong những năm gần đây, đã trải qua một cuộc đảo lộn chưa từng có. Quá trình tan rã của hệ thống Hê-ghen bắt đầu từ Stơ-rau-xơ </span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn1" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[1]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> đã biến thành một cuộc sôi động âm ỉ toàn thế giới, lôi cuốn tất cả “những lực lượng của quá khứ”. Trong sự hỗn độn khắp nơi đó, những cường quốc hùng mạnh đã xuất hiện để rồi lại chìm nghỉm đi liền ngay đó, những anh hùng đã xuất hiện trong khoảnh khắc để rồi lại bị những đối thủ táo bạo hơn và mạnh hơn quẳng vào bóng tối. Đó là cuộc cách mạng mà so với nó, Cách mạng Pháp chỉ là một trò trẻ con; đó là một cuộc chiến đấu thế giới mà so với nó, cuộc chiến đấu của các Đi-a-đốc </span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn2" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[2]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> chẳng có nghĩa lý gì. Những nguyên lý thay thế lẫn nhau, những anh hùng tư tưởng đẩy nhau ngã với một tốc độ nhanh chưa từng thấy, và chỉ trong ba năm từ 1842 đến 1845 ở nước Đức, người ta đã dọn sạch được nhiều hơn trong ba thế kỷ trước kia.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Tất cả cái đó người ta cho là đều diễn ra trong lĩnh vực của tư duy thuần túy.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Dù sao đi nữa, chúng ta cũng đang đứng trước một sự kiện lýthú: quá trình tan rã của tinh thần tuyệt đối. Khi tia lửa cuối cùng của sự sống của tinh thần tuyệt đối vừa tắt đi thì những bộ phận khác nhau của cái caput mortuum </span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn3" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[3]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> ấy bắt đầu phân giải, tham gia vào những hỗn hợp mới và hình thành những chất mới. Những người làm nghề triết học từ trước tới nay vẫn sống bằng việc khai thác tinh thần tuyệt đối, bây giờ lại lao vào những hỗn hợp mới đó. Và ai nấy đều hết sức hăng hái tiêu thụ cái phần mà anh ta tình cờ kiếm được. Việc đó không thể tiến hành không có cạnh tranh. Lúc đầu cạnh tranh còn mang tính chất khá nghiêm túc và có tính chất tư sản. Nhưng về sau, khi thị trường Đức đã đầy ứ và khi mặc dù mọi cố gắng, hàng hoá cũng không tiêu thụ được trên thị trường thế giới nữa thì theo lệ thường ở Đức, tình hình kinh doanh đã bị xấu đi bởi một nền sản xuất bằng công xưởng và có tính chất giả tạo, bởi việc hạ thấp phẩm chất, việc làm giả nguyên liệu, việc làm giả nhãn hiệu, việc bán khống, việc dùng tín phiếu giả và một hệ thống tín dụng không có cơ sở hiện thực nào. Cuộc cạnh tranh ấy biến thành một cuộc đấu tranh gay gắt mà bây giờ người ta mô tả và tán dương với chúng ta như một cuộc cách mạng có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới, một nhân tố đã mang lại những kết quả và những thành tựu vĩ đại nhất.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Muốn đánh giá đúng toàn bộ cái trò bịp bợm triết học đó, nó thậm chí làm thức tỉnh trong lòng người thị dân Đức trung thực một tình cảm dân tộc dễ chịu, muốn nêu rõ tính nhỏ nhen, tính thiển cận địa phương của toàn bộ phong trào của phái Hê-ghen trẻ đó, và đặc biệt muốn vạch rõ sự trái ngược vừa bi đát vừa buồn cười giữa những chiến công hiện thực của vị anh hùng đó, với những ảo tưởng của họ về chính những chiến công ấy thì cần phải xem xét tất cả sự ầm ĩ đó theo một quan điểm ở bên ngoài nước Đức. </span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn4" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[4]</span></span></u></a></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">A. HỆ TƯ TƯỞNG NÓI CHUNG, HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC NÓI RIÊNG</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Ngay trong những cố gắng gần đây nhất của nó, sự phê phán của Đức vẫn không rời bỏ miếng đất triết học. Không hề nghiên cứu những tiền đề triết học chung của nó, nhưng tất cả những vấn đề mà nó đề ra đều nảy sinh từ miếng đất của một hệ thống triết học nhất định-hệ thống Hê-ghen. Không phải chỉ trong những lời giải đáp của nó mà ngay cả trong bản thân các vấn đề, cũng đã có sự thần bí hoá rồi. Sự lệ thuộc ấy vào Hê-ghen là nguyên nhân giải thích tại sao không một ai trong những nhà phê phán mới xuất hiện ấy lại dám thử phê phán một cách toàn diện hệ thống Hê-ghen, mặc dù mỗi người trong bọn họ đều quả quyết rằng mình đã vượt quá Hê-ghen. Cuộc luận chiến của họ chống lại Hê-ghen và chống lại nhau chỉ đóng khung ở chỗ mỗi người trong bọn họ tách riêng một mặt nào đó của hệ thống Hê-ghen và đem mặt đó chống lại toàn bộ hệ thống cũng như chống lại những mặt do những người khác tách riêng ra. Thoạt đầu, người ta tách lấy những phạm trù của Hê-ghen dưới dạng thuần túy, chưa bị bóp méo, thí dụ như phạm trù thực thể và tự ý thức; về sau người ta tầm thường hoá những phạm trù ấy, gọi chúng bằng những tên trần tục hơn, thí dụ như “loài”, “kẻ duy nhất”, “con người”, v.v..</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Toàn bộ sự phê phán triết học ở Đức, từ Stơ-rau-xơ đến Stiếc-nơ </span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn5" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[5]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">, đều bó tròn trong việc phê phán những quan niệm <em>tôn giáo</em></span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn6" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[6]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">. Người ta xuất phát từ tôn giáo chính cống và từ tinh thần hoá chính cống. Cái mà trước kia người ta coi là ý thức tôn giáo, là quan niệm tôn giáo thì sau này lại được quy định theo nhiều cách khác nhau. Toàn bộ bước tiến là ở chỗ những quan niệm siêu hình, quan niệm chính trị, quan niệm pháp luật, quan niệm đạo đức và những quan niệm khác mà người ta cho là những quan niệm thống trị, đều được liệt vào lĩnh vực những quan niệm tôn giáo hay thần học; cũng như ở chỗ người ta tuyên bố rằng ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức đạo đức là ý thức tôn giáo hay ý thức thần học, rằng con người chính trị, con người pháp luật và con người đạo đức – xét cho cùng “con người nói chung” – là con người tôn giáo. Người ta lấy sự thống trị của tôn giáo làm tiền đề. Và dần dà, người ta tuyên bố mọi quan hệ thống trị là một quan hệ tôn giáo và người ta biến quan hệ đó thành sự sùng bái: sùng bái pháp luật, sùng bái nhà nước, v.v.. Ở tứ phía, vẫn chỉ là những giáo điều và lòng tin vào giáo điều. Thế giới được thần thánh hoá theo một quy mô ngày càng rộng, cho đến khi thánh Ma-xơ đáng kính có thể thần thánh hoá thế giới en bloc </span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn7" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[7]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> và do đó thanh toán vĩnh viễn hẳn thế giới.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Phái Hê-ghen già cho rằng bất cứ cái gì họ cũng <em>hiểu</em> được khi đã quy cái đó vào một phạm trù của lô-gích học Hê-ghen. Phái Hê-ghen trẻ thì <em>phê phán</em> tất cả mọi cái, bằng cách thay thế mọi cái bằng những quan niệm tôn giáo hoặc tuyên bố rằng mọi cái là có tính thần học. Phái Hê-ghen trẻ cũng như phái Hê-ghen già đều nhất trí tin tưởng rằng tôn giáo, khái niệm, cái phổ biến thống trị trong thế giới hiện có. Chỉ có điều là phái này thì chống lại sự thống trị ấy, coi đó là một sự tiếm đoạt, còn phái kia lại tán dương sự thống trị ấy là hợp pháp.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Phái Hê-ghen trẻ cho rằng những quan niệm, ý niệm, khái niệm, nói chung những sản phẩm của ý thức mà họ gán cho là có một sự tồn tại độc lập, đều là những xiềng xích thực sự đối với con người, – giống như phái Hê-ghen già tuyên bố rằng chúng là những sợi dây ràng buộc thực sự đối với xã hội loài người, – cho nên dĩ nhiên phái Hê-ghen trẻ chỉ cần tiến hành đấu tranh chống lại những ảo tưởng đó của ý thức mà thôi. Vì theo họ tưởng tượng, những quan hệ của con người, tất cả mọi hành động và cử chỉ của con người, mọi xiềng xích và giới hạn đối với con người đều là sản phẩm của ý thức của họ, nên phái Hê-ghen trẻ đã đề xuất một cách lô-gích với con người một yêu cầu đạo đức là: đổi ý thức hiện nay của mình lấy ý thức con người, có tính phê phán hay ích kỷ và do đó, xoá bỏ những giới hạn đối với mình. Đòi hỏi đổi ý thức như vậy thì chẳng khác gì đòi hỏi giải thích một cách khác cái gì đang tồn tại, nghĩa là thừa nhận cái đang tồn tại bằng cách giải thích nó khác đi. Mặc dầu họ đã dùng những lời lẽ khoa trương dường như “làm đảo lộn thế giới”, các nhà tư tưởng của phái Hê-ghen trẻ vẫn là những kẻ đại bảo thủ. Những người trẻ nhất trong bọn họ đã tìm được từ ngữ chính xác để chỉ hoạt động của họ, khi họ tuyên bố rằng họ chỉ đấu tranh chống lại “những câu nói”. Họ chỉ quên có một điều là: ngoài những câu nói ra, họ chẳng có cái gì khác hơn để chống lại những câu nói ấy, và nếu họ chỉ đấu tranh chống lại những câu nói của thế giới thôi thì họ tuyệt nhiên chẳng đấu tranh gì chống lại thế giới hiện thực, hiện tồn ấy cả. Kết quả duy nhất mà sự phê phán triết học ấy có thể đạt được là đem lại một đôi điều thuyết minh về mặt lịch sử tôn giáo, – nhưng lại rất phiến diện – cho đạo Cơ Đốc; tất cả những điều khẳng định khác của họ chỉ là những sự tô điểm thêm nữa cho cái tham vọng của họ cho rằng với những điều thuyết minh không đáng kể ấy, họ đã làm nên những phát hiện có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Không một người nào trong những nhà triết học đó có ý nghĩa tự hỏi xem mối liên hệ giữa triết học Đức với hiện thực Đức là như thế nào, mối liên hệ giữa sự phê phán của họ với hoàn cảnh vật chất của chính bản thân họ là như thế nào.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Như vậy, những tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm được bằng con đường kinh nghiệm thuần túy.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống </span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn8" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[8]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">. Vì vậy, điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của tự nhiên. Đương nhiên là ở đây, chúng ta không thể đi sâu nghiên cứu thể chất của bản thân con người, cũng như những điều kiện tự nhiên mà con người thấy có sẵn như điều kiện địa chất, điều kiện địa lý, điều kiện khí hậu và những điều kiện khác </span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn9" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[9]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">. Mọi khoa ghi chép lịch sử đều phải xuất phát từ những cơ sở tự nhiên ấy và những thay đổi của chúng do hoạt động của con người gây ra trong quá trình lịch sử.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu <em>sản xuất ra</em> những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Phương thức mà con người sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho mình, phụ thuộc trước hết vào tính chất của chính những tư liệu sinh hoạt mà con người thấy có sẵn và phải tái sản xuất ra. Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân. Mà hơn thế, nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một <em>phương thức sinh </em>sống nhất định của họ. Hoạt động sống của họ như thế nào thì họ là như thế ấy. Do đó họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với <em>cái</em> mà họ sản xuất ra cũng như với <em>cách</em> họ sản xuất. Do đó, những cá nhân là như thế nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Sự sản xuất ấy bắt đầu xuất hiện lần đầu tiên cùng với <em>sự tăng thêm của dân số</em>. Bản thân sự sản xuất ấy lại có tiền đề là <em>sự giao tiếp (Verkehr)</em> giữa những cá nhân với nhau. Hình thức của sự giao tiếp ấy, đến lượt nó, lại do sự sản xuất quy định. </span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn10" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[10]</span></span></u></a></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Những quan hệ qua lại giữa các dân tộc khác nhau đều phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi dân tộc đó về mặt lực lượng sản xuất, sự phân công lao động và sự giao tiếp nội bộ. Nguyên lý đó được mọi người thừa nhận. Song không phải chỉ riêng quan hệ của dân tộc này với các dân tộc khác, mà cả toàn bộ kết cấu trong của bản thân dân tộc đã cùng phụ thuộc vào trình độ phát triển của sản xuất và của sự giao tiếp bên trong và bên ngoài của dân tộc ấy. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của một dân tộc biểu lộ ra rõ nhất ở trình độ phát triển của sự phân công lao động. Bất cứ sức sản xuất mới nào, trong chừng mực không phải chỉ là sự mở đầu đơn thuần về số lượng những lực lượng sản xuất mà người ta đã biết cho đến lúc đó (ví dụ như sự khai phá đất đai mới), cũng đều mang lại kết quả là sự phát triển nữa của phân công lao động.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Sự phân công lao động trong nội bộ một dân tộc trước hết dẫn đến tách rời giữa lao động công nghiệp và thương nghiệp với lao động nông nghiệp, và do đó dẫn đến sự tách rời giữa <em>thành thị</em> và <em>nông thôn</em>, và sự đối lập giữa lợi ích của thành thị và nông thôn. Sự phát triển thêm nữa của sự phân công lao động dẫn tới sự tách rời giữa lao động thương nghiệp với lao động công nghiệp. Đồng thời, do sự phân công lao động trong nội bộ những ngành khác nhau ấy mà các loại phân công chi tiết khác nhau giữa các cá nhân hợp tác với nhau trong một loại lao động nhất định cũng phát triển. Mối quan hệ lẫn nhau giữa những sự phân công chi tiết khác nhau này được quy định bởi phương thức sử dụng lao động nông nghiệp, lao động công nghiệp và lao động thương nghiệp (chế độ gia trưởng, chế độ nô lệ, đẳng cấp, giai cấp). Khi sự giao tiếp phát triển hơn nữa thì những mối quan hệ như thế cũng xuất hiện cả trong mối liên hệ qua lại giữa các dân tộc khác nhau.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Những giai đoạn phát triển khác nhau của sự phân công lao động cũng đồng thời là những hình thức khác nhau của sở hữu, nghĩa là mỗi giai đoạn của phân công lao động cũng quy định những quan hệ giữa cá nhân với nhau, tùy theo quan hệ của họ với tư liệu lao động, công cụ lao động và sản phẩm lao động.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Hình thức sở hữu đầu tiên là sở hữu bộ lạc5. Nó phù hợp với giai đoạn chưa phát triển của sản xuất, khi người ta sống bằng săn bắn và đánh cá, bằng chăn nuôi, hay nhiều lắm là bằng trồng trọt. Trong trường hợp sau thì phải có một số lớn đất đai chưa khai khẩn. Trong giai đoạn ấy, sự phân công lao động còn rất ít phát triển và hạn chế ở chỗ mở rộng hơn nữa sự phân công lao động hình thành một cách tự nhiên trong gia đình. Do đó, cơ cấu xã hội chỉ giới hạn ở sự mở rộng của gia đình: tù trưởng của bộ lạc với ở bên dưới họ, là những thành viên của bộ lạc và cuối cùng là những nô lệ. Chế độ nô lệ tiềm tàng trong gia đình chỉ phát triển dần dần cùng với sự tăng thêm của dân số và của nhu cầu và cùng với việc mở rộng sự giao tiếp đối ngoại, dưới hình thức chiến tranh cũng như dưới hình thức trao đổi.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Hình thức sở hữu thứ hai là sở hữu công xã và sở hữu nhà nước thời cổ; sở hữu này ra đời chủ yếu từ sự tập hợp – bằng hiệp ước hay bằng chinh phục – nhiều bộ lạc thành một <em>thành thị</em>, và dưới chế độ sở hữu này chế độ nô lệ vẫn tiếp tục được duy trì. Cùng với sở hữu công xã thì sở hữu tư nhân về động sản và sau này cả về bất động sản cũng đã phát triển nhưng dưới một hình thức sở hữu ngoại lệ và phụ thuộc vào sở hữu công xã. Chỉ có đứng trong cộng đồng của mình, những công dân mới có quyền lực đối với những nô lệ đang lao động và vì vậy họ cũng đã bị trói buộc vào hình thức sở hữu công xã. Hình thức đó là tư hữu công xã của những công dân tích cực, tức là những người, đứng trước nô lệ, buộc phải duy trì hình thức tự nhiên ấy của sự liên hợp. Vì vậy, toàn bộ cơ cấu xã hội xây dựng trên nền tảng tư hữu công xã ấy – và cùng với nó, quyền lực của nhân dân, – phải tan rã theo mức phát triển của tư hữu bất động sản. Sự phân công lao động đã phát triển hơn. Chúng ta đã thấy có sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, và về sau – sự đối lập giữa những quốc gia đại biểu cho lợi ích của thành thị – và những quốc gia đại biểu cho lợi ích của nông thôn; và ngay bên trong các thành thị, chúng ta thấy có sự đối lập giữa công nghiệp và thương nghiệp hàng hải. Những quan hệ giai cấp giữa công dân và nô lệ đã phát triển hoàn toàn.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Toàn bộ quan niệm đó về lịch sử hình như là mâu thuẫn với việc đi chinh phục. Cho tới nay, người ta vẫn coi bạo lực, chiến tranh, cướp bóc, giết người và ăn cắp, v.v., là động lực của lịch sử. Ở đây, chúng tôi chỉ có thể nói đến những điểm chủ yếu và vì vậy, chúng tôi chọn ra một ví dụ nổi bật nhất – sự phá hủy một nền văn minh lâu đời bởi dân man rợ và sự hình thành từ đó ra một cơ cấu xã hội hoàn toàn mới (La Mã và dân man rợ, chủ nghĩa phong kiến và nước Gô-lơ, Đế chế La Mã phương Đông và người Thổ Nhĩ Kỳ). Như chúng ta đã nói ở trên, bản thân chiến tranh của dân man rợ xâm lược còn là hình thức bình thường của sự giao tiếp mà người ta sử dụng càng rộng rãi tùy theo sự tăng thêm dân số càng tạo ra nhu cầu về tư liệu sản xuất mới, vì phương thức sản xuất cổ truyền thô sơ là phương thức duy nhất có thể có của dân đó. Ngược lại, ở I-ta-li-a, sự tập trung tài sản ruộng đất (không phải chỉ do việc mua bán và nợ nần mà còn do sự thừa kế tạo nên vì lối sống đồi trụy và tình trạng hiếm có cưới xin lúc bấy giờ đã làm cho những dòng họ lâu đời tàn lụi dần đi và tài sản của họ rơi vào tay một số ít người), hơn nữa những ruộng đất canh tác bị biến thành bãi chăn nuôi (điều này không phải chỉ do những nguyên nhân kinh tế thông thường hiện vẫn phát huy tác dụng gây nên mà còn do việc nhập khẩu thóc lúa cướp được hay thu được với tư cách là đồ cống nạp và cả việc thiếu người tiêu thụ thóc lúa I-ta-li-a – do tình trạng đó đẻ ra – gây nên) đã khiến cho số dân tự do hầu như biến mất; ngay nô lệ cũng không ngừng chết dần chết mòn và phải được thường xuyên thay thế bằng nô lệ mới. Chế độ chiếm hữu nô lệ vẫn là cơ sở của toàn bộ nền sản xuất. Những bình dân, ở giữa dân tự do và nô lệ, không bao giờ vươn được lên quá mức độ người vô sản áo rách. Vả lại, La Mã chưa bao giờ vượt qua được giai đoạn là thành thị, nó bị cột chặt vào các địa phương bằng những mối liên hệ hầu như thuần túy chỉ là những mối liên hệ chính trị mà dĩ nhiên là những sự kiện chính trị có thể phá vỡ.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Cùng với sự phát triển của sở hữu tư nhân, ở đây lần đầu tiên người ta thấy xuất hiện những quan hệ mà chúng ta sẽ lại thấy trong chế độ tư hữu hiện đại, nhưng với quy mô lớn hơn. Một mặt là sự tích tụ của sở hữu tư nhân, được bắt đầu rất sớm ở La Mã (bằng chứng là luật ruộng đất của Li-xi-ni-út [Licinius)6 và phát triển rất nhanh từ khi có những cuộc nội chiến và nhất là dưới thời Đế chế; mặt khác, gắn liền với tình hình trên, là sự biến đổi của những tiểu nông bình dân thành một giai cấp vô sản mà do địa vị trung gian của nó giữa những công nhân có của và những nô lệ, nó không phát triển độc lập được.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Hình thức thứ ba là sở hữu phong kiến hay sở hữu đẳng cấp. Nếu điểm xuất phát của thời cổ là <em>thành thị</em> và lãnh thổ nhỏ của nó thì điểm xuất phát của thời trung cổ lại là <em>nông thôn</em>. Dân cư hiện có thưa thớt và rải rác trên một diện tích rộng, và những người chinh phục mới tới cũng chẳng làm tăng thêm được dân số là bao, đã quyết định sự thay đổi đó của điểm xuất phát. Vì vậy, trái với Hy Lạp và La Mã, sự phát triển phong kiến bắt đầu trên một địa vực rộng hơn nhiều, một địa vực được chuẩn bị bởi những cuộc chinh phục của La Mã và bởi sự mở rộng nông nghiệp mà những cuộc chinh phục ấy đã tạo ra lúc ban đầu. Những thế kỷ cuối cùng của Đế quốc La Mã suy tàn và chính cuộc chinh phục của những người man rợ đối với đế quốc này đã phá hủy một khối lớn những lực lượng sản xuất: nông nghiệp suy sụp, công nghiệp suy đồi vì thiếu nơi tiêu thụ, thương nghiệp đình đốn hay bị bạo lực làm gián đoạn, dân cư ở nông thôn cũng như ở thành thị đều giảm sút. Dưới ảnh hưởng của chế độ quân sự của người Giéc-manh thì hoàn cảnh vốn có đó và cách thức tổ chức chinh phục do hoàn cảnh đó đẻ ra, đã phát triển chế độ sở hữu phong kiến. Cũng như sở hữu bộ lạc và sở hữu công xã, sở hữu phong kiến cũng dựa vào một cộng đồng nhất định, nhưng những kẻ đối lập với cộng đồng này với tư cách là giai cấp trực tiếp sản xuất, không phải là những nô lệ như trong thế giới cổ đại, mà là những người tiểu nông bị nô dịch. Cùng với sự phát triển đầy đủ của chế độ phong kiến, sự đối lập với thành thị cũng xuất hiện. Cơ cấu đẳng cấp của chế độ chiếm hữu ruộng đất và các đội hộ vệ võ trang gắn liền với cơ cấu đẳng cấp đó, đã đem lại cho quý tộc quyền lực đối với nông nô. Cơ cấu phong kiến đó, cũng như chế độ sở hữu công xã thời cổ, vẫn là sự kết hợp nhằm chống lại giai cấp sản xuất bị thống trị; chỉ có hình thức kết hợp và quan hệ với những người sản xuất trực tiếp là khác nhau vì những điều kiện sản xuất cũng khác nhau.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Phù hợp với cơ cấu phong kiến ấy của chế độ chiếm hữu ruộng đất thì ở <em>thành thị</em> có sở hữu phường hội, tức là tổ chức phong kiến của thủ công nghiệp. Ở đây, sở hữu thì chủ yếu là lao động của mỗi cá nhân riêng rẽ. Sự cần thiết phải liên hiệp lại để chống giai cấp quý tộc ăn cướp đã liên hiệp lại, nhu cầu có thị trường chung trong thời kỳ mà nhà công nghiệp đồng thời là nhà buôn, sự cạnh tranh ngày một tăng của nông nô chạy trốn lũ lượt vào thành thị đang phồn thịnh, cơ cấu phong kiến của cả nước, - tất cả những cái đó đã sản sinh ra <em>phường hội</em>; những tư bản nhỏ do một số thợ thủ công riêng lẻ dần dần dành dụm được và số lượng không thay đổi của họ trong dân cư ngày càng đông lên, đã phát triển chế độ thợ bạn và thợ học nghề khiến cho ở thành thị nảy sinh ra một thang bậc đẳng cấp giống như thang bậc đẳng cấp trong cư dân nông thôn.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Như vậy là trong thời đại phong kiến, hình thức chủ yếu của sở hữu, một mặt là sở hữu ruộng đất, với lao động của nông nô đã bị cột chặt vào nó, mặt khác là lao động bản thân tiến hành với một tư bản nhỏ chi phối lao động của thợ bạn. Cơ cấu của cả hai hình thức đó đều được quyết định bởi những quan hệ sản xuất bị hạn chế - nền canh tác ruộng đất thô sơ với quy mô nhỏ và công nghiệp kiểu thủ công. Trong thời kỳ chế độ phong kiến phồn vinh, sự phân công lao động cũng không tiến triển được mấy. Mỗi nước đều mang trong lòng nó sự đối lập giữa thành thị và nông thôn; đành rằng sự phân chia đẳng cấp là rất rõ nét, nhưng ngoài sự phân hoá thành vua chúa, quý tộc, tăng lữ và nông dân ở nông thôn, và sự phân hoá thành thợ cả, thợ bạn, thợ học nghề, rồi chẳng bao lâu thành cả dân làm công nhật ở thành thị thì chưa có sự phân công lao động quan trọng nào cả. Trong nông nghiệp, cái gây khó khăn cho phân công lao động là lối canh tác manh mún, bên cạnh lối canh tác này đã xuất hiện nền công nghiệp gia đình của bản thân nông dân; còn trong công nghiệp thì hoàn toàn không có phân công lao động bên trong mỗi nghề thủ công riêng rẽ, và cũng chỉ có phân công lao động rất ít giữa các nghề thủ công với nhau. Sự phân công giữa công nghiệp và thương nghiệp đã tồn tại từ trước trong những thành thị cũ, nhưng mãi sau này mới phát triển trong những thành thị mới, khi các thành thị bắt đầu quan hệ với nhau.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Sự hợp nhất những vùng tương đối rộng thành những vương quốc phong kiến là một nhu cầu của giai cấp quý tộc ruộng đất cũng như của thành thị. Do đó, bất cứ ở đâu, tổ chức của giai cấp thống trị - giai cấp quý tộc - cũng có một ông vua đứng đầu.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Vậy thì tình hình là như sau: những cá nhân nhất định, hoạt động sản xuất theo một phương thức nhất định, đều nằm trong những quan hệ xã hội và chính trị nhất định. Trong từng trường hợp riêng biệt một, sự quan sát theo kinh nghiệm phải vạch rõ, căn cứ vào kinh nghiệm và không hề thần bí hoá, không hề tư biện, mối liên hệ giữa cơ cấu xã hội và chính trị với sự sản xuất. Cơ cấu xã hội và nhà nước luôn luôn nảy sinh ra từ quá trình sinh sống của những cá nhân nhất định, không phải của những cá nhân đúng như bản thân những cá nhân ấy có thể tự hình dung hay đúng như người khác có thể hình dung, mà là của những cá nhân đúng như <em>trong hiện thực</em>, nghĩa là đúng như họ đang hành động, sản xuất một cách vật chất, tức là đúng như họ hành động trong những giới hạn, tiền đề và điều kiện vật chất nhất định, không phụ thuộc vào ý chí của họ. </span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn11" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[11]</span></span></u></a></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Sự sản xuất ra những ý niệm, những quan niệm và ý thức thì lúc đầu là trực tiếp gắn liền mật thiết với hoạt động vật chất và với sự giao tiếp vật chất của con người – ngôn ngữ của cuộc sống hiện thực. Ở đây, những quan niệm, tư duy, sự giao tiếp tinh thần của con người xuất hiện ra còn là sản phẩm trực tiếp của các quan hệ vật chất của họ. Đối với sự sản xuất tinh thần, đúng như nó biểu hiện trong ngôn ngữ của chính trị, của luật pháp, của tôn giáo, của siêu hình học, v.v., trong một dân tộc thì cũng thế. Chính con người là kẻ sản xuất ra những quan niệm, ý niệm, v.v. của mình, song đây là những con người hiện thực, đang hành động, đúng như họ bị quy định bởi một sự phát triển nhất định của những lực lượng sản xuất của họ và bởi sự giao tiếp phù hợp với sự phát triển ấy, kể cả những hình thức rộng rãi nhất của những sự giao tiếp đó. Ý thức [das Bewubtsein] không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức [das bewubt Sein], và tồn tại của con người là quá trình đời sống hiện thực của con người. Nếu như trong toàn bộ hệ tư tưởng, con người và những quan hệ của họ bị đảo ngược như trong một camera obscura </span></span><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftn12" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[12]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">thì hiện tượng đó cũng sinh ra từ quá trình đời sống lịch sử của con người, hoàn toàn đúng y như hình ảnh đảo ngược của những vật trên võng mạc là sinh ra từ quá trình đời sống thể chất trực tiếp của con người.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Hoàn toàn trái với triết học Đức là triết học từ trên trời đi xuống đất, ở đây chúng ta từ dưới đất đi lên trời, tức là chúng ta không xuất phát từ những điều mà con người nói, tưởng tượng, hình dung, chúng ta cũng không xuất phát từ những con người chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của người khác, để từ đó mà đi tới những con người bằng xương bằng thịt; không, chúng ta xuất phát từ những con người đang hành động, hiện thực và chính là cũng xuất phát từ quá trình đời sống hiện thực của họ mà chúng ta mô tả sự phát triển của những phản ánh tư tưởng và tiếng vang tư tưởng của quá trình đời sống ấy. Ngay cả những ảo tưởng hình thành trong đầu óc con người cũng là những vật thăng hoa tất yếu của quá trình đời sống vật chất của họ, một quá trình có thể xác định được bằng kinh nghiệm và gắn liền với những tiền đề vật chất. Như vậy thì đạo đức, tôn giáo, siêu hình học và những dạng khác của hệ tư tưởng cùng với những hình thái ý thức tương ứng với chúng, liền mất ngay mọi vẻ độc lập bề ngoài. Tất cả những cái đó không có lịch sử, không có sự phát triển; chính con người, khi phát triển sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình. Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức. Theo cách xem xét thứ nhất, người ta xuất phát từ ý thức, coi đó là cá nhân sống; theo cách thứ hai, là cách phù hợp với đời sống hiện thực, người ta xuất phát từ chính ngay những cá nhân sống, hiện thực và coi ý thức chỉ là ý thức <em>của họ</em> mà thôi.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Cách xem xét này không phải không có tiền đề. Nó xuất phát từ những tiền đề hiện thực và không phút nào xa rời những tiền đề ấy. Những tiền đề ấy là những con người, không phải những con người ở trong một tình trạng biệt lập và cố định tưởng tượng mà là những con người trong quá trình phát triển – quá trình phát triển hiện thực và có thể thấy được bằng kinh nghiệm – của họ dưới những điều kiện nhất định. Một khi người ta mô tả quá trình hoạt động sinh sống ấy thì lịch sử không còn là một tập hợp những sự kiện chết như ở những người kinh nghiệm chủ nghĩa là những người vẫn còn là trừu tượng, hay cũng không còn là hoạt động tưởng tượng của những chủ thể tưởng tượng, như ở các nhà duy tâm chủ nghĩa nữa.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Chính nơi mà tư biện dừng lại, – chính trong đời sống hiện thực – là nơi bắt đầu khoa học thực sự, thực chứng, sự miêu tả hoạt động thực tiễn và quá trình thực tiễn của sự phát triển của con người. Những luận điệu trống rỗng về ý thức chấm dứt; thay cho những luận điệu đó phải là tri thức thực sự. Hiện thực mà được mô tả thì triết học độc lập sẽ mất môi trường tồn tại. Cùng lắm thì người ta cũng chỉ có thể thay thế nó bằng sự tổng hợp những kết quả chung nhất mà người ta có thể trừu tượng hoá từ việc quan sát sự phát triển lịch sử của con người. Những sự trừu tượng này, tách rời khỏi lịch sử hiện thực thì tự bản thân chúng hoàn toàn chẳng có giá trị gì hết. Chúng chỉ có thể dùng để sắp xếp tư liệu lịch sử được dễ dàng hơn, để chỉ ra thứ tự của các tầng lớp riêng rẽ của những tư liệu ấy. Nhưng khác với triết học, những sự trừu tượng ấy hoàn toàn không mang lại một phương pháp hay một sơ đồ theo đó người ta có thể sắp xếp các thời đại lịch sử cho ăn khớp. Ngược lại, khó khăn chỉ bắt đầu khi người ta bắt tay vào xem xét và sắp xếp tư liệu ấy, – dù đó là tư liệu của một thời đại đã qua hay của thời hiện tại, – và khi bắt tay vào việc thực sự miêu tả tư liệu ấy. Việc loại trừ những khó khăn đó tùy thuộc vào những tiền đề mà chúng ta hoàn toàn không thể đề ra ở đây được mà là những tiền đề chỉ xuất hiện từ việc nghiên cứu quá trình của đời sống hiện thực và của hoạt động của những cá nhân trong từng thời đại một. Ở đây, chúng ta lấy ra một vài sự trừu tượng ấy mà chúng ta sử dụng để đối lập lại hệ tư tưởng, và giải thích những sự trừu tượng ấy bằng những ví dụ lịch sử.</span></span></span></p><p> </p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"> (<em>còn tiếp</em>)</span></span></span></p><p> </p><p style="text-align: center"></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Nguồn: C.Mác và Ph.Ăng-ghen. <em>Toàn tập</em>. Tập 3. (1845-1847). Hà Nội: Nxb. Chính trị quốc gia, 1995. Bản điện tử: </span></span><a href="https://www.cpv.org.vn/" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">https://www.cpv.org.vn</span></span></u></a></span></p><p style="text-align: center"></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref1" target="_blank"></a></span></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref1" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[1]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em>Stơ-rau-xơ</em> (Strauß), Đa-vít Phri-đrích (1808 – 1874) – nhà triết học và nhà chính luận Đức, một phần tử xuất sắc của phái Hên-ghen trẻ; sau năm 1866, là một phần tử dân tộc tự do chủ nghĩa.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref2" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[2]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em>Đi-a-đốc</em> [<em>Diadochi</em>] là những tướng lĩnh của A-lếch-xan-đrơ Ma-xê-đoan đã tiến hành đấu tranh khốc liệt với nhau để tranh quyền sau khi A-lếch-xan-đrơ chết. Trong quá trình diễn biến của cuộc đấu tranh ấy (cuối thế kỷ IV đến đầu thế kỷ III trước công nguyên) chế độ quân chủ A-lếch-xan-đrơ vốn là một liên minh quân sự – hành chính không bền vững, đã bị phân liệt thành nhiều nhà nước riêng biệt.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref3" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[3]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">nghĩa đen: cái đầu chết; ở đây: hài cốt.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref4" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[4]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: “Vì vậy, trước khi phê phán riêng những đại biểu khác nhau của phong trào đó, chúng tôi nêu lên một số những nhận xét chung, để làm sáng tỏ những tiền đề tư tưởng chung của họ. Những nhận xét ấy cũng đủ để nói rõ quan điểm phê phán của chúng tôi, trong chừng mực chúng là cần thiết để hiểu được những lời phê phán tiếp đó và đủ để làm cơ sở cho những lời phê phán ấy. Sở dĩ những nhận xét này là nhằm chính vào <em>Phoi-ơ-bắc</em>, đó là vì ông là người duy nhất đã ít nhất là tiến được một vài bước và là người duy nhất mà tác phẩm có thể đem nghiên cứu de bonne foi (một cách nghiêm túc) được.</span></span></span></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><em><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">1. Hệ tư tưởng nói chung, triết học Đức nói riêng.</span></span></em></span></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">A. Chúng ta chỉ biết có một khoa học duy nhất, khoa học lịch sử. Có thể xem xét lịch sử dưới hai mặt, có thể chia lịch sử ra thành lịch sử tự nhiên và lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, hai mặt đó không tách rời nhau. Chừng nào mà loài người còn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên quy định lẫn nhau. Ở đây, chúng ta không nói đến lịch sử tự nhiên, tức là cái người ta gọi là khoa học tự nhiên; trái lại,chúng ta phải nghiên cứu lịch sử nhân loại, bởi vì, hầu như toàn bộ hệ tư tưởng quy lại thành hoặc là một quan niệm sai về nhân loại, hoặc là đi đến chỗ hoàn toàn bỏ qua lịch sử đó. Bản thân hệ tư tưởng chẳng qua cũng chỉ là một trong những mặt của lịch sử đó”.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref5" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[5]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px"><em>Stiếc-nơ </em>(Stirner), Ma-xơ (bút danh của Ca-xpa Smít) (1806 – 1856) – nhà triết học Đức, theo phái Hê-ghen trẻ, một trong những nhà tư tưởng của chủ nghĩa cá nhân tư sản và chủ nghĩa vô chính phủ.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref6" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[6]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: “nó có tham vọng làm kẻ cứu tinh tuyệt đối của thế giới, cứu thế giới khỏi mọi tai họa. Tôn giáo đã luôn luôn được coi là nguyên nhân cuối cùng gây ra mọi quan hệ bị những nhà triết học ấy căm ghét là kẻ thù từ thủa xa xưa và luôn bị đối xử như vậy”.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref7" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[7]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">toàn bộ từ đầu đến cuối.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref8" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[8]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: “Hành động <em>lịch sử</em> đầu tiên của những cá nhân đó, hành động mà nhờ đó họ khác <em>với loài vật, không phải là việc</em> họ tư duy mà là việc họ bắt đầu <em>sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho họ</em>“.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref9" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[9]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: “Nhưng những điều kiện ấy không những chỉ quy định tổ chức cơ thể nguyên thủy, nảy sinh một cách tự nhiên của con người, đặc biệt là những sự khác biệt về chủng tộc giữa họ với nhau mà còn quy định toàn bộ sự phát triển sau này hoặc sự không phát triển sau này của tổ chức ấy cho đến ngày nay”.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref10" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[10]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Thuật ngữ “Verkehr” trong “Hệ tư tưởng Đức” có một nội dung rất rộng. Thuật ngữ này bao hàm sự giao tiếp về vật chất và tinh thần của những cá nhân, của những tập đoàn xã hội và của nhiều nước. Mác và Ăng-ghen đã chỉ ra trong tác phẩm này rằng sự giao tiếp về vật chất, trước hết là sự giao tiếp của con người trong quá trình sản xuất, là cơ sở của bất cứ sự giao tiếp nào khác. Những thuật ngữ “Verkehrsform”, “Verkehrsweise”, “Verkehrsverhältnisse” (“hình thái giáo tiếp”, “phương thức giao tiếp”, “quan hệ giao tiếp”), được dùng trong “Hệ tư tưởng Đức” biểu thị khái niệm quan hệ sản xuất đã được hình thành ở Mác và Ăng-ghen trong thời gian ấy.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref11" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[11]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: “Những quan niệm của những cá nhân ấy về mình là những ý niệm hoặc về những quan hệ của họ với tự nhiên, hoặc về những quan hệ giữa họ với nhau, hoặc về bản chất tự nhiên của họ. Rõ ràng là trong tất cả các trường hợp này, những quan niệm ấy đều là sự biểu hiện có ý thức – hiện thực hay tưởng tượng – của những quan hệ hiện thực và hoạt động hiện thực của họ, của sản xuất của họ, của sự giao tiếp của họ, của tổ chức xã hội và chính trị của họ. Chỉ có thể đưa ra một giả thiết ngược lại với điều nói trên, nếu như ngoài tinh thần của những cá nhân hiện thực và bị quy định bởi vật chất, người ta giả định rằng còn có một tinh thần đặc biệt nào đó nữa. Nếu sự biểu hiện có ý thức của những cá nhân ấy về các quan hệ hiện thực là một sự biểu hiện hư ảo, nếu như trong những quan niệm của họ, họ đặt hiện thực ngược đầu xuống đất thì hiện tượng đó lại cũng là một hậu quả của tính hạn chế của phương thức hoạt động vật chất của họ và cũng những quan hệ xã hội hạn chế của họ do phương thức hoạt động ấy sản sinh ra”.</span></span></span></p><p> </p><p></p><p><span style="font-family: 'times new roman'"><a href="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref12" target="_blank"><u><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">[12]</span></span></u></a><span style="font-family: 'Arial'"><span style="font-size: 15px">– buồng tối của máy ảnh.</span></span></span></p></blockquote><p></p>
[QUOTE="PHÚC KEYNES, post: 95846, member: 147652"] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4][B]Karl Marx [/B]& [B]Friedrich Engels[/B][/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=times new roman][B][FONT=Arial][SIZE=4]TOÀN TẬP, Tập 3[/SIZE][/FONT][/B][/FONT] [FONT=times new roman][B][FONT=Arial][SIZE=4](Hệ tư tưởng Đức)[/SIZE][/FONT][/B][/FONT] [FONT=times new roman][B][FONT=Arial][SIZE=4]NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995[/SIZE][/FONT][/B][/FONT] [FONT=times new roman][B][FONT=Arial][SIZE=4]--- o0o ---[/SIZE][/FONT][/B][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [CENTER][B][FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]FEUERBACH VÀ SỰ ĐỐI LẬP [/SIZE][/FONT][/FONT][/B] [B][FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]GIỮA QUAN ĐIỂM DUY VẬT VÀ QUAN ĐIỂM DUY TÂM[/SIZE][/FONT][/FONT][/B][/CENTER] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Cứ tin lời các nhà tư tưởng Đức thì nước Đức, trong những năm gần đây, đã trải qua một cuộc đảo lộn chưa từng có. Quá trình tan rã của hệ thống Hê-ghen bắt đầu từ Stơ-rau-xơ [/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn1"][U][FONT=Arial][SIZE=4][1][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4] đã biến thành một cuộc sôi động âm ỉ toàn thế giới, lôi cuốn tất cả “những lực lượng của quá khứ”. Trong sự hỗn độn khắp nơi đó, những cường quốc hùng mạnh đã xuất hiện để rồi lại chìm nghỉm đi liền ngay đó, những anh hùng đã xuất hiện trong khoảnh khắc để rồi lại bị những đối thủ táo bạo hơn và mạnh hơn quẳng vào bóng tối. Đó là cuộc cách mạng mà so với nó, Cách mạng Pháp chỉ là một trò trẻ con; đó là một cuộc chiến đấu thế giới mà so với nó, cuộc chiến đấu của các Đi-a-đốc [/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn2"][U][FONT=Arial][SIZE=4][2][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4] chẳng có nghĩa lý gì. Những nguyên lý thay thế lẫn nhau, những anh hùng tư tưởng đẩy nhau ngã với một tốc độ nhanh chưa từng thấy, và chỉ trong ba năm từ 1842 đến 1845 ở nước Đức, người ta đã dọn sạch được nhiều hơn trong ba thế kỷ trước kia.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Tất cả cái đó người ta cho là đều diễn ra trong lĩnh vực của tư duy thuần túy.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Dù sao đi nữa, chúng ta cũng đang đứng trước một sự kiện lýthú: quá trình tan rã của tinh thần tuyệt đối. Khi tia lửa cuối cùng của sự sống của tinh thần tuyệt đối vừa tắt đi thì những bộ phận khác nhau của cái caput mortuum [/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn3"][U][FONT=Arial][SIZE=4][3][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4] ấy bắt đầu phân giải, tham gia vào những hỗn hợp mới và hình thành những chất mới. Những người làm nghề triết học từ trước tới nay vẫn sống bằng việc khai thác tinh thần tuyệt đối, bây giờ lại lao vào những hỗn hợp mới đó. Và ai nấy đều hết sức hăng hái tiêu thụ cái phần mà anh ta tình cờ kiếm được. Việc đó không thể tiến hành không có cạnh tranh. Lúc đầu cạnh tranh còn mang tính chất khá nghiêm túc và có tính chất tư sản. Nhưng về sau, khi thị trường Đức đã đầy ứ và khi mặc dù mọi cố gắng, hàng hoá cũng không tiêu thụ được trên thị trường thế giới nữa thì theo lệ thường ở Đức, tình hình kinh doanh đã bị xấu đi bởi một nền sản xuất bằng công xưởng và có tính chất giả tạo, bởi việc hạ thấp phẩm chất, việc làm giả nguyên liệu, việc làm giả nhãn hiệu, việc bán khống, việc dùng tín phiếu giả và một hệ thống tín dụng không có cơ sở hiện thực nào. Cuộc cạnh tranh ấy biến thành một cuộc đấu tranh gay gắt mà bây giờ người ta mô tả và tán dương với chúng ta như một cuộc cách mạng có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới, một nhân tố đã mang lại những kết quả và những thành tựu vĩ đại nhất.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Muốn đánh giá đúng toàn bộ cái trò bịp bợm triết học đó, nó thậm chí làm thức tỉnh trong lòng người thị dân Đức trung thực một tình cảm dân tộc dễ chịu, muốn nêu rõ tính nhỏ nhen, tính thiển cận địa phương của toàn bộ phong trào của phái Hê-ghen trẻ đó, và đặc biệt muốn vạch rõ sự trái ngược vừa bi đát vừa buồn cười giữa những chiến công hiện thực của vị anh hùng đó, với những ảo tưởng của họ về chính những chiến công ấy thì cần phải xem xét tất cả sự ầm ĩ đó theo một quan điểm ở bên ngoài nước Đức. [/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn4"][U][FONT=Arial][SIZE=4][4][/SIZE][/FONT][/U][/URL][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]A. HỆ TƯ TƯỞNG NÓI CHUNG, HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC NÓI RIÊNG[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Ngay trong những cố gắng gần đây nhất của nó, sự phê phán của Đức vẫn không rời bỏ miếng đất triết học. Không hề nghiên cứu những tiền đề triết học chung của nó, nhưng tất cả những vấn đề mà nó đề ra đều nảy sinh từ miếng đất của một hệ thống triết học nhất định-hệ thống Hê-ghen. Không phải chỉ trong những lời giải đáp của nó mà ngay cả trong bản thân các vấn đề, cũng đã có sự thần bí hoá rồi. Sự lệ thuộc ấy vào Hê-ghen là nguyên nhân giải thích tại sao không một ai trong những nhà phê phán mới xuất hiện ấy lại dám thử phê phán một cách toàn diện hệ thống Hê-ghen, mặc dù mỗi người trong bọn họ đều quả quyết rằng mình đã vượt quá Hê-ghen. Cuộc luận chiến của họ chống lại Hê-ghen và chống lại nhau chỉ đóng khung ở chỗ mỗi người trong bọn họ tách riêng một mặt nào đó của hệ thống Hê-ghen và đem mặt đó chống lại toàn bộ hệ thống cũng như chống lại những mặt do những người khác tách riêng ra. Thoạt đầu, người ta tách lấy những phạm trù của Hê-ghen dưới dạng thuần túy, chưa bị bóp méo, thí dụ như phạm trù thực thể và tự ý thức; về sau người ta tầm thường hoá những phạm trù ấy, gọi chúng bằng những tên trần tục hơn, thí dụ như “loài”, “kẻ duy nhất”, “con người”, v.v..[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Toàn bộ sự phê phán triết học ở Đức, từ Stơ-rau-xơ đến Stiếc-nơ [/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn5"][U][FONT=Arial][SIZE=4][5][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4], đều bó tròn trong việc phê phán những quan niệm [I]tôn giáo[/I][/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn6"][U][FONT=Arial][SIZE=4][6][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]. Người ta xuất phát từ tôn giáo chính cống và từ tinh thần hoá chính cống. Cái mà trước kia người ta coi là ý thức tôn giáo, là quan niệm tôn giáo thì sau này lại được quy định theo nhiều cách khác nhau. Toàn bộ bước tiến là ở chỗ những quan niệm siêu hình, quan niệm chính trị, quan niệm pháp luật, quan niệm đạo đức và những quan niệm khác mà người ta cho là những quan niệm thống trị, đều được liệt vào lĩnh vực những quan niệm tôn giáo hay thần học; cũng như ở chỗ người ta tuyên bố rằng ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức đạo đức là ý thức tôn giáo hay ý thức thần học, rằng con người chính trị, con người pháp luật và con người đạo đức – xét cho cùng “con người nói chung” – là con người tôn giáo. Người ta lấy sự thống trị của tôn giáo làm tiền đề. Và dần dà, người ta tuyên bố mọi quan hệ thống trị là một quan hệ tôn giáo và người ta biến quan hệ đó thành sự sùng bái: sùng bái pháp luật, sùng bái nhà nước, v.v.. Ở tứ phía, vẫn chỉ là những giáo điều và lòng tin vào giáo điều. Thế giới được thần thánh hoá theo một quy mô ngày càng rộng, cho đến khi thánh Ma-xơ đáng kính có thể thần thánh hoá thế giới en bloc [/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn7"][U][FONT=Arial][SIZE=4][7][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4] và do đó thanh toán vĩnh viễn hẳn thế giới.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Phái Hê-ghen già cho rằng bất cứ cái gì họ cũng [I]hiểu[/I] được khi đã quy cái đó vào một phạm trù của lô-gích học Hê-ghen. Phái Hê-ghen trẻ thì [I]phê phán[/I] tất cả mọi cái, bằng cách thay thế mọi cái bằng những quan niệm tôn giáo hoặc tuyên bố rằng mọi cái là có tính thần học. Phái Hê-ghen trẻ cũng như phái Hê-ghen già đều nhất trí tin tưởng rằng tôn giáo, khái niệm, cái phổ biến thống trị trong thế giới hiện có. Chỉ có điều là phái này thì chống lại sự thống trị ấy, coi đó là một sự tiếm đoạt, còn phái kia lại tán dương sự thống trị ấy là hợp pháp.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Phái Hê-ghen trẻ cho rằng những quan niệm, ý niệm, khái niệm, nói chung những sản phẩm của ý thức mà họ gán cho là có một sự tồn tại độc lập, đều là những xiềng xích thực sự đối với con người, – giống như phái Hê-ghen già tuyên bố rằng chúng là những sợi dây ràng buộc thực sự đối với xã hội loài người, – cho nên dĩ nhiên phái Hê-ghen trẻ chỉ cần tiến hành đấu tranh chống lại những ảo tưởng đó của ý thức mà thôi. Vì theo họ tưởng tượng, những quan hệ của con người, tất cả mọi hành động và cử chỉ của con người, mọi xiềng xích và giới hạn đối với con người đều là sản phẩm của ý thức của họ, nên phái Hê-ghen trẻ đã đề xuất một cách lô-gích với con người một yêu cầu đạo đức là: đổi ý thức hiện nay của mình lấy ý thức con người, có tính phê phán hay ích kỷ và do đó, xoá bỏ những giới hạn đối với mình. Đòi hỏi đổi ý thức như vậy thì chẳng khác gì đòi hỏi giải thích một cách khác cái gì đang tồn tại, nghĩa là thừa nhận cái đang tồn tại bằng cách giải thích nó khác đi. Mặc dầu họ đã dùng những lời lẽ khoa trương dường như “làm đảo lộn thế giới”, các nhà tư tưởng của phái Hê-ghen trẻ vẫn là những kẻ đại bảo thủ. Những người trẻ nhất trong bọn họ đã tìm được từ ngữ chính xác để chỉ hoạt động của họ, khi họ tuyên bố rằng họ chỉ đấu tranh chống lại “những câu nói”. Họ chỉ quên có một điều là: ngoài những câu nói ra, họ chẳng có cái gì khác hơn để chống lại những câu nói ấy, và nếu họ chỉ đấu tranh chống lại những câu nói của thế giới thôi thì họ tuyệt nhiên chẳng đấu tranh gì chống lại thế giới hiện thực, hiện tồn ấy cả. Kết quả duy nhất mà sự phê phán triết học ấy có thể đạt được là đem lại một đôi điều thuyết minh về mặt lịch sử tôn giáo, – nhưng lại rất phiến diện – cho đạo Cơ Đốc; tất cả những điều khẳng định khác của họ chỉ là những sự tô điểm thêm nữa cho cái tham vọng của họ cho rằng với những điều thuyết minh không đáng kể ấy, họ đã làm nên những phát hiện có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Không một người nào trong những nhà triết học đó có ý nghĩa tự hỏi xem mối liên hệ giữa triết học Đức với hiện thực Đức là như thế nào, mối liên hệ giữa sự phê phán của họ với hoàn cảnh vật chất của chính bản thân họ là như thế nào.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Những tiền đề xuất phát của chúng tôi không phải là những tiền đề tùy tiện, không phải là giáo điều; đó là những tiền đề hiện thực mà người ta chỉ có thể bỏ qua trong trí tưởng tượng thôi. Đó là những cá nhân hiện thực, là hoạt động của họ và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra. Như vậy, những tiền đề ấy là có thể kiểm nghiệm được bằng con đường kinh nghiệm thuần túy.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống [/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn8"][U][FONT=Arial][SIZE=4][8][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]. Vì vậy, điều cụ thể đầu tiên cần phải xác định là tổ chức cơ thể của những cá nhân ấy và mối quan hệ mà tổ chức cơ thể ấy tạo ra giữa họ với phần còn lại của tự nhiên. Đương nhiên là ở đây, chúng ta không thể đi sâu nghiên cứu thể chất của bản thân con người, cũng như những điều kiện tự nhiên mà con người thấy có sẵn như điều kiện địa chất, điều kiện địa lý, điều kiện khí hậu và những điều kiện khác [/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn9"][U][FONT=Arial][SIZE=4][9][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]. Mọi khoa ghi chép lịch sử đều phải xuất phát từ những cơ sở tự nhiên ấy và những thay đổi của chúng do hoạt động của con người gây ra trong quá trình lịch sử.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu [I]sản xuất ra[/I] những tư liệu sinh hoạt của mình – đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Phương thức mà con người sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho mình, phụ thuộc trước hết vào tính chất của chính những tư liệu sinh hoạt mà con người thấy có sẵn và phải tái sản xuất ra. Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân. Mà hơn thế, nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một [I]phương thức sinh [/I]sống nhất định của họ. Hoạt động sống của họ như thế nào thì họ là như thế ấy. Do đó họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với [I]cái[/I] mà họ sản xuất ra cũng như với [I]cách[/I] họ sản xuất. Do đó, những cá nhân là như thế nào, điều đó phụ thuộc vào những điều kiện vật chất của sự sản xuất của họ.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Sự sản xuất ấy bắt đầu xuất hiện lần đầu tiên cùng với [I]sự tăng thêm của dân số[/I]. Bản thân sự sản xuất ấy lại có tiền đề là [I]sự giao tiếp (Verkehr)[/I] giữa những cá nhân với nhau. Hình thức của sự giao tiếp ấy, đến lượt nó, lại do sự sản xuất quy định. [/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn10"][U][FONT=Arial][SIZE=4][10][/SIZE][/FONT][/U][/URL][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Những quan hệ qua lại giữa các dân tộc khác nhau đều phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi dân tộc đó về mặt lực lượng sản xuất, sự phân công lao động và sự giao tiếp nội bộ. Nguyên lý đó được mọi người thừa nhận. Song không phải chỉ riêng quan hệ của dân tộc này với các dân tộc khác, mà cả toàn bộ kết cấu trong của bản thân dân tộc đã cùng phụ thuộc vào trình độ phát triển của sản xuất và của sự giao tiếp bên trong và bên ngoài của dân tộc ấy. Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của một dân tộc biểu lộ ra rõ nhất ở trình độ phát triển của sự phân công lao động. Bất cứ sức sản xuất mới nào, trong chừng mực không phải chỉ là sự mở đầu đơn thuần về số lượng những lực lượng sản xuất mà người ta đã biết cho đến lúc đó (ví dụ như sự khai phá đất đai mới), cũng đều mang lại kết quả là sự phát triển nữa của phân công lao động.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Sự phân công lao động trong nội bộ một dân tộc trước hết dẫn đến tách rời giữa lao động công nghiệp và thương nghiệp với lao động nông nghiệp, và do đó dẫn đến sự tách rời giữa [I]thành thị[/I] và [I]nông thôn[/I], và sự đối lập giữa lợi ích của thành thị và nông thôn. Sự phát triển thêm nữa của sự phân công lao động dẫn tới sự tách rời giữa lao động thương nghiệp với lao động công nghiệp. Đồng thời, do sự phân công lao động trong nội bộ những ngành khác nhau ấy mà các loại phân công chi tiết khác nhau giữa các cá nhân hợp tác với nhau trong một loại lao động nhất định cũng phát triển. Mối quan hệ lẫn nhau giữa những sự phân công chi tiết khác nhau này được quy định bởi phương thức sử dụng lao động nông nghiệp, lao động công nghiệp và lao động thương nghiệp (chế độ gia trưởng, chế độ nô lệ, đẳng cấp, giai cấp). Khi sự giao tiếp phát triển hơn nữa thì những mối quan hệ như thế cũng xuất hiện cả trong mối liên hệ qua lại giữa các dân tộc khác nhau.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Những giai đoạn phát triển khác nhau của sự phân công lao động cũng đồng thời là những hình thức khác nhau của sở hữu, nghĩa là mỗi giai đoạn của phân công lao động cũng quy định những quan hệ giữa cá nhân với nhau, tùy theo quan hệ của họ với tư liệu lao động, công cụ lao động và sản phẩm lao động.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Hình thức sở hữu đầu tiên là sở hữu bộ lạc5. Nó phù hợp với giai đoạn chưa phát triển của sản xuất, khi người ta sống bằng săn bắn và đánh cá, bằng chăn nuôi, hay nhiều lắm là bằng trồng trọt. Trong trường hợp sau thì phải có một số lớn đất đai chưa khai khẩn. Trong giai đoạn ấy, sự phân công lao động còn rất ít phát triển và hạn chế ở chỗ mở rộng hơn nữa sự phân công lao động hình thành một cách tự nhiên trong gia đình. Do đó, cơ cấu xã hội chỉ giới hạn ở sự mở rộng của gia đình: tù trưởng của bộ lạc với ở bên dưới họ, là những thành viên của bộ lạc và cuối cùng là những nô lệ. Chế độ nô lệ tiềm tàng trong gia đình chỉ phát triển dần dần cùng với sự tăng thêm của dân số và của nhu cầu và cùng với việc mở rộng sự giao tiếp đối ngoại, dưới hình thức chiến tranh cũng như dưới hình thức trao đổi.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Hình thức sở hữu thứ hai là sở hữu công xã và sở hữu nhà nước thời cổ; sở hữu này ra đời chủ yếu từ sự tập hợp – bằng hiệp ước hay bằng chinh phục – nhiều bộ lạc thành một [I]thành thị[/I], và dưới chế độ sở hữu này chế độ nô lệ vẫn tiếp tục được duy trì. Cùng với sở hữu công xã thì sở hữu tư nhân về động sản và sau này cả về bất động sản cũng đã phát triển nhưng dưới một hình thức sở hữu ngoại lệ và phụ thuộc vào sở hữu công xã. Chỉ có đứng trong cộng đồng của mình, những công dân mới có quyền lực đối với những nô lệ đang lao động và vì vậy họ cũng đã bị trói buộc vào hình thức sở hữu công xã. Hình thức đó là tư hữu công xã của những công dân tích cực, tức là những người, đứng trước nô lệ, buộc phải duy trì hình thức tự nhiên ấy của sự liên hợp. Vì vậy, toàn bộ cơ cấu xã hội xây dựng trên nền tảng tư hữu công xã ấy – và cùng với nó, quyền lực của nhân dân, – phải tan rã theo mức phát triển của tư hữu bất động sản. Sự phân công lao động đã phát triển hơn. Chúng ta đã thấy có sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, và về sau – sự đối lập giữa những quốc gia đại biểu cho lợi ích của thành thị – và những quốc gia đại biểu cho lợi ích của nông thôn; và ngay bên trong các thành thị, chúng ta thấy có sự đối lập giữa công nghiệp và thương nghiệp hàng hải. Những quan hệ giai cấp giữa công dân và nô lệ đã phát triển hoàn toàn.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Toàn bộ quan niệm đó về lịch sử hình như là mâu thuẫn với việc đi chinh phục. Cho tới nay, người ta vẫn coi bạo lực, chiến tranh, cướp bóc, giết người và ăn cắp, v.v., là động lực của lịch sử. Ở đây, chúng tôi chỉ có thể nói đến những điểm chủ yếu và vì vậy, chúng tôi chọn ra một ví dụ nổi bật nhất – sự phá hủy một nền văn minh lâu đời bởi dân man rợ và sự hình thành từ đó ra một cơ cấu xã hội hoàn toàn mới (La Mã và dân man rợ, chủ nghĩa phong kiến và nước Gô-lơ, Đế chế La Mã phương Đông và người Thổ Nhĩ Kỳ). Như chúng ta đã nói ở trên, bản thân chiến tranh của dân man rợ xâm lược còn là hình thức bình thường của sự giao tiếp mà người ta sử dụng càng rộng rãi tùy theo sự tăng thêm dân số càng tạo ra nhu cầu về tư liệu sản xuất mới, vì phương thức sản xuất cổ truyền thô sơ là phương thức duy nhất có thể có của dân đó. Ngược lại, ở I-ta-li-a, sự tập trung tài sản ruộng đất (không phải chỉ do việc mua bán và nợ nần mà còn do sự thừa kế tạo nên vì lối sống đồi trụy và tình trạng hiếm có cưới xin lúc bấy giờ đã làm cho những dòng họ lâu đời tàn lụi dần đi và tài sản của họ rơi vào tay một số ít người), hơn nữa những ruộng đất canh tác bị biến thành bãi chăn nuôi (điều này không phải chỉ do những nguyên nhân kinh tế thông thường hiện vẫn phát huy tác dụng gây nên mà còn do việc nhập khẩu thóc lúa cướp được hay thu được với tư cách là đồ cống nạp và cả việc thiếu người tiêu thụ thóc lúa I-ta-li-a – do tình trạng đó đẻ ra – gây nên) đã khiến cho số dân tự do hầu như biến mất; ngay nô lệ cũng không ngừng chết dần chết mòn và phải được thường xuyên thay thế bằng nô lệ mới. Chế độ chiếm hữu nô lệ vẫn là cơ sở của toàn bộ nền sản xuất. Những bình dân, ở giữa dân tự do và nô lệ, không bao giờ vươn được lên quá mức độ người vô sản áo rách. Vả lại, La Mã chưa bao giờ vượt qua được giai đoạn là thành thị, nó bị cột chặt vào các địa phương bằng những mối liên hệ hầu như thuần túy chỉ là những mối liên hệ chính trị mà dĩ nhiên là những sự kiện chính trị có thể phá vỡ.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Cùng với sự phát triển của sở hữu tư nhân, ở đây lần đầu tiên người ta thấy xuất hiện những quan hệ mà chúng ta sẽ lại thấy trong chế độ tư hữu hiện đại, nhưng với quy mô lớn hơn. Một mặt là sự tích tụ của sở hữu tư nhân, được bắt đầu rất sớm ở La Mã (bằng chứng là luật ruộng đất của Li-xi-ni-út [Licinius)6 và phát triển rất nhanh từ khi có những cuộc nội chiến và nhất là dưới thời Đế chế; mặt khác, gắn liền với tình hình trên, là sự biến đổi của những tiểu nông bình dân thành một giai cấp vô sản mà do địa vị trung gian của nó giữa những công nhân có của và những nô lệ, nó không phát triển độc lập được.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Hình thức thứ ba là sở hữu phong kiến hay sở hữu đẳng cấp. Nếu điểm xuất phát của thời cổ là [I]thành thị[/I] và lãnh thổ nhỏ của nó thì điểm xuất phát của thời trung cổ lại là [I]nông thôn[/I]. Dân cư hiện có thưa thớt và rải rác trên một diện tích rộng, và những người chinh phục mới tới cũng chẳng làm tăng thêm được dân số là bao, đã quyết định sự thay đổi đó của điểm xuất phát. Vì vậy, trái với Hy Lạp và La Mã, sự phát triển phong kiến bắt đầu trên một địa vực rộng hơn nhiều, một địa vực được chuẩn bị bởi những cuộc chinh phục của La Mã và bởi sự mở rộng nông nghiệp mà những cuộc chinh phục ấy đã tạo ra lúc ban đầu. Những thế kỷ cuối cùng của Đế quốc La Mã suy tàn và chính cuộc chinh phục của những người man rợ đối với đế quốc này đã phá hủy một khối lớn những lực lượng sản xuất: nông nghiệp suy sụp, công nghiệp suy đồi vì thiếu nơi tiêu thụ, thương nghiệp đình đốn hay bị bạo lực làm gián đoạn, dân cư ở nông thôn cũng như ở thành thị đều giảm sút. Dưới ảnh hưởng của chế độ quân sự của người Giéc-manh thì hoàn cảnh vốn có đó và cách thức tổ chức chinh phục do hoàn cảnh đó đẻ ra, đã phát triển chế độ sở hữu phong kiến. Cũng như sở hữu bộ lạc và sở hữu công xã, sở hữu phong kiến cũng dựa vào một cộng đồng nhất định, nhưng những kẻ đối lập với cộng đồng này với tư cách là giai cấp trực tiếp sản xuất, không phải là những nô lệ như trong thế giới cổ đại, mà là những người tiểu nông bị nô dịch. Cùng với sự phát triển đầy đủ của chế độ phong kiến, sự đối lập với thành thị cũng xuất hiện. Cơ cấu đẳng cấp của chế độ chiếm hữu ruộng đất và các đội hộ vệ võ trang gắn liền với cơ cấu đẳng cấp đó, đã đem lại cho quý tộc quyền lực đối với nông nô. Cơ cấu phong kiến đó, cũng như chế độ sở hữu công xã thời cổ, vẫn là sự kết hợp nhằm chống lại giai cấp sản xuất bị thống trị; chỉ có hình thức kết hợp và quan hệ với những người sản xuất trực tiếp là khác nhau vì những điều kiện sản xuất cũng khác nhau.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Phù hợp với cơ cấu phong kiến ấy của chế độ chiếm hữu ruộng đất thì ở [I]thành thị[/I] có sở hữu phường hội, tức là tổ chức phong kiến của thủ công nghiệp. Ở đây, sở hữu thì chủ yếu là lao động của mỗi cá nhân riêng rẽ. Sự cần thiết phải liên hiệp lại để chống giai cấp quý tộc ăn cướp đã liên hiệp lại, nhu cầu có thị trường chung trong thời kỳ mà nhà công nghiệp đồng thời là nhà buôn, sự cạnh tranh ngày một tăng của nông nô chạy trốn lũ lượt vào thành thị đang phồn thịnh, cơ cấu phong kiến của cả nước, - tất cả những cái đó đã sản sinh ra [I]phường hội[/I]; những tư bản nhỏ do một số thợ thủ công riêng lẻ dần dần dành dụm được và số lượng không thay đổi của họ trong dân cư ngày càng đông lên, đã phát triển chế độ thợ bạn và thợ học nghề khiến cho ở thành thị nảy sinh ra một thang bậc đẳng cấp giống như thang bậc đẳng cấp trong cư dân nông thôn.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Như vậy là trong thời đại phong kiến, hình thức chủ yếu của sở hữu, một mặt là sở hữu ruộng đất, với lao động của nông nô đã bị cột chặt vào nó, mặt khác là lao động bản thân tiến hành với một tư bản nhỏ chi phối lao động của thợ bạn. Cơ cấu của cả hai hình thức đó đều được quyết định bởi những quan hệ sản xuất bị hạn chế - nền canh tác ruộng đất thô sơ với quy mô nhỏ và công nghiệp kiểu thủ công. Trong thời kỳ chế độ phong kiến phồn vinh, sự phân công lao động cũng không tiến triển được mấy. Mỗi nước đều mang trong lòng nó sự đối lập giữa thành thị và nông thôn; đành rằng sự phân chia đẳng cấp là rất rõ nét, nhưng ngoài sự phân hoá thành vua chúa, quý tộc, tăng lữ và nông dân ở nông thôn, và sự phân hoá thành thợ cả, thợ bạn, thợ học nghề, rồi chẳng bao lâu thành cả dân làm công nhật ở thành thị thì chưa có sự phân công lao động quan trọng nào cả. Trong nông nghiệp, cái gây khó khăn cho phân công lao động là lối canh tác manh mún, bên cạnh lối canh tác này đã xuất hiện nền công nghiệp gia đình của bản thân nông dân; còn trong công nghiệp thì hoàn toàn không có phân công lao động bên trong mỗi nghề thủ công riêng rẽ, và cũng chỉ có phân công lao động rất ít giữa các nghề thủ công với nhau. Sự phân công giữa công nghiệp và thương nghiệp đã tồn tại từ trước trong những thành thị cũ, nhưng mãi sau này mới phát triển trong những thành thị mới, khi các thành thị bắt đầu quan hệ với nhau.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Sự hợp nhất những vùng tương đối rộng thành những vương quốc phong kiến là một nhu cầu của giai cấp quý tộc ruộng đất cũng như của thành thị. Do đó, bất cứ ở đâu, tổ chức của giai cấp thống trị - giai cấp quý tộc - cũng có một ông vua đứng đầu.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Vậy thì tình hình là như sau: những cá nhân nhất định, hoạt động sản xuất theo một phương thức nhất định, đều nằm trong những quan hệ xã hội và chính trị nhất định. Trong từng trường hợp riêng biệt một, sự quan sát theo kinh nghiệm phải vạch rõ, căn cứ vào kinh nghiệm và không hề thần bí hoá, không hề tư biện, mối liên hệ giữa cơ cấu xã hội và chính trị với sự sản xuất. Cơ cấu xã hội và nhà nước luôn luôn nảy sinh ra từ quá trình sinh sống của những cá nhân nhất định, không phải của những cá nhân đúng như bản thân những cá nhân ấy có thể tự hình dung hay đúng như người khác có thể hình dung, mà là của những cá nhân đúng như [I]trong hiện thực[/I], nghĩa là đúng như họ đang hành động, sản xuất một cách vật chất, tức là đúng như họ hành động trong những giới hạn, tiền đề và điều kiện vật chất nhất định, không phụ thuộc vào ý chí của họ. [/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn11"][U][FONT=Arial][SIZE=4][11][/SIZE][/FONT][/U][/URL][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Sự sản xuất ra những ý niệm, những quan niệm và ý thức thì lúc đầu là trực tiếp gắn liền mật thiết với hoạt động vật chất và với sự giao tiếp vật chất của con người – ngôn ngữ của cuộc sống hiện thực. Ở đây, những quan niệm, tư duy, sự giao tiếp tinh thần của con người xuất hiện ra còn là sản phẩm trực tiếp của các quan hệ vật chất của họ. Đối với sự sản xuất tinh thần, đúng như nó biểu hiện trong ngôn ngữ của chính trị, của luật pháp, của tôn giáo, của siêu hình học, v.v., trong một dân tộc thì cũng thế. Chính con người là kẻ sản xuất ra những quan niệm, ý niệm, v.v. của mình, song đây là những con người hiện thực, đang hành động, đúng như họ bị quy định bởi một sự phát triển nhất định của những lực lượng sản xuất của họ và bởi sự giao tiếp phù hợp với sự phát triển ấy, kể cả những hình thức rộng rãi nhất của những sự giao tiếp đó. Ý thức [das Bewubtsein] không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức [das bewubt Sein], và tồn tại của con người là quá trình đời sống hiện thực của con người. Nếu như trong toàn bộ hệ tư tưởng, con người và những quan hệ của họ bị đảo ngược như trong một camera obscura [/SIZE][/FONT][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftn12"][U][FONT=Arial][SIZE=4][12][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]thì hiện tượng đó cũng sinh ra từ quá trình đời sống lịch sử của con người, hoàn toàn đúng y như hình ảnh đảo ngược của những vật trên võng mạc là sinh ra từ quá trình đời sống thể chất trực tiếp của con người.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Hoàn toàn trái với triết học Đức là triết học từ trên trời đi xuống đất, ở đây chúng ta từ dưới đất đi lên trời, tức là chúng ta không xuất phát từ những điều mà con người nói, tưởng tượng, hình dung, chúng ta cũng không xuất phát từ những con người chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của người khác, để từ đó mà đi tới những con người bằng xương bằng thịt; không, chúng ta xuất phát từ những con người đang hành động, hiện thực và chính là cũng xuất phát từ quá trình đời sống hiện thực của họ mà chúng ta mô tả sự phát triển của những phản ánh tư tưởng và tiếng vang tư tưởng của quá trình đời sống ấy. Ngay cả những ảo tưởng hình thành trong đầu óc con người cũng là những vật thăng hoa tất yếu của quá trình đời sống vật chất của họ, một quá trình có thể xác định được bằng kinh nghiệm và gắn liền với những tiền đề vật chất. Như vậy thì đạo đức, tôn giáo, siêu hình học và những dạng khác của hệ tư tưởng cùng với những hình thái ý thức tương ứng với chúng, liền mất ngay mọi vẻ độc lập bề ngoài. Tất cả những cái đó không có lịch sử, không có sự phát triển; chính con người, khi phát triển sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình. Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức. Theo cách xem xét thứ nhất, người ta xuất phát từ ý thức, coi đó là cá nhân sống; theo cách thứ hai, là cách phù hợp với đời sống hiện thực, người ta xuất phát từ chính ngay những cá nhân sống, hiện thực và coi ý thức chỉ là ý thức [I]của họ[/I] mà thôi.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Cách xem xét này không phải không có tiền đề. Nó xuất phát từ những tiền đề hiện thực và không phút nào xa rời những tiền đề ấy. Những tiền đề ấy là những con người, không phải những con người ở trong một tình trạng biệt lập và cố định tưởng tượng mà là những con người trong quá trình phát triển – quá trình phát triển hiện thực và có thể thấy được bằng kinh nghiệm – của họ dưới những điều kiện nhất định. Một khi người ta mô tả quá trình hoạt động sinh sống ấy thì lịch sử không còn là một tập hợp những sự kiện chết như ở những người kinh nghiệm chủ nghĩa là những người vẫn còn là trừu tượng, hay cũng không còn là hoạt động tưởng tượng của những chủ thể tưởng tượng, như ở các nhà duy tâm chủ nghĩa nữa.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Chính nơi mà tư biện dừng lại, – chính trong đời sống hiện thực – là nơi bắt đầu khoa học thực sự, thực chứng, sự miêu tả hoạt động thực tiễn và quá trình thực tiễn của sự phát triển của con người. Những luận điệu trống rỗng về ý thức chấm dứt; thay cho những luận điệu đó phải là tri thức thực sự. Hiện thực mà được mô tả thì triết học độc lập sẽ mất môi trường tồn tại. Cùng lắm thì người ta cũng chỉ có thể thay thế nó bằng sự tổng hợp những kết quả chung nhất mà người ta có thể trừu tượng hoá từ việc quan sát sự phát triển lịch sử của con người. Những sự trừu tượng này, tách rời khỏi lịch sử hiện thực thì tự bản thân chúng hoàn toàn chẳng có giá trị gì hết. Chúng chỉ có thể dùng để sắp xếp tư liệu lịch sử được dễ dàng hơn, để chỉ ra thứ tự của các tầng lớp riêng rẽ của những tư liệu ấy. Nhưng khác với triết học, những sự trừu tượng ấy hoàn toàn không mang lại một phương pháp hay một sơ đồ theo đó người ta có thể sắp xếp các thời đại lịch sử cho ăn khớp. Ngược lại, khó khăn chỉ bắt đầu khi người ta bắt tay vào xem xét và sắp xếp tư liệu ấy, – dù đó là tư liệu của một thời đại đã qua hay của thời hiện tại, – và khi bắt tay vào việc thực sự miêu tả tư liệu ấy. Việc loại trừ những khó khăn đó tùy thuộc vào những tiền đề mà chúng ta hoàn toàn không thể đề ra ở đây được mà là những tiền đề chỉ xuất hiện từ việc nghiên cứu quá trình của đời sống hiện thực và của hoạt động của những cá nhân trong từng thời đại một. Ở đây, chúng ta lấy ra một vài sự trừu tượng ấy mà chúng ta sử dụng để đối lập lại hệ tư tưởng, và giải thích những sự trừu tượng ấy bằng những ví dụ lịch sử.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4] ([I]còn tiếp[/I])[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [CENTER][FONT=Arial][SIZE=4][/SIZE][/FONT][/CENTER] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]Nguồn: C.Mác và Ph.Ăng-ghen. [I]Toàn tập[/I]. Tập 3. (1845-1847). Hà Nội: Nxb. Chính trị quốc gia, 1995. Bản điện tử: [/SIZE][/FONT][URL="https://www.cpv.org.vn/"][U][FONT=Arial][SIZE=4]https://www.cpv.org.vn[/SIZE][/FONT][/U][/URL][/FONT] [CENTER][FONT=Arial][SIZE=4][/SIZE][/FONT][/CENTER] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref1"] [U][FONT=Arial][SIZE=4][1][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4][I]Stơ-rau-xơ[/I] (Strauß), Đa-vít Phri-đrích (1808 – 1874) – nhà triết học và nhà chính luận Đức, một phần tử xuất sắc của phái Hên-ghen trẻ; sau năm 1866, là một phần tử dân tộc tự do chủ nghĩa.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref2"][U][FONT=Arial][SIZE=4][2][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4][I]Đi-a-đốc[/I] [[I]Diadochi[/I]] là những tướng lĩnh của A-lếch-xan-đrơ Ma-xê-đoan đã tiến hành đấu tranh khốc liệt với nhau để tranh quyền sau khi A-lếch-xan-đrơ chết. Trong quá trình diễn biến của cuộc đấu tranh ấy (cuối thế kỷ IV đến đầu thế kỷ III trước công nguyên) chế độ quân chủ A-lếch-xan-đrơ vốn là một liên minh quân sự – hành chính không bền vững, đã bị phân liệt thành nhiều nhà nước riêng biệt.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref3"][U][FONT=Arial][SIZE=4][3][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]nghĩa đen: cái đầu chết; ở đây: hài cốt.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref4"][U][FONT=Arial][SIZE=4][4][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: “Vì vậy, trước khi phê phán riêng những đại biểu khác nhau của phong trào đó, chúng tôi nêu lên một số những nhận xét chung, để làm sáng tỏ những tiền đề tư tưởng chung của họ. Những nhận xét ấy cũng đủ để nói rõ quan điểm phê phán của chúng tôi, trong chừng mực chúng là cần thiết để hiểu được những lời phê phán tiếp đó và đủ để làm cơ sở cho những lời phê phán ấy. Sở dĩ những nhận xét này là nhằm chính vào [I]Phoi-ơ-bắc[/I], đó là vì ông là người duy nhất đã ít nhất là tiến được một vài bước và là người duy nhất mà tác phẩm có thể đem nghiên cứu de bonne foi (một cách nghiêm túc) được.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=times new roman][I][FONT=Arial][SIZE=4]1. Hệ tư tưởng nói chung, triết học Đức nói riêng.[/SIZE][/FONT][/I][/FONT] [FONT=times new roman][FONT=Arial][SIZE=4]A. Chúng ta chỉ biết có một khoa học duy nhất, khoa học lịch sử. Có thể xem xét lịch sử dưới hai mặt, có thể chia lịch sử ra thành lịch sử tự nhiên và lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, hai mặt đó không tách rời nhau. Chừng nào mà loài người còn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên quy định lẫn nhau. Ở đây, chúng ta không nói đến lịch sử tự nhiên, tức là cái người ta gọi là khoa học tự nhiên; trái lại,chúng ta phải nghiên cứu lịch sử nhân loại, bởi vì, hầu như toàn bộ hệ tư tưởng quy lại thành hoặc là một quan niệm sai về nhân loại, hoặc là đi đến chỗ hoàn toàn bỏ qua lịch sử đó. Bản thân hệ tư tưởng chẳng qua cũng chỉ là một trong những mặt của lịch sử đó”.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref5"][U][FONT=Arial][SIZE=4][5][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4][I]Stiếc-nơ [/I](Stirner), Ma-xơ (bút danh của Ca-xpa Smít) (1806 – 1856) – nhà triết học Đức, theo phái Hê-ghen trẻ, một trong những nhà tư tưởng của chủ nghĩa cá nhân tư sản và chủ nghĩa vô chính phủ.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref6"][U][FONT=Arial][SIZE=4][6][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: “nó có tham vọng làm kẻ cứu tinh tuyệt đối của thế giới, cứu thế giới khỏi mọi tai họa. Tôn giáo đã luôn luôn được coi là nguyên nhân cuối cùng gây ra mọi quan hệ bị những nhà triết học ấy căm ghét là kẻ thù từ thủa xa xưa và luôn bị đối xử như vậy”.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref7"][U][FONT=Arial][SIZE=4][7][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]toàn bộ từ đầu đến cuối.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref8"][U][FONT=Arial][SIZE=4][8][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: “Hành động [I]lịch sử[/I] đầu tiên của những cá nhân đó, hành động mà nhờ đó họ khác [I]với loài vật, không phải là việc[/I] họ tư duy mà là việc họ bắt đầu [I]sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho họ[/I]“.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref9"][U][FONT=Arial][SIZE=4][9][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: “Nhưng những điều kiện ấy không những chỉ quy định tổ chức cơ thể nguyên thủy, nảy sinh một cách tự nhiên của con người, đặc biệt là những sự khác biệt về chủng tộc giữa họ với nhau mà còn quy định toàn bộ sự phát triển sau này hoặc sự không phát triển sau này của tổ chức ấy cho đến ngày nay”.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref10"][U][FONT=Arial][SIZE=4][10][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]Thuật ngữ “Verkehr” trong “Hệ tư tưởng Đức” có một nội dung rất rộng. Thuật ngữ này bao hàm sự giao tiếp về vật chất và tinh thần của những cá nhân, của những tập đoàn xã hội và của nhiều nước. Mác và Ăng-ghen đã chỉ ra trong tác phẩm này rằng sự giao tiếp về vật chất, trước hết là sự giao tiếp của con người trong quá trình sản xuất, là cơ sở của bất cứ sự giao tiếp nào khác. Những thuật ngữ “Verkehrsform”, “Verkehrsweise”, “Verkehrsverhältnisse” (“hình thái giáo tiếp”, “phương thức giao tiếp”, “quan hệ giao tiếp”), được dùng trong “Hệ tư tưởng Đức” biểu thị khái niệm quan hệ sản xuất đã được hình thành ở Mác và Ăng-ghen trong thời gian ấy.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref11"][U][FONT=Arial][SIZE=4][11][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]Tiếp theo là đoạn bị gạch bỏ trong bản thảo: “Những quan niệm của những cá nhân ấy về mình là những ý niệm hoặc về những quan hệ của họ với tự nhiên, hoặc về những quan hệ giữa họ với nhau, hoặc về bản chất tự nhiên của họ. Rõ ràng là trong tất cả các trường hợp này, những quan niệm ấy đều là sự biểu hiện có ý thức – hiện thực hay tưởng tượng – của những quan hệ hiện thực và hoạt động hiện thực của họ, của sản xuất của họ, của sự giao tiếp của họ, của tổ chức xã hội và chính trị của họ. Chỉ có thể đưa ra một giả thiết ngược lại với điều nói trên, nếu như ngoài tinh thần của những cá nhân hiện thực và bị quy định bởi vật chất, người ta giả định rằng còn có một tinh thần đặc biệt nào đó nữa. Nếu sự biểu hiện có ý thức của những cá nhân ấy về các quan hệ hiện thực là một sự biểu hiện hư ảo, nếu như trong những quan niệm của họ, họ đặt hiện thực ngược đầu xuống đất thì hiện tượng đó lại cũng là một hậu quả của tính hạn chế của phương thức hoạt động vật chất của họ và cũng những quan hệ xã hội hạn chế của họ do phương thức hoạt động ấy sản sinh ra”.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [FONT=times new roman][URL="https://triethoc.edu.vn/#_ftnref12"][U][FONT=Arial][SIZE=4][12][/SIZE][/FONT][/U][/URL][FONT=Arial][SIZE=4]– buồng tối của máy ảnh.[/SIZE][/FONT][/FONT] [FONT=Arial][SIZE=4] [/SIZE][/FONT] [/QUOTE]
Tên
Mã xác nhận
Gửi trả lời
KHOA HỌC XÃ HỘI
TRIẾT HỌC
Triết học phương Đông
FEUERBACH SỰ ĐỐI LẬP GIỮA QUAN ĐIỂM DUY TÂM VÀ QUAN ĐIỂM DUY VẬT [Phần 1]
Top